Việt Nam đang nỗ lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để bắt kịp xu thế phát triển kinh tế của toàn cầu. Góp tiếng nói quyết định là hoạt động xuất khẩu, một nguồn cung cấp ngoại tệ chính để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế, góp phần cân đối, duy trì và tái mở rộng sản xuất trong nước, tranh thủ những tiến bộ khoa học và công nghệ thế giới, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao trình độ phát triển kinh tế xã hội nước nhà.
Công ty XNK Tổng hợp I là một doanh nghiệp nhà nước thamgia vào lĩnh vực xuất nhập khẩu ngay từ những ngày đầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế của nước ta. Hiện nay, Công ty đã tạo lập được một vị trí tương đối vững vàng trên thị trường trong nước cũng như thế giới. Đặc biệt là hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam nói chung. Trên cơ sở định hướng của Đảng và Nhà nước, Công ty cũng coi nông sản là mặt hàng xuất khẩu chiến lược trong những năm tới và tích cực tìm kiếm những giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng này.
Nhận thức được điều đó, cộng với sự quan tâm,lòng mong muốn được đóng góp ý kiến vào sự nghiệp chung của Công ty, của đất nước, tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp như đã trình bày. Những kiến nghị này chỉ mang tính chất định hướng khoa học do còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn, bởi vậy tôi rất mong sẽ nhận được những góp ý, bổ sung từ phía thầy cô giáo và cán bộ trong Công ty.
64 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1857 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công ty XNK Tổng hợp I, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ra các biện pháp quản lý vốn, sử dụng vốn có hiệu quả. Ghi chép, trao đổi, giám sát sự luân chuyển của vốn, điều hoà vốn nội bộ Công ty, quan hệ với các bộ phận sản xuất.
- Phòng nghiệp vụ 1: Xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ.
- Phòng nghiệp vụ 2: Xuất nhập khẩu tổng hợp. .
- Phòng nghiệp vụ 3: Gia công hàng may xuất khẩu.
- Phòng nghiệp vụ 4: Lắp ráp xe máy.
- Phòng nghiệp vụ 5: Xuất khẩu các mặt hàng nông sản.
- Phòng nghiệp vụ 6: Xuất nhập khẩu tổng hợp.
- Phòng nghiệp vụ 7: Xuất khẩu quế.
- Phòng nghiệp vụ 8: Phòng giao nhận, kho vận, đầu tư và dịch vụ thương mại.
- Các cửa hàng: hai cửa hàng tại 46 Ngô Quyền và 28 Trần Hưng Đạo, chuyên giới thiệu sản phẩm, có bán lẻ các loại sản phẩm như may mặc, đồ điện tử, xe máy...
- Liên doanh 53 Quang Trung- Trung tâm giao dịch kinh doanh.
- Số 7 Triệu Việt Vương kinh doanh khách sạn.
- Các chi nhánh: có nhiệm vụ chung là nghiên cứu tìm nguồn hàng và bán hàng uỷ thác của Công ty.
+ Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh.
+ Chi nhánh Đà Nẵng.
+ Chi nhánh Hải Phòng.
- Bộ phận sản xuất:
+ Xí nghiệp may Đoan Xá Hải Phòng.
+ Xưởng lắp ráp xe máy tại Tương Mai.
+ Xưởng sản xuất và chế biến gỗ thuộc phòng 6 tại Cầu Diễn Hà Nội.
+ Xí nghiệp quế, chế biến quế tại Hà Nội.
+ Xí nghiệp chế biến hạt điều.
3. Tình hình cán bộ công nhân viên của Công ty.
Số cán bộ công nhân viên ban đầu của Công ty chỉ gồm 50 người đa số là các cán bộ từ các Công ty XNK bị giải thể chuyển sang. Số cán bộ có trình độ nghiệp vụ rất ít và chủ yếu mới chỉ làm công tác nhập hàng phục vụ cho xuất khẩu tại chỗ. Có thể nói, đội ngũ cán bộ này còn yếu kém, chưa có kinh nghiệm và còn bỡ ngỡ trong lĩnh vực uỷ thác. Hơn nữa, họlàm việc thiếu năng động, còn mang tư tưởng chờ đợi các văn bản chỉ thị, chờ giao việc, chờ các cơ sở tự tìm đến với mình. Chính vì vậy mà trong giai đoạn đầu Công ty gặp rất nhiều khó khăn.
Hiện nay, Công ty đang dần dần kiện toàn bộ máy lao động cho phù hợp với tình hình mới. Công ty luôn luôn quan tâm đến việc bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ cho toàn cán bộ, công nhân viên đồng thời giữ vững và ổn định cơ bản bộ máy tổ chức và nhân sự của từng đơn vị. Trong tổng số cán bộ thì khoảng 80% trình độ đại học. Số cán bộ công nhân viên của Công ty trong những năm gần đây có tăng nhưng với mức độ thấp, đó là sự quán triệt tinh thần gọn nhẹ và hiệu quả trong cơ cấu quản lý, tiết kiệm chi phí lấy hiệu quả kinh tế làm chỉ tiêu số một.
Bảng số 1: Số lượng cán bộ công nhân viên toàn Công ty những năm 1991-2001.
Chỉ tiêu phân bổ lao động
Số lượng
Tỷ lệ (%)
1.Tổng số lao động
616
100
2. Phân theo cơ cấu
- Tổng điều hành
04
0.79
- Chuyên viên quản trị
200
32.33
- Chuyên viên tác nghiệp
412
66.88
3. Phân theo trình độ đại học
- Đại học trên đại học
554
90
- Trung cấp và cao đẳng
62
10
- Phổ thông trung học
0
0
(Nguồn: Phòng hành chính tổng hợp)
4. Tình hình tài chính của Công ty.
Ngày thành lập, vốn ban đầuđược giao chỉ là 139.000 đồng. Nhà nước không cấp vốn vì theo quan niệm ấu trĩ trước đây, kinh doanh uỷ thác thì không cần đến vốn do đã có vốn hàng hoá của người uỷ thác. Đến nay Công ty đã có một số vốn rất lớn duy trì và phát huy tốt khả năng sản xuất kinh doanh, hoàn thành các chỉ tiêu được giao. Đồng thời thực hiện tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước, góp phần nâng cao đời sống công nhân viên trong toàn Công ty.
Bảng số 2: Một số chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của Công ty XNK Tổng hợp I.
Năm
Vốn cố định
Vốn lưu động
Vốn đầu tư XD cơ bản
Nộp ngân sách
Lợi nhuận để lại
TNBQ/người /năm
1991
5.437
8.213
1.567
6.852
1.549
0,54
1992
7.823
10.124
1.976
6.526
2.357
0,59
1993
10.646
13.600
2.204
7.785
3.530
0,61
1994
11.463
16.778
1.636
41.897
4.800
0,61
1995
13.129
22.866
2.109
40.645
4.918
0,76
1996
14.210
24.125
1.542
39.829
6.000
0,88
1997
14.692
30.623
1.786
42.970
7.258
0,93
1998
14.902
36.526
1.807
49.240
8.100
0,97
1999
15.000
46.731
1.840
53.819
8.200
0,95
2000
15.028
48.026
1.856
54.146
8.096
0.96
2001
15.104
48.241
1.848
54.427
8.120
0.98
(Nguồn: Phòng kế toán tài vụ)
Theo bảng số liệu trên ta thấy số vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản phân bổ đồng đều qua các năm và Công ty tiến hành đầu tư tuỳ theo tình hình từng thời kỳ.
