Diện tích rộng, lao động dồi dào, vốn đầu tư lớn đó là các yếu tố không thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp, điều kiện phát triển trang trại. Ngành chăn nuôi trên địa bàn huyện đang phát triển nhanh, cần tiếp tục phát huy, chú trọng phát triển chăn nuôi đại gia súc bởi địa phương có điều kiện phát triển, nhu cầu hàng hoá đối với các sản phẩm này là cao./.
75 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1678 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng lao động gia đình cao nhất với mức bình quân 34,99 triệu đồng / lao động, đứng thứ 2 là MH4 với 25,85triệu đồng / lao động, thấp nhất là MH1 với 6,63triệu đồng / lao động.
Qua đó cho thấy hiệu quả sử dụng lao động trong ngành chăn nuôi đạt mức rất cao, với thu nhập hỗn hợp bình quân cao gấp 3 - 4 lần so với chi phí bình quân chi cho lao động thuê.
Qua bảng 2.16: Đạt hiệu quả cao nhất so với tổng chi phí bỏ ra là MH3 (NTTS). So với TC bỏ ra thì sau thu được: GTSX gấp 1,69 lần (bỏ ra 1 đồng thu về 1,69đồng); VA gấp 0,99 lần; MI gấp 0,82 lần. Nguyên nhân là do sử dụng chi phí nhỏ, tận dụng được nhiều sản phẩm phụ từ trồng trọt, chăm sóc dễ…
_ Hiệu quả môi trường và xã hội của việc sản xuất trang trang trại.
MH KTTT đã trở thành MH sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, nó không chỉ có hiệu quả về kinh tế như mang lại thu nhập cao cho các chủ trang trại mà còn mang lại hiệu quả môi trường và xã hội to lớn.
Nhờ phát triển KTTT, các chương trình, dự án như: phủ xanh đất trống đồi núi trọc của Nhà nước được thực hiện dễ dàng, tạo ra môi trường không khí trong lành, giảm rửa trôi, đá ong hoá đất đồi, góp phần làm giảm lũ lụt, tạo hệ thực vật phong phú cho địa phương. Các trang trại làm tăng tốc độ vòng quay vốn, tăng diện tích đưa vào sản xuất. Nhiều diện tích đất ở chân núi không phù hợp với trồng cây lấy gỗ đã được thay thế bằng cây vải, nhãn, hồng… nhiều diện tích hồ đập được đưa vào khai thác sản xuất, góp phần làm tăng hiệu quả đồng vốn.
Nhiều lao động dư thừa sau mùa vụ ở các nông hộ được giải quyết, số lượng lao động thất nghiệp được thu hút vào các trang trại, họ đã có việc làm và có thu nhập khá cao so với thu nhập trong nông nghiệp lao động, được trả từ 600.000 - 900.000 đồng / tháng. Do đó, làm giảm tỷ lệ thanh niên lao vào tệ nạn xã hội, thu hút dân cư sống tập trung, tạo cơ sở cho phát triển văn hoá, xây dựng cơ sở hạ tầng góp phần xoá đói giảm nghèo.
Tập trung phát triển KTTT sẽ tạo ra vùng sản xuất hàng hoá có quy mô lớn, lượng hàng hóa sản xuất ra nhiều, góp phần cho người nông dân có cơ hội và điều kiện tiếp xúc với kinh tế thị trường, là cơ sở để chuyển giao khoa học kỹ thuật, đưa các quy trình sản xuất mới vào áp dụng, góp phần thực hiện thành công công cuộc CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. Đưa nông nghiệp nông thôn tiến nhanh - tiến mạnh - tiến vững chắc, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, phát triển kinh tế huyện nhà ngày càng vững mạnh.
2.3.3. Kết luận phân tích kết quả và hiệu quả kinh tế sản xuất của các MH KTTT
Qua nghiên cứu các MH KTTT trên địa bàn huyện Phù ninh, tôi nhận thấy các MH trang trại đều cho kết quả và hiệu quả khá cao. Đây thể hiện sự vượt trội của KTTT so với kinh tế hộ nông dân, đầu tư lớn, phát triển sản xuất hàng hóa, có tính chuyên môn hoá cao. Đối với từng MH KTTT nghiên cứu:
- MH2: Có hiệu quả cao nhất trong các MH KTTT trên địa bàn huyện, đây là mô hình sử dụng hợp lý vốn đầu tư, diện tích chăn nuôi nhỏ, lao động có trình độ khá cao. Cần tiếp tục phát huy, mở rộng thêm quy mô, chú trọng đến phát triển chăn nuôi lợn xuất khẩu, đạt hiệu quả kinh tế cao.
- MH1: Có hiệu quả thấp nhất, bởi đây là những trang trại đang bước đầu xây dựng, chịu ảnh hưởng của điều kiện thời tiết lớn, do đó thu nhập còn chưa cao, hiệu quả kinh tế còn thấp. Mặt khác, sử dụng lao động ở các trang trại còn chưa hợp lý, lao động dư nhiều, hiệu quả sử dụng lao động còn chưa cao. Cần tiếp tục nâng cao chất lượng của các lao động.
- MH3: Có tốc độ quay vòng vốn nhanh, đầu tư vốn hợp lý. Lao động của trang trại chủ yếu là sử dụng lao động gia đình, còn lao động thuê chiếm không lớn. Hiệu quả đạt được so với chi phí bỏ ra cao nhất trong các MH; GTSX / tổng chi phí là 1,69lần.
- MH4: Thu nhập của các gia đình trong MH này là khá cao, chỉ đứng sau MH2, đây là MH sản xuất đảm bảo tính bền vững, giảm thiểu rủi ro, có hiệu quả kinh tế khá cao. Nên chú trọng phát triển loại MH này, không ngừng nâng cao chất lượng lao động, bồi dưỡng kỹ thuật cơ bản cho các chủ trang trại để họ nắm rõ kỹ thuật của từng loại cây trồng, vật nuôi để sản xuất kinh doanh được nâng cao.
