+ Nhà nước cần có chính sách phối kết hợp ngân hàng với các ngành khác để mở rộng mạng lưới giao dịch nhằm thu hút khách hàng thông qua việc lập chi nhanh mới tại hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước và các phòng giao dịch đặt tại các khu vực dân cư phát triển.
Ngoài ra, phải có những biện pháp hỗ trợ mạnh mẽ từ phía chính phủ về chính sách thuế, về các quy định pháp luật để các NHTM Việt Nam có định hướng triển khai dịch vụ thanh toán thẻ góp phần phát triển xã hội lâu dài, thực hiện chủ trương ổn định tiền tệ, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý kinh tế xã hội và pháp luật cần có sự quan tâm nghiên cứu về lĩnh vực thanh toán thẻ, bổ sung những chính sách, quy chế, quy định tạo môi trường pháp lý đầy đủ và thuận lợi.
Về lâu dài, Nhà nước nên chú ý đến các vấn đề như tạo điều kiện làm tăng thu nhập cho người dan cho cán bộ - công nhân viên chức, không ngừng nâng cao trình độ công nghệ, trình độ giao dịch của ngân hàng, giảm thiểu các loại phí trong việc đăng ký và sử dụng thẻ, mở rộng đối tượng sử dụng thẻ trên cơ sở xem xét lại điều kiện để được làm ứng viên chủ thể, tức là không phải cứ người nào có thu nhập cao mới được xem xét cấp thẻ vì điều này đã loại bỏ một số lượng lớn khách hàng.
39 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1550 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nhằm nhằm hoàn thiện công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc làm đầu mối mua bán ngoại tệ nên đã cơ bản đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho thanh toán Nhập khẩu các mặt hàng chiến lược: Xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu… Thực hiện có kết quả việc mua bán ngoại tệ với các chi nhánh trong hệ thống theo quy định của NHNo.
Hoạt động kinh doanh đã đạt được những kết quả tích cực, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng nguồn vốn và dư nợ, nợ quá hạn giảm; hoạt động thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ và dịch vụ đạt kết quả khả quan. Tài chính tăng trưởng vượt kế hoạch được giao.
Bên cạnh đó, Sở giao dịch đã có nhiều biện pháp tích cực cải tiến quy trình nghiệp vụ, đảm bảo an toàn, hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của khách hàng. Thái độ giao dịch với khách hàng, với chi nhánh đã được cải tiến góp phần đưa hoạt động của Sở giao dịch thông suốt, phục vụ tốt khách hàng, chi nhánh. Sở giao dịch cũng đã tích cực ứng dụng tin học vào hoạt động Ngân hàng, từng bước xây dựng Sở giao dịch theo hướng hiện đại như tham gia thanh toán điện tử, đưa hệ thống máy ATM vào hoạt động cải tiến báo cáo qua SWIFT, sử dụng mạng REUTERS để kinh doanh tiền gửi, mua bán ngoại tệ trên thị trường trong nước và quốc tế…
Với sự nỗ lực, cố gắng của ban lãnh đạo cũng như tập thể nhân viên mà tình hình hoạt động kinh doanh của Sở ngày càng khởi sắc. Để có cái nhìn cụ thể từng bước phát triển của Sở, ta có thể đi sâu nghiên cứu các hoạt động sau:
2.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Tổng nguồn vốn đến 31/12/2004 đạt 6.380 tỷ đồng, tăng 2.570 tỷ đồng (tăng 67,4%) so với 31/12/2003. Trong đó, nguồn vốn huy động của Sở giao dịch (Không tính nguồn vốn huy động hộ Trung ương) đạt 6.022 tỷ đồng, bằng 140,5% chỉ tiêu kế hoạch huy động vốn năm 2004 được giao.
- Về cơ cấu vốn theo thời gian.
+ Nguồn vốn không kỳ hạn đạt 2.231 tỷ đồng, tăng 1.048 tỷ đồng (tăng 88,5%) so với 31/12/2003; chiếm tỷ trọng 35% tổng nguồn vốn.
+ Nguồn vốn có kỳ hạn đạt 4.149 tỷ đồng, tăng 1.522 tỷ đồng (tăng 58%) so với 31/12/2003; chiếm tỷ trọng 65% tổng nguồn vốn. Riêng nguồn vốn có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đạt 2.828 tỷ đồng.
- Về cơ cấu theo thành phần kinh tế.
+ Nguồn vốn huy động tiền gửi dân cư đạt 1.573 tỷ đồng, tăng 342 tỷ đồng (tăng 27,8%) so với 31/12/2003; chiếm 24,6% tổng nguồn vốn.
+ Nguồn vốn của các tổ chức kinh tế đạt 4.316 tỷ đồng, tăng 1.746 tỷ đồng (tăng 68%) so với 31/12/2003; chiếm 67,6% tổng nguồn vốn.
+ Nguồn vốn của các tổ chức tín dụng 491 tỷ đồng, tăng 481 tỷ đồng so với 31/12/2003; chiếm 7,7% tổng nguồn vốn.
- Về cơ cấu vốn theo đồng tiền huy động.
+ Nguồn vốn nội tệ đạt 5.151 tỷ đồng, tăng 2.337 tỷ đồng (tăng 83%) so với 31/12/2003; chiếm 80,7% tổng nguồn vốn.
+ Nguồn vốn ngoại tệ đạt 74,33 triệu USD và 2,62 triệu URE (tương đương 1.230 tỷ VNĐ) tăng 13,1 triệu USD và 1,25 URE và 1,25 triệu URE (tăng 23,4%) so với 31/12/2003; chiếm 19,3% tổng nguồn vốn.
2.1.2.2 Hoạt động cho vay vốn
- Tổng dư nợ đến 31/12/2004 đạt 1.508 tỷ đồng (trong đó: dư nợ của công ty chứng khoán: 144 tỷ đồng, Công ty vàng bạc: 32 tỷ đồng), tăng 579 tỷ đồng (tăng 62,3%) so với 31/12; đạt 153 % kế hoạch năm 2004 được giao.
* Dư nợ phân theo thời gian
+ Dư nợ ngắn hạn: 380 tỷ đồng, tăng 62 tỷ đồng so với 31/12/2003; chiếm 25,2% tổng dư nợ.
+ Dư nợ trung, dài hạn: 1.128 tỷ đồng, tăng 337 tỷ đồng so với 31/12/2003; chiếm 74,8% tổng dư nợ.
* Dư nợ phân theo loại tiền
+ Dư nợ nội tệ đạt 611 tỷ đồng, tăng 228 tỷ đồng (tăng 59,5%) so với 31/12/2003; chiếm 40,5% tổng dư nợ.
+ Dư nợ ngoại tệ đạt 56,84triệu USD (tương đương 897 tỷ VNĐ), tăng 22,14 triệu USD (tăng 63,8%) so với 31/12/2003; chiếm 59,5% tổng dư nợ.
- Nợ quá hạn đến 31/12/2003 là: 16 tỷ đồng; chiếm tỷ lệ 1,06% tổng dư nợ. Trong đó: Nợ quá hạn Công ty LICOLA 6,85 tỷ đồng; Công ty quan hệ quốc tế đầu tư 8,2 tỷ đồng, của cá nhân 867 triệu đồng.
2.1.2.3. Hoạt động thanh toán quốc tế
- Doanh số thanh toán hàng nhập khẩu đạt 180 triệu USD; tăng 51,5 triệu USD (tăng 40%) so với năm 2003; đạt 114% chỉ tiêu kế hoạch năm 2004.
- Doanh số thanh toán hàng xuất khẩu đạt 11,4 triệu USD, tăng 6,1 triệu USD (tăng 112,7%) so với năm 2003; đạt 114% chỉ tiêu kế hoạch năm 2004
- Doanh số bán ngoại tệ đạt 80,2 triệu USD
- Chênh lệch mua bán ngoại tệ: 1,1 tỷ đồng
- Thu dịch vụ thanh toán quốc tế đạt 3 tỷ đồng, chiếm 63% tổng thu dịch vụ.
