Từ thực tế trên việc đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn là việc cần thiết trong thời đại công nghiệp, hiện đại hoá đất nước, để thực hiện được chúng ta cần thực hiện một số việc sau:
- Một là: Thực thi chính sách phát triển cơ sở hạ tầng của vùng một cách tốt nhất theo trương trình đầu tư phát triển sơ sở hạ tầng một vài năm qua của chính phủ, với Yên Bái mặc dù hệ thống cơ sở hạ tầng một vài năm qua đã được đầu tư phát triển những kết quả chưa cao, giao thông đi lại còn khó khăn, trường trạm còn thiếu, nơi sinh hoạt cũng là vấn đề nan giải, do đó trong thời gian tới cần đầu tư về giao thông theo hướng bê tông hóa, tạo điều kiện cho việc giao lưu hàng hoá ngày càng thuận tiện, cần thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng ở những xã vùng sâu vùng xa nơi mà cơ sở hạ tầng còn kém phát triển bằng cách trích từ ngân sách ưu tiên để phát triển ở những xã này
- Hai là: Động viên các trang trại đóng góp cao hơn cho quỹ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Đây là điều có thể nhận được sự ủng hộ của các trang trại, và khi họ thực hiện đóng góp nhằm đầu tư cho cơ sở hạ tầng cũng chính là nhằm phục vụ cho chính bản thân trang trại của họ.
- Ba là: Tuỳ thuộc vào khả năng nguồn ngân sách, cần mạnh dạn tăng tỷ lệ đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn cho những vùng trọng điểm, những công trình trọng điểm có ý nghĩa châm ngòi để khuyến khích sự đóng góp của trang trại và nhân dân trong sáng tạo tìm tòi nguồn vốn.
Bên cạnh những nguồn lực trong nước, chúng ta cần tranh thủ sự hỗ trợ giúp đỡ từ các nguồn đầu tư nước ngoài tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.
75 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1755 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nhằm phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Yên Bái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
78,09
4,31
TX Nghĩa Lộ
21,13
73,8
4,21
Văn Chấn
24,8
68,2
3,28
Trạm Tấu
13,6
64,2
1,78
Mù Căng Chải
15,86
67,0
2,03
Yên Bình
20,83
79,91
3,92
Lục Yên
19,60
81,3
4,71
Văn Yên
22,6
65,1
5,47
Tuấn Yên
23,4
77,8
4,62
Nguồn: Viện quy hoạch tỉnh Yên Bái năm 2002.
454 trong 708 trang trại kinh doanh năm 2002 đã có lãi chiếm 64,1% trang trại đã điều tra. Trang trại thu lãi dòng lớn nhất là trang trại của ông Nguyễn Kim Giao ở huyện Yên Bình với mô hình VACR thu lãi 43,37 triệu đồng bằng 63,9% tổng thu bình quân một lao động là ra trong năm, 14,2 triệu đồng trong đó lãi dòng 8,67 triệu đồng. Trang trại của ông Hà Huy Thực với mô hình VACR tổng thu trong năm 62,96 triệu đồng thu lãi dòng 41 triệu bằng 65% tổng thu, bình quân 1 lao động làm ra 12,59 triệu trong đó lãi ròng 8,2 triệu đồng và đa số trong các trang trại kinh doanh có lãi thuộc mô hình kinh doanh tổng hợp bao gồm làm vườn, nuôi cá, chăn nuôi, nghề rừng (VACR) loại hình sản xuất này có ưu điểm là tận dụng được mọi tiềm năng đất đai, lao động vật tư, tiền vốn, công cụ sản xuất để tạo ra nhiều loại sản phẩm hàng hoá.
Do thực hiện phương châm "lấy ngắn nuôi dài" các trang trại tuy mới hình thành vẫn có nguồn thu trong những năm đầu vừa để tự giải quyết cuộc sống vừa có chi phí đầu tư xây dựng trang trại, tăng nguồn thu nhập trong những năm sau.
Tuy nhiên ở Yên Bái cũng có những trang trại chuyên môn hoá đạt hiệu quả kinh tế cao như trang trại cuả ông Lê Văn Ty có 200m2 ao, ông đầu tư công sức và 10 triệu đồng xây dựng ao nuôi cá, ba ba. Một năm ông thu hoạch 40 kg ba ba thịt và bán 900 con ba ba giống và 1.200kg cá đạt giá trị sản lượng 43,5 triệu đồng sau khi trừ các khoản chi phí còn lãi 31 triệu đồng. Gia đình ông có 2 lao động, bình quân mỗi lao động làm ra trong năm 21,8 triệu đồng, trong đó thu lãi 15,5 triệu đồng.
Biểu 15: Một số trang trại có quy mô diện tích nhỏ nhưng hiệu quả kinh doanh khá.
Chủ trang trại
Điểm điều tra
Mô hình
Quy mô ruộng đất
Lao động
Vốn đầu tư năm
Tổng thu (trđ)
Tích luỹ (trđ)
Nguyễn Đức Lộc
TX Yên Bái
VA
0,59
3
74,7
48,7
4,7
Lương Hồng Ngân
Yên Bình
VACR
0,89
5
12,7
27,37
4,0
Lương Thị Luyến
Lục Yên
VACR
1,81
4
6,01
25,17
3,6
Lò Văn Đạt
Văn Chấn
C
0,54
5
10,0
32,0
2,0
Hà Văn Nghị
TX Nghĩa Lộ
A
0,17
4
14,30
40
4,7
Lý Văn Dương
Trấn Yên
VACR
0,74
5
8,9
19,29
2,8
Hà Đình Dế
Văn Yên
VC
0,75
6
2,6
15,44
2,6
Giàng A Sử
Mù Căng Chải
VACR
1,32
4
15
23
5,8
Giàng A Sinh
Trạm Tấu
VCR
0,43
3
7,1
22,75
9,1
Nguồn: Số liệu điều tra của việc quy hoạch tỉnh Yên Bái năm 2002
Biểu 15 cho thấy 1 số trang trại với qui mô diện tích đất đai nhỏ vốn đầu tư không cao nhưng với cách bố trí và sử dụng hợp lý các nguồn lực nên kết quả kinh doanh đạt mức khá.
3. Đời sống và khả năng tái sản xuất của trang trại.
Kết quả sản xuất của trang trại nhằm tái sản xuất mở rộng, nâng cao đời sống các thành viên gia đình, thu nhập và mức chi tiêu của các thành viên trong trang trại thể hiện qua bảng sau:
Biểu 16: Mức sống và khả năng tích luỹ của trang trại ở các điểm điều tra:
Chủ trang trại
Mô hình
Số lao động
TNBQ người/ tháng
Chi tiêu cho sinh hoạt
Tích luỹ
Giá trị (trđ)
% so với thu nhập
Chung
0,575
0,245
0,329
51,7
Lương Hồng Ngân
VACR
5
0,524
0,289
0,235
44,84
Lương Thị Luyến
VACR
4
0,533
0,289
0,314
58,9
Đào Văn Đạt
UCR
4
0,437
0,179
0,276
58,53
Phùng Nguyên Tỵ
AV
3
1,339
0,389
0,950
70,9
Nguyễn Kiều Xá
A
4
0,834
0,321
0,531
61,5
Mai Nho Minh
AVC
6
0,367
0,192
0,175
47,68
Bùi Anh Thái
VACR
4
0,427
0,226
0,216
52,92
Giàng A Sử
VACR
4
0,588
0,232
0,356
60,54
Giàng A Sinh
VCR
3
0,456
0,242
0,214
46,92
Nguồn: Số liệu điều tra của viện quy hoạch tỉnh Yên Bái năm 2002
4. Hiệu quả xã hội.
Kết quả và hiệu quả kinh tế xã hội rõ nét nhất là các chủ trang trại đã biến những vùng đất trồng đồi núi trọc, những vùng khô cằn hoặc ngập nước quanh năm thành vùng kinh tế trù phú mang đậm tính chất sản xuất hàng hoá quy mô lớn. Mặc dù chủ trang trại phải bỏ vốn đầu tư khá nhiều nhưng đã tạo thêm công ăn việc làm tăng của cải vật chất cho xã hội, tăng thu nhập và cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho các hộ nông dân trong vùng, số lao động làm thuê trong các trang trại và cả lao động gia đình đã tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị trường mặt khác cũng nâng cao đời sống của mình. Các trang trại ra đời và phát triển đã góp phần vào việc làm giảm số lao động dư thừa trong vùng, giúp họ có công ăn việc làm có thu nhập, giải quyết sự dư thừa lao động trong xã hội. Ngoài ra xã hội còn thu được lợi ích về tài nguyên và môi trường do các trang trại mang lại đặc biệt là các trang trại trồng cây lâu năm cây lâm nghiệp ở những vùng đá xấu, khí hậu khắc nghiệt. Đây là hậu quả khó được xác định chính xác.