2.4. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI PHÁT TRIỂN KTTT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN PHÙ NINH
2.4.1. Thuận lợi
Huyện Phù Ninh có tiềm năng đất đồi, đất vườn, có độ dốc trung bình, tầng canh tác phù hợp cho phát triển cây công nghiệp, cây lâm nghiệp và cây ăn quả. Nông dân đã được giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài. Nông dân bước đầu thực hiện chuyển đổi ruộng đất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cơ cấu sản xuất trong trồng trọt và chăn nuôi.
Đảng và Nhà nước ta có các chủ trương chính sách về phát triển kinh tế trong đó có KTTT. Một số cơ chế chính sách tiếp tục được thực hiện, nông dân có ý thức mạnh dạn đầu tư vốn, công lao động, mạnh dạn tiếp thu tiến bộ mới của khoa học - kỹ thuật, dám đầu tư vào sản xuất để phát triển kinh tế. Tỉnh uỷ có Nghị quyết, UBND Tỉnh có kế hoạch phát triển KTTT, phát triển trồng cây ăn quả giai đoạn 2002 -2005 và đến năm 2010. Những cơ chế chính sách của tỉnh, của huyện được thực hiện tạo điều kiện cho nông dân như: Phát triển cây ăn quả, trồng mới, thâm canh, cải tạo cây chè; chăn nuôi lợn xuất khẩu; nuôi trồng thuỷ sản. Làm động lực, đòn bẩy khuyến khích các MH kinh tế phát triển.
Chương trình phát triển KTTT trong những năm qua được phát triển rộng khắp ở các xã, thị trấn do có chính sách đổi mới của Đảng, cơ chế điều hành và quản lý của Nhà nước; các cấp các ngành từ huyện đến cơ sở đã quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện để các hộ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Các Nghị quyết về phát triển kinh tế được thực hiện có hiệu quả, nông dân nhiệt tình hưởng ứng phát triển nhiều loại hình trang trại, sản phẩm làm ra được tiêu thụ. Bước đầu đã giải quyết được lao động trong nông nghiệp.
Các xã, thị trấn đã có sự lãnh đạo chỉ đạo ý thức được trách nhiệm trong quản lý, xây dựng, hướng dẫn tạo điều kiện cho các hộ phát triển KTTT, như các xã: Phú Lộc, thị trấn Phong Châu, Tiên Phú, Bảo Thanh, Trung Giáp, Liên Hoa, Phú Mỹ, Tử Đà, Phù Ninh, An Đạo, Bình Bộ. Nhiều diện tích đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp trồng cây kém hiệu quả đã được UBND xã hướng dẫn tạo thuận lợi để nông dân chuyển mục đích sản xuất sang phát triển cây ăn quả, trồng chè thâm canh, nuôi trồng thuỷ sản. Chuyển đất một vụ lúa sang nuôi thả cá. Làm thủ tục cho thuê đất để các hộ mở rộng quy mô trồng trọt chăn nuôi lợn siêu nạc, hướng công nghiệp và bán công nghiệp, nuôi bò thịt…
Đã có sự phối hợp với các cơ sở nghiên cứu khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ giúp nông dân áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt và chăn nuôi… Thực hiện các chính sách hỗ trợ đầu tư cây giống, con giống, lãi suất vốn vay… bước đầu đã tạo sự gắn kết giữa nông dân với các cấp chính quyền, với các cơ sở khoa học, với ngân hàng đã tạo động lực cho KTTT phát triển.
Ban chỉ đạo từ huyện đến các cơ sở đã tập trung hướng dẫn nông dân thực hiện các cơ chế chính sách, vận động và tự vận động các nguồn vốn đầu tư vào sản xuất để đem lại hiệu quả sản xuất.
2.4.2. Khó khăn
Đất đai tuy đã được giao cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ổn định, lâu dài nhưng còn manh mún, phân tán, chưa tạo thành vùng tập trung, cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, hệ thống thuỷ lợi như hồ đập, mương phai dâng nước chưa đáp ứng, thiếu nguồn nước tưới. Nông dân chưa có nhiều kinh nghiệm, thiếu kỹ thuật, thiếu vốn, nên việc đầu tư cho phát triển trang trại còn hạn chế. Bên cạnh đó, đất đai phần lớn đã qua 2 - 3 chu kỳ trồng bạch đàn nên bị rửa trôi, bạc màu, nghèo dinh dưỡng.
Chất lượng và nguồn gốc của các cây giống, con giống chưa được quản lý và kiểm định chặt chẽ, độ tin cậy chưa cao, có ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất.
Về chỉ đạo còn có một số xã chưa quan tâm đầy đủ, chưa xây dựng được kế hoạch chỉ tiêu cụ thể và định hướng về KTTT, tuy có thành lập ban chỉ đạo nhưng còn mang tính hình thức, hoạt động chưa hiệu quả. Chưa làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước đến nông dân, phần lớn giao nhiệm vụ cho các trưởng khu hành chính về phổ biến cho nông dân nên hạn chế tới sự nhận thức của nông dân.
Ban chỉ đạo ở huyện hoạt động chưa thường xuyên, một số thành viên ban chỉ đạo chưa đi sát cơ sở nên hạn chế việc nắm thông tin, hướng dẫn tháo gỡ vướng mắc ở cơ sở vì vậy chỉ đạo không kịp thời.
Đất đai còn manh mún và bị phân tán, nhiều thửa / một hộ, nông dân chưa tích cực chuyển đổi ruộng đất, chưa tạo ra được thửa đất lớn. Hộ có đất thì lại thiếu vốn, thiếu kỹ thuật canh tác, ngược lại, hộ có vốn và lao động thì lại không có đất, do vậy làm hạn chế khả năng phát triển trang trại, phát triển kinh tế.
Việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tuy đã thực hiện nhưng chưa được rộng khắp và chưa thường xuyên, mới tập trung vào những hộ có quy mô lớn, còn những hộ có quy mô nhỏ chưa được quan tâm thoả đáng. Tuy nhiên, xã nào cũng có MH KTTT nhưng chưa nhân ra được diện rộng.
Chính sách hỗ trợ cho nông dân tuy được thực hiện nhưng không kịp thời, nên chưa tạo động lực đủ lớn để thúc đẩy sự phát triển.
2.4.3. Những vấn đề nảy sinh khi phát triển KTTT
Mọi sự vật hiện tượng đều có tính hai mặt, KTTT phát triển cũng nảy sinh những mặt tốt, mặt xấu. Ngoài những mặt phù hợp với quy luật tự nhiên, định hướng của Nhà nước còn có những tiêu cực nảy sinh.
+ Vấn đề lao động:
Trang trại đã tạo ra việc làm cho người lao động, nhưng những công việc này thường không ổn định và có tính mùa vụ, vì thế lượng lao động sau mùa vụ này sẽ làm gì đó là câu hỏi cần được giải quyết, cần phải sớm có câu trả lời.
Việc làm ở các trang trại cũng cần nhiều lao động phổ thông nên sẽ xuất hiện hiện tượng các gia đình nghèo bán đất, trở thành người làm thuê chuyên nghiệp. Họ không quan tâm tới việc tổ chức quản lý, làm ăn trên diện tích mình có mà chỉ biết làm theo sự chỉ đạo của người khác.
+ Chính sách của Nhà nước:
Với quy mô diện tích lớn như vậy liệu các trang trại có được miễn hoàn toàn thuế sử dụng đất nông nghiệp? Trong khi thu nhập của họ khá cao, lại sản xuất sản phẩm hàng hoá như doanh nghiệp kinh doanh khác thì việc đánh thuế thu nhập sẽ được thực hiện khi nào, hoặc Nhà nước sẽ áp dụng loại thuế nào khác. Hầu như các chủ trang trại chưa hiểu rõ về quy định thuế, họ nhầm lẫn thuế sử dụng đất nông nghiệp hiện nay với thuế thu nhập doanh nghiệp, trong khi họ chưa có giấp chứng nhận quyền sử dụng đất đai, giấy chứng nhận trang trại.
+ Tình trạng khai thác đất quá mức:
Mặc dù có những biện pháp chống sói mòn, rửa trôi như băng đất, băng đá, đào rãnh… nhưng tình trạng khai thác đất quá mức sẽ được cảnh báo khi áp lực khai thác đất ngày càng tăng, quỹ đất ngày càng hạn hẹp.
2.5. Những nhận xét rút ra từ nghiên cứu KTTT trên địa bàn huyện Phù Ninh
Một số nhận xét khi nghiên cứu thực trạng tình hình phát triển KTTT ở huyện Phù Ninh:
KTTT phát triển đa dạng, quy mô diện tích lớn nhưng không đồng đều ở các vùng, các trang trại. Phát triển sản xuất còn mang tính tự phát, dựa vào nội lực là chính, vẫn còn "dư âm" của sản xuất tự cấp tự túc.
Sự kết hợp giữa các ngành với nhau còn thiếu tính đồng bộ, thiếu tính hệ thống và thiếu quy hoạch.
Nhiều trang trại sử dụng lao động chưa hợp lý, trình độ lao động chủ yếu là ơ mức phổ thông, ít kiến thức nên năng suất lao động chưa cao.
Mức đầu tư vốn vào các trang trại tuy đã có tiến bộ nhưng còn ở mức thấp, vốn vay ít, chủ yếu huy động từ nguồn vốn tự có.
Tiến bộ khoa học kỹ thuật chưa được áp dụng triệt để, tư liệu sản xuất còn ở mức thô sơ, chỉ có công cụ đơn giản, ít máy móc nên năng suất lao động còn ở mức thấp, chưa có biện pháp bảo quản và sơ chế sản phẩm hợp lý nên sản phẩm làm ra khó tiêu thụ.
Trình độ quản lý, tổ chức kinh tế của chủ trang trại còn bị hạn chế, chưa tương xứng với quy mô diện tích.
Khả năng tiêu thụ sản phẩm còn yếu kém, chưa có nhiều hợp đồng kinh tế, chưa có hệ thống marketing để giới thiệu và quảng bá sản phẩm. Chưa có hiệp hội hay tổ chức bảo vệ quyền lợi của người sản xuất.
Mặc dù vậy, các trang trại đã tạo ra một lượng sản phẩm lớn, giải quyết nhu cầu lao động của nhân dân và lượng lao động dư thừa, góp phần phủ xanh đất trống đồi núi trọc, cải thiện đời sống của nông dân địa phương, tạo ra mô hình sản xuất kinh doanh có nhiều điểm vượt trội so với kinh tế hộ nông dân và ngày càng khẳng định được vai trò của nó trong nền kinh tế.
Để có sự phát triển của các trang trại ngày càng đa dạng và hiệu quả, tận dụng được hết những nguồn lực sẵn có và cơ sở vật chất bên ngoài cần có những biện pháp khắc phục khó khăn, giải quyết những tồn đọng.
CHƯƠNG III
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KTTT TRONG NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN Ở HUYỆN PHÙ NINH _ PHÚ THỌ
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN KTTT CỦA HUYỆN
Địa phương đã có những chính sách hướng cho trang trại phát triển, quy hoạch trang trại một cách hợp lý, tạo điều kiện cho phát triển đồng bộ các ngành liên quan; Quyết định 629/2002/QĐ - UB của UBND Tỉnh về một số chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi, chế biến thịt lợn xuất khẩu vào vùng trọng điểm giai đoạn 2001 - 2008; Quyết định 747/2004/QĐ - UB về một số chính sách khuyến khích phát triển thuỷ sản hàng hoá đến năm 2010; Quyết định 3036/2002/QĐ - UB về một số chính sách phát triển cây ăn quả… huyện Phù ninh đã đề ra chính sách phát triển trang trại qua Nghị quyết 06/NQ - HĐND ngày 26/7/2001 của HĐND huyện khoá XIX kỳ họp thứ 5 về phát triển KTTT huyện Phù ninh giai đoạn 2001- 2005; Quyết định 781/CTR - UBND về chương trình phát triển KTTT huyện Phù ninh năm 2006 - 2010.