2.1.2.4 Kết quả kinh doanh, tài chính
- Tổng thu 946 A: 380 tỷ đồng
- Tổng chi 946A: 275 tỷ đồng
- Chênh lệch thu chi: 105 tỷ đồng
- Quỹ tiền lương xác lập: 7,78 tỷ đồng
- Hệ số tiền lương làm ra 4,8 lần
- Chênh lệch lãi suất đạt 0,324% /tháng
2.1.2.5. Công tác kế toán, thanh toán và ngân quỹ
- Năm 2004, thực hiện "Văn minh giao dịch" Sở giao dịch triển khai hệ thống xếp hàng tự động và thực hiện giao dịch một cửa, nâng hạn mức giao dịch cho thanh toán viên phù hợp với trình độ, mức độ thành thạo công việc, thúc đẩy tăng năng suất lao động, rút ngắn thời gian xử lý nghiệp vụ, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Khối lượng thanh toán, số lượng bút toán giao dịch tăng nhanh, vẫn thực hiện hạch toán kịp thời, chính xác các nghiệp vụ phát sinh, đảm bảo an toàn tài sản.
- Thực hiện mở 2.231 tài khoản mới, trong đó có 2.049 tài khoản cá nhân và 182 tài khoản của các tổ chức, doanh nghiệp; nâng tổng số lên 4.957 tài khoản VNĐ và 617 tài khoản USD hoạt động tại Sở giao dịch. Phát hành 1.834 thẻ ATM, nâng tổng số thẻ ATM đang hoạt động lên 2.823 thẻ, số dư nguồn vốn bình quân đạt 14 tỷ VNĐ. Doanh số chuyển tiền đi: 22.464 tỷ đồng/21.748 món; chuyển tiền đến 24.624 tỷ đồng/53.281 món.
- Thực hiện chức năng đầu mối ngoại tệ mặt, hoạt động thu chi tiền mặt đa dạng về loại tiền, bao gồm các đồng ngoại tệ mạnh và Séc du lịch; doanh số thu chi tiền mặt qua quỹ lớn (4.047 tỷ VNĐ và 487 triệu USD), đảm bảo an toàn tài sản, không để mất mát trong thu chi tiền mặt và kho quỹ, phát hiện tiền giả kịp thời.
2.1.2.6. Công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ
Trong năm 2004 Sở giao dịch tiến hành 23 lượt kiểm tra, phúc tra trong đó: Kiểm tra công tác tín dụng (04 lần); kiểm tra công tác kế toán tài chính (07 lần), kiểm tra công tác an toàn kho quỹ (04 lần); kiểm tra việc trích lập dự phòng và xử lý rủi ro (01 lần); kiểm tra công tác đầu tư XDCB và mua sắm TSCĐ (01 lần); Phúc tra sửa sai nghiệp TTQT, Kế toán, Tín dụng 03 lần… Tổng số chứng từ đã được kiểm tra là 76.180 chứng từ, phát hiện 344 chứng từ có sai sót, chiếm 0,32%.
Qua kiểm tra, các hoạt động nghiệp vụ đều thực hiện đúng quy trình, một số sai sót phát sinh đã được phát hiện và chấn chỉnh kịp thời, một số tồn tại sai sót trong công tác kho quỹ đã được phát hiện sớm, khắc phục và xử lý kịp thời, đảm bảo an toàn tài sản.
Năm 2004. Đoàn thanh tra NHNN tiến hành thanh tra về công tác điều hành, kiểm tra kiểm toán, tín dụng và bảo lãnh Sở giao dịch đã đánh giá các hoạt động của Sở giao dịch cơ bản là tốt, còn một số tồn tại trong công tác tín dụng nhưng không lớn. Đồng thời, trong năm 2004 Sở giao dịch tiếp tục thực hiện nghiêm túc kế hoạch chấn chỉnh, sửa sai theo kiến nghị của Đoàn thanh NHNN như: Duy trì hoạt động thường xuyên của Tổ thu hồi nợ, đã thu hồi được 2,28 tỷ đồng nợ tồn đọng; bổ sung, hoàn thiện hồ sơ tài sản đảm bảo tiền vay cho các khoản nợ của công ty XNK vật tư đường biển để bán đấu giá thu hồi nợ… Thường xuyên báo cáo thanh tra NHNN kết quả sửa sai sau thanh tra theo quy định.
2.2 Thực trạng công tác TTKDTM tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam
2.2.1 Tình hình thanh toán chung
Hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng là một trong 4 định hướng lớn của Ban lãnh đạo NHNN đề ra cho toàn ngành. Thực hiện chủ trương đó trong lĩnh vực thanh toán, kế toán của hệ thống Ngân hàng đã đạt được những kết quả to lớn và rất cơ bản. Việc chuyển đổi toàn bộ hệ thống thanh toán, kế toán thủ công sang công tác điện tử, tin học đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự nghiệp đổi mới hoạt động Ngân hàng. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, của ngành Ngân hàng, Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam ngay từ khi mới đi vào hoạt động đã rất quan tâm hoàn thiện, cải tiến công tác trên các mặt nội dung, hình thức cũng như công tác phục vụ và đã thu được những kết quả khả quan, cụ thể: Các nguồn chu chuyển tiền tệ ngày càng được tập trung qua Ngân hàng nhiều hơn, thể hiện ở doanh số thanh toán qua Ngân hàng ngày càng tăng trong đó doanh số TTKDTM không ngừng được nâng lên, góp phần xoá đi tình trạng khan hiếm tiền mặt do tâm lý thích dùng tiền mặt của khách hàng, từ đó tiết kiệm chi phí cho việc in ấn, vận chuyển, bảo quản tiền mặt.
Theo những số liệu thu thập được tại Sở giao dịch NHNN &PTNT Việt Nam, ta thấy doanh số thanh toán qua Ngân hàng của Sở giao dịch tăng từ 194.533.302 triệu năm 2002 lên 373.782.012 triệu năm 2003 với mức tăng là 179.248.710 triệu tương đương 92,14%. Đến cuối năm 2004, tổng thanh toán đạt 489.098.994 triệu đồng, tăng 115.316.982 triệu so với năm 2003, tương đương với tỷ lệ tăng 30, 85%.
Trong đó, ta thấy năm 2002 TTKDTM đạt doanh số 194.502.770 triệu, chiếm 99,73% tổng thanh toán. Đến cuối năm 2003, con số này là 372.904.689 triệu, chiếm 99,77% trong tổng thanh toán, tăng so với năm 2002 là 178.901.919 triệu , tương đương với tỷ lệ tăng 92,21%. Tính đến 31.12.2004, doanh số TTKDTM là 448.216.132 triệu, chiếm 99,8% tổng thanh toán, tăng 115.221.443 triệu so với năm 2002, tương đương với tỷ lệ tăng 30,9%. Điều này có nghĩa là thanh toán bằng tiền mặt đã giảm xuống cả về doanh số lẫn tỷ trọng trong tổng thanh toán.
Như vậy, qua số liệu mô tả ở trên thì TTKDTM luôn chiếm một tỷ trọng rất cao trong tổng thanh toán của Sở giao dịch, điều đó chứng tỏ hình thức TTKDTM đang ngày càng được sử dụng một cách phổ biến và dần khẳng định được chỗ đứng trong nền kinh tế. Đó cũng là kết quả tất yếu của việc đổi mới chính sách, chế độ của hệ thống Ngân hàng , kết hợp với đội ngũ cán bộ trẻ hoá, có năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức tốt và nhiệt tình với công việc.
Bên cạnh đó, ta thấy tình hình công tác TTKDTM ở Sở giao dịch là lý tưởng với một tỷ lệ cao (luôn trên mức 99%) nhưng con số này không phản ánh tình hình TTKDTM của nền kinh tế. Nguyên nhân của khối lượng TTKDTM cao là do NHNo & PTNT Việt nam ký hợp đồng thanh toán nhanh với các Ngân hàng nước ngoài như CITYBANK, ABN, AMRO…. Đặc biệt, với nhiệm vụ là sở đầu mối trong toàn hệ thống thì ngoài khách hàng là các tổ chức kinh tế, các cá nhân, Sở giao dịch còn có quan hệ với các Ngân hàng trong và ngoài nước, hơn nữa, khách hàng của Sở giao dịch thường là khách hàng lớn do đó phần thanh toán nội bộ thường chiếm khoảng 70% tổng giá trị TTKDTM. Như vậy, có thể noí tình hình hoạt động TTKDTM của Sở cũng giống như các Ngân hàng lớn trên địa bàn Hà nội là đang trên đà phát triển, bước đầu đã có sự tăng trưởng đáng khích lệ. Góp phần vào thành công đó không thể không kể đến nỗ lực của bản thân Ngân hàng trong việc đổi mới công tác thanh toán, cải tiến và đa dạng hoá các thể thức thanh toán làm cho quá trình thanh toán không ngừng được hoàn thiện.