Tốc độ tăng của vốn cố định ngày càng tăng chậm so với vốn lưu động chứng tỏ Công ty đang hết sức tranh thủ đồng vốn hiện có để tập trung nâng cao hiệu quả quay vòng vốn. Tuy nhiên không phải Công ty không chú ý đến những yếu tố dài hạn. Công ty cũng chú trọng tăng thêm vốn cố định trong từng năm để mở rộng sản xuất. Chính vì vậy Công ty ngày càng làm ăn phát đạt, thể hiện qua nguồn nộp ngân sách tăng thêm theo từng năm. Tuy vậy Công ty vẫn chú trọng tăng cường phần lợi nhuận để lại để phát triển sản xuất và trích sang các quỹ. Khoản lợi nhuận hàng năm được phân bổ hợp lý dành 45% nộp ngân sách nhà nước, còn lại 55% phân bổ cho ba quỹ trích sang quỹ phát triển sản xuất tối thiểu phải là 35% và còn lại là quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi. Thu nhập hàng tháng của mỗi cán bộ trong Công ty qua các năm đạt mức cao so với các cơ quan cùng ngành, đảm bảo đời sống ngày càng được cải thiện.
5. Sự vận hành và phát triển của Công ty.
Căn cứ vào những biến động của môi trường kinh doanh bên ngoài và của Công ty có thể tạm chia thành ba giai đoạn:
5.1. Giai đoạn I: (Từ tháng 12/1981 đến cuối năm 1984).
Bảng số 3: Kim ngạch XNK của Công ty XNK Tổng hợp I giai đoạn 1982 - 1984 .
Năm
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (nghìn USD)
Thực hiện
Hoàn thành kế hoạch (%)
1982
11.800.000
100
1983
12.674.000
103
1984
19.163.000
108
(Nguồn: Phòng hành chính tổng hợp).
Trong những năm này, Công ty luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch. Từ đó có thể thấy được sự cố gắng vượt bậc của Công ty trong giai đoạn đầu mới thành lập với những khó khăn của nền kinh tế.
5.2. Giai đoạn II (1985-1989)
Đây là giai đoạn mà hoạt động tài chính, ngân hàng phát triển chậm hơn, kinh doanh mang đặc tính quản lý bao cấp hơn là phục vụ. Tiền tệ biến động phức tạp do việc đổi tiền năm 1985, lạm phát liên tục tăng cao, chính sách thuế cũng đầy biến động, phát sinh nhiều sắc thuế mới như thuế xuất nhập khẩu, thuế vốn, thuế lợi tức (nay là thuế thu nhập doanh nghiệp), thuế doanh thu. Tỷ suất thuế đã cao lại càng hay điều chỉnh không phù hợp với chu kỳ hàng hoá.
Vượt qua khó khăn thử thách này, sau những năm mày mò và sơ bộ khẳng định được một số yếu tố cần phải tập trung xây dựng, kết hợp với những kinh nghiệm thực tế, Công ty đã tập trung sức lực của mình để phát triển.
Qua việc chấn chỉnh và nâng cao nhận thức, Công ty đã thu được những tiến bộ đáng kể bất chấp sự thay đổi theo hướng bất lợi của thời cuộc. Sau đây là chỉ tiêu về kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty.
Bảng 4: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty giai đoạn 1985 -1989.
Năm
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (nghìn USD)
Thực hiện (USD)
Hoàn thành kế hoạch(%)
1985
35.560
114
1986
46.813
116
1987
51.349
118
1988
49.257
115
1989
44.418
109
(Nguồn : Phòng hành chính tổng hợp).
5.3. Giai đoạn III (1990 -2001)
Trong giai đoạn này, nền kinh tế đất nước thực sự bước sang một trang mới. Có nhiều thay đổi trong việc quản lý vĩ mô nhà nước đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu như: số lượng Công ty xuất nhập khẩu tăng lên nhiều, nhiều đơn vị chuyên doanh đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp. Bên cạnh đó việc thu hẹp thị trường do khủng hoảng ở các nước xã hội chủ nghĩa, tính cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Tuy nhiên Công ty đã xác định được đúng hướng trong sản xuất kinh doanh, biết vận dụng linh hoạt phương thức kinh doanh. Nhạy bén trong tìm hiểu thị trường, tìm ra những mặt hàng mà thị trường đang có nhu cầu và phù hợp với khả năng kinh doanh của Công ty.
Bảng số 5: Kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty năm 1990 - 2001.
Năm
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (nghìn USD)
Thực hiện
So với kế hoạch (%)
1990
40.655
102
1991
37.000
100
1992
41.000
106
1993
47.177
114
1994
49.222
103
1995
56.611
113
1996
63.560
115
1997
78.432
135
1998
64.448,642
102,29
1999
70.420
104
2000
71.648
102,6
2001
77.810
101,5
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp Công ty XNK Tổng hợp I)
Tóm lại trong giai đoạn này tuy có nhiều biến động, nhiều khó khăn song Công ty đã bám sát thực tế thị trường, mạnh dạn tìm phương thức làm ăn mới. Biến từ nhận thức tới hành động cho nên tới nay Công ty không những trụ vững mà còn đang phát triển mạnh mẽ, giữ vững được uy tín với khách hàng và cơ quan cấp trên.
6. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây.
* Kết quả hoạt động kinh doanh.
Bảng 6: Cơ cấu xuất nhập khẩu của Công ty
Đơn vị: 1000 USD, %
Năm
Tỷ lệ XK/NK
Kim ngạch nhập khẩu
Kim ngạch xuất khẩu
Kim ngạch XNK
1997
42/58
45.845
32.587
78.432
1998
36/64
41.365
23.083
64.448
-9,7
-29,17
-17,83
1999
31/54
43.260
24.700
67.960
+4,58
+7,0
+5,45
2000
31/51
46.020
28.500
74.520
+6,38
+15,38
+9,65
2001
29/48
48.130
29.680
77.810
+4,58
+4,14
+4,42
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp Công ty XNK Tổng hợp I)
Năm 1997 hàng nhập khẩu bị Nhà nước hạn chế, hàng xuất khẩu bị giảm giá mạnh do khủng hoảng khu vực, nhưng do Công ty đã sớm nhận ra được khó khăn trước mắt nên từ cuối năm 1996 đã lên phương án chủ động xử lý tình hình, nhờ thế kết quả kinh doanh năm 1997 đạt hiệu quả khả quan. Năm 1998, mặc dù tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty vẫn hoàn thành mức kế hoạch mà Bộ đã đề ra nhưng kim ngạch xuất khẩu lại không đạt kế hoạch mà chỉ thực hiện được 74,46%. Sự giảm sút này chủ yếu do nguyên nhân khách quan, do Công ty nằm trong guồng máy chung của nền kinh tế xã hội cả nước bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á, cụ thể là:
- Thị trường tiêu thụ hàng xuất khẩu của Việt Nam bị thu hẹp, tạm thời dừng mua bán với một số thị trường như Philippine, Indonesia… Giá cả hàng hoá bị cạnh tranh gay gắt, đồng tiền Việt Nam tăng giá so với các đồng tiền khác (do Việt Nam ít chịu ảnh hưởng của khủng hoảng) dẫn đến giá hàng xuất khẩu của Việt Nam đắt hơn các nước khác.
- Thị trường trong nước sức mua bị giảm sút do khả năng thanh toán hạn hẹp do vậy nhiều mặt hàng tồn đọng lớn, tiêu thụ chậm ảnh hưởng kinh doanh hàng xuất khẩu.
Bước sang năm 1999, nền kinh tế nước ta thoát dần khỏi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nên nó cũng có tác động tích cực đối với sự phát triển của Công ty.
II. Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty.
1. Đặc điểm các mặt hàng nông sản của Công ty.
Các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Công ty rất đa dạng và phong phú. Lạc, quế, cà phê, gạo, cao su, hạt tiêu là những mặt hàng mà Công ty thường xuyên kinh doanh với khối lượng lớn, đều đặn qua các năm. Ngoài ra Công ty cũng kinh doanh những mặt hàng nông sản khác như chè, ngô, mây, cói, hạt điều… Tuy nhiên những mặt hàng này có kim ngạch nhỏ, không ổn định. Bản báo cáo này chủ yếu đề cập đến những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như đã nêu ở trên.