IV/ Nhận xét chung.
Qua việc xem xét và đánh giá hiệu quả một số mô hình kinh tế trang trại điểm điều tra rút ra một số nhận định sau:
1. Ưu điểm đạt được.
- Sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại đã góp phần tích cực hình thành và phát triển mạnh mẽ một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá.
Kinh tế trang trại tạo ra thế và lực mới để phát triển nông nghiệp toàn diện, tạo vốn tích luỹ vốn, tích tụ đất đai, cung cấp kinh nghiệm, tạo ra cách nghĩ, cách làm mới cho nông dân, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Sự năng động nhạy và tính chủ động cao của kinh tế trang trại là nhân tố tác động đến sự thay đổi phương thức canh tác, cơ cấu cây trồng vật nuôi, mùa vụ. Phát triển kinh tế trang trại tạo ra khả năng mở rộng thị trường, hình thành cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ thương mại trên địa bàn nông thôn.
- Kinh tế trang trại góp phần giải phóng tiềm năng nguồn lực to lớn trong nông nghiệp nông thôn, tạo ra việc làm, thu nhập cho nông thôn, tăng trưởng kinh tế nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới.
Kinh tế trang trại phát triển nảy sinh những nhu cầu mới trong nông thôn như đường giao thông, điện, thông tin liên lạc ... gắn người nông dân lại với nhau, tính cộng đồng được củng cố, đoàn kết nông thôn được tăng cường hạn chế tệ nạn xã hội, kích thích mọi người làm giàu chính đáng.
- Kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn, tạo điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kinh tế hộ nói chung, kinh tế trang trại nói riêng thực sự là bộ phận cơ cấu nông - lâm nghiệp nhiều thành phần. Bộ phần kinh tế này phát triển đa dạng và thích ứng với điều kiện của từng vùng bao gồm nhiều vùng cây ăn quả, cây công nghiệp, cây đặc sản, cây công nguyên liệu. Cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp có sự chuyển dịch từ thuần nông độc canh sang cơ cấu đa canh, chuyên canh, thâm canh. Đồng thời chuyên môn hoá để sản xuất hàng hoá theo yêu cầu của thị trường.
- Phát triển kinh tế trang trại tạo ra tiền đề khách quan để hình thành hình thức hợp tác kiểu mới. Sự phát triển của kinh tế trang trại dựa trên cơ sở đơn vị tự chủ là hộ gia đình, từ trang trại trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, cây đặc sản v.v. hợp tác lại hình thành vùng nông nghiệp hàng hoá, trên quy mô những vùng sản xuất tập trung này đã hình thành những mối liên kết, phân công hợp tác về quy hoạch, cung ứng giống, vật tư, hợp tác về trái chấp vay vốn, hợp tác tìm hiểu thị trường, thông tin giá cả v.v... Đó là những hình thức hợp tác kiểu mới, xuất phát từ những nhu cầu khách quan của kinh tế trang trại gia đình phù hợp với đặc điểm nền nông nghiệp miền núi.
2. Nhược điểm tồn tại và nguyên nhân.
Việc bố trí cây trồng thiếu quy hoạch, hiệu quả sử dụng đất chưa cao. Đặc biệt các trang trại nông làm kết hợp, trang trại nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất còn mang tính quảng canh khai thác tự nhiên là chính, đầu tư thâm canh còn thiếu hạn chế do vậy năng suất chưa cao.
Lao động chủ yếu là thủ công, năng suất lao động chưa cao. Ngành nghề phi nông nghiệp phát triển chậm, công nghiệp chế biến nông sản mặc dù đã được đầu tư nhưng chưa đáp ứng được số lượng cần chế biến và công nghệ lựa chọn chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường.
Thiếu vốn đầu tư cho sản xuất đặc biệt là vốn trung và dài hạn.
Thị trường giá cả bấp bênh ảnh hưởng không nhỏ đến người sản xuất.
Trình độ của người lao động nói chung, của chủ trang trại nói riêng còn hạn chế họ đều có mong muốn được tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn hoá khoa học kỹ thuật.
Cơ sở hạ tầng khó khăn, nhất là các xã vùng sâu vùng xa làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc khai thác những tiềm năng kinh tế và những lợi thế của vùng này.
Nguyên nhân của những tồn tại trên là do:
- Nhận thức về vai trò kinh tế trang trại chưa đầy đủ, chưa thống nhất, là mô hình mới vừa có yếu tố tự phát xen lẫn yếu tố tự giác của nông dân, nên chưa nhất quán và chưa có hành lang pháp lý đầy đủ cho mô hình kinh tế trang trại phát triển mạnh mẽ.
- Các chính sách khuyến khích, nhất là khâu đầu tư vốn cho nông nghiệp chưa đồng bộ, nhiều hộ trang trại chưa được cấp giấy phép sử dụng đất ổn định lâu dài. Do nguồn kinh phí của địa phương hàng năm cho việc cấp đất còn hạn chế.
- Hầu hết các trang trại đều thiếu vốn sản xuất kinh doanh, nguồn vốn trung hạn và dài hạn của ngân hàng còn quá ít, chính sách giá cả, bao tiêu sản phẩm, tổ chức chế biến, cơ sở hạ tầng trong nông thôn miền núi còn khó khăn gây trở ngại cho hoạt động của trang trại.
- Hầu hết các trang trại có quy mô nhỏ tự phát, thiếu sự quy hoạch, hướng dẫn cây trồng vật nuôi để tạo ra vùng sản xuất hàn hoá tập trung với khối lượng lớn, tạo điều kiện cho việc chế biến.
- Các chủ trang trại còn hạn chế sự hiểu biết về kiến thức quản lý, khoa học kỹ thuật, thiếu kinh nghiệm trọng tiếp cận thị trường, việc đóng góp nộp ngân sách còn ít. Đólà những yếu tố thiếu bền vững của mô hình kinh tế trang trại.
Chương III:
Phương hướng và giải pháp chính nhằm phát triển kinh tế trang trại ở yên bái
I/ Phương hướng phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Yên Bái.
1. Quan điểm phát triển kinh tế trang trại
Việc xây dựng các mô hình kinh tế trang trại phải dựa vào các quan điểm sau.
- Phát triển kinh tế trang trại theo hướng chuyên môn hoá, theo quan điểm này mỗi hộ dựa vào nguồn lực cần có và lợi thế so sánh của từng vùng, từng hộ để xác định ngành chuyên môn hoá như: chuyên trồng cây ăn quả, chuyên trồng cây công nghiệp, chuyên trồng cây lương thực, chuyên chăn nuôi, chuyên nuôi trồng thuỷ sản ... sản xuất đi sâu và chuyên môn hoá nên khối lượng và giá trị sản phẩm, đặc biệt tỷ suất sản phẩm hàng hoá đạt khá cao, bên cạnh những ưu điểm thì nhược điểm của mô hình này là không khắc phục được tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp và tính rủi ro cao khi gặp các bất lợi như thiên tai, giá cả biến động, thị trường mất ổn định...