Tuy nhiên, trong kỳ, ta thấy thanh toán bằng tiền mặt giảm về số tương đối nhưng lại tăng lên về số tuyệt đối (Năm 2004 tăng 95.539 triệu so với năm 2003). Tỷ lệ này chủ yếu là thanh toán tiết kiệm cho dân cư, chi lương cho các đơn vị có tài khoản tiền gửi tại Sở giao dịch, đặc biệt là khách hàng mở tài khoản cá nhân vẫn sử dụng thanh toán bằng tiền mặt. Thực tế này cho thấy tâm lý ưa dùng tiền mặt trong nhân dân vẫn là hiện tượng phổ biến. Đây là vấn đề đòi hỏi ngành Ngân hàng nói chung và Sở giao dịch nói riêng phải quan tâm để giảm bớt tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt, tạo thói quen TTKDTM trong dân cư.
Trong quá trình hoạt động, quán triệt các quyết định, Nghị định, thông tư hướng dẫn của chính phủ, của NHNo cũng như sự chỉ đạo, điều hành cảu ban lãnh đạo Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam, phòng kế toán đã có nhiều cố gắng trong việc tổ chức thực hiện nghiệp vụ đem lại kết quả khả quan. Công tác TTKDTM được áp dụng rộng rãi, chiếm ưu thế trong thanh toán, phù hợp với điều kiện mới của nền kinh tế.
2.2.2 Tình hình vận dụng các hình thức thanh toán
Qua khảo sát thực tế tại Sở giao dịch cho thấy khách hàng rất ưa sử dụng hình thức thanh toán này. Ngược lại, ta lại thấy thể thức thanh toán bằng UNT đạt doanh số thấp nhất so với tổng TTKDTM . Về tình hình thanh toán Séc, tuy chiếm tỷ trọng không cao so với các thể thức TTKDTM khác nhưng nó tương đối ổn định qua các năm, điều đó chứng tỏ thanh toán bằng Séc luôn được khách hàng ưa chuộng và sử dụng một cách thường xuyên. NPTT cũng chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng giá trị TTKDTM. Trong khi đó, hai hình thức TTD và thẻ thanh toán lại hoàn toàn chưa được sử dụng nhưng nhìn chung về doanh số, TTKDTM luôn có chiều hướng tăng.
2.2.2.1. Tình hình sử dụng Séc
Hiện nay, tại Sở giao dịch sử dụng hai loại séc đó là séc chuyển khoản và séc bảo chi. Như ta đã biết, Séc là một trong những phương tiện TTKDTM rất hữu ích, nó được xem là một công cụ thanh toán tiến bộ nhất trong các hình thức thanh toán truyền thống của Ngân hàng vì thủ tục có phần đơn giản, thời gian nhanh, kịp thời, dễ sử dụng.
*. Séc chuyển khoản
Đây là hình thức thanh toán đơn giản, thuận tiện và nhanh chóng; tuy nhiên, nó lại ít được sử dụng tại Sở giao dịch. Điều này được thể hiện rõ qua các số liệu sau:
Trong năm 2004, Sở giao dịch đã thực hiện được 980 món với tổng số tiền là 22.878 triệu đồng, chiếm 32,8% trong tổng doanh số thanh toán séc tại Sở và chiếm 0,005% tổng doanh số TTKDTM. Nếu so với năm 2003 thì doanh số thanh toán bằng séc chuyển khoản tăng 9.348 triệu với số món tăng lên là 242 món. So với năm 2002 thì năm 2004 tăng được 731 món với mức tăng về doanh số là 16.900 triệu tương ứng với tỷ lệ tăng là 282,7%.
Tỷ trọng thanh toán bằng séc chuyển khoản trong thanh toán bằng séc nói riêng và TTKDTM nói chung trong những năm qua còn thấp, tuy có chiều hướng gia tăng nhưng không lớn lắm. Qua khảo sát thực tế tại Sở giao dịch ta thấy, những món có giá trị cao, người bán không chắc chắn khả năng thanh toán của người mua thì họ thanh toán với nhau bằng các thể thức khác. Bởi lẽ:
- Séc chuyển khoản có thủ tục khá đơn giản: Do người mua phát hành và trả trực tiếp cho người thụ hưởng chứ không phải qua sự kiểm soát của Ngân hàng. Chính vì đơn giản như vậy nên khi xảy ra phát hành quá số dư thì quyền lợi của người thụ hưởng bị xâm phạm.
- Người thụ hưởng bị chiếm dụng vốn do nguyên tắc hạch toán ghi nợ trước, có sau của ngân hàng.
- Phạm vi thanh toán của séc chuyển khoản bị hạn chế
Cũng từ tính rủi ro cao cho người thụ hưởng như vậy nên tâm lý của người thụ hưởng ít khi chấp nhận thanh toán bằng séc chuyển khoản.
Mặc dù, séc chuyển khoản có những hạn chế nhất định như đã trình bày ở trên và hiện nay đang ít được sử dụng nhưng xét ở góc độ nào đó thì séc chuyển khoản cũng có những ưu điểm là thủ tục đơn giản, gọn nhẹ, thời gian luân chuyển vốn nhanh, không phải lưu ký tiền chờ thanh toán như một số hình thức thanh toán khác... Đây cũng là những ưu điểm mà các ngân hàng nói chung và sở giao dịch nói riêng có biện pháp khuyến cáo và tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng nhiều hơn.
*. Séc bảo chi
Trong các công cụ thanh toán séc thì séc bảo chi có ưu thế và an toàn hơn tất cả các loại séc khác. Điều này được thể hiện rõ nét tại sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam.
Năm 2002, doanh số séc bảo chi đạt 13.394 triệu đồng, chiếm 19,14% trong thanh toán séc và 0,007% trong tổng doanh số TTKDTM. Sang năm 2003, séc bảo chi tăng 447 món, tương đương 16.126 triệu so với năm 2002 Năm 2004, séc bảo chi tăng cả về số món và doanh số nhưng tỷ trọng so với doanh số séc lại giảm xuống còn 67,2% chiếm 0,014% trong tổng TTKDTM. Như ta đã biết, trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì mức độ tin cậy giữa các đối tác khách hàng là chưa cao, hơn nữa, nhu cầu về vốn của các tổ chức hiện nay rất căng thẳng đòi hỏi đảm bảo khả năng thanh toán nhanh và chắc chắn. Đây là lý do giải thích vì sao séc bảo chi được sử dụng nhiều hơn séc chuyển khoản tại sở giao dịch.
- Đứng trên góc độ là người thụ hưởng thì séc bảo chi có nhiều ưu điểm : có tính chắc chắn vì khi thực hiện thanh toán cho khách hàng có tài khoản tại 2 ngân hàng trong cùng hệ thống thì kế toán hạch toán ghi Có trước vào tài khoản người thụ hưởng và ghi Nợ sau vào tài khoản người trả tiền. Mặt khác, phạm vi thanh toán của séc bảo chi rộng hơn séc chuyển khoản.
- Tuy nhiên, đứng trên góc độ người trả tiền thì sử dụng séc bảo chi lại có nhược điểm : Do phải mở một tài khoản để lưu ký tiền nên ít nhiều đối với đơn vị phát hành séc cũng bị chi phí đọng vốn trong một thời gian nhất định. Ngoài ra, để được bảo chi, khách hàng phải làm thủ tục bảo chi nên cũng có những phiền hà đối với họ.
Tuy vậy, trong những năm qua sở giao dịch cũng đã làm mọi cách để phục vụ khách hàng tốt nhất nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những nhược điểm vốn có của thể thức này như cố gắng đảm bảo tính toán và xử lý các bước về nghiệp vụ bảo chi cũng như thanh toán séc bảo chi trong thời gian ngắn nhất (thông thường 1 séc bảo chi được thanh toán trong vòng 2 - 4 ngày).