Giá cả các mặt hàng nông sản chịu ảnh hưởng bởi điều kiện khí hậu, thời tiết, nhu cầu trên thế giới và đặc biệt chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi chất lượng chế biến. Sản phẩm nông sản của Công ty chủ yếu là sản phẩm thô hoặc mới chỉ qua sơ chế, chính vì vậy mà giá cả hàng của Công ty thường thấp hơn giá các sản phẩm cùng loại của các nước trên thế giới được chế biến tốt hơn.
Việc chế biến, bảo quản nông sản gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp; một mặt yêu cầu có kỹ thuật chuyên ngành, có hiểu biết về tính chất lý hoá của sản phẩm; mặt khác đòi hỏi chi phí khá cao. Hơn nữa, công nghệ chế biến hàng nông sản ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Đó chính là những nguyên nhân dẫn đến chất lượng hàng nông sản của Công ty vẫn còn thấp.
2. Kim ngạch và cơ cấu.
Bảng 7: Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu nông sản của Công ty trong 5 năm vừa qua.
Năm
Mặt hàng
Kim ngạch xuất khẩu (USD)
1997
1998
1999
2000
2001
Lạc nhân
2.350.000
2.130.000
2.180.000
2.173.000
2.265.000
Hạt tiêu
1.230.000
1.430.000
1.470.000
1.461.000
1.481.000
Cao su
986.200
1.215.600
1.305.000
1.283.700
1.312.000
Cà phê
520.000
876.500
900.400
702.200
682.000
Quế
500.000
500.000
501.000
1.156.500
1.162.000
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Công ty XNK Tổng hợp I)
Qua bảng số liệu ta thấy lạc nhân vẫn luôn là mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao nhất so với các mặt hàng nông sản khác nhưng lại giảm dần qua các năm: năm 1997 đạt 2.350.000 USD, năm 2001 đạt 2.265.000 giảm 85 USD (hay 3,6%). Các mặt hàng hạt tiêu, cao su đều tăng trong năm 2001 so với năm 2000 là 1,3% và 2,2%. Mức tăng còn chậm nhưng cũng tiêu biểu cho hai mặt hàng này trong thời gian gần đây. Điều này phản ánh một thực tế là tuy Công ty vẫn giữ được sự ổn định nhóm những mặt hàng nông sản chủ lực nhưng thị trường của nhóm mặt hàng này trong những năm gần đây vẫn chưa được mở rộng.
Mặt hàng quế cũng tăng trong những năm vừa qua. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng quế có bước nhảy vọt tăng 232,4% so với năm 1997 tức là từ 500.000 USD đến 1162.000 USD. Đây có thể coi là một sự nỗ lực rất thành công trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu cho mặt hàng này.
Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản có kim ngạch giảmt mạnh trong mấy năm vừa qua. Năm 2000, giá trị cà phê xuất khẩu chỉ đạt 77,9% so với năm 1999. Năm 2001 giá trị xuất khẩu của mặt hàng này tiếp tục giảm chỉ đạt 682.000 USD so với 702.200 USD năm 2000. Đây là xu hướng chung của mọi doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam do cung mặt hàng này trong những năm gần đây tăng nhanh trong khi cầu lại giảm.
Có thể nhận định chung về tình hình xuất khẩu nông sản của Công ty trong những năm gần đây là tốt. Điều này thể hiện bằng lượng tăng đều đặn của tổng kim ngạch các mặt hàng. Năm 1999, 2000 kim ngạch xuất khẩu nói chung của Công ty giảm đi thì mặt hàng nông sản là một trong những số ít mặt hàng giữ được kim ngạch xuất khẩu và phát triển tốt.
Biểu 1: Tình hình xuất khẩu nông sản qua các năm 1999, 2000, 2001
Tuy vậy, năm 2002 Công ty sẽ có nhiều mục tiêu hơn để phấn đấu đối với mặt hàng nông sản. Trong khi thị trường khu vực đã phát triển trở lại, Công ty cần phải cố gắng trong việc tiếp cận các thị trường mới, khách hàng mới.
3. Thị trường xuất khẩu nông sản của Công ty.
Hàng nông sản của Công ty đã có mặt ở rất nhiều nước trên thế giới, tuy vậy các thị trường chính của Công ty gồm: Singapore, EU, Đài loan, ASEAN, Trung Quốc và Mỹ.
Thị trường Singapore thực chất là thị trường trung chuyển. Trong những năm vừa qua, hàng nông sản của Công ty được xuất sang Singapore với số lượng khá lớn bao gồm các mặt hàng chính là lạc nhân, cà phê, cao su, hạt điều. Trong năm 2000, 2001 vừa qua tỷ lệ thị phần đối với thị trường Singapore giảm xuống, do Công ty chủ động giảm xuất những mặt hàng sơ chế qua thị trường này. Năm 1999, Công ty đã thành lập thêm một cơ sở chế biến hạt điều nhằm tăng chất lượng hàng nông sản chế biến.
Thị trường EU của Công ty trong những năm gần đây cũng phát triển mạnh. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu sang thị trường này trong những năm gần đây là: Cà phê gạo, hạt điều, hạt tiêu và cao su. Những bạn hàng lớn của Công ty hiện nay là Anh, Đức, Pháp cho thấy sản phẩm của Công ty ngày càng được chấp nhận rộng rãi.
Thị trường ASEAN là thị trường rất quan trọng của Công ty. Đây là nơi tiêu thụ hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của Công ty. Tuy vậy qua 3 năm 1999, 2000, 2001 giá trị các mặt hàng nông sản xuất sang khu vực này tăng chậm, tỷ lệ trong tổng giá trị xuất khẩu nông sản hầu như không thay đổi, chiếm khoảng 22% giá trị xuất khẩu nông sản.
Các thị trường khác: Trong khi giá trị xuất khẩu sang thị trường đài Loan giảm từ 621.152 USD năm 2000 xuống còn 509.510 USD thì ngược lại thị trường Trung Quốc lại có dấu hiệu khả quan. Trong 3 năm trở lại đây,thị trường này phát triển không ngừng. Năm 2001 giá trị xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc tăng lên 405.629 USD so với 393.722 USD năm 2000 tức là tăng 3,02%. Cùngvới thị trường EU, thị trường Trung Quốc được xem là rất giàu tiềm năng. Trái lại thị trường Mỹ tỏ ra là thị trường không ổn định giá trị xuất khẩu biến động còn thất thườngqua 3 năm 1999, 2000, 2001.
Bảng 8: Thị trường xuất khẩu nông sản của Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I
Thị trường
Năm 1999
2000
2001
Giá trị (USD)
Tỷ lệ
(%)
Giá trị (USD)
Tỷ lệ
(%)
Giá trị (USD)
Tỷ lệ
(%)
Singapore
2.480.000
40,75
2.500.000
36,78
2.530.000
36,39
EU
1.520.000
25,00
1.520.000
22,37
1.636.400
23,54
Đài Loan
500.000
8,00
651.152
9,58
509.510
7,33
ASEAN
1.100.000
18,00
1.420.000
20,89
1.530.000
22,00
Trung Quốc
300.000
5,00
393.722
5,79
405.629
5,85
Mỹ
186.200
3,25
32.000
4,59
340.000
4,89
Tổng cộng
6.086.200
100%
6.796.874
100
6.951.529
100
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I)
III. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I.
1. Những kết quả đạt được.
Trong những năm qua, Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I đã có nhiều cố gắng trong lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản và đạt được những thành tích đáng mừng.
- Kim ngạch xuất khẩu nông sản luôn tăng qua từng năm. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản năm 2000 tăng 106,5% so với năm 1999, năm 2001 tăng 101,14% so với năm 2000 cho thấy sự nỗ lực về thị trường, nguồn hàng đã có kết quả, mặt khác, cũng do Công ty biết tranh thủ mọi nguồn lực trong và ngoài nước, các tổ chức có liên quan.