- Phát triển kinh tế trang trại theo hướng kinh tế sinh thái đây là mô hình kinh tế trang trại mang tính đặc thù cho các vùng trung du và miền núi nơi mà đất đai có độ dốc lớn. Việc bố trí cây con theo mô hình này là trồng cây lâm nghiệp ở nơi đất dốc còn ở nơi đất dốc ít hơn thì cải tạo thành ruộng bậc thang để trồng cây công nghiệp (chè, quế, cà phê...) và phát triển cây ăn quả. Những vùng đất có nguồn nước được trồng lúa, còn nơi trũng được tạo thành ao nuôi thả cá và nơi chứa nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt của gia đình và cộng đồng. Phát triển kinh tế trang trại theo mô hình này là sự kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của đồng bào trung du miền núi, đồng thời gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, chống xói mòn đất.
- Phát triển kinh tế trang trại phải gắn liền với công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Đẩymạnh công nghiệp chế biến để nâng cao giái trị và hiệu quả sản xuất kinh doanh từ đó tăng năng suất và mức sống của người lao động.
- Phát triển đa dạng các loại hình trang trại.
Sản xuất nông nghiệp có tính hết sức đặc thù trong đó đặc điểm về đất đai và đối tượng sản xuất nông nghiệp biểuhiện một cách rõ nét nhất. Những hoạt động ấy đã chi phối tới hoạt động của sản xuất nông nghiệp làm cho các hoạt động của nông nghiệp vừa tuân theo những quy luật chung của nền sản xuất xã hội vừa có biểuhiện riêng biệt. Thật vậ trong nông nghiệp chuyên môn hoá sản xuất vừa là biểu hiện chung của sản xuất xã hội vừa có những biểu hiện riêng biệt của nó. Những biểu hiện riêng của chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp, đặc biệt trong kinh doanh nông nghiệp là: chuyên môn hoá phải kết hợp với sự phát triển tổng hợp, điềunày đã tạo nên sự kết hợp hết sức đa dạng của các ngành chuyên môn hoá với các ngành trong các doanh nghiệp nông nghiệp, trong đó có trang trại, làm cho các loại hình kinh doanh của trang trại hết sức phong phú. Vì vậy bên cạnh số ít các trang trại chuyên canh (thuỷ đặc sản, cây công nghiệp...) là các trang trại có sự kết hợp các ngành sản xuất. Đó là các trang trại kinh doanh theo phương thức nông lâm kết hợp với các mô hình VAC hay VARC, kết hợp giữa các loại cây dài ngày với cây ngắn ngày, giữa trồng trọt và chăn nuôi, giữa công nghiệp và nông nghiệp chế biến.
2.Phương hướng phát triển kinh tế trang trại ở Yên Bái.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn hình thành và phát triển các trang trại trong thời gian qua và căn cứ vào chủ trương đối với kinh tế trang trại đã được nêu trong nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành TW Đảng (12/1997) và Nghị quyết số 6 ngày 10/11/1998 của Bộ chính trị về phát triển nông nghiệpnông thồn cần giải quyết một số vấn đề về quan điểm và chinhs sách nhằm tạo môi trường và điềukiện thuận lợi hơn cho sự phát triển mạnh mẽ kinh tế trang trại trong thời gian tơí.
Căn cứ vào điều kiện đất đai, dân số thu nhập của dân cư, phương hướng phát triển trang trai ở Yên Bái là:
- Trong những năm tới, hướng các chủ trang trại đầu tư khai phá diện tích đất còn chưa sử dụng để trồng rừng cây, cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm (chè, cà phê, quế...) chăn nuôi đại gia súc. Đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức cá nhân có vốn, có nguyện vọng được thuê đất còn hoang hoá để khai hoạt lập trang trại quy mô lớn để trồng rừng, cây ăn quả và cây công nghiệp,
- Việc phát triển kinh tế trang trại phải dựa trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực và tiềm năng sẵn có (đặc biệt tài nguyên đất, lao động) bằng cách chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng tập trung hoá chuyên môn hoá và có lợi thế so sánh đối với gia đình.
- Phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp chế biến nông lâm sản quymô nhỏ từ đó góp phần tạo việclàm và thu nhập không chỉ cho lao động gia đìnhmà còn cho lao động trong cộng đồng.
- Thực hiện đầu tư thâm canh, đi đầu trong việc ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ để giảm sức lao động thủ công, đẩynhanh năng suất lao động.
- Thống nhất nhận thức về tính chất và vị trí của kinh tế trang trại.
+ Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản.
+ Phát triển kinh tế trang trại nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý góp phần phát triển nông nghiệp bền vững: tạo việc làm tăng thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đối với xoá đói giảm nghèo, phân bố lại lao động, dân cư, xây dựng nông thôn mới.
- Quá trình chuyển dịch, tích tụ ruộng đất hình thành các trang trại gắn liền với quá trình phân công lại lao động ở nông thôn, từng bước chuyển dịch lao động nông nghiệp sang làm các ngành phi nông nghiệp thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá và nông thôn.
Phương hướng phát triển kinh tế trang trại ở Yên Bái trong những năm tới, để góp phần đưa nông nghiệp Yên Bái phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá phùhợp với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế tỉnh Yên Bái cần được phát triển theo hướng cụ thể sau:
- Phát triển mô hình trang trại theo hướng tổng hợp nhằm phát huy mọi tiềm năng đất đai, lao động, nguồn vốn, điều kiện tự nhiên ... ở Yên Bái điều kiện tự nhiên xã hội rất phù hợp với câychè cho nên các trang trại trồng chè chiếm 1 tỷ lệ khá cao cần phát huy và mở rộng mô hình này, nhằm tận dụng các điều kiện tự nhiên thời tiết khí hậu phù hợp với cây chè.
- Bên cạnh mô hình trang trại câylâm nghiệp được coi là cây tiên phong tuy nhiên 25% số trang trại chỉ thu hoạch gỗ củi, còn lại mới trồng, cần phát huy và sử dụng nguồn đất đai chưa sử dụng nhằm mở rộng và tăng số trang trại.
- Bên cạnh đó mô hình trang trại chuyên chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản cũng cần phát huy và mở rộng quy mô cũng như số lượng vật nuôi, nhằm tận dụng triệt để các nguồn tự nhiên.
- Phát triển kinh tế trang trại ở Yên Bái cần gắn liền với phát triển các hình thức liên kết kinh tế giữa các trang trại, tạo cơ sở cho các trang trại nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hiện nay hoạt động sản xuất kinh doanh của các trang trại Yên Bái chủ yếu được tiến hành một cách riêng rẽ. Sự liên kết và hợp tác giữa các trang trại hầu như chưa có. Trong những năm tới với các phương hướng phát triển trên đã nảy sinh nhu cầu liên kết và hợp tác giữa các trang trại. Hơn nữa sự cạnh tranh ngày càng gia tăng trong kinh doanh nông nghiệp cũng đặt ra yêu cầu hợp tác giữa các trang trại trong tỉnh nếu không sẽ gặp nhiều khó khăn và ách tắc trong phát triển sản xuất kinh doanh nếu thiếu sự liên kết hợp tác giữa trang trại với nhau.
Do vậy cần phải phát triển các hình thức liên kết, hợp tác đa dạng giữa các trang trại tuỳ theo điều kiện từng vùng và đặc biệt hoạt động sản xuất kinh doanh của các trang trại. Cần lưu ý rằng sự liên kết, hợp tác ở đâylà hoàn toàn tự nguyện do bản thân các trang trại tự quyết định. Sự tác động của phía cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương chỉ là sự hướng dẫn và hỗ trợ về một số điều kiện nào đó, tuyệt đối tránh sự chỉ đạo gò ép của cơ chế cũ trước đây.