2.2.2.2. Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi - chuyển tiền
UNC là phương tiện thanh toán phổ biến và có mức doanh số cao nhất tại sở giao dịch. Trung bình tỷ trọng thanh toán bằng UNC chiếm tới 99% trong tổng số TTKDTM.
Đến 31/12/2003, thanh toán bằng UNC tăng lên rất nhanh cả về số tiền cũng như số món so với năm 2002, cụ thể : số món đạt được là 77.174 món, chiếm 34,21% tổng số món, tăng 47.683 món so với năm 2002, doanh số đạt được là 372.181.989 triệu, tăng 178.628.553 triệu so với năm 2002.
Năm 2004, số món UNC là 97.244 món, chiếm 34,1% tổng số món thanh toán, tăng so với năm 2003 là 20.070 món với doanh số tăng 114.975.328 triệu, đưa doanh số UNC năm 2004 lên 487.157.317 triệu, chiếm 99,9% tổng TTKDTM.
Nhìn chung, số món thanh toán bằng UNC có chiều hướng tăng dần, hay nói cách khác, UNC ngày càng được khách hàng ưa chuộng và sử dụng. Nguyên nhân chính làm cho UNC được sử dụng rộng rãi là do :
- Phạm vi thanh toán rộng (thanh toán trong cả nước), thủ tục thanh toán đơn giản, người trả tiền chỉ cần lập UNC gửi ngân hàng phục vụ mình, nếu UNC hợp pháp, hợp lệ, tài khoản tiền gửi đủ số dư, ngân hàng sẽ tiến hành thanh toán ngay.
- Mặt khác, do ứng dụng công nghệ tin học vào thanh toán làm cho quá trình thanh tán bằng UNC được nhanh chóng và thuận tiện hơn.
- Ngoài ra, UNC còn được sử dụng cho bản thân ngân hàng như để thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, chi trả lãi, điều hoà vốn... nên doanh số thanh toán UNC ngày càng cao.
- Hơn nữa, với chức năng thanh toán của sở đầu mối sở giao dịch có quan hệ thanh toán với nhiều khách hàng lớn như KBNN, các Ngân hàng nước ngoài (CITYBANK, ABN, AMRO...), nhận điều hoà vốn nội, ngoại tệ cho các chi nhánh trong toàn hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam, có nhiều đơn vị lớn như sứ quán Mỹ, tổ chức CARE, công ty máy tính FUJSU, công ty chuyển phát nhanh BNT... trả lương cho cán bộ công nhân viên thông qua tài khoản tiền gửi tại sở giao dịch bằng UNC. Chính những hoạt động này đã nâng doanh số thanh toán bằng UNC của sở giao dịch lên mức cao nhất.
Tuy vậy, thể thức thanh toán này chỉ được áp dụng trong trường hợp khách hàng có tín nhiệm lẫn nhau vì độ rủi ro vẫn là lớn cho cả 2 bên tuỳ thuộc vào thời gian giao hàng trước hoặc sau khi lập UNC. Trường hợp giao hàng sau khi lập UNC trả tiền, nếu bên bán không đủ hàng hoặc chần chừ không chịu giao hàng thì thiệt hại thuộc về bên mua. Ngược lại, nếu bên bán giao hàng trước khi bên mua UNC trả tiền mà khi bên mua hàng không đủ hoặc không có tiền để thanh toán sẽ bị ngân hàng từ chối thanh toán UNC đó. Như vậy, người bán không thu được tiền và cũng không đòi được hàng. Trong trường hợp khách hàng không tin tưởng nhau thì họ thường sử dụng thể thức thanh toán có độ an toàn cao hơn như : séc bảo chi, NPTT ... đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến thanh toán bằng UNC của các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế vẫn còn hạn chế chỉ chiếm khoảng 30% tổng số thanh toán bằng UNC tại sở giao dịch.
2.2.2.3. Tình hình thanh toán bằng UNT
Nếu như tại sở giao dịch, UNC được áp dụng rộng rãi trong thanh toán với tỷ trọng cao nhất thì hình thức thanh toán bằng UNT lại chiếm tỷ lệ thấp nhất cả về số tiền lẫn số món.
Năm 2002, thanh toán bằng UNT đạt 45 món chiếm 0,03% tổng số món TTKDTM với doanh số là 1.715 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 0,0009% tổng doanh số TTKDTM. Đến năm 2003, mặc dù doanh số tăng lên đạt 3.150 triệu nhưng chỉ chiếm có 0,0008% tổng doanh số TTKDTM. Sang năm 2004, tình hình thanh toán UNT đã có bước tiến mới đó là sự tăng lên cả số món, số tiền và tỷ trọng thanh toán. Nếu tính theo số món thì đạt được 150 món, chiếm 0,05% tổng số món TTKDTM. So với năm 2003 thì đã tăng lên 28 món, doanh số tăng lên 5.887 triệu làm doanh số thanh toán UNT năm 2004 đạt 9.037 triệu, chiếm 0,0019% tổng số TTKDTM.
Thông qua sự mô tả số liệu trên ta thấy hình thức thanh toán UNT tại sở giao dịch chiếm 1 tỷ trọng rất nhỏ trong tổng TTKDTM. Tuy đã có sự biến động đi lên qua các năm nhưng số lượng không đáng kể. Thông thường, hình thức này được các đơn vị có quan hệ cung ứng dịch vụ một cách thường xuyên trên cùng một địa bàn áp dụng với những món có số tiền không lớn lắm như thu tiền điện, điện thoại, nước... Thực tế, hiện nay tại sở giao dịch, hình thức này chỉ áp dụng để chi trả tièn cước phí bưu điện còn các lĩnh vực khác thì chưa được khai thác.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến UNT ít được khách hàng sử dụng là :
+ Hình thức này có phần gò bó và phức tạp hơn một số hình thức khác. Vì việc thanh toán phải dựa trên cơ sở hợp đồng kinh tế giữa bên bán và bên mua. Khách hàng thống nhất thoả thuận những điều kiện cụ thể ghi trong hợp đồng kinh tế và phải thông báo bằng văn bản cho ngân hàng, kho bạc phục vụ mình biết.
+ Độ an toàn cho người bán hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ tín nhiệm và khả năng tài chính của người mua. Trong trường hợp người bán và người mua có tài khoản tiền gửi tại cùng một ngân hàng, kho bạc phục vụ cộng với khả năng tài chính của bên mua là tốt thì việc sử dụng thể thức này là rất thuận lợi. Chỉ cần bên bán lập UNT cùng hoá đơn bán hàng gửi tới ngân hàng sẽ được ghi Có ngay. Ngược lại, trong trường hợp bên bán và bên mua khác ngân hàng thì người bán phải đợi một thời gian dủ để luân chuyển chứng từ sang ngân hàng, kho bạc phục vụ người mua sau đó quay lại thì người đó mới nhận được tiền, như vậy người bán sẽ bị đọng vốn. Đó là chưa kể trường hợp người mua không đảm bảo khả năng tài chính thanh toán thì người bán không biết khi nào mới nhận được tiền. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay với công nghệ thanh toán qua nối mạng vi tính, việc đọng vốn do luân chuyển chứng từ không còn là vấn đề đáng lo ngại nữa.
2.2.2.4. Tình hình thanh toán Thư tín dụng (TTD)
Qua tìm hiểu thực tế tại sở giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam cho thấy trong 3 năm hoạt động gần đây không có một món nào thanh toán bằng TTD. Đây cũng là tình hình chung của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Kết quả này bắt nguồn từ những nguyên nhân sau :
- Việc quy định hình thức này khá phức tạp, không linh hoạt từ lúc mở cho đến khi thanh toán.
- Với quy định mức tiền tối thiểu của 1 TTD là 10 triệu, khách hàng phải lưu ký toàn bộ số tiền vào 1 tài khoản riêng không hưởng lãi, điều này thuận lợi cho ngân hàng nhưng lại gây bất lợi cho khách hàng do bị ứ đọng vốn lớn.