- Công tác nghiên cứu thị trường: đã được chú trọng nhiều hơn so với trước đây. Thị trường truyền thống ASEAN tiếp tục được củng cố và phát triển, chiếm tỷ trọng xuất khẩu khá ổn định vào khoảng 22% so với tổng giá trị xuất khẩu nông sản. Thị trường Trung quốc được phát hiện là rất giàu tiềm năng. Bên cạnh đó, Công ty cũng đã bước đầu mạnh dạn thâm nhập vào thị trường Mỹ. Ngoài ra, Công ty ngày càng bám sát hơn nhu cầu của thị trường. Từ nắm vững được nhu cầu của khách hàng Công ty đã chủ động hơn trong việc khai thác, tìm kiếm nguồn hàng đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao về chất lượng các mặt hàng nông sản.
- Quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng: được Công ty thực hiện với tiến độ nhanh chóng, đảm bảo những điều kiện đã giao kết trong hợp đồng, góp phần củng cố uy tín của Công ty.
- Trong quá trình xuất khẩu hàng nông sản, Công ty luôn tuân thủ những quy định của nhà nước, chấp hành nghiêm chỉnh các thủ tục xuất nhập khẩu và luôn hoàn thành các nghĩa vụ về thuế đối với Nhà nước.
- Việc tăng khối lượng và giá trị xuất khẩu nông sản đã đónggóp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu của Công ty trong những năm qua. Trong năm 2001, giá trị xuất khẩu hàng nông sản đạt 8.244.500 chiếm trên 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Mặt khác việc tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản cũng đóng góp chung vào việc thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam nói chung.
2. Những mặt còn tồn tại và nguyên nhân.
Bên cạnh những thành tích đã đạt được kể trên, Công ty hiện nay vẫn đang phải đối mặt với những thách thức không dễ vượt qua.
- Về công tác nghiên cứu thị trường: trong những năm gần đây Công ty đã chú trọng nhiều hơn đến vấn đề nghiên cứu thị trường. Nhưng hiện nay Công ty vẫn chưa có phòng Marketing chuyên trách và đề xuất các phương án Marketing; mỗi phòng nghiệp vụ phải tự nghiên cứu tìm kiếm thị trường cho mình nên hiệu quả chưa cao.
- Về cơ cấu tổ chức cán bộ: các phòng nghiệp vụ chưa có sự phân công chuyên môn hoá sâu sắc. Phòng nghiệp vụ 1,5 và 7 đều kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp dẫn đến việc cùng một mặt hàng, cùng một thị trường mà các phòng đều tham gia thực hiện, không có sự chỉ đạo thống nhấ, gây cạnh tranh trong nội bộ do đó hiệu quả kinh doanh chưa cao.
- Về vấn đề nhân lực: Tuy Công ty có thế mạnh về truyền thống và kinh nghiệm nhưng trước những yêu cầu mới còn bất cập về ngoại ngữ, tin học. Việc cập nhập thông tin, dữ liệu do vậy còn chưa được tối ưu.
- Trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản, Công ty cũng đang phải đối mặt với vấn đề cạnh tranh ngày càng gay gắt. Nghị định 57/CP đã mở rộng tối đa quyền trực tiếp xuất khẩu cho mọi doang nghiệp làm cho số lượng hàng hoá uỷ thác xuất khẩu qua Công ty giảm nhiều trong ba năm 1999, 2000, 2001 vừa qua. Bên cạnh đó ngày càng có nhiều doanh nghiệp xuất khẩu nông sản với quy mô nhỏ, cơ cấu tổ chức linh hoạt ứng biến nhanh nhạy với các biến động của thị trường, trở thành mối đe doạ đối với hoạt động kinh doanh của Công ty. Việc tranh mua, tranh bán, làm giá hàng xuất khẩu trong nước giảm trong khi đòi hỏi về chất lượng lại ngày một cao. Giá một số mặt hàng nông sản xuất khẩu của Công ty như cà phê lạc nhân giảm đi rõ rệt: năm 2000, giá cà phê xuất khẩu của Công ty giảm xuống còn 490 USD/tấn so với năm 1999 là 520 USD/tấn.
Chương III
Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I
I. Phương hướng xuất khẩu nông sản của Công ty trong những năm tiếp theo.
1. Định hướng xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong thời gian tới.
Với tiềm năng to lớn về đất đai, khí hậu thuận lợi, nguồn nhân lực dồi dào, triển vọng sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam trong những năm tới rất sáng sủa. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để khai thác tiềm năng đó một cách tốt nhất để vừa giải quyết nhu cầu lương thực trong nước vừa tăng khối lượng kim ngạch xuất khẩu nông sản tạo thêm tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân. Đảng và nhà nước ta coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, dành ưu đãi đầu tư trong và ngoài nước cho lĩnh vực sản xuất nông sản, nhất là nông sản xuất khẩu. Tại đại hội đảng toàn quốc khoá IX, một lần nữa Đảng ta lại nhấn mạnh tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu nông sản:
- Nhà nước có chủ trương khuyến khích xuất khẩu hàng nông sản có hàm lượng tinh lớn hay nói cách khác chuyển hàng hoá dạng nguyên liệu thô sang hàng hoá có chế biến với hàm lượng lao động kỹ thuật cao, có giá trị lớn, đạt tiêu chuẩn quốc tế.
- Đối với thị trường xuất khẩu hàng nông sản, chủ trương lấy thị trường EU, ASEAN, Trung quốc, ấn Độ, Mỹ, Braxin, Mêhicô,Nhật Bản, Singapore làm thị trường xuất khẩu chính. Tiến hành hợp tác liên doanh với các Công ty nước ngoài cùng sản xuất, chế biến hàng nông sản để hànghoá có chất lượng cao, mẫu mã phong phú. Từ đó các Công ty học hỏi thêm được kinh nghiệm kinh doanh, tiếp thu được công nghệ tiến tiến.
- Nhà nước phối hợp với các doanh nghiệp tham gia vào việc tìm kiếm thị trường nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu, đồng thời Nhà nước cũng khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào sản xuất chế biến nông sản. Các doanh nghiệp này phát triển sẽ thu hút được nhiều lao động, góp phần cùng Nhà nước giải quyết nạn thất nghiệp.
Từ những định hướng trên, mục tiêu của Nhà nước đặt ra là: tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản lên 4,7 tỷ USD vào năm 2002 và phấn đấu đạt 8,5 tỷ USD vào năm 2010. Bình quân kim ngạch xuất khẩu nông sản cho một nhân khẩu nông nghiệp tăng lên từ 41 USD (1996) lên 62 USD vào năm 2000 và 101 USD vào năm 2010.
2. Phương hướng xuất khẩu nông sản của Công ty trong những năm tiếp theo.
- Tiếp tục đầu tư sức lực và chi phí hợp lý để củng cố và mở rộng thị trường. đặc biệt quan tâm hơn nữa đến thị trường EU, Mỹ và Trung Quốc. Tranh thủ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, Bộ thương mại để tìm kiếm thị trường và bạn hàng. Tăng cường bám thị trường nội địa, phát huy thế mạnh về vốn, kinh nghiệm để duy trì nguồn hàng cũ, tạo lập nguồn hàng mới.
- Tiếp tục áp dụng các phương thức kinh doanh linh hoạt trong xuất khẩu nông sản để có thêm hợp đồng xuất khẩu. Chú trọng hình thức tự doanh nhằm nâng cao hơn nữa tính chủ động của Công ty.
- Duy trì sự phát triển ổn định của nhóm hàng, mặt hàng xuất khẩu truyền thống như lạc, hạt tiêu, cà phê… đẩy mạnh những mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận khá như cói, mây, tre đan…
- Chú trọng hơn nữa khâu chế biến hàng nông sản. Tiếp tục củng cố bộ máy tổ chức và cán bộ cho Xí nghiệp quế,xí nghiệp chế biến hạt điều để các cơ sở này hoạt động vào nề nếp, tăng hiệu quả. Tìm đối tác hợp tác sản xuất, trợ giúp về kỹ thuật công nghệ để nâng cao công suất hoạt động của các xí nghiệp này.