Trên thực tế, KTTT đang phát triển mạnh góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Cho nên, việc xác định đúng đắn định hướng phát triển KTTT cho phù hợp với tình hình, điều kiện cụ thể của địa phương trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa ra các giải pháp hữu hiệu, nhằm phát huy vai trò của loại hình KTTT. Định hướng phát triển KTTT trong những năm tới là:
* Tiếp tục thực hiện chính sách giao ruộng đất lâu dài và thực hiện dồn điền đổi thửa cho các hộ nông dân. Khuyến khích phát triển các MH KTTT, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các hộ nông dân vay vốn để mở rộng quy mô chăn nuôi, trồng trọt. Đồng thời chú trọng phát triển các HTX dịch vụ nông nghiệp nhằm mang lại lợi ích trực tiếp cho người dân.
* Tăng cường đầu tư và mở rộng các hình thức khuyến nông, khuyến ngư đến các cơ sở, nhằm chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật đến từng hộ nông dân, nhất là đến các chủ trang trại để họ đưa những tiến bộ vào sản xuất, bởi đây là lực lượng tiên phong dám nghĩ dám làm, dám chấp nhận cái mới vì vậy hiệu quả chuyển giao sẽ thành công.
* Cùng với việc mở rộng quy mô cần có biện pháp giúp đỡ các chủ trang trại đẩy mạnh sản xuất nông sản hàng hóa. Gắn sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm thành một khối thống nhất, quan hệ hữu cơ mật thiết với nhau. Thiết lập mối quan hệ ngày càng mật thiết giữa các chủ trang trại, giữa từng MH với nhau. Đưa KTTT thực sự trở thành một trong những hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu của nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá trong tương lai, từng bước tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn trên địa bàn huyện nhà. Để thực hiện được sự phát triển KTTT theo định hướng này, cần phải dựa trên các quan điểm sau đây:
_ KTTT là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh chứ không phải là mục tiêu của nền sản xuất xã hội. Vì vậy, tránh việc nhìn nhận thái quá dẫn đến hình thành trang trại bằng mọi giá, theo phong trào, đề cao số lượng, không chú trọng chất lượng hoặc phủ nhận các loại hình sản xuất kinh doanh đang phát huy tác dụng tích cực, chống lối chạy theo hình thức, chạy theo thành tích, phô trương…
_ Phát triển KTTT phải góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng thâm canh tăng tỷ trọng cây ăn quả, thuỷ sản, chăn nuôi, gắn sản xuất với chế biến là lưu thông hàng hoá cho tiêu dùng, xuất khẩu từ địa bàn cơ sở.
_ Quy hoạch tổng thể tiến tới xây dựng vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá tập trung, trên cơ sở đó, xây dựng các cơ sở chế biến, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và đời sống.
_ Phát triển KTTT vừa phải đi đôi với giải quyết việc làm, giảm nghèo, nâng cao đời sống của người lao động, vừa bảo vệ môi trường sinh thái, cải tạo đất đai.
_ Phát triên KTTT phải gắn liền với kinh tế xã hội, với bảo vệ môi trường sinh thái. Từng bước nâng cao tỷ trọng chăn nuôi trong cơ cấu nông - lâm - ngư nghiệp, đảm bảo cơ cấu hợp lý phát triển nông nghiệp của địa phương một cách bền vững, góp phần vào quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
* Mục tiêu phát triển KTTT (2007 -2010)
_ Khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng về vị trí địa lý, tài nguyên đất đai, nguồn lao động, chính sách để phát triển KTTT.
_ Phấn đấu đến năm 2010, trên địa bàn huyện có 80 trang trại đạt tiêu chí của Tổng cục thống kê và Bộ nông nghiệp & phát triển nông thôn, với tổng diện tích 300 - 350 ha, bình quân 1 trang trại có thu nhập từ 60 - 100 triệu đồng trở lên.
_ Thu hút và tạo việc làm ổn định cho trên 1200 lao động.
_ Các MH KTTT đến năm 2010 được thể hiện qua bảng 3.1
Bảng 3.1: Mục tiêu phát triển các mô hình KTTT năm 2010
Mô hình trang trại
Năm 2010
SL
CC(%)
MH1
14
17,5
MH2
35
43,75
MH3
11
13,75
MH4
20
25
Tổng
80
100
MH1 gồm 14 trang trại (chiếm 17,5%)
MH2 gồm 35 trang trại (chiếm 43,75%)
MH3 gồm 11 trang trại (chiếm 13,75%)
MH4 gồm 20 trang trại (chiếm 25%)
3.2. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KTTT
3.2.1. Những giải pháp chung
Từ những kết quả nghiên cứu thu thập và dựa trên số liệu cụ thể qua các trang trại trên địa bàn huyện và điều kiện thực tế tại địa phương. Để cho KTTT ngày càng phát triển ổn định và có hiệu quả, tôi đã sưu tầm được một số giải pháp sau:
3.2.1.1. Giải pháp về đất đai
Đất đai của các trang trại tuy rộng nhưng họ chưa yên tâm đầu tư sản xuất trên quy mô do đó họ không chỉ sợ diện tích đất đó sẽ bị thay đổi mục đích sử dụng mà còn sợ công chăm sóc của họ sẽ để người khác hưởng, lý do là họ chưa có một loại giấy tờ gì đảm bảo mang tính pháp lý lâu dài. Vì vậy, cần cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các trang trại một cách đồng bộ, khuyến khích chuyển nhượng, tập trung đất, dồn điền đổi thửa… để tạo quy mô lớn thành vùng sản xuất lớn, tạo điều kiện cho các chính sách khác được thực hiện.