- Phạm vi thanh toán của TTD bị hạn chế. Ngân hàng phục vụ bên trả tiên chỉ nhận mở TTD trong trường hợp bên thụ hưởng mở tài khoản ở ngân hàng cùng hệ thống. Nếu bên thụ hưởng mở tài khoản ở ngân hàng khác hệ thống thì trên địa bàn đó phải có ngân hàng cùng hệ thống tham gia thanh toán bù trừ.
- Thời hạn của TTD quá dài (3 tháng) gây bất lợi về vốn cho khách hàng.
2.2.2.5. Tình hình sử dụng thẻ thanh toán
Giống như TTD, thẻ thanh toán cũng chưa được áp dụng tại sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam. Với những ưu thế vượt trội so với các thể thức thanh toán khác nhưng cho đến nay, thẻ thanh toán vẫn chưa tìm được chỗ đứng cho mình tại sở giao dịch nói riêng cũng như trong toàn bộ hệ thống ngân hàng nói chung. Sự phát triển chưa tương xứng của thẻ so với tiềm năng thị trường thẻ ở Việt Nam xuất phát từ nhiều nguyên nhân:
- Hệ thống CSHT có liên quan phục vụ cho hoạt động phát hành và chấp nhận thanh toán thẻ chưa phát triển. Nhiều ngân hàng trong đó có sở giao dịch còn e ngại khi kinh doanh thẻ là do rủi ro đối với hoạt động kinh doanh thẻ tương đối cao. Rủi ro này không thông thường là do hậu quả của việc sử dụng thẻ gian lận, giả mạo gây ra. Trong khi đó, kinh nghiệm về quản lý và kiểm soát rủi ro đối với các trường hợp sử dụng thẻ gian lận, giả mạo của các NHTM còn nhiều hạn chế.
- Thông tin về thẻ ngân hàng còn hạn chế. Ngày nay, cùng với sự phát triển như vũ bão của ngành công nghiệp thông tin thì phương tiện thanh toán bằng thẻ càng thể hiện nhiều tiện ích so với phương thức thanh toán bằng tiền mặt như thanh toán nhanh chóng, an toàn, văn minh, lịch sử... Tuy nhiên, những tiện ích của thanh toán bằng thẻ chưa được đa số người dân biết đến, thậm chí nhiều người còn không biết thẻ thanh toán là gì, sử dụng như thế nào ? Đây là điểm yếu của không chỉ sở giao dịch mà của cả ngành ngân hàng.
Dù có nhiều tiện ích song thanh toán bằng thẻ không phải không có nhược điểm.
- Đối với người sử dụng thẻ : thẻ tín dụng không phù hợp để mua hàng hoá, dịch vụ hoặc rút tền với giá trị lớn bởi giới hạn của tín dụng. Ngoài ra, thẻ tín dụng còn bị giới hạn hơn sử dụng tiền mặt là thẻ chỉ sử dụng được ở những nơi chấp nhận thanh toán thẻ.
- Đối với cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ có thể bị rủi ro mất doanh thu khi ngân hàng phát hành tù chối thanh toán vì không thực hiện đúng các quy định về kiểm tra, lập hoá đơn thanh toán thẻ.
- Đối với ngân hàng phát hành : đòi hỏi một khối lượng đáng kể thẻ phát hành nếu thu được lợi nhuận (do tốn kém chi phí, cần thời gian và chuyên môn điều hành).
Cho đến giai đoạn hiện nay, thẻ thanh toán vẫn được xem là công cụ hiệu quả nhất (nó có thể khắc phục được nhược điểm và phát huy những ưu thế của các hình thức TTKDTM khác và là một sản phẩm dịch vụ đạt chuẩn quốc tế. Nhận biết một được vị thế, vai trò, tầm quan trọng của thẻ nên trong thời gian không xa, sở giao dịch sẽ gia nhập thị trường thẻ với bước khởi đầu là làm đại lý chấp nhận thanh toán thẻ.
2.3. Nhận xét về công tác TTKDTM tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam
2.3.1. Những kết quả đạt được
Qua việc phân tích, đánh giá thực trạng công tác thanh toán nói chung và công tác TTKDTM nói riêng của sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam những năm gần đây ta có thể thấy rằng : mặc dù phải đối mặt với nền kinh tế sôi động, chịu sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức khác trên địa bàn nhưng sở giao dịch đã và đang từng bước khẳng định vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế. Với sự quyết tâm của ban lãnh đạo cùng tập thể cán bộ công nhân viên đã dần vượt qua được những khó khăn trở ngại của buổi đầu hoạt động, giành thế chủ động hoà nhập với nền kinh tế thị trường, hoàn thành tốt nhiệm vụ đặt ra, góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của TTKDTM, sở giao dịch đã đầu tư hiện đại hoá trang thiết bị, đưa công nghệ thông tin vào phục vụ công tác thanh toán tại sở. Do vậy, đã căn bản thực hiện chuyển đổi công tác thanh toán từ phương pháp thủ công sang phương pháp tin học, hiện đại. Chuyển hẳn từ thanh toán bằng thư qua bưu điện hoặc điện thoại sang phương thức thanh toán qua mạng vi tính, đảm bảo an toàn, chính xác, thuận lợi...
2.3.2. Những tồn tại cần khắc phục
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác TTKDTM tại sở giao dịch còn tồn tại những mặt yếu kém cần phải khắc phục.
- Cũng như tình trạng chung của các ngân hàng, nghiệp vụ TTKDTM hiện nay ở sở giao dịch còn nhiều hạn chế nhất là hình thức thanh toán bằng séc còn chiếm tỷ trọng thấp.
- Hiện tượng ưa dùng tiền mặt vẫn còn phổ biến trong các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư. Kể cả khi có tài khoản ở ngân hàng vẫn còn không ít doanh nghiệp vay và thanh toán bằng tiền mặt.
- Việc triển khai mở tài khoản và thực hiện thanh toán bằng chuyển khoản qua ngân hàng trong các tầng lớp dân cư còn rất hạn hẹp nhất là séc chưa có chỗ đứng trong thanh toán của các tầng lớp dân cư. Thực tế tại sở giao dịch đa phần nghiệp vụ thanh toán mới chỉ phục vụ trong khu vực doanh nghiệp, các cơ quan hành chính sự nghiệp còn đại bộ phận dân cư vẫn chưa tiếp cận được với các dịch vụ thanh toán của ngân hàng ngoài những món chuyển tiền và mở tài khoản cá nhân với một lượng không đáng kể. Trong khi đó, một số hình thức thanh toán mới ra đời như thẻ thanh toán, séc... còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, chưa thực sự hấp dẫn khách hàng.
- Bên cạnh đó còn phải kể đến sự không đồng bộ về chương trình máy tính, công đoạn thủ công, trùng lặp trong kế toán còn nhiều, kết quả là thời gian làm việc kéo dài, chậm trễ trong thanh toán, chưa đáp ứng đòi hỏi của các chi nhánh; thao tác nghiệp vụ còn xảy ra sai sót trong chuyển vốn.
- Còn để xảy ra phàn nàn từ khách hàng do sự phối hợp với sở giao dịch I vẫn chưa kịp thời, khách hàng thường xuyên chuyển tiền nhầm lẫn giữa 2 sở làm chậm trễ, thiệt hại cho người thụ hưởng.
- Ngoài ra, công việc đào tạo, huấn luyện tại chỗ chưa thường xuyên, một bộ phận cán bộ mới vào ngành còn hạn chế nghiệp vụ do đó đã dẫn đến kết quả không như mong muốn.
2.3.3. Nguyên nhân
Trước những tồn tại và bất cập nêu trên đòi hỏi Ban lãnh đạo của sở giao dịch phải xác định được nguyên nhân của những bất cập đó để có hướng đi thích hợp trong thời gian tới. Từ thực tế tại sở giao dịch, có thể thấy một số nguyên nhân làm cho TTKDTM không được các tầng lớp dân cư hưởng ứng nhiệt tình là :
- Điều kiện kinh tế của Việt Nam chưa cao dẫn đến thu nhập của dân ư nhìn chung còn táp (GDP bình quân đầu người chỉ gần 400 USD/năm) vì thế việc mở tài khoản tiền gửi cá nhân phần lớn hiện nay chỉ là hình thức. Các ngân hàng nói chung và sở giao dịch nói riêng đã vận động các cán bộ - công nhân viên của mình mở tài khoản - là những người hiểu biết rõ lợi ích của nghiệp vụ này nên cán bộ - công nhân viên đã hưởng ứng 100% song do tiền lương chỉ đủ chi tiêu cho nhu cầu tối thiểu hàng ngày nên sau khi nhập lương vào tài khoản là các “chủ tài khoản” lập tức rút tiền mặt do đó không đem lại hiệu quả cho TTKDTM.