III/ Các giải pháp chính nhằm phát triển kinh tế trang trại ở Yên Bái.
1. Giải pháp về đất đai.
Kinh tế trang trại ở tỉnh Yên Bái vừa qua có bước phát triển đưa số hộ tham gia hình thức này chiếm trên 100% tổng số hộ nông dân trước hết là nhờ sự lãnh đạo nhạy cảm và việc tổ chức thực hiện cụ thể tuư tưởng "đất đai phải có người làm chủ cụ thể". Việc thực hiện chủ trương giao đất giao rừng đến hộ nông dân đạt kết quả bước đầunhờ chính sách oỏn định lâu dài, nhưng bên cạnh đó diện tích đất được giao còn tỷ trọng khá lớn do đó cần giải quyết vấn đề cơ bản về đất đai như sau:
Thứ nhất: hoàn thiện đất đai, đâylà cơ sở quan trọng thực hiện bố trí sản xuất khai thác lợi thế của vùng, trong điều kiện phát triển kinh tế trang trại quy hoạch đất đai sẽ giúp cho các chủ trang trại khai thác có hiệu quả đất đai và các vùng còn hoang hoá đưa vào sản xuất theo yêu cầu của kinh tế trang trại tránh tình trạng khai thác bừa bãi dẫn đến lãng phí đất phá hoại môi trường sinh thái.
ở Yên Bái đã có quy hoạch một cách tổng thể đất đai, cũng như chi tiết sử dụng đất, nhưng do yêu cầu phát triển kinh tế cũng như yêu cầu của phát triển kinh tế trang trại cần và soát lại quy hoạch ở Yên Bái hoàn thiện quy hoạch chi tiết, định hướng mô hình quy mô của tỉnh nhằm phát triển một cách đầy đủ các ngành nghề đặc biệt là vùng trồng cây ăn quả, cây công nghiệp cũng như nuôi trồng thuỷ sản.
Thứ hai: Khuyến khích tập trung đất đai và những người có nguyện vọng nhận đất ở vùng đất trồng đồi núi trọc, vùng đất hoang hoá để hình thành các trang trại có quy mô hợp lý, tuy nhiên việc tập trung ruộng đất phải được tiến hành một cách thận trọng ở Yên Bái có những thực trạng là nhiệu hộ đã có thu nhập khá lớn trên đẫt lâm nghiệp, cây công nghiệp chăn nuôinhưng vẫn muốn giữ ruộng. Đối với chính sách xoá đói giảm nghèo tạo thêm công ăn việc làm về phía nhà nước nên hỗ trợ và khuyến khích nhượng ruộng cho các hộ không có điều kiện làm trang trại rừng, cây công nghiệp, liền với nó là chính sách cho vay ưu đãi để các hộ làm ruộng không bị thiệt thòi và đi vaylãi cao, do đó người ít ruộng sẽ tích tụ thêm ruộng để chuyển sang sản xuất hàng hoá người chuyển nhượng sẽ có thêm vấn đề phát triển ngành nghề mới. Do đó việc tập trung tích tụ ruộng đất không thể diễn ra tự phát mà có sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước, nhất là cấp chính quyền địa phương nhằm hạn chế một số bộ phận nông hộ nhỏ vì hoàn cảnh khó khăn quẫn bách buộc phải mất đất đi đến thất nghiệp bần cùng hoá.
Trong bối cảnh hiện nay, để khuyến khích tập trung ruông đất phát triển kinh tế cần tập trung một số vấn đề sau:
Tiếp tục hoàn thiện các văn bản phát huy về đất đai trong đó lưu ý hướng khai hoang để phát triển trang trại.
Tiếp tục tiến hành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các trang trại, ở những diện tích khai hoang được phép và nhận đất chuyển nhương chưa hợp pháp.
Đối với đất khai hoang phùhợp với quy định của pháp luật cần hợp pháp hoá ngay bằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để tiếp tục khuyến khích các trang trại khai hoang.
Tiến hành giao đất giao rừng cho trang trại, đặc biệt là vùng hoang hoá, đất trồng đồi núi trọc ... có nhiềukhó khăn khai thác và nhận ít người vào làm việc, những cá nhân có nguyện vọng thiết tha muốn làm trang trại sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp thì cho họ nhận không thu tiền với diện tích có thể so với mức hạn điền.
Đối với vùng đất và rừng gần trục giao thông hoặc nhà máy cần chuyển sang theo mức bình quân theo nhân khẩu trong vùng hoặc giao cho những hộ để sinh sống. Còn đối với vùng sâu vùng xa cần giao theo khả năng và chonhững hộ chưa được nhận đất với cơ chế mới về rừng cần chuyển từ chế độ khoán thuê bao rừng sang khoán tỷ lệ theomức ăn chia lúc khai thác (có tỷ lệ 50:50 hoặc 30:30) tuỳtheo suất đầu tư ứng trước của nhà nước.
Đối với hộ nông dân đất lâm nghiệp và rừng được giao thằng cho hộ hoặc giao ở đây là rừng sản xuất đang chu kỳ khai thác hoặc rừng sản xuất đang cần bảo vệ tái sinh. Rừng phòng hộ và từng đặc trưng cần có tổ chức và cơ chế riêng nhưng cũng không hoàn toàn loại bỏ vai trò kinh tế hộ một trong những nhân tố tác động thường xuyên vào các loại rừng này cần nghiên cứu sau khi rừng đã hết chu kỳ khai thác sẽ thay thế cây trồng gì có hiệu quả cao hơn mà vẫn làm được chức năng phòng hộ đầu nguồn.
Cuối cùng là việc thừa nhận về pháp lý đất đailà một hàng hoá đặc biệt để quản lý và sử dụng đất đai có hiệu quả. Thị trường đất đai của nước ta đang trong quá trình hình thành và phát triển nhưng nó đã và đang bộc lộ những yếu kém những hiện tượng tiêu cực nảy sinh trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai. Nhà nước cần thừa nhận đất đai là một hàng hoá đặc biệt và có chính sách phù hợp để đảm bảo choloại hangf hoá này vận động trong cơ chế thị trường, hướng dẫ và điều tiết các mối quan hệ trong quá trình sử dụng đất đai. Từ đó nông dân có thể yên tâm khai thác sử dụng đất đai có hiệu quả, nâng cao sản phẩm hàng hoá sản xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà nước quản lý tốt đất đai.
2. Giải pháp về lao động.
Để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại nguồn lao động có vai trò lớn. Trong điềukiện kinh tế thị trường, lao động của trang trại gồm có lao động gia đình và lao động làm thuê chủ yếulà người địa phương. Hiện nay hầu hết việc thuê mướn lao động của trang trại là sự thoả thuận ngầm của chủ trang trại và lao động làm thuê chưa có hợp đồng tráchnhiệm về nghĩa vụ và quyền lợi của hai phía. Vì vậy để nâng cao hiệu quả kinh tế trang trại trên phương diện phát triển nguồn lưu động cho trang trại đòi hỏi phải giải quyết một số vấn đề sau.
- Nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh và trình độ khoa học kỹ thuật của chủ trang trại, và thực tế cho thấy những trang trại hoạt động mang lại hậu quả cao thì đa phần người chủ là người có ý thức làm giàu, chịu khó học hỏi để tiến lên. Vì có trình độ có hiểu biết về khoa học kỹ thuật, có khả năng quản lý, có hiểu biết nhất định về thị trường và biết hợp sức của lao động gia đình và lao động thuê mướn để kinh doanh. Nhưng để nâng cao hiệu quả kinh doanh cần tổ chức đào tạo cho các chủ trang trại có nguyện vọng, thiết tha và có khả năng trở thành chủ trang trại và xác định rõ nội dung đào tạo cho các chủ trang trại và xác định rõ nội dung đào tạo đó là vấn đề chung của kinh tế trang trại như vị trí xu hướng phát triển, các tiến độ khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất của các hộ làm ăn giỏi. Nhà nước cần đầu tư từ ngân sách để tập trung trí tuệ xây dựng hệ thống giáo trình, bàn giảng thích hợp, đào tạo miễn phí cho cán bộ địa phương và tài trợ một phần cho các chủ trang trại.