II. Các giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty.
1. Phát triển và mở rộng thị trường.
1.1. Nghiên cứu lựa chọn thị trường.
Việc xuất khẩu nông sản của Công ty sang các thị trường nước ngoài còn tràn lan, thụ động thiếu kiểm soát. Trong thời gian tới Công ty cần đầu tư hơn nữa vào nghiên cứu để lựa chọn ra thị trường mục tiêu. Từ đó có chiến lược xuất khẩu phù hợp, đem lại hiệu quả cao.
Mặc dù Singapore chỉ là thị trường trung chuyển nhưng trong những năm trước, kim ngạch xuất khẩu nông sản sang thị trường này vẫn tăng đều. Thị trường tiêu thụ cuối cùng thực sự chính là EU và Mỹ. Vậy nên, Công ty cần mạnh dạn nghiên cứu để tiếp cận trực tiếp các thị trường này. Công ty có thể thu thập thông tin về thị trường thông qua các cơ quan xúc tiến thương mại của Việt Nam tại nước sở tại hoặc tham gia hội chợ triển lãm để có điều kiện tiếp xúc với các thương nhân nước ngoài, tìm kiếm bạn hàng, đối tác làm ăn. Đặc biệt, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ vừa được thông qua ngày 4/10/2001 là một cơ hội rất lớn để Công ty thâm nhập vào thị trường Mỹ.
Cho đến 3 tháng đầu năm 2002, kim ngạch xuất khẩu lạc nhân của Công ty luôn tăng mạnh và chiếm một tỷ trọng khá cố định (khoảng 30%) trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản. Do vậy có thể coi đây là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Công ty. Thị trường của mặt hàng này tập trung phần lớn ở các nước Đông Nam á, đặc biệt là các nước hồi giáo vốn có nhu cầu lạc rất lớn. Từ nhận định này, Công ty cần tập trung nguồn lực để duy trì, củng cố các thị trường như Jakarta, Malina, Portkelang của Indonesia, Malaysia và Philippine. Ngoài ra, Công ty nên có kế hoạch nghiên cứu, tìm hiểu thêm thị trường các nước hồi giáo khác như ấn Độ, các nước Trung Đông.
1.2. Sử dụng các chính sách Marketing thích hợp.
Sau khi lựa chọn được các thị trường trọng điểm, Công ty cần phải chú ý đến các hoạt động marketing để lôi kéo khách hàng từ thị trường đó. Việc sử dụng các công cụ marketing (giá cả, sản phẩm, phân phối, xúc tiến) phải thích hợp với đặc điểm của mỗi thị trường để đạt hiệu quả cao nếu không sẽ là hoạt động “ném tiền qua cửa sổ”.
Trong xuất khẩu nông sản nhân tố chất lượng phải được đặt lên hàng đầu. Để có chất lượng sản phẩm cao đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, Công ty không chỉ cần nâng cao hiệu quả của công tác giám định chất lượng hàng hoá mà cần phải trực tiếp đầu tư vào một số lĩnhvực chế biến hàng nông sản. Mặt khác về vấn đề thực dụng trong marketing, chất lượng hàng hoá sẽ phụ thuộc vào yêu cầu chất lượng của thị trường đó. Sự đòi hỏi về chất lượng hàng hoá ở mỗi thị trường là khác nhau. Chẳng hạn đối với thị trường EU, Nhật Bản, Mỹ thì yêu cầu về chất lượng hàng hoá là rất cao. Ngược lại, đối với các thị trường Châu Phi thì yếu tố đáng quan tâm hơn cả là giá cả.
Giá cũng là một nhân tố rất quan trọng trong marketing xuất khẩu. Giá là một công cụ để Công ty thực hiện lợi nhuận nhưng cũng là công cụ để lôi kéo khách hàng. Mức giá hợp lý là mức giá thu hút được nhiều khách hàng trong khi vẫn đảm bảo lợi nhuận dự kiến. Trong khi đặt giá, Công ty cần phải tính đến sự phù hợp giữa giá cả và chất lượng, vừa hấp dẫn, vừa tạo được niềm tin từ phía khách hàng. Công ty nên áp dụng chính sách giá mềm dẻo, linh hoạt để thu hút được nhiều đối tượng khách hàng khác nhau, ưu đãi về giá cho những đối tượng khách hàng mua với khối lượng lớn và những khách hàng truyền thống.
Các biện pháp xúc tiến và khuyếch trương cũng rất quan trọng để bán được hàng xuất khẩu. Công ty nên áp dụng các biện pháp: quảng cáo trên mạng internet, tham gia hội chợ hàng tiêu dùng quốc tế, gửi các đơn chào hàng đến các nhà nhập khẩu nước ngoài… tạo mọi cơ hội để giới thiệu, khuyếch trương uy tín sản phẩm của mình.
1.3. Các thị trường mà Công ty cần tập trung trong những năm tới.
Mặc dù hiện nay, Công ty đã có quan hệ với các bạn hàng ở hầu hết các khu vực trên thế giới. Tuy nhiên để có một hướng xuất khẩu nông sản vững chắc Công ty cần tập trung một số thị trường sau:
- Thị trường ASEAN: Là thị trường rất quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản của Công ty nói riêng. Khi thâm nhập vào thị trường này ta sẽ khai thác được ưu thế về giá nhân công, vị trí địa lý, kể cả việc gần trung tâm chu chuyển hàng hoá lơn nhất thế giới Singapore và đặc biệt được hưởng những ưu đãi thuế quan trong thời gian tới. Tuy vậy, để tham gia vào thị trường này Công ty phải chấp nhận cạnh tranh tăng lên trong thời gian tới vì có rất nhiều nước Châu á cũng tham gia xuất khẩu hàng nông sản và thậm chí có một số nước như Thái Lan,Trung Quốc có công nghệ chế biến nông sản tiên tiến hơn chúng ta rất nhiều.
- Thị trường Trung Quốc: Với tiềm năng kinh tế lớn, GDP của Trung Quốc hiện đứng hàng thứ 6 trên thế giới và lại là thị trường rộng lớn trên 1 tỷ dân. Trong hai năm qua, kim ngạch buôn bán nông sản của Công ty với Trung Quốc không ngừng tăng lên cho thấy đây là thị trường có nhiều triển vọng... Tuy vậy, việc buôn bán với Trung Quốc cũng gặp rất nhiều khó khăn mà Công ty phải chấp nhận như: giá cả thị trường biến động thất thường, phương thức giao dịch và thực hiện hợp đồng rất đa dạng, uy tín của bạn hàng chưa được đảm bảo…
- Thị trường EU: đặc điểm của thị trường này là yêu cầu về chất lượng rất cao nhưng giá bán hàng nông sản cũng cao hơn so với các thị trường khác. Để xuất khẩu hàng nông sản sang thị trường này, Công ty cần phẩi đầu tư hơn nữa vào khâu chế biến và khai thác nguồn hàng nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.
2. Hoàn thiện công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu.
Công tác tạo nguồn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động xuất khẩu. Nguồn hàng tốt đáp ứng kịp thời và chính xác nhu cầu thị trường, giúp thực hiện đúng thời hạn hợp đồng với chất lượng cao sẽ là nhân tố quyết định đem lại thành công trong thương vụ và nâng cao uy tín của Công ty. Để có nguồn hàng tốt, Công ty cần phải thực hiện tốt các nhiệm vụ: mở rộng các hình thức tạo nguồn, nâng cao chất lượng sản phẩm và thực hiện tốt khâu bảo quản dự trữ.
2.1. Mở rộng hình thức tạo nguồn.
Các hình thức tạo nguồn hiện nay ở Công ty còn nhiều hạn chế. Hình thức chủ yếu Công ty sử dụng là mua từ các đầu mối khác nhau ở các địa phương hoặc thu mua tập trung qua các trung gian. Hình thức này có ưu điểm là nhanh gọn, không phải đầu tư trong thời gian dài, Công ty lại có thể nhanh chóng chuyển đổi mặt hàng kinh doanh. Tuy nhiên, nhược điểm của hình thức này là không chủ động được chất lượng, chi phí… Công ty cần phải đa dạng hơn nữa các hình thức thu mua, cụ thể:
- Tổ chức tốt mạng lưới thu mau hàng nông sản, giảm bớt hình thức thu mua qua trung gian vừa làm tăng giá, vừa khó kiểm soát về chất lượng.