3.2.1.2. Giải pháp về lao động
Ở huyện nhà, việc sử dụng, quản lý và trình độ tay nghề của lao động còn có những tồn tại.Vì vậy cần khắc phục để sử dụng có hiệu quả hơn.
Số lượng lao động trong các trang trại ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Thị trường sức lao động đang hình thành và phát triển theo quy luật cầu - cung nhưng lại nằm ngoài tầm kiểm soát của chính quyền các cấp. Vì vậy, chính quyền các cấp có chức năng cần có chủ trương thống nhất để quản lý việc thuê của trang trại đảm bảo lợi ích cho cả hai phía, trang trại và người lao động theo luật lao động hiện hành.
Đặc điểm của lao động là chủ trang trại là vừa lao động chí óc vừa lao động cơ bắp; vừa là lao động quản lý lại vừa lao động trực tiếp. Công tác khuyến nông cũng như công tác thông tin thị trường cần phải tạo được mối quan hệ gắn bó với các chủ trang trại, hỗ trợ cho họ điều kiện nâng cao trình độ quản lý và trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ chuyên môn thông qua các khoá huấn luyện, đào tạo nghiệp vụ được tổ chức thường xuyên ngay ở địa phương. Về lâu dài, cần thường xuyên tổ chức các lớp học do các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp; tổ chức các khoá đào tạo nghiệp vụ cho chủ trang trại. Chương trình đào tạo xuất phát từ yêu cầu thực tiễn sản xuất, dựa vào các mô hình trang trại sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao sẵn có ở mỗi vùng. Định hướng đến năm 2010 trình độ quản lý của các trang trại được biểu diễn qua bảng 19.
Đối với lao động trực tiếp của trang trại, đây là nhóm lao động nhìn chung không có trình độ chuyên môn và chưa quen với sản xuất hiện đại, cần phải dược bổ sung hiểu biết về đối tượng sản xuất và khoa học công nghệ. Đối với nhóm lao động kỹ thuật, phải chú ý đào tạo trong tất cả các lĩnh vực: tạo giống; chăm sóc vật nuôi, cây trồng; các nghiệp vụ phòng và trị bệnh; kỹ năng vận dụng và sử dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, máy móc hiện đại vào sản xuất nông nghiệp… Các trường dạy nghề phối hợp với các tổ chức khuyến nông, các tổ chức quần chúng, các hội nghề nghiệp… hỗ trợ đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động, hiện nay trên địa bàn huyện chỉ có hơn 10% lao động trang trại được bồi dưỡng tay nghề.
Bảng 3.2: Trình độ quản lý của chủ trang trại
(Định hướng năm 2010)
Chỉ tiêu
Số lượng (người)
Cơ cấu (%)
THPT
8
10
Sơ cấp, trung cấp
47
58,8
Cao đẳng
20
25
Đại học
5
6,2
Tổng
80
100
Các địa phương hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật lao động ở các trang trại. Các chủ lao động được thuê lao động không hạn chế về số lượng nhưng phải thực hiện tốt việc trang trại chuẩn bị dụng cụ theo từng loại nghề cho người lao động: quần áo bảo hộ, có trách nhiệm với người lao động khi có rủi ro, ốm đau, tai nạn… Khuyến khích chủ trang trại ưu tiên thuê lao động của những hộ nông dân không đất, thiếu đất sản xuất nông nghiệp, hộ nghèo thiếu việc làm, giúp những hộ này có thu nhập để cải thiện đời sống.
Bộ nông nghiệp & phát triển nông thôn phối hợp với Bộ Lao động và lãnh đạo tỉnh và UBND huyện Phù Ninh cần nghiên cứu, ban hành các quy chế sử dụng lao động trong các trang trại, xây dựng quy chế hợp đồng lao động mang tính pháp lý giữa chủ trang trại và người làm thuê để bảo vệ quyền lợi cho cả hai bên.
3.2.1.3. Giải pháp về vốn
Quy mô vốn chưa phù hợp với quy mô diện tích và tiềm năng các trang trại. Các trang trại chủ yếu sử dụng vốn của gia đình là chủ yếu, lượng vốn vay còn ở mức thấp.
Nhà nước nên có chính sách tín dụng ưu đãi cho các trang trại theo hai hướng: Tăng vốn vay cao hơn cho kinh tế hộ, đồng thời tăng lượng vốn vay trung và dài hạn để thuận lợi cho các trang trại kinh doanh cây lâu năm hoặc chăn nuôi gia súc lớn, đơn giản hoá thủ tục, giảm lãi suất… coi như đó là một phần gián tiếp Nhà nước đầu tư cho nông nghiệp. Cho đến nay, lượng vốn vay trung hạn đã tăng lên nhưng thủ tục thì lại chưa được thuận tiện.
Cần đa dạng hoá các hình thức cho vay và huy động vốn. Các ngân hàng huy động vốn từ tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu… vay vốn của các tổ chức quốc tế và cả vốn ODA, vốn vay thương mại. Ngoài ra, hàng năm cũng nên dành một phần ngân sách để chuyển sang các tổ chức tín dụng cho vay theo chương trình dự án. Nếu như cho nông dân vay vốn theo chương trình dự án thì phải hỗ trợ cho họ trong quá trình lập kế hoạch sản xuất vì thông thường mặt này nông dân còn kém.
Cần đổi mới phương thức cho vay, thu nợ phù hợp với đặc điểm của từng loại KTTT. Đổi mới thủ tục cho vay, thu lãi sao cho đơn giản, thuận tiện hơn.
Thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao lượng vốn vay cho các trang trại như: Giảm thủ tục rườm rà, vay với lượng vốn lớn hơn… Đồng thời giúp đỡ các trang trại bằng những chính sách ưu tiên, giải ngân theo chương trình, dự án cho những trang trại có diện tích rừng trồng và rừng chăm sóc.
Về phía các trang trại cũng cần tự giải quyết vấn đề này bằng cách tập trung vốn bằng nhiều hình thức khác nhau như: vay mượn gia đình, liên doanh liên kết, tham gia các hội như hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh…nhằm giúp đỡ lẫn nhau, đồng thời tăng vòng quay của vốn. Cần kết hợp hiệu quả các loại cây trồng, vật nuôi để hiệu quả đồng vốn là cao nhất, tránh được các áp lực do thiếu vốn do yêu cầu của sản xuất kinh doanh.
3.2.1.4. Các biện pháp nhằm đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm
Thị trường là yếu tố quan trọng đối với sản xuất hàng hoá, ở đây cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Giá cả bấp bênh, không ổn định, gây ra sự bất ổn trong sản xuất kinh doanh, sự thiếu tin tưởng của chủ trang trại vào những quyết định của mình.
* Thông tin thị trường:
Việc người sản xuất nắm bắt thông tin thị trường là vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Về vấn đề này, Nhà nước cần làm tốt công tác thông tin kinh tế, đưa những thông tin này đến người sản xuất thông qua nhiều hệ thống kênh trong đó có thông qua hệ thống khuyến nông để tăng khả năng tiếp thị của người sản xuất, để chủ trang trại phân tích xem khả năng sản xuất của mình cho phù hợp. Hình thành các kênh thông tin để doanh nghiệp và các chủ trang trại tiếp cận thị trường: như tạo mối làm ăn, hợp đồng dài hạn với các đối tác trong nước và ngoài nước. Chú trọng triển khai các hội thảo hàng nông sản, không chỉ ở các trung tâm kinh tế lớn như: Hà nội, Hải phòng… mà còn ở những địa phương khác nữa, mở rộng hợp tác trang đổi hàng hoá với các vùng khác trong cả nước.
Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, UUBND các tỉnh tổ chức tốt việc cung cấp thông tin, giá cả, khuyến cáo khoa học giúp trang trại định hướng kinh doanh cho phù hợp nhu cầu thị trường trong nước và ngoài nước, đồng thời cũng phải chú ý tới cơ cấu sản xuất của các vùng kinh tế khác trong nước, khi họ có những điều kiện thuận lợi để sản xuất các mặt hàng nông sản tương tự và mang tính cạnh tranh cao.
* Về lưu thông hàng hóa:
Đa dạng hoá các hình thức liên kết giữa các thành phần kinh tế, giữa các viện nghiên cứu với các cơ sở sản xuất và các địa phương gắn việc ký kết hợp đồng cung ứng vật tư với bao tiêu sản phẩm giữa người sản xuất với thương nhân. Hình thành và phát triển kinh tế hợp tác trên cơ sở tự nguyện và nguyên tắc các bên cùng có lợi, giữa các trang trại và dân cư nông thôn gắn với thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá và nơi cung cấp mặt hàng công nghiệp, thực phẩm thiết yếu cho sản xuất và đời sống của nhân dân và của nông dân.
Khuyến khích phát triển hệ thống chợ nông thôn và các trung tâm giao dịch mua bán nông sản, vật tư nông nghiệp ở các thị trấn, thị tứ nhất là các địa bàn trung tâm phát triển KTTT, thúc đẩy trao đổi hàng hoá ngay trong địa phương.
Khắc phục tình trạng thả nổi thị trường nông thôn tạo điều kiện cho các chủ trang trại không chỉ xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình mà nếu có điều kiện có thể thu gom của các chủ trang trại khác, hay khuyến khích làm đại lý vật tư nông nghiệp. Hình thành các hiệp hội sản xuất giúp nhau từ đầu vào đến đầu ra, tránh tình trạng bị ép giá.
* Về tiêu thụ nông sản
Một mặt trang trại tiếp tục duy trì mối quan hệ với các thị trường truyền thống như: Hà nội, Hải phòng, các khu công nghiệp…mặt khác tích cực tìm kiếm các thị trường mới.
Khắc phục tình trạng quá nhiều sản phẩm bán ra không có tổ chức, dẫn đến trang chấp, ép giá, gây thiệt hại cho nông dân và lãng phí sản phẩm. Hoàn chỉnh chính sách tiêu thụ ổn định lâu dài và trực tiếp cho những mặt hàng nông sản quan trọng như: thịt, rau quả cao cấp, nông đặc sản… thoát dần tình trạng xuất khẩu nhỏ từng chuyến qua các khâu trung gian, khuyến khích các đơn vị trực tiếp giao dịch và với đối tác nước ngoài, tăng cường và mở rộng hợp tác kinh tế đối ngoại trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
Khi thiếu thông tin thị trường, giá cả lại bấp bênh xảy ra thường xuyên, ứ đọng nông sản tại các trang trại là một vấn đề hết sức nguy hiểm. Cho nên cần có sự đảm bảo trong tiêu thụ từ sự giúp đỡ của Nhà nước và chính quyền địa phương trong việc quy hoạch vùng sản phẩm hàng hóa, xây dựng các nhà máy chế biến nông sản… Mặt khác, các chủ trang trại cần thành lập hiệp hội giúp đỡ nhau trong sản xuất, thống nhất giá cả có những bản hợp đồng thật chi tiết, đảm bảo bán đúng hàng, tạo mối làm ăn lâu dài, ổn định. Quan tâm đến thị trường, xem xét nhu cầu của thị trường cần loại gì, chủng loại ra sao, mẫu mã…và luôn luôn tâm niệm rằng "sản xuất những gì thị trường cần chứ không sản xuất những gì mình có", đó là mấu chốt trong nền kinh tế thị trường.