- Phát triển chất lượng nguồn lao động của trang trại đồng thời cần có chương trình và tổ chức việc đào tạo nghề phù hợp cho một bộ phận lao động làm thuê nhất là bộ phận lao động kỹ thuật bằng cách mở các lớp tập huấn tại địa phương do cán bộ tại các Viện kinh tế giảng dậy. Đối với lao động gia đình theo kết quả điều tra ở Yên Bái số lao động được đào tạo chuyên môn chưa cao, chủ yếu là chú trọng trang trại và người quản lý. Vì vậy số thành viên trong độ tuổi lao động đều chưa qua đào tạo và không có bằng cấp chuyên môn chất lượng lao động thấp, do đó cần tổ chức đào tạo nâng cao trình độ sản xuất cho lao động của trang trại chủ yếu dựa vào tổ chức quần chúng... Cần phát huy vai trò của người có bằng cấp trong từng trang trại để nâng cao trình độ cho người lao động dưới hình thức truyền nghề. Còn với lao động làm thuê mặc dù qui mô trang trại ở Yên Bái còn boes nhưng còn tuỳ theo qui mô va quá trình sản xuất kinh doanh, phần lớn số trang trại đều sử dụng lao động làm thuê, để giải quyết vấn đề này cần thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước ta là phát triển nền sản xuất nhiều thành phần bình diện chung đã chấp nhận thị trường lao động, thì lao động làm thuê mong các trang trại cùng phải được thừa nhận, có như vậy lao động trong nông nghiệp nông thôn mới thực sự được phân công và sử dụng một cách có hiệu quả. Việc thuê mướn lao động của các trang trại hầu hết chưa ký kết hợp đồng giữa hai bên, trách nhiệm nghĩa vụ và quyền lợi mới chỉ là thoả thuận ngầm vì vậy trên cơ sở bộ Luật lao động đã ban hành, đề nghị Bộ lao động - Thương binh - xã hội nghiên cứu ban hành qui chế sử dụng lao động đối với các trang trại, hướng dẫn các chủ trang trại xây dựng các hợp đồng lao động giữa chủ sử dụng lao động và lao động làm thuê để đảm bảo quyền lợi hợp pháp và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động.
- Số lao động làm thuê cho các trang trại ngày càng tăng nhanh cùng với sự phát triển kinh tế trang trại, vì vậy chính quyền địa phương cần có biện pháp theo dõi kịp thời phát hiện ngăn ngừa và giải quyết những hành vi vi phạm pháp luật của người lao động.
3. Giải pháp về vốn
Trong các nguồn lực kinh tế - xã hội nông thôn nói chung kinh tế trang trại nói riêng, vốn là nguồn lực quan trọng thực trạng cho thấy vốn đầu tư cho các trang trại là rất thấp và chủ yếu là nguồn vốn tự có và nguồn vốn vay của tư nhân với lãi suất cao của ngân hàng và các tổ chức chiếm tỷ lệ nhỏ, việc hình thành và phát triển kinh tế trang trại đòi hỏi vốn lớn hơn so với kinh tế hộ vì qui mô sản xuất lớn hơn phải tiến hành khai hoang, kiến thiết đồng ruộng mặt nước, trồng rừng trồng cây dài ngày ... Do ít vốn các trang trại chưa đủ tư cách pháp nhân nên các trang trại chủ yếu phát triển theo hướng "Lấy ngắn nuôi dài"
Để phát triển kinh tế trang trại cần có sự đầu tư hợp lý về vốn sản xuất kinh doanh do đó cần phải thực hiện một số vấn đề cơ bản sau:
- Một là: Cần có sự hỗ trợ nguồn vốn ngân sách cho việc phát triển kinh tế trang trại, vốn ngân sách hỗ trợ tập trung vào xây dựng công trình hạ tầng như thủy lợi, giao thông, điện... các công trình này được đầu tư xây dựngẩ bên ngoài trang trại nhưng là cơ sở quan trọng trong việc phát triển hình thành kinh tế trang trại. Nhà nước hỗ trợ đầu tư là chủ yếu, tuy nhiên trong điều kiện nguồn ngân sách nhà nước còn eo hẹp nhu cầu xây dựng lớn cần tính toán đầu tư có trọng điểm.
- Hai là nhà nước cần có cơ chế cho chủ trang trại vay theo dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thời hạn cho vay phải phù hợp với đặc điểm sản xuất của từng loại sản phẩm. Vì vậy thời điểm vay vốn có thể trước chu kỳ kinh doanh, hệ thống ngân hàng cần chuyển biến mạnh mẽ trong việc tạo vốn đển mở rộng tín dụng trung hạn và dài hạn, mở rộng đầu tư chiều sâu vao nông nghiệp. Để cho sản xuất của trang trại chịu đựng được lãi suất tín dụng trung và dài hạn lớn hơn tín dụng ngắn hạn cần thực hiện chính sách đồng bộ để hạ thấp lãi suất tín dụng ( kể cả lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay) và có những giải pháp tổng hợp đồng bộ để vừa mở được tín dụng trung và dài hạn vừa giảm lãi suất tín dụng.
- Cần mở rộng các kênh đầu tư vốn cho sản xuất của trang trại và các kênh đầu tư cần chuyển dần sang hướng thương mại hoá các nguồn vốn.
- Đối với các nông hộ ở vùng sâu vùng xa vùng cao, hộ đồng bào dân tộc có nguyện vọng thiết tha có ý trí và khả năng sản xuất với qui mô lớn, nhà nước cần khuyến khích họ bằng cách ưu tiên giao đất ở những địa bàn thuận lợi có chính sách và giao cho ngân hàng cho hộ này vay với lãi suất ưu đãi. Việc tạo ra điều kiện thuận lợi bước đầu tạo giúp cho họ thành lập trang trại tiến hành sản xuất kinh doanh trên cơ sở xây dựng mô hình sản xuất kinh doanh theo hướng phát triển nông lâm nghiệp hướng trang trại.
- Tăng cường cho vay của ngân hàng để kinh tế trang trại vay vốn, không phân biệt kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh. Đề nghị chính sách tín dụng đối với kinh tế trang trại theo hướng tăng vốn cho vay cao hơn hộ nông dân thông thường. Lượng vốn vay của trang trại phụ thuộc vào qui mô sản xuất, yêu cầu của từng loại cây trồng vật nuôi, nhu cầu sản xuất vốn và lượng vốn tự có.
- Khuyến khích các hộ có vốn ở thành thị và địa phương khác đầu tư làm kinh tế trang trại ở vùng đồi núi hoang hoá, bằng cách giao đất ưu tiên, miễn giảm thuế.
- Công nhận trang trại là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân để chủ trang trại huy động vốn công khai, bình đẳng hợp pháp và có thể thế chấp tại Ngân hàng.
4. Giải pháp về khoa học công nghệ
Ngày nay: Khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp nâng cao hiệu quả và năng suất lao động kho học và công nghệ ở đây được hiểu cả trong sản xuất và trong giống cây trồng vật nuôi. Đây là một yếu cầu không thể thiếu được đối với sản xuất nông lâm ngư nghiệp của kinh tế trang trại có tỷ suất hàng hoá cao hơn hẳn hộ nông dân, được tiêu thụ trong cơ chế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt. Nếu chủ trang trại không có giống tốt về cây trồng, vật nuôi thì sẽ dẫn tới năng suất thấp chất lượng sản phẩm kém không tiêu thụ được. Do đó giải pháp về khoa học công nghệ vừa có tính chất cấp bách trước mắt, vừa có tính lâu dài để đảm bảo cho kinh tế trang trại ổn định phát triển,đạt hiệu quả cao.