- Tăng đầu mối thu mua ở ngay tại vùng nguyên liệu hoặc trực tiếp đặt hàng tại các cơ sở chế biến nông sản để chủ động hơn về chất lượng, giảm chi phí, chủ động về thời gian nhập hàng.
- Mở rộng phạm vi thu mua nguyên liệu, thiết lập thêm các đại lý thu mua ở miền Trung và miền nam.
- Xây dựng thêm các xí nghiệp chế biến nông sản để tăng chất lượng, giảm giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó, Công ty cũng có thể sử dụng các hình thức liên doanh, liên kết với cácđơn vị sản xuất và chế biến.
2.2. Đẩy mạnh chế biến, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là yếu tố cạnh tranh quan trọng trong kinh doanh xuất khẩu. Chất lượng nông sản pơhụ thuộc rất nhiều vào khả năng chế biến hay nói đúng hơn là công nghệ chế biến. Trong những năm trước, Công ty thường phải mua hàng nông sản dạng nguyên liệu rồi thuê chế biến, việc này nảy sinh những vấn đề sau:
- Chất lượng hàng hoá không đều, không ổn định. Đây là điều rất dễ xảy ra khi thuê nhiều đơn vị chế biến mà mỗi đơn vị lại có công nghệ chế biến khác nhau. Điều này gây bất lợi, dễ làm mất uy tín của Công ty với các đối tác nước ngoài.
- Chi phí chế biến cao làm cho giá thành sản phẩm tăng lợi nhuận giảm. Mặt khác nếu tăng giá bán sản phẩm, Công ty sẽ mất khách hàng.
Chính vì vậy, việc xây dựng thêm các cơ sở chế biến là rất cần thiết. Hiện nay Công ty đã có một số xí nghiệp chế biến hoạt động rất hiệu quả như xí nghiệp quế, xí nghiệp chế biến hạt điều… càng cho thấy hướng đi trên là đúng đắn.
Đồng thời với việc đẩy mạnh chế biến, công tác giám định chất lượng đối với nguồn hàng xuất khẩu cần được thực hiện một cách nghiêm ngặt bởi đó là công việc quyết định đến chất lượng hàng hoá.
2.3. Thực hiện tốt công tác dự trữ và bảo quản hàng hoá.
Để có hàng hoá tốt phục vụ cho xuất khẩu thì không thể không thực hiện tốt công tác dự trữ và bảo quản hàng hoá. Sau khi đưa hàng hoá về đến kho trạm, các tổ kho phải thực hiện tốt các công tác phân loại, bao gói, xếp hàng hoá vào kho và hàng loạt các nghiệp vụ dự trữ và bảo quản khác để giữ gìn chất lượng, số lượng hàng hoá và luôn sẵn sàng xuất hàng một cách nhanh chóng thuận tiện. Trong dự trữ bảo quản hàng hoá các yêu cầu kỹ thuật của kho chứa hàng rất quan trọng, nhất là đối với hàng nông sản rất dễ bị ẩm mốc mục…
Hiện nay ở Công ty có một số kho không đủ yêu cầu cho việc dự trữ hàng nông sản: mái dột, nền ẩm, hệ thống thoát khí không đạt yêu cầu do đó Công ty cần có kế hoạch nâng cấp những kho hàng này bằng cách sửa lại mái, thay đổi, lắp đặt mới hệ thống máy điều hoà nhiệt độ, máy hút ẩm. Bên cạnh đó Bên cạnh đó, Công ty nên yêu cầu các nhan viên của kho phải thường xuyên kiểm tra hàng hoá, kiểm tra các điều kiện về nhiệt độ, độ ẩm phù hợp với đặc tính bảo quản của từng loại hàng hoá.
3. Các giải pháp nâng cao cạnh tranh.
Trong hoạt động xuất khẩu nông sản, vấn đề cạnh tranh là không thể tránh khỏi. Vấn đề đặt ra hiện nay là Công ty cần sử dụng những biện pháp nào để tăng sức cạnh tranh hàng hoá của mình và giảm rủi ro trong kinh doanh.
Như đã nóỉ trên, giá cả và chất lượng hàng hoá là công cụ chính để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá của Công ty. Tuy nhiên bên cạnh các nhân tố trên việc đa dạng hoá phương thức kinh doanh cũng là biện pháp rất quan trọng khác để tăng khả năng xuất khẩu hàng nông sản của Công ty. Đa dạng hoá hình thức kinh doanh bao gồm: đa dạng hoá hơn nữa các hình thức xuất khẩu, đa dạng hoá các mặt hàng nông sản xuất khẩu và đa phương hoá mối quan hệ kinh doanh. Với tình hình hiện nay Công ty nên chú trọng vào việc đa dạng hoá các mặt hàng. Bên cạnh các mặt hàng nông sản truyền thống như gạo lạc, cao xu, hạt tiêu… Công ty có thể xúc tiến xuất khẩu một số mặt hàng khác như chè, ngô, vừng, mây, cói, tơ tằm… là các mặt hàng nông sản khá phổ biến và có chất lượng tương đối cao.
4. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức.
4.1. Hạch toán nghiệp vụ riêng đối với hàng nông sản.
Đối với một doanh nghiệp lớn như Công ty XNK Tổng hợp I việc tổ chức hạch toán độc lập các nhóm hàng có giá trị lớn là rất cần thiết. Việc hạch toán độc lập giúp cho Công ty nắm rõ hơn tình hình kinh doanh của từng nhóm hàng và có thể đề ra các biện pháp ứng phó với từng nhóm hàng khác nhau để tăng hiệu quả kinh doanh.
Đối với nhóm hàng nông sản xuất khẩu hiện nay, công tác nghiệp vụ xuất khẩu được giao cho 4 phòng khác nhau đó là phòng nghiệp vụ 1,5, 6, 7. Trong đó phòng 5 và 7 là phòng nghiệp vụ tổng hợp do đó việc hạch toán nông sản sẽ chung cho một số mặt hàng khác. Điều này sẽ gây khó khăn hơn trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh hàng nông sản.
Công ty có thể kết hợp bộ phận phụ trách hoạt động xuất khẩu nông sản ở phòng 5 và 7 thành một phòng nghiệp vụ chuyên xuất khẩu nông sản như phòng 1 và phòng 6. Công ty nên lập sổ riêng theo dõi tình hình xuất khẩu nông sản ở cácphòng nghiệp vụ và tổng hợp lại để đánh giá tình hình xuất khẩu nông sản chính xác hơn.
4.2. Thành lập phòng Marketing.
Hiện nay mọi công tác liên quan đến thị trường của Công ty đều do các phòng nghiệp vụ của Công ty đảm nhận. Do vậy việc nghiên cứu thị trường cũng như cách thức tiếpcận thị trường còn nhiều hạn chế. Để có sự thống nhất hơn trong việc nghiên cứu và đưa ra các chính sách về thị trường, Công ty cần cho ra đời một phòng marketing với chức năng chuyên biệt.
Chức năng của phòng marketing:
+ Chỉ ra các nhu cầu và xu hướng, cách thức thoả mãn nhu cầu củathị trường.
+ Phân đoạn và lựa chọn thị trường.
+ Đề xuất các chính sách vềthị trườgn, giá cả, chất lượng sản phẩm, phân phối,… để xâm nhập và khai thác thị trường.
+ Phối hợp với các phòng nghiệp vụ để thực hiện các hoạt động kinh doanh và hoạt động xuất nhập khẩu.
+ Thu nhận và phân tích các thông tin phản hồi từ bạn hàng, đối tác kinh doanh.