- Do một thời gian dài sống trong nền sản xuất nhỏ tạo cho các tầng lớp dân cư tâm lý ưa thích tiền mặt, khi giao dịch muốn sở hữu ngay, cầm chắc trong tay số tiền thanh toán. Thói quen sử dụng tièn mặt là một thói quen lâu đời của người Việt Nam do đó khó có thể thay đổi trong “một sớm, một chiều” được.
- Ngoài ra, trình độ dân chúng nhìn chung còn thấp, hiểu biết về hoạt động ngân hàng còn quá ít ỏi cũng là một hạn chế lớn cho thanh toán qua ngân hàng.
Xét về phía sở giao dịch, việc tổ chức và thực hiện thanh toán còn những yếu kém nhất định, chẳng hạn :
- Công tác tuyên truyền, quảng cáo của sở còn hình thức, chưa hiệu quả, còn ở trong tình trạng “đợi khách” chứ chưa thực sự tiếp cận, lôi cuốn khách hàng bằng phương pháp Marketing thiết thực, đó cũng là nguyên nhân làm hạn chế sự hiểu biết của dân chúng về ngân hàng.Tư đó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của công tác TTKDTM.
- Bên cạnh đó, tổ chức phục vụ thanh toán còn yếu kém... Các ngân hàng hầu như chỉ bó hẹp sự giao dịch trong hệ thống của mình, việc hợp tác giữa các ngân hàng thiếu đồng bộ... Từ đó dẫn đến tốc độ thanh toán chậm, thủ tục thanh toán rườm rà.
Như vậy, nhiệm vụ đặt ra cho sở giao dịch trong thời gian tới là rất nặng nề. Để khắc phục được những tồn tại trên, trên cơ sở đó đưa TTKDTM vào sử dụng rộng rãi trong dân cư thì sở giao dịch phải từng bước loại bỏ những nguyên nhân gây ra những tồn tại đó đồng thời phải có sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cấp, ngành có liên quan.
Chương 3
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác TTKDTM
3.1. Định hướng hoạt động của sở giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam
3.1.1. Một số chỉ tiêu của kế hoạch kinh doanh năm 2005
- Thực hiện tốt các nhiệm vụ theo uỷ quyền của NHNH&PTNT Việt nam và các nhiệm vụ theo lệch của Tổng Giám đốc NHNN&PTNT Việt nam.
- Các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh.
+ Nguồn vốn huy động (không tính nguồn vốn huy động hộ Trung ương) đạt 7.350 tỷ đồng, tăng trưởng 22% so với năm 2004.
+ Dư nợ cho vay đạt 1.810 tỷ đồng, tăng trưởng 20% so với năm 2004
+ Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 1% tổng dư nợ.
+ Tài chính kinh doanh có lãi, đủ quỹ tiền lương, thưởng theo quy định.
3.1.2. Phương hướng thực hiện
- Tiếp tục thực hiện triển khai các giải pháp thực hiện đề án phát triển kinh doanh đến năm 2005 đã được tổng Giám đốc NHNN&PTNT Việt nam phê duyệt như: Giải pháp mở rộng mạng lưới; Giải pháp ứng dụng công nghệ tin học; Giải pháp đào tạo cán bộ; giải pháp mở rộng dịch vụ, tiện ích ngân hàng…
- Nghiên cứu, khai thác tốt các dự án ngân hàng do WB tài trợ; trang bị bổ sung hệ thống máy ATM, hệ thống POS, chương trình và hệ thống thiết bị phục vụ in sổ tiết kiệm trên máy … nhằm từng bước hiện đại hoá các nghiệp vụ tại Sở giao dịch, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Tiếp tục triển khai nối mạng thanh toán điện tử trực tiếp với Bảo hiểm nhân thọ Việt nam và các khách hàng lớn nhằm thu hút tiền gửi vãng lai và phát triển các dịch vụ như dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ, nghiệp vụ thẻ….
- Tăng cường và nâng cao chất lượng kiểm tra, kiểm soát các mật nghiệp vụ, phát hiện chỉnh sửa kịp thời những tồn tại sai sót phát sinh, đảm bảo kinh doanh an toàn hiệu quả
- Thực hiện tốt chính sách khách hàng, tổ chức nghiên cứu bài bản về thị trường các cơ chế chính sách chung của các Ngân Hàng Thương Mại khác đang thực hiện tác động đến hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch. Từ đó đưa ra các đối sách, cơ chế phù hợp, hiệu quả để nâng cao nguồn lực cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh. Tăng cường, đa dạng và nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền, quảng cáo để thu hút khách hàng mới.
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác TTKDTM tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam
Xuất phát từ vai trò to lớn của TTKDTM trong nền kinh tế thị trường và thực trạng công tác TTKDTM tại ngân hàng mình, sở giao dịch cần có giải pháp hoàn thiện các hình thức thanh toán, mở rộng phạm vi thanh toán (không chỉ giới hạn đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế mà còn mở rộng đến các tầng lớp dân cư). Cho đến nay, việc đẩy mạnh công tác TTKDTM vẫn còn là một thách thức với toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Trong những năm qua, tuy đã có những văn bản pháp quy về hoạt động ngân hàng và công tác thanh toán được ban hành nhưng nhìn chung vẫn còn thiếu và có những quy định chưa phù hợp. Bên cạnh đó, chúng ta thấy cơ sở vật chất và trình độ của hệ thống thanh toán hiện nay chỉ thích ứng với tình hình trước mắt : khối lượng thanh toán chưa cao, thị trường tài chính chưa thực sự phát triển. Dự báo nền kinh tế Việt Nam trong khoảng vài năm tới sẽ có bước phát triển mạnh, khối lượng thanh toán có thể tăng gấp nhiều lần, nhu cầu chuyển tiền có giá trị cao gia tăng và thời kỳ tiếp theo là sự giao lưu với thị trường tài chính quốc tế. Quá trình này đòi hỏi ngân hàng phải nghiên cứu hoàn thiện các hình thức thanh toán, cung ứng các dịch vụ thanh toán phù hợp, có các biện pháp đẩy mạnh TTKDTM góp phần mang lại hiệu quả trong hoạt động ngân hàng, thực hiện thành công sự nghiệp hiện đại hoá ngân hàng, đẩy mạnh tiến trình chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và hoà nhập với cộng đồng ngân hàng khu vực và thế giới.
Qua nghiên cứu lý luận kết hợp với tình hình thực tế về hoạt động TTKDTM tại sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam, em xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị nhằm đáp ứng phần nào những đòi hỏi của nền kinh tế nói chung và công tác TTKDTM nói riêng.
3.2.1. Không ngừng hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng
Đầu tư trang thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ ngân hàng để thực hiện thanh toán nhanh chóng, chính xác và an toàn là một trong những định hướng và chủ trương lớn mà ngành ngân hàng đã đặt ra trong nhiều năm nay. Để thực hiện chủ trương này, NHNN nên làm những việc sau :
- NHNN nên có kế hoạch và biện pháp tiếp nhận các nguồn vốn viện trợ của nước ngoài, đặc biệt là của WB và sử dụng hợp lý, có hiệu quả phục vụ công cuộc đổi mới công nghệ ngân hàng. So với các ngân hàng nước ngoài thì vốn tự có trong các NHTM ở Việt Nam còn rất thấp do vậy nếu không có nguồn tài trợ giúp đỡ từ bên ngoài thì rất khó có thể cạnh tranh, đứng vững và phát triển được.