Đầu tư thoả đáng cho việc phát triển công nghiệp sinh học để tạo giống cây trồng vật nuôi có sản phẩm chất lượng cao, tìm ra và áp dụng công nghệ, mở rộng canh tác, chế biến, bảo quản hợp lý sản phẩm trước hết là các sản phẩm sản xuất trên các vùng chuyên canh. Khuyến khích liên kết hợp tác trong nghiên cứu và áp dụng khoa học kỹ thuật công nghệ trong việc chế biến các sản phẩm trong vùng nhằm nâng cao chất lượng cũng như số lượng chè xuất khẩu.
Khuyến cáo cho các trang trại biết có thể bố trí công trồng vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên và sinh thái vùng phù hợp với qui hoạch của vùng đặc biệt là các trang trại với các cây trồng chuyên canh đòi hỏi kỹ thuật trang thiết bị hiện đại trong quá trình sản xuất kinh doanh.
- Bên cạnh đó các trang trại sản xuất kinh doanh cần ứng dụng máy móc làm giảm nhẹ sức lao động cho con người, bảo vệ môi trường sinh hoá.
Đầu tư xây dựng với các vườn ươm, nhân giống các loại cây rừng, cây công nghiệp cây ăn quả, các xí nghiệp sản xuất tôm cá gắn với các ngành nghề sản xuất của trang trại nhằm cung ứng đầy đủ giống tốt cho trang trại.
Tổ chức các dịch vụ kỹ thuật như dịch vụ giống, dịch vụ bảo vệ thực vật thú ý cho trang trại theo nhiều hình thức: Khoán gọn khâu bảo vệ, khoán theo công đoạn.
5. Giải pháp về thị trường và phát triển công nghiệp chế biến.
Hiện nay trong số các trang trại của Yên Bái đã hình thành và phát triển một số trang trại chuyên trồng một số cây công nghiệp như: chè, quế .... trong vùng đã hình thành một số nhà máy chế biến chè và đã góp phần làm ổn định thị trường ổn định vùng nguyên liệu. Song thực tế, đã phát sinh khá gay gắt về vấn đề tiêu thụ sản phẩm, các hộ nông dân không thể tự giải quyết được vấn đề thị trường. ổn định và đảm bảo tính bền vững về kinh tế cho kinh tế trang trại.
Đối với thị trường các yếu tố đầu tư vào cho trang trại ở Yên Bái có thể thông qua hệ thống ngân hàng hệ thống các xí nghiệp các lâm trường để định hướng cung ứng tiền vốn vật tư ban đầu vào hướng có lợi hợp lý cho kinh tế trang trại. Trên thực tế các trang trại trồng cây ăn quả rừng gỗ nguyên liệu được hình thành nhờ sự cung ứng vốn, giống kỹ thuật từ phía chính quyền địa phương cũng như từ phía nhà nước, nó giữ một vai trò quan trọng.
Để các sản phẩm đầu ra của trang trại được tiêu thụ một cách dễ dàng và nhanh chóng thì cần phải giải quyết một số vấn đề sau:
* Cần tập trung xây dựng mới, mở rộng hoặc nâng cao các nhà máy chế biến trong vùng. Đây là cách giải quyết vấn đề thị trường sản phẩm đầu ra một cách thiết thực và căn bản cho các trang trại sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả. Vì vậy để tạo ra thị trường ổn định và vững chắc cho sản phẩm đầu ra của các trang trại trong vùng, nhà nước cần đầu tư hơn nữa cho việc xây dựng hệ thống nhà máy, xí nghiệp chế biến nông sản của vùng (đặc điểm là nhà máy chế biến sản phẩm chè).
* Tổ chức hệ thống các kênh lưu thông nông sản, cần mở rộng hệ thống các doanh nghiệp thương mại làm nhiệm vụ xuất khẩu sản phẩm chè cho các trang trại chè của tỉnh.
* Cần mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản ra nhiều vùng nhiều quốc gia khác nhau.
* Còn với các trang trại rừng trong vùng cần làm rõ những vướng mắc trong khi tiêu thụ sản phẩm của vùng như quyền của chủ trang trại đối với việc thu hoạch và tiêu thụ sản phẩm rừng trồng…
* Các trang trại trồng cây ăn quả chiếm một số lượng nhỏ, cũng có nhiều vấn đề về thị trường tiêu thụ sản phẩm khó khăn ở đây không phải là có thị trường hay không mà là ở chỗ sản phẩm của trang trại có phù hợp với yêu cầu thị hiếu của thị trường hay không? do đó cần bố trí sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường, sao cho chi phí sản xuất rẻ nhất, cần liên tục công tác cải tạo giống để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao. Cùng với sự phát triển ngày càng phong phú của nhu cầu tiêu dùng các loại nông lâm thuỷ sản, công nghiệp chế biến ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp nói chung, trang trại nói riêng. Nếu xem xét công nghiệp chế biến nông sản từ góc độ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, nhu cầu thị trường gồm thị trường nội địa và thị trường quốc tế thì có nội dung rất phức tạp va rộng lớn, do đó cần phải phân tích thị trường và nhu cầu thị trường để quyết định trình độ công nghệ cao thấp như thế nào với mỗi loại nông sản là do thị trường quyết định chứ không phải do ý muốn của con người.
Để công nghiệp chế biến đáp ứng tốt hơn các yêu cầu phát triển của trang trại ở Yên Bái trong những năm tới cũng như trong suốt thời kỳ công nghiệp hoá, nông nghiệp hoá nông thôn cần phải giải quyết các vấn đề sau: - Coi trọng việc phát triển các trang trại trong vùng hình thành theo hướng vùng nguyên liệu tương đối tập trung, nâng cao kỹ thuật canh tác của khâu sản xuất nông sản nguyên liệu đáp ứng nhu cầu công nghiệp chế biến
- Hình thành các vùng chuyên canh cây chè, cây ăn quả…với quy mô đủ lớn để tiếp thu công nghiệp. Hiện nay hàng loạt cơ sở chế biến, kể cả cơ sở quy mô vừa và nhỏ phải đi thu gom nguyên liệu, chi phí thu gom nguyên liệu lớn và đầu vào tăng dần với khả năng cạnh tranh giảm.
- Chuyển đổi cơ câu cây trồng vừa chuyên canh vừa hình thành cơ cấu kinh doanh tổng hợp của từng trang trại và cả vùng để nâng cao mức độ sử dụng thời gian làm việc của thiết bị chế biến.
- Nâng cao chất lượng nông sản nguyên liệu của các trang trại cung cấp cho chế biến
- Lựa chọn hướng phát triển công nghiệp chế biến phù hợp với từng vùng, từng loại hình nông sản nguyên liệu và phù hợp với yêu cầu của thị trường tiêu thụ. Trước mắt để đáp ứng nhu cầu chế biến của nông sản hàng hoá của các trang trại chế biến chè, đảm bảo 100% sản phẩm xuất khẩu được phân loại, áp dụng nhiều công nghệ chế biến, mở rộng dây chuyền sản xuất.
- Lựa chon được mô hình phù hợp để thực hiện cuộc liên kết giữa các nhóm chỉ thể kinh doanh gồm các trang trại công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm .
- Kết hợp hợp lý giữa chế biến tập trung trong các nhà máy với chế biến thủ công tại nhà, tái chế trong nhà máy với sơ chế tại chỗ trong các trang trại.
- Yên Bái với phần lớn trang trại là trồng chè, quế và cây lâm nghiệp… do đó việc phát triển các trang thiết bị cho công nghiệp chế biến mặc dù đã được đầu tư nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu chế biến các sản phẩm đặc biệt là sản phẩm xuất khẩu có nhiều vấn đề bất cập. Do vậy để đáp ứng nhu cầu sản phẩm cần chế biến luôn cần đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghiệp chế biến, nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài. Các trang thiết bị chế biến chè cần từng bước phát triển mở rộng các ngành nghề khác nhu cầu công nghệ chế biến cà phê, chế biến rau quả nhằm phát triển đa dạng da ngành nghề, nhằm phát triển toàn diện.