Phòng marketing
Marketing nhập khẩu
Marketing xuất khẩu
Thị trường ngoài nước
Nguồn hàng trong nước
Thị trường ngoài nước
Nhu cầu trong nước
Tổ chức phòng marketing.
4.3. Nâng cao trình độ chuyên môn cho CBCNV
Đây là một trong những nguồn lực cơ bản của mỗi quốc gia. Với Công ty XNK Tổng hợp I, một trong những nhiệm vụ hàng đầu là phải xây dựng được 1 đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm về ngoại ngữ nhất là trong điều kiện môi trường kinh doanh quốc tế hiện nay đầy biến động, thông tin thay đổi từng giờ. Mỗi một cán bộ kinh doanh phải năng động sáng tạo, thường xuyên được bồi dưỡng về trình độ để có thể dự báo được những biến động thị trường, nắm bắt thông tin và kịp thời có những cách ứng phó linh hoạt trước những biến động đó.
Các biện pháp mà Công ty có thể thực hiện được:
- Đào tạo chuyên môn cho đội ngũ cán bộ mới vào nghề, giúp họ nâng cao được trình độ nghiệp vụ xuất khẩu.
- Thưỡng xuyên gửi cán bộ, các nhà doanh nghiệp trẻ có năng lực đi học tập nghiên cứu ở các lớp đào tạo cán bộ kinh doanh trong và ngoài nước.
- Đào tạo đội ngũ kỹ thuật viên có đủ năng lực kiểm tra, giám định hàng hoá, đảm bảo chất lượng theo đúng yêu cầu tiêu chuẩn quốc tế.
5. Xây dựng chiến lược thích hợp cho xuất khẩu nông sản trong thời gian tới.
Chiến lược kinh doanh xuất khẩu được hiểu như là một hệ thống các mục tiêu giải pháp nhằm thực hiện cácmục tiêu của nhà xuất khẩu. Chiến lược được xây dựng trên cơ sở đánh giá chính xác mối quan hệ giữa hai nhân tố doanh nghiệp và thị trường.
Về phía doanh nghiệp, người xuất khẩu sẽ phải trả lời được các câu hỏi: Chúng ta đang ở đâu? chúng ta muốn gì? và chúng ta có thể làm gì.
Về phía thị trường, doanh nghiệp cần trả lời các câu hỏi: Đâu là thị trường hiện tại của doanh nghiệp? Đâu sẽ là thị trường của doanh nghiệp? Các thị trường này sẽ biến đổi như thế nào?
Như vậy một chiến lược kinh doanh phù hợp sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp nắm bắt được những cơ hội và hạ chế tối đa những rủi ro trong kinh doanh.
5.1. Các mục tiêu của Công ty.
Việc xác định các mục tiêu của doanh nghiệp bao giờ cũng rất khó khăn bởi vì các mục tiêu chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Chẳng hạn sự mâu thuẫn giữa mục tiêu lợi nhuận và mục tiêu mở rộng thị trường cũng như việc đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm. Đối với Công ty XNK Tổng hợp I cũng vậy, việc duy trì mức lợi nhuận qua các năm bị đánh đổi bằng sự bỏ lỡ các cơ hội đầu tư vào lĩnh vực chế biến hàng nông sản hay mục tiêu thị phần. Do vậy trong những năm tới việc thay đổi cách nhìn về mục tiêu chiến lược là rất quan trọng đối với lãnh đạo Công ty. Trong những năm tới Công ty cần tập trung vào những mục tiêu cốt lõi sau:
- Nâng cao thị phần của Công ty trên thị trường quốc tế.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm nhờ tăng cường đầu tư vào lĩnh vực chế biến.
5.2. Những giải pháp chiến lược cụ thể.
Trước hết đối với việc nâng cao thị phần hàng nông sản, Công ty cần chủ động mở rộng mối quan hệ kinh doanh. Việc nghiên cứu tìm kiếm thị trường mới cũng là một hướng đi quan trọng. Đối với hàng nông sản, các thị trường EU, Mỹ có khả năng tiêu thụ rất lớn, việc tăng cường chi phí cho công tác Marketing để tìm các đối tác xuất khẩu trực tiếp trên thị trường này sẽ đem lại lợi ích lâu dài. Bên cạnh đó, Công ty cũng cần có các biện pháp thâm nhập các thị trường khác như: mở rộng danh mục hàng xuất khẩu, đa dạng hoá các hình thức kinh doanh, các chính sách ưu đãi về giá cả thanh toán…
Thứ hai, để đầu tư vào lĩnh vực chế biến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, Công ty cần nỗ lực hơn nữa trong việc huy động vốn, phát triển các hình thức liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài, các nhà máy trong nước. Về lâu dài cạnh tranh chất lượng sẽ là nhân tố quyết định sự thắng bại trong kinh doanh xuất khẩu. Do vậy cho dù phải hy sinh một phần lợi nhuận để đạt được mục tiêu chất lượng cũng là điều thích đáng.
6. Nâng cao nghiệp vụ ký kết hợp đồng.
Trong hoạt động xuất khẩu nông sản, thận trọng trong việc lựa chọn đối tác để ký kết hợp đồng là rất cần thiết. Đã có rất nhiều bài học xương máu do đánh giá không xác đáng về đối tác dẫn đến thất bại trong đàm phán ký kết hợp đồng. Trong một số trường hợp khác, việc ký kết những thương vụ thất thường mà đối tác chỉ mua hàng lần đầu với giá cao sau đó lại ép giá hoặc thôi không mua nữa… sẽ làm xáo trộn kế hoạch kinh doanh của Công ty, gây nhiều thiệt hại. Do vậy để nâng cao hiệu quả công tác ký kết và thực hiện hợp đồng, Công ty cần phải chú ý:
- Tìm hiểu kỹ các đối tác nhập khẩu: Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của đối tác; khả năng thanh toán ngắn hạn và dài hạn, uy tín của đối tác, điểm mạnh và điểm yếu của họ…
- Tìm hiểu mong muốn của đối tác: ý định mua ngắn hạn hay lâu dài, khả năng lấn lướt hay nhượng bộ của họ trong thương vụ này.
- Chuẩn bị tốt cho đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng. Trong đàm phán phải lựa chọn những người có kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc về nghiệp vụ, về tình hình thị trường để giành kết quả đàm phán có lợi cho Công ty.
- Công ty phải thực hiện mọi nghĩa vụ hợp đồng đã ký. Việc tổ chức thực hiện tốt hợp đồng sẽ mang lại uy tín cho Công ty, làm tiền đề cho những thương vụ sau, do vậy cần hết sức chú trọng công tác này.
IV. Một số kiến nghị với Nhà nước.
Thực tế những năm qua cho thấy hoạt động xuất khẩu nông sản có những đóng góp to lớn cho xuất khẩu Việt Nam nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung. Vì vậy việc tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu nông sản ở Việt Nam sẽ là hướng đi đúng đắn trong những năm tới. Để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản thì vai trò của Nhà nước rất quan trọng. Với mong muốn góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản ở Công ty XNK Tổng hợp I nói riêng và Việt Nam nói chung, em xin được mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với Nhà nước.
1. Quy hoạch các vùng sản xuất và chế biến nông sản.
Để có thể nâng cao hơn nữa chất lượng hàng nông sản,việc quy hoạch các vùng sản xuất và chế biến nslà rất càn thiết.Quy hoạch vùng sản xuất cho phép ta có thể áp dụng các kỹ thuậtđối với cây trồng một cách hợplý, đồng bộ. Hơn nữa, nhờ có quy hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng cho các cơ sở sản xuất nông sản sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Cũng căn cứ vào quy hoạch, Nhà nước có thể kế hoạch hoá được các hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản.
Nhà nước cũng cần xây dựng các nhà máy chế biến ở trong hay gần vùng sản xuất nông sản. Các nhà máy chế biến này có nhiệm vụ ký kết hựop đồng thu mua nông sản đối với các hộ nông dân, với cam kết về số lượng, chất lượng, thời gian nhằm định hướng cho người nông dân sản xuất.