3.2.1.5. Giải pháp về khoa học công nghệ (KH - CN)
Phát triển KH - CN là đặc biệt quan trọng vì phương châm phát triển KTTT là phát huy tối đa khả năng vận dụng những thành tựu KH - CN để đạt được thu nhập cao tính trên một ha đất trang trại. Muốn vậy, Nhà nước cần đổi mới, hoàn thiện tổ chức hoạt động KH - CN từ nghiên cứu đến triển khai. Cần huy động các tiềm năng của các thành phần kinh tế tập trung đầu tư vào KH - CN nông nghiệp, coi đây là mặt trận hàng đầu. Lãnh đạo huyện phải phối hợp với cấp TW để đào tạo đội ngũ các nhà khoa học, kỹ sư, lao động lành nghề.
Các trung tâm nghiên cứu cần tập trung ưu tiên ứng dụng những thành tựu công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ sinh học nhằm tạo lai, tuyển chọn giống cây, con mới có chất lượng cao và có giá trị kinh tế nhằm tạo bước phát triển mới về chất lượng trong nông nghiệp, cụ thể là giống lợn có tỷ lệ nạc cao; gà, ngan siêu thịt; cá chất lựơng cao… Ngoài ra cần ứng dụng công nghệ tiên tiến trong canh tác và các khâu phơ sấy, chế biến nông sản, ngăn chặn kịp thời các loại dịch bệnh gây hại cho vật nuôi và cây trồng.
Ngoài chính sách chung về KH - CN nông nghiệp, cần có chính sách cụ thể hướng dẫn khuyến khích, hỗ trợ KH - CN đối với KTTT là lực lượng, là loại hình tổ chức sản xuất có nhiều nhu cầu và khả năng nhất trong việc ứng dụng KH - CN vào sản xuất. Đó chính là công tác khuyến nông.
Nâng cao, hướng dẫn cho các trang trại áp dụng mô hình canh tác tổng hợp có hiệu quả, ứng dụng các biện pháp kỹ thuật, quy trình kỹ thuật canh tác tiến bộ nhất là sử dụng các loại giống mới, có năng suất và chất lượng cao vào sản xuất, khuyến khích hỗ trợ các trang trại có điều kiện đất đai, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật tham gia sản xuất và cung ứng giống.
Tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp trong hoạt động khuyến nông của mọi tổ chức, mọi thành phần kinh tế và phương châm tất cả mọi hoạt động khuyến nông đều tác động đến người lao động, đem lại hiệu quả cao nhất.
Cần có chính sách mạnh mẽ để tập hợp được nhiều cán bộ khuyến nông, chuyên môn giỏi, nhiều cán bộ quản lý kỹ thuật, kinh tế - xã hội, những nông dân giỏi trong sản xuất và có kinh nghiệm làm giàu. Đảm bảo công tác khuyến nông đạt chất lượng cao nhưng phù hợp với điều kiện của địa phương. Trước mắt cần tuyển những cán bộ nông nghiệp có năng lực chuyên môn giỏi và thực hành giỏi, biết làm công tác tuyên truyền và vận động quần chúng đưa về từng xã trả lương ngân sách. Nhiệm vụ của một số cán bộ này là tuyên truyền và phổ biến cũng như vận động, hướng dẫn tập huấn các chủ trang trại và người lao động có đủ khả năng ứng dụng các tiến bộ KH - CN về công nghệ sau thu hoạch, bảo quản sản phẩm, công nghệ chế biến nông, thuỷ sản theo quy mô vừa và nhỏ sử dụng các thiết bị cơ giới phù hợp trong khâu làm đất, vận chuyển, bơm nước…Bên cạnh ngân sách của Nhà nước đầu tư cho khuyến nông, cần xây dựng các chính sách thu hút vốn của các ngân hàng, các cơ sở sản xuất kinh doanh nông sản, và nguồn tài trợ quốc tế tham gia công tác này. Hiện nay, ngành nông nghiệp chỉ hoạt động khuyến nông chung cho cả nông dân giàu lẫn nghèo. Đã đến lúc cần tập trung công tác khuyến nông riêng đối với các hộ nông dân - trang trại sản xuất hàng hóa. Hình thành và mở rộng các câu lạc bộ khuyến nông cho các chủ trang trại theo các ngành sản xuất, đi vào những chuyên đề thiết thực. Mục tiêu của công tác là hướng dẫn các trang trại sử dụng giống cây, giống vật nuôi mới, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về bảo quản sản phẩm, nhất là bảo quản rau quả nhằm kéo dài thời gian tiêu thụ, áp dụng công nghệ chế biến nông sản tiên tiến, phân loại và đóng gói sản phẩm tiêu thụ, sử dụng máy móc phù hợp để làm đất, vận chuyển và bơm nước tưới tiêu…
Chính sách KH - CN của Nhà nước phải kết hợp những kinh nghiệm, tinh hoa cổ truyền với hiện đại hoá theo hướng cơ giới hoá, tin học hoá, thuỷ lợi hoá, đặc biệt là ứng dụng những thành tựu mới nhất của công nghệ sinh học trong nước và quốc tế.
Nhà nước cũng nên quản lý và kiểm tra chặt chẽ chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, vật tư nông nghiệp, đặc biệt là giống nhập khẩu từ các nước, xử lý kịp thời những trường hợp buôn bán hàng giả, giống chất lượng xấu thậm chí có nguy cơ gây hại cho cả ngành sản xuất chung để hạn chế rủi ro cho các trang trại và cho toàn ngành nông nghiệp.
Phát huy vai trò của các trung tâm, các Viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật thuộc Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn, trong các lĩnh vực nghiên cứu lai tạo giống mới có năng suất và phẩm chất tốt, phù hợp với thị trường, nghiên cứu các biện pháp canh tác tân tiến, nghiên cứu áp dụng các loại máy móc thiết bị phù hợp… Các cơ quan này cần theo dõi sát sao nhu cầu của các trang trại, liên kết với các trang trại để xác định các mô hình chuyển giao kỹ thuật mới cho người nông dân trong huyện. Đầu tư xây dựng các vườn ươm nhân giống cây trồng, vật nuôi trên địa bàn phát triển trang trại, thậm chí khuyến khích loại hình trang trại kinh doanh hình thức này để đảm bảo cung cấp đủ giống tốt tại chỗ cho các trang trại.