6. Giải pháp về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn có ý nghĩa to lớn đối với việc phát triển các trang trại sản xuất nông nghiệp hoá. Theo kết quả điều tra những xã có đường thuận lợi, có điện… thì ở đó kinh tế phát triển cao hơn, do nguồn vốn có hạn nên trước mắt cần lựa chọn đầu tư xây dựng các cụm kinh tế – xã hội của vùng, đặc biệt ưu tiên các xã vùng xa vùng sâu trước. Các cụm kinh tế văn hoá này gồm 2 – 4 xã gần nhau và được xây dựng hoàn chỉnh các công trình như: Đường giao thông, điện cho sinh hoạt và sản xuất, nước sạch, chợ nông thôn, trường học, trạm xá… các cụm kinh tế văn hoá nông thôn.
Từ thực tế trên việc đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn là việc cần thiết trong thời đại công nghiệp, hiện đại hoá đất nước, để thực hiện được chúng ta cần thực hiện một số việc sau:
- Một là: Thực thi chính sách phát triển cơ sở hạ tầng của vùng một cách tốt nhất theo trương trình đầu tư phát triển sơ sở hạ tầng một vài năm qua của chính phủ, với Yên Bái mặc dù hệ thống cơ sở hạ tầng một vài năm qua đã được đầu tư phát triển những kết quả chưa cao, giao thông đi lại còn khó khăn, trường trạm còn thiếu, nơi sinh hoạt cũng là vấn đề nan giải, do đó trong thời gian tới cần đầu tư về giao thông theo hướng bê tông hóa, tạo điều kiện cho việc giao lưu hàng hoá ngày càng thuận tiện, cần thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng ở những xã vùng sâu vùng xa nơi mà cơ sở hạ tầng còn kém phát triển bằng cách trích từ ngân sách ưu tiên để phát triển ở những xã này
- Hai là: Động viên các trang trại đóng góp cao hơn cho quỹ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Đây là điều có thể nhận được sự ủng hộ của các trang trại, và khi họ thực hiện đóng góp nhằm đầu tư cho cơ sở hạ tầng cũng chính là nhằm phục vụ cho chính bản thân trang trại của họ.
- Ba là: Tuỳ thuộc vào khả năng nguồn ngân sách, cần mạnh dạn tăng tỷ lệ đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn cho những vùng trọng điểm, những công trình trọng điểm có ý nghĩa châm ngòi để khuyến khích sự đóng góp của trang trại và nhân dân trong sáng tạo tìm tòi nguồn vốn.
Bên cạnh những nguồn lực trong nước, chúng ta cần tranh thủ sự hỗ trợ giúp đỡ từ các nguồn đầu tư nước ngoài tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.
7. Hoàn thiện hệ thống khuyến nông khuyến nghề.
Thực hiện nghị định số 13/CP ngày 02/02/1993 của chính phủ các địa phương hình thành hệ thống khuyến nông có vai trò tích cực trong việc phổ biến tâp huấn, ứng dụng vào thực tế những tiến bộ khoa học công nghệ như: Đưa giống cây con vào sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng tốt. Tuy nhiên do địa bàn rộng lớn số lượng cán bộ còn hạn chế, phương tiện trang thiết bị thiếu nên khả năng hoạt động của công tác khuyến nông còn nhiều hạn chế. Để phát huy tốt vai trò và tác động của công tác khuyến nông còn nhiều hạn chế. Để phát huy tốt vai trò và tác dụng của của công tác khuyến nông từ tỉnh, huyện đến xã, thôn, bản. Nâng cao trình độ của cán bộ làm công tác khuyến nông.
Đi đôi với việc củng cố và hoàn thiện hệ thống khuyến nông cần phải xây dựng hệ thống khuyến nông ở khu vực nông thôn.
Cũng như khuyến nông khuyến nghề có nhiệm vụ phố biến, tập huấn chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật để hỗ trợ người dân nông thôn phát huy các khả năng của mình. Do đặc điểm của mỗi nơi khác nơi có ngành nghề nên chưa phải đã là giống nhau do đó trong quá trình xây dựng và tổ chức các lớp khuyến nông, khuyến nghề cần phải phù hợp với từng vùng, từng địa phương.
8. Nâng cao trình độ dân trí và trình độ chuyên môn cho chủ trang trại.
Như đã trình bày ở trên, kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp phát triển cao hơn hẳn kinh tế hộ, sự phát triển của nó gắn chặt với sự phát triển của khu vực nông thôn. Tuy nhiên đề cập đến sự phát triển của kinh tế trang trại không thể không đề cập đến bàn tay khối óc của người chủ trang trại, nó đòi hỏi người chủ trang trại phải có một sự nhận thức sâu sắc, một tầm nhìn chiến lượng đối với từng bước phát triển của trang trại.
Bên cạnh đó cũng phải đề cập đến vai trò của người lao động trong sản xuất của trang trại nói riêng và sản xuất nông nghiệp nói chung. Thực tế cho thấy trình độ dân trí của người dân ở vùng nông thôn trường thấp hơn vùng thành thị bởi phần lớn người dân không có điều kiện học tập. Điều đó ảnh hưởng đáng kể đến sự nhìn nhận vấn đề phát triển kinh tế văn hoá xã hội ở khu vực nông thôn.
Vậy nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ tích cực cho việc nâng cao trình độ dân chủ ở vùng nông thôn, đối với việc nâng cao trình độ dân chủ ở vùng nông thôn, đối với chủ trang trại phải nâng cao trình độ chuyên môn cho họ bằng cách: Hình thành các lớp học hưỡng dẫn chủ trang trại về kỹ thuật sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, kết hợp với hệ thống truyền thanh truyền hình mở các lớp đào tạo từ xa về việc tìm hiểu thị trường, về hướng dẫn thực hiện hệ thống các chính sách, chủ trương của nhà nước trong sản xuất nông nghiệp. Thực hiện được điều này chắc chắn trang trại sẽ có bước phát triển cao hơn.
9. Tăng cường quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại ở Yên Bái.
Tăng cường quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại để vừa thúc đẩy việc hình thành những trang trại ở những nơi có điều kiện vừa hạn chế mặt tiêu cực nảy sinh trong quá trình phát triển và phát huy mặt tích cực của các trang trại hiện có. Thực tế phát triển của kinh tế trang trại trong thời gian qua, cần quản lý nhà nước đối với trang trại trong thời gian tới cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
- Hoàn thiện quy hoạch tổng thể và quy hoạch cụ thể phát triển kinh tế xã hội của tỉnh cần chi tiết hoá và khẳng định các vùng sản xuất hàng hoá trong nông - lâm - ngư nghiệp để định hướng phát triển kinh tế trang trại theo khả năng lợi thế của vùng, để phát triển nông sản hàng hoá trên cơ sở gắn bó giữa sản xuất, chế biến tiêu thụ sản phẩm.
- Sau khi nhà nước ban hành chính thức tiêu chí nhận dạng trang trại, nghị quyết của chính phủ về kinh tế trang trại, các ngành có liên quan sớm ban hành chế độ báo cáo phù hợp để phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại.
+ Tập trung vào ngành hàng có quy mô lớn về xuất khẩu, đặc biệt, là cây chè ở các trang trại, đây là sản phẩm xuất khẩu chiếm một tỷ trạng lớn ỏ Yên Bái
+Hỗ trợ vốn ban đầu để thu hút vốn vào công nghệ chế biến cho vay ưu đãi để đổi mới công nghệ thiết bị chế biến sản phẩm xuất khẩu.