Với việc quy hoạch vùng sản xuất, chế biến nông sản, các hoạt động sản xuất, thu mua, vận chuyển, bảo quản chế biến... được diễn ra một cách tập trung, đồng bộ từ đó làm giảm chi phí, giảm giá thành hàng nông sản xuất khẩu làm tăng lợi nhuận, tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
2. Trợ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản.
2.1. Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường.
Hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản ở Việt Nam đều gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là không đủ kinh phí cho hoạt động nghiên cứu thị trường một cách thoả đáng. Hơn nữa thị trường nông sản thế giới biến động rất thất thường và mang tính thời vụ nên đòi hỏi về thông tin thị trường phải rất nhanh và chính xác, trong khi việc tiếp nhận các thông tin này ở các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn rất chậm. Do vậy, trong thời gian tới Nhà nước cũng như các Bộ có liên quan phải đặc biệt chú ý đến công tác nghiên cứu, khảo sát thị trường để kịp thời nắm bắt nhu cầu hàng nông sản trên thị trường thế giới, thông tin về giá cả kịp thời cho các doanh nghiệp để tránh tình trạng bị ép giá, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội thăm dò tìm kiếm thị trường.
Phân đoạn thị trường theo khu vực cho một số đầu mối xuất khẩu nông sản lớn. Biện pháp này tạo điều kiện chuyên sâu về thị trường cho các doanh nghiệp, đồng thời tránh sự cạnh tranh của chính các doanh nghiệp trong nước làm thiệt hại đến lợi ích quốc gia. Nhà nước cũng nên thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại ở các vùng để cung cấp các thông tin kinh tế phục vụ cho hoạt động nghiên cứu thị trường cho các Công ty.
2.2. Hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp.
Tạo điều kiện về vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản: Nông sản là mặt hàng mà việc sản xuất, thu mua mang tính thời vụ đậm nét với chu kỳ sản xuất tương đối dài, trong khi đó hoạt động sản xuất lại diễn ra suốt năm và được giá cao ở các kỳ giáp vụ. Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải có lượng vốn đủ lớn, đủ sức thu mua trong vụ thu hoạch và dự trữ xuất khẩu cho cả năm.
Mặt khác, tại các Ngân hàng còn diễn ra tình trạng ứ đọng vốn nhưng các doanh nghiệp rất khó tiếp cận được với nguồn vốn này vì khó đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe về tài sản thế chấp, thủ tục vay vốn… Thời gian tới Nhà nước cần phải đưa ra những biện pháp khuyến khích ngân hàng cho các doanh nghiệp vay vốn thu mua nông sản. Nhà nước nên bỏ qua quy định hạn chế mức tín dụng đối với ngân hàng thương mại nhằm khuyến khích xuất khẩu. Trong trường hợp giá hàng nông sản trên thị trường thế giới có xu hướng thấp hay giá trị thu mua nông sản trong nước tăng gây thua lỗ cho các cơ sở chế biến kinh doanh nông sản xuất khẩu thì nhà nước nên xem xét bằng quỹ bình ổn giá cả để giảm đi một phần lãi suất tín dụng. Về phía Ngân hàng, Nhà nước cũng cần xem xét lại các quy định về tài sản thế chấp để nó giữ đúng vai trò là tạo điều kiện đảm bảo an toàn cho vay chứ không phải là căn cứ giữa ngân hàng và Công ty.
3. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu theo hướng đơn giản hơn, thông thoáng hơn phù hợp với cơ chế thị trường.
Những quy định về xuất nhập khẩu và các hàng rào thương mại là một trong những ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động xuất khẩu nông sản xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ nói chung ở nước ta hệ thống chính sách và quy định xuất khẩu phải được đổi mới và hoàn thiện. Cụ thể là:
- Hệ thống các văn bản pháp lý, phải đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các Công ty liên doanh xuất nhập khẩu, tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” một mặt hàng nào đó nhưng lại không khuyến khích sản xuất mặt hàng nào đó. Việc khuyến khích xuất khẩu trực tiếp và khuyến khích đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu ở nước ta hiện nay chỉ mới nhìn đến các Công ty sản xuất trực tiếp hàng xuất khẩu và kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong thực tế còn vô số các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm nhiệm vụ cung ứng nguyên vật liệu đầu vào hoặc bán thành phẩm không được hưởng ưu đãi. Vì thế Nhà nước cần xem xét và có chính sách khuyến khích đối với các doanh nghiệp này.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu: Trên thực tế công tác quản lý xuất khẩu của Nhà nước còn một số bất cập với diễn biến của hoạt động xuất khẩu nhiều khi còn không ít thiếu sót và nhược điểm cần khắc phục và giải quyết. Về lâu dài các quy định về xuất nhập khẩu hiện hành phải được bổ sung sửa đổi tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu phát triển.
- Thiết lập chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho người xuất khẩu: Tỷ giá hối đoái thay đổi thì ảnh hưởng lớn tới hoạt động xuất khẩu và hoạt động nhập khẩu.
Nếu đồng nội tệ mất giá so với ngoại tệ thì hàng xuất khẩu trở nên rẻ, dễ xâm nhập vào thị trường nước ngoài từ đó dẫn tới xuất khẩu tăng còn nhập khẩu giảm.
Ngược lại, nếu đồng nội tệ có sức cạnh tranh cao hơn so với hàng nội địa từ đó dẫn tới nhập khẩu tăng và xuất khẩu giảm.
Do đó Nhà nước cần phải linh hoạt điều chỉnh nhằm khuyến khích xuất khẩu và tăng nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Kết luận
Việt Nam đang nỗ lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để bắt kịp xu thế phát triển kinh tế của toàn cầu. Góp tiếng nói quyết định là hoạt động xuất khẩu, một nguồn cung cấp ngoại tệ chính để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế, góp phần cân đối, duy trì và tái mở rộng sản xuất trong nước, tranh thủ những tiến bộ khoa học và công nghệ thế giới, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao trình độ phát triển kinh tế xã hội nước nhà.
Công ty XNK Tổng hợp I là một doanh nghiệp nhà nước thamgia vào lĩnh vực xuất nhập khẩu ngay từ những ngày đầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế của nước ta. Hiện nay, Công ty đã tạo lập được một vị trí tương đối vững vàng trên thị trường trong nước cũng như thế giới. Đặc biệt là hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam nói chung. Trên cơ sở định hướng của Đảng và Nhà nước, Công ty cũng coi nông sản là mặt hàng xuất khẩu chiến lược trong những năm tới và tích cực tìm kiếm những giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng này.
Nhận thức được điều đó, cộng với sự quan tâm,lòng mong muốn được đóng góp ý kiến vào sự nghiệp chung của Công ty, của đất nước, tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp như đã trình bày. Những kiến nghị này chỉ mang tính chất định hướng khoa học do còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn, bởi vậy tôi rất mong sẽ nhận được những góp ý, bổ sung từ phía thầy cô giáo và cán bộ trong Công ty.
Tài liệu tham khảo
1. Văn kiện đại hội đảng bộ toàn quốc lần thứ IX, chiến lược phát triển kinh tế kinh tế Việt Nam 2001 - 2010. NXB Chính trị quốc gia (2001)
2. Bộ thương mại, cục diện kinh tế thế giới 2000 và dự báo thương mại 2001. NXB Thông tin thương mại (2000)
3. PGS.TS Nguyễn Duy Bột, Giáo trình TMQT
NXB Thống Kê (1997)
4. PGS.TS Nguyễn Duy Bột, Giáo trình marketing TMQT. Hà Nội 1997.
5.Các báo: Hải quan, thời báo kinh tế Việt Nam, Diễn đàn doanh nghiệp.
6. Tạp chí thông tin thương mại các số từ tháng 1/2001 – 12/2001.
7. Các báo cáo tổng kết kết quả kinh doanh của Công ty XNK Tổng hợp I từ năm 1997 – 2001.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29138.doc