Tổ chức đào tạo lại đội ngũ cán bộ khoa học phục vụ nông nghiệp bằng nhiều hình thức đa dạng. Khuyến khích cá nhân, tập thể mở rộng trao đổi, hợp tác với nước ngoài, có chính sách đãi ngộ thoả đáng với những sáng tạo công nghệ và ứng dụng có hiệu quả vào sản xuất.
Đối với công nghiệp chế biến, trên cơ sở quy hoạch các vùng nguyên liệu tập trung, sắp xếp lại hệ thống các cơ sở chế biến công nghiệp, đặc biệt là các khu công nghiệp. Đồng thời phát triển công nghiệp chế biến với các trình độ đa dạng không chỉ của trong huyện mà còn của các vùng khác. Đối với các loại cây nông sản xuất khẩu thì phải đầu tư đổi mới công nghệ để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
3.2.1.6. Giải pháp về chính sách vĩ mô
Phát triển KTTT không chỉ cần những yếu tố cụ thể như đất đai, lao động, vốn… mà còn cần những chính sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu sản xuất của trang trại. Vì vậy, một môi trường chính sách phù hợp sẽ kích thích sản xuất phát triển nhanh và mạnh hơn, do đó theo tôi cần có những điều kiện sau:
_ Các chính sách của Nhà nước cần tạo ra cho người dân sự tin tưởng, cần phổ biến cho họ hiểu được định hướng của Nhà nước. Thêm vào đó, chính sách cần thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất, xuyên suốt để chống chồng chéo, đan xen lẫn nhau, để chính sách thực sự đi vào cuộc sống. Mặt khác, cần có những chính sách cụ thể áp dụng cho từng thời kỳ, từng giai đoạn sản xuất: Chính sách thuế, chính sách tiêu thụ… để phát triển một cách ổn định, tránh rủi ro trong sản xuất cho chủ trang trại.
_ Nhà nước cần nhanh chóng giao quyền sử dụng đất lâu dài để chủ trang trại yên tâm đầu tư sản xuất. Đối với những diện tích đất trang trại đã được giao và sử dụng hợp pháp, có thể chuyển nhượng quyền sử dụng để tạo điều kiện tích tụ đất đai nhằm phát triển các trang trại lớn cho những chủ trang trại biết đầu tư khoa học kỹ thuật và tái đầu tư mở rộng vào khai thác hiệu quả nhất diện tích đang được giao quản lý sử dụng.
Đối với những diện tích đất chưa được giao: đẩy mạnh việc giao đất, cho thuê và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những trang trại sử dụng hợp pháp để các chủ trang trại yên tâm đầu tư phát triển sản xuất về lâu dài. Địa phương cần rà soát lại các trang trại hiện có, xúc tiến nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo chính sách đất đai như trong Nghị quyết của Chính phủ. Những hộ gia đình, cá nhân đã sử dụng đất phát triển trang trại mà chưa được giao, chưa được thuê hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước khi ban hành Nghị quyết 03/2000/NQ - CP, sử dụng đúng mục đích và không có tranh chấp thì được xét giao, cho thuê, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho trang trại.
Có chính sách dồn điền đổi thửa để lập các trang trại lớn:
_ Do tập quán sản xuất lâu đời để lại nên đất đai ở vào tình trạng manh mún, phân tán. Muốn phát triển KTTT phải "dồn" những diện tích nhỏ để có những vùng đất rộng lớn hơn. Quá trình này có thể được sự chủ động tiến hành của Nhà nước nhưng vì đất đai là hàng hoá đặc biệt nên thị trường đất đai cần sự hướng dẫn, kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ hơn của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thuận lợi, đúng quy luật, có hiệu quả cao nhất, tuân theo quy hoạch của Nhà nước và tránh những hậu quả khác ở nông thôn. Cho phép các trang trại có thể nhận, chuyển nhượng quyền sử dụng hoặc cho thuê đất đai, để tích tụ ở những nơi có điều kiện.
_Một vấn đề đặt ra là khi thi hành chính sách dồn điền đổi thửa là phải có sự quản lý chặt chẽ để đảm bảo không có tình trạng người nông dân mất đất bần cùng hóa. Nó cũng phải được vận động tiến hành trên cơ sở tự nguyện trao đổi, hợp tác của bà con nông dân, không cưỡng ép, sử dụng các biện pháp trái với pháp luật để thi hành. Hoặc khuyến khích các hộ nông dân cùng tập trung ruộng đất theo hình thức góp cổ phần sau đó cử một người có trình độ quản lý giỏi điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại, còn các hộ thì cùng lao động trực tiếp ở trang trại đó và được hưởng theo công lao động, thu nhập cuối cùng của trang trại sau khi trừ đi tổng chi phí của trang trại sẽ chia theo phần trăm vốn góp cổ phần của các hộ.
Xây dựng kế hoạch thật chi tiết để phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch đất đai ở Phù ninh.
_ Huyện là cấp hành chính trực tiếp giải quyết các vấn đề có liên quan đến phát triển KTTT, cho đến nay, tuy đã nỗ lực nhưng công tác quy hoạch chi tiết còn chậm, cần phải đôn đốc thực hiện ngay. Trên cơ sở định hướng phát triển đã được xác định, đất đai của huyện được chia thành các tiểu vùng kinh tế - sinh thái - xã hội. Từ đó, bố trí sản xuất trên toàn bộ địa bàn của huyện và tính toán tốc độ phát triển của từng ngành. Các tiểu vùng dự định phát triển KTTT cần được quy định rõ trong quy hoạch của huyện theo từng