+ Cần ban hành và dữ mức đầu tư vốn cho nông nghiệp trong ngân sách trong nhiều năm liên tục và điều chỉnh mức vốn ODA cho nông nghiệp nông thôn.
+ Đối với trang trại mới lập nghiệp cần tăng lượng vốn vay trung hạn và dài hạn, thời gian cho vay phải gắn với chu kỳ kinh doanh, chu kỳ htu hoạch sản phẩm, bên cạnh đó cần đầu tư nâng cao trình độ quản lý của chủ trang trại, muốn vậy phải mở thêm cơ sở đào tạo, nhưng cần có trương trình đào tạo phù hợp với các chủ trang trại.
+ Tiếp tục đổi mới một số nội dung của quản lý Nhà nước về đất đai với các trang trại. Hộ gia đình có nhu cầu và khả năng sử dụng và phát triển trang trại được Nhà nước giao đất hoặc thuê đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thẩm quyền giao thuê đất được áp dụng theo quy định tại nghị định số 85/1999/NĐ -CP ngày 28/8/1999 của chính phủ về sửa đổi bổ sung một số quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài và nghị định số 163/ 1999/NĐ - CP ngày 16/11/1999 của chính phủ về giao đất cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
+Tăng cường quản lý Nhà nước về lao động, việc làm ở nông thôn, Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện hộ trợ cho các chủ trang mở rộng quy mô sản xuất cạnh tranh, tạo được nhiều việc làm cho lao động nông thôn, ưu tiên sử dụng lao động của hộ nông dân không đất, thiếu đất sản xuất nông nghiệp, hộ nghèo thiếu việc làm,chủ trang trại lao động được thuê lao động không hạn chế về số lượng và chả công lao động trên cơ sở thoả thuận với người dao động theo quy định của pháp luật về lao động, chủ trang trại cần trang bị đồ dùng bảo hộ lao động theo từng loại ngành nghề.
+ Nhà nước có kế hoạch hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp do lao động làm trang trại bằng hình thức tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn.
+ Hỗ trợ phát triển công nghiệp dịch vụ nông thôn
+ Hướng các trang trại ký kết các hợp đồng thuê mướn lao động để đảm bảo quyền lợi cho người làm thuê và cac chủ trang trại thuê lao động kinh tế trang trại đã hình thành và phát triển trên các vùng của cả nước với nhiều loại hình và quy mô khác nhau đang tỏ ra là đơn vị sản xuất kinh doanh nông nghiệp phù hợp và có hiệu quả. ở Yên Bái kinh tế trang trại đang ngày phát triển mạnh mẽ , diện tích và quy mô ngày càng lớn các trang trại đã biết tận dụng và lợi thế về khí hậu đất đai, nhân lực để phát triển trang trải không những đáp ứng nhu cầu trong vùng, trong nước mà nó còn được xuất khẩu ra nước ngoài. Để có được kết quả đó một phần nhờ sự chỉ đạo, quan tâm của các cấp chính quyền và một phần do sự năng động, nhạy cảm có chí hướng làm giàu của các trang trại. Bên cạnh những thành tựu to lớn về kinh tế, các trang trại cần tham gia tích cực vào việc khai hoang phục hoá vùng đất trống đồi núi trọc, vùng đất ven sông …Trở thành vùng kinh tế trìu phú, góp phần bảo vệ làm tăng tài nguyên rừng.
- Để khuyến khích chế biến sản phẩm nông - lâm nghiệp nhằm chủ động tiêu thụ cho nông dân, khi bán các sản phẩm hàng hoá nguyên liệu đề nghị tỉnh cho thu thuế doanh thu với mức 5%.
- Tỉnh cần xây dựng quý bảo trợ sản xuất nhằm đảm bảo ổn định giá mua một số mặt hàng xuất khẩu có giá trị như chè, thuốc, cà phê để sớm ổn định hình thành những vùng sản xuất hàng hoá, phát triển ổn định bền vững.
Kết luận và kiến nghị
Kinh tế trang trại đã hình thành và phát triển trên các vùng của cả nước với nhiều loại hình và quy mô khác nhau đang tỏ ra là đơn vị sản xuất kinh doanh nông nghiệp phù hợp và có hiệu quả. ở Yên Bái kinh tế trang trại đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, diện tích và quy mô ngày càng lớn các trang trại đã biết tận dụng lợi thế về khí hậu đất đai, nhân lực để phát triển thị trường, trong những năm qua sản phẩm sản xuất ra của trang trại không những đáp ứng nhu cầu trong vùng, trong nước mà nó còn được xuất khẩu ra nước ngoài. Để có được kết quả đó một phần nhờ sự chỉ đạo, quan tâm của các cấp chính quyền và một phần do sự năng động, nhạy cảm có chí hướng làm giàu của các chủ trang trại. Bên cạnh những thành tựu to lớn về kinh tế, các trang trại còn tham gia tích cực vào việc khai hoang phục hoá vùng đất trồng đồi núi trọc, vùng đất ven sông... trở thành vùng kinh tế trù phú, góp phần bảo vệ làm tăng tài nguyên rừng kinh tế trang trại đã huy động vốn và sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả, cũng như đi đầu trong việc thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Trong thời gian tới để cho kinh tế trang trại tiếp tục hình thành và phát triển, tôi xin có 1 số đề nghị sau:
- Đề nghị trung ương, tỉnh thường xuyên kiểm tra đôn đốc các cấp, các ngành phối hợp chặt chẽ thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết 03/NQ-CP của Chính phủ về kinh tế trang trại.
- Đề nghị Chính phủ ban hành quy định về cấp sổ trang trại gia đình đủ điều kiện theo tiêu chí và sổ đăng ký sản xuất kinh doanh của hộ nhằm tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng thuận lợi để các trang trại trên giao dịch vơí ngân hàng và các chủ thể kinh tế khác, mặt khác cũng là cơ sở pháp lý để chủ trang trại đóng góp với nhà nước.
- Kinh tế trang trại là hoạt động sản xuất kinh doanh Nông - Lâm nghiệp có tính chất mùa vụ, lệ thuộc vào khí khậu thời tiết, chịu nhiều rủi ro, đề nghị Tỉnh cho vay với lãi suất ưu đãi, nguồn vốn trung và dài hạn.
- Để khuyến khích chế biến sản phẩm nông - Lâm nghiệp nhằm chủ động tiêu thụ cho nông dân, khi bán các sản phẩm hàng hoá nguyên liệu đề nghị tỉnh giảm thuế doanh thu với mức 5%.
- Tỉnh cần xây dựng quĩ bảo trợ sản xuất nhằm ổn định giá mua một số mặt hàng xuất khẩu có giá trị như chè, quế, cà phê để sớm ổn định hình thành vùng sản xuất hàng hoá, phát triển ổn định bền vững./.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ công nghiẹp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam,
NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội năm 2000.
2. Kinh tế trang trại gia đình trên thế giới và Châu á - NXB thống kê.
3. Trang trại gia đình ở Việt Nam và thế giới - NXB chính trị quốc gia
4. báo cáo đánh giá tình hình kinh tế trang trại sau một năm thực hiện nghị quyết 03/2002/NQ/CP của Chính phủ về kinh tế trang trại của tỉnh Yên Bái.
5. Nghị quyết của Chính phủ về kinh tế trang trại.
6. Kinh tế trang trại gia đình ở tỉnh Miền núi Yên Bái- NXB Chính trị quốc gia
7. Giáo trình kinh tế nông nghiệp - NXB nông nghiệp - Hà Nội 1996
8. Giáo trình quản trị doanh nghiệp
9. Báo cáo số liệu điều tra về trang trại của Viện qui hoạch năm2000 ở tỉnh Yên Bái.
10. Tạp chí kinh tế nhà nước
Báo nông nghiệp Việt Nam
Tạp chí kinh tế và dự báo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28628.doc