3.2.2. Đối với thanh toán bằng tiền mặt và KDTM
ở nước ta, việc sử dụng tiền mặt để thanh toán giữa các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế còn tràn lan kể cả các tổ chức kinh tế và các cá nhân có tài khoản tại ngân hàng. Thực trạng này đã gây bao nhức nhối trong quản lý kinh tế và xã hội. Thanh toán bằng tiền mặt dẫn đến nhiều chi phí phát sinh kèm theo làm lãng phí nguồn lực của nền kinh tế. Không những thế, nó còn là nguyên nhân chủ yếu làm cho nhà nước không thể kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng trên thị trường và làm cho CSTT của Nhà nước mất tính hiệu quả.
Đối với dân cư, chính phủ nên có quy định bắt buộc phải mở tài khoản cá nhân tại ngân hàng và thanh toán qua ngân hàng. Với những món quy định giá trị là bao nhiêu trong thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ thì phải thực hiện thanh toán bằng chuyển khoản, bằng UNC, séc hay bằng các hình thức TTKDTM khác. Có như vậy mới có thể bắt buộc được các tầng lớp dân cư mở tài khoản tại ngân hàng và sử dụng chúng để thanh toán chứ không phải để gửi rồi lại rút tiền mặt như hiện nay. Nếu các tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định trên thì sẽ bị xử phạt hành chính. Mới đầu có thể thử nghiệm trong dân cư ở thành phố, thị xã lớn sau đó tiến hành nhân rộng ra cả nước. Bên cạnh những giải pháp bắt buộc, Nhà nước cần phải có chỉ đạo, tuyên truyền, giải thích cho người dân thấy rõ ý nghĩa và tác dụng của chính sách này và bước đầu nên có giải pháp khuyến khích về kinh tế ví dụ như : không thu phí các khoản thanh toán nhỏ, giảm thuế thu nhập trong thời gian đầu, giảm VAT...
Tóm lại, khi mà khối lượng thanh toán bằng tiền mặt giảm xuống thì tất yếu thanh toán qua ngân hàng (TTKDTM) sẽ tăng lên, các phương tiện TTKDTM sẽ được sử dụng rộng rãi hơn. Như vậy, thực hiện quy định sử dụng tiền mặt trong thanh toán không những góp phần chống tham nhũng, giảm chi phí cho xã hội mà còn thúc đẩy TTKDTM phát triển.
3.3. Kiến nghị về việc cải tiến các hình thức TTKDTM hiện có và đưa vào áp dụng các hình thức thanh toán hiện đại
3.3.1. Đối với hình thức thanh toán séc
Séc là một hình thức thanh toán thông dụng được sử dụng mang tính truyền thống và rộng khắp trên toàn thế giới. Về phương diện khoa học cũng như phương diện thực tiễn, séc thoả mãn nhu cầu đa dạng của nhiều đối tượng khách hàng. Nhưng thực tế tại sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam hình thức này còn bị hạn chế cả về số món và doanh số thanh toán bởi nhiều lý do. Hiện nay, chúng ta đang áp dụng quy chế phát hành và sử dụng séc theo Nghị định 30/CP và thông tư hướng dẫn số 07/TT-NH1. Tuy đã đem lại những kết quả nhất định nhưng NHNN cũng cần có những nghiên cứu để chỉnh sửa, bổ sung những điều bất hợp lý, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người sử dụng. Do đó, ngành ngân hàng nên nghiên cứu để có thể, sửa đổi theo các hướng sau :
- Ngân hàng nên quy định một số mức thấu chi đối với một số đơn vị sử dụng séc. Đối với khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì ngân hàng nên cho phép thấu chi qua séc chuyển khoản. Thấu chi không phải với mục đích tín dụng mà để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong việc chi trả trên tài khoản tiền gửi. Tuy nhiên, còn có sự thoả thuận giữa khách hàng với ngân hàng bằng hợp đồng tín dụng thấu chi. Khoản tiền quá số dư đó được coi như khoản tín dụng với lãi suất tiền vay quá hạn. Như vậy, quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng mang nội dung kinh tế hơn nội dung hành chính.
- Phạm vi thanh toán séc còn hạn chế. Trong điều kiện hiện nay, mối quan hệ kinh tế không còn giới hạn trong từng vùng, từng địa phương mà đã phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân, trong nước và quốc tế. Do đó cần hiện đại hoá công nghệ và nối mạng thanh toán trong toàn ngành, phát triển một chương trình thanh toán liên ngân hàng, hội nhập tất cả các TCTD trong nước vào một hệ thống thanh toán thống nhất với sự hỗ trợ của máy tính và phần mềm ứng dụng (NHNN làm trung tâm thanh toán bù trừ).
- Hệ thống ngân hàng hiện nay chưa có trung tâm xử lý séc toàn quốc cũng như chưa có hệ thống thanh toán bù trừ toàn quốc do đó việc thanh toán séc so với trước đây vẫn chưa thoát khỏi phạm vi chỉ thanh toán giữa 2 khách hàng có tài khoản ở 2 ngân hàng khác hệ thống nhưng trên cùng địa bàn có tham gia thanh toán bù trừ. Đó là một hạn chế lớn cho việc triển khai thanh toán séc rộng khắp cả nước. Như vậy, cần tiến tới thành lập trung tâm xử lý séc toàn quốc và trung tâm bù trừ khu vực hay toàn quốc để các ngân hàng tham gia thanh toán séc và thanh toán bù trừ được nhanh chóng, thuận tiện.
3.3.2. Đối với hình thức thanh toán bằng UNC
- Trong cơ chế thị trường hiện nay, khách hàng của các ngân hàng chủ yếu là các danh nghiệp và các tổ chức sản xất kinh doanh cũng như cá nhân có nhu cầu về vốn cao, việc cho khách hàng vay trong thanh toán vừa tháo gỡ khó khăn về tài chính cho khách hàng, đảm bảo cho đơn vị thụ hưởng thu được tiền, vừa thực hiện được nhiệm vụ kinh doanh của ngân hàng lại giữ được quan hệ tốt với khách hàng. Như vậy, khi UNC quá số dư thì ngân hàng nên cho vay để đảm bảo khả năng thanh toán. Để làm tốt điều đó thì phải phân loại khách hàng. Nếu đối tượng là khách hàng tốt, có quan hệ thường xuyên lâu dài nhưng do nguyên nhân khách quan dẫn tới số dư trên tài khoản không đủ thanh toán trong thời ngắn thì ngân hàng nên cho khách hàng vay với mức lãi suất phù hợp (cao nhất là bằng lãi suất nợ quá hạn của loại cho vay ngắn hạn mà ngân hàng đang áp dụng).
3.3.3. Đối với hình thức thanh toán UNT
Khi khách hàng mở tài khoản ở ngân hàng một cách phổ biến thì nhà nước nên quy định các ngành thu các loại dịch vụ như : bưu điện, điện, nước, thuế ... sử dụng hình thức thanh toán UNT. Chắc chắn, khách hàng sẽ ưa chuộng hình thức này vì họ đỡ mất thời gian đi lại, muốn vậy, đòi hỏi bảng kê thanh toán tiền dịch vụ của các ngành bưu điện, điện lực... phải chính xác. Khi doanh số thanh toán bằng UNT tăng nhanh, tức là khối lượng công việc mà ngân hàng làm dịch vụ gia tăng thì ngân hàng cũng cần xem xét thu phí thanh toán theo tỷ lệ phần trăm nhất định sao cho hợp lý.
3.3. 4. Đối với hình thức thanh toán TTD
Để TTD có thể phát huy được những ưu điểm và được khách hàng chấp nhận, NHNN nên xem xét, sửa đổi các văn bản cũ, bổ sung các văn bản mới cho phù hợp với thông lệ quốc tế về hình thức thanh toán bằng TTD. Muốn vậy thì :
- Nên xoá bỏ bức tường ngăn cách giữa các ngân hàng cùng hệ thống và khác hệ thống, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quan hệ giao dịch và thanh toán.
- Nên đưa ra các tỷ lệ ký quỹ khác nhau đối với từng đối tượng khách hàng như ký quỹ 100%, 50% hay 20% với khách hàng là doanh nghiệp lớn có doanh số lưu chuyển trên tài khoản thường xuyên.
3.3.5. Đối với hình thức thẻ thanh toán
Một trong những phát minh quan trọng của con người đẩy nền văn minh của nhân loại tiến một bước dài là sự ra đời của tiền tệ. Tiền tệ ra đời và không ngừng được nghiên cứu, hoàn thiện nhằm 2 mục đích chính : sự tiện lợi và an toàn. Qua nhiều hình thái phát triển, ngày nay bằng kỹ thuật hiện đại, tiền tệ đã đạt tới đỉnh cao của chất lượng : tiền điện tử - một phương thức TTKDTM tiên tiến và hiện đại. Thẻ thanh toán là một dạng của loại tiền điện tử không dùng tiền mặt đó. Thẻ thanh toán ra đời không những đạt được 2 mục tiêu nói trên mà còn thể hiện được tính văn minh, hiện đại của thời kỳ hiện đại hoá toàn cầu.
- Về trang thiết bị
Đây là thách thức lớn nhất do đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn. Các NHTM nói chung và sở giao dịch nói riêng cần dành 1 nguồn vốn thích đáng cho việc trang bị các thiết bị phục vụ cho quy trình thanh toán bằng thẻ, đặc biệt là máy đọc thẻ và nghiên cứu đặt máy tại những nơi có điều kiện giao dịch thuận lợi, an toàn. Về phía NHNN cũng hỗ trợ thêm thông qua các nguồn vốn tài trợ kêu gọi được từ các tổ chức nước ngoài với lãi suất ưu đãi trong thời gian đầu để cùng với hệ thống NHTM tạo 1 hệ thống CSHT căn bản ngay từ đầu cho các giao dịch bằng thẻ ở trong nước. Ngoài ra, các ngân hàng nên thoả thuận với nhau để lắp đặt, trang bị máy móc thích hợp tại 1 đơn vị chấp nhận thẻ để tránh trường hợp nhiều ngân hàng cùng lắp đặt, trang bị máy móc tại 1 đơn vị.
+ Hợp tác với công ty cho thuê tài chính để thuê lại các máy móc, thiết bị tiên tiến, hiện đại.
+ Các ngân hàng cần có sự hợp tác để quản lý và kiểm soát rủi ro có hiệu quả. Để có thể quản lý và kiểm soát rủi ro đối với hoạt động kinh doanh thẻ thì trước hết các ngân hàng cần có sự hợp tác và phối hợp chặt chẽ với nhau nhằm kịp thời phát hiện và xử lý các trường hợp thanh toán và sử dụng thẻ giả mạo, góp phần làm giảm thiểu rủi ro đối với hoạt động kinh doanh thẻ. Bên cạnh đó, mỗi Ngân hàng phải tạo cho mình ký hiệu mật riêng, tránh rủi ro trong quá trình thanh toán.
+ Nhà nước cần có chính sách phối kết hợp ngân hàng với các ngành khác để mở rộng mạng lưới giao dịch nhằm thu hút khách hàng thông qua việc lập chi nhanh mới tại hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước và các phòng giao dịch đặt tại các khu vực dân cư phát triển.
Ngoài ra, phải có những biện pháp hỗ trợ mạnh mẽ từ phía chính phủ về chính sách thuế, về các quy định pháp luật để các NHTM Việt Nam có định hướng triển khai dịch vụ thanh toán thẻ góp phần phát triển xã hội lâu dài, thực hiện chủ trương ổn định tiền tệ, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng... Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý kinh tế xã hội và pháp luật cần có sự quan tâm nghiên cứu về lĩnh vực thanh toán thẻ, bổ sung những chính sách, quy chế, quy định tạo môi trường pháp lý đầy đủ và thuận lợi.
Về lâu dài, Nhà nước nên chú ý đến các vấn đề như tạo điều kiện làm tăng thu nhập cho người dan cho cán bộ - công nhân viên chức, không ngừng nâng cao trình độ công nghệ, trình độ giao dịch của ngân hàng, giảm thiểu các loại phí trong việc đăng ký và sử dụng thẻ, mở rộng đối tượng sử dụng thẻ trên cơ sở xem xét lại điều kiện để được làm ứng viên chủ thể, tức là không phải cứ người nào có thu nhập cao mới được xem xét cấp thẻ vì điều này đã loại bỏ một số lượng lớn khách hàng.
Ta thấy việc áp dụng hình thức thanh toán thẻ là một bước đột phá mạnh mẽ của quá trình hiện đại hoá. Hiện nay, trong quá trình thực hiện còn gặp một số khó khăn, do vậy, mỗi cá nhân, mỗi tổ chức cũng như ngân hàng cần thấy được tầm quan trọng của thẻ thanh toán, từng bước khắc phục khó khăn nhằm phát huy hiệu quả của hình thức này. Có như vậy thì hoạt động thanh toán thẻ nước ta mới thực sự đáp ứng được yêu cầu của một nền kinh tế phát triển.
Trên đây là một số ý kiến nhằm hoàn thiện hơn công tác TTKDTM của các ngân hàng Việt Nam nói chung và sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam nói riêng. Ta tin tưởng rằng, trong thời gian tới, hệ thống thanh toán của ngân hàng sẽ phục vụ khách hàng tốt hơn, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế và hệ thống TTKDTM có thể vững bước trên con đường hội nhập với hệ thống thanh toán của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Kết luận
TTKDTM có vai trò hết sức quan trọng đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường. Sự ra đời của nó là bước phát triển tất yếu của quá trình thanh toán, đánh dấu một bước tiến mới của nền văn minh nhân loại.
Trong thời gian qua, công tác TTKDTM của Việt Nam nói chung và của sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam nói riêng đã gặt hái được nhiều thành công tốt đẹp. Doanh số cũng như tỷ trọng của TTKDTM ngày càng tăng, khắc phục được những hạn chế của thanh toán bằng tiền mặt, góp phần đẩy nhanh tốc độ thanh toán, đảm bảo sự an toàn, tiện lợi cho các bên tham gia. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì tỷ lệ này vẫn còn rất thấp xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có những nguyên nhân từ phía Nhà nước, những nguyên nhân từ phía Ngân hàng và từ phía khách hàng. Nhận biết được các nguyên nhân này từ đó đưa ra hướng giải quyết là nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của mọi cấp, mọi ngành đặc biệt là của ngành Ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, công tác TTKDTM cần phải đổi mới, hoàn thiện và mở rộng hơn nữa, phấn đấu đưa công tác TTKDTM của Việt Nam sánh kịp các nước trong khu vực và trên thế giới.
Sau một thời gian học tập tại trường, qua thực tế tại sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao hiệu quả của công tác TTKDTM em đã đưa ra một số giải pháp, tuy nhiên, với thời gian có hạn, trình độ và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy, em kính mong được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô giáo, các cán bộ trong Sở giao dịch và toàn thể các bạn để em có thể hoàn thiện hơn kiến thức của mình.
Qua đây, em cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo đã tham gia giảng dạy tại Học viện Ngân hàng- những người đã tận tình truyền đạt cho em những kiến thức quý báu trong suốt khoá học vừa qua, em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy giáo thạc sỹ Lê Văn Luyện, cùng toàn thể các cán bộ Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam- những người đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, tháng 04/2005
Sinh viên
Đỗ Thị Lan anh
Danh mục tài liệu tham khảo
1. “Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại - NXB Chính trị Quốc gia
2. Một số “Tạp chí ngân hàng”, “Thị trường tài chính tiền tệ” và “Thời báo ngân hàng” các năm 2002, 2003, 2004.
3. “Tiền tệ Ngân hàng và Thị trường tài chính” - Frederic S.Mishkin - NXB Khoa học và Kỹ thuật- 2002
4. Quyết định 22/QĐ-NH1 ngày 20/2/1994 của Thống đốc NHNN Việt Nam về thể lệ TTKDTM
- Nghị định 30/CO ngày 2/5/1996 của Chính phủ ban hành quy chế phát hành và sử dụng séc.
- Thông tư 07/TT-NH1 ngày 27/12/1996 về hướng dẫn thực hiện nghị định 30/CP.
- Quyết định số 371/2002/QĐ-NHNN1 ngày 19/10/2002 về việc ban hành quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ Ngân hàng.
- Nghị định số 64/2004/NĐ-CP ngày 20/9/2004 của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
5. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam năm 2002, 2003, 2004.
- Báo cáo TTKDTM tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam năm 2002, 2003, 2004.
6. “Kế toán ngân hàng” - NXB Tài chính - 2003
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28937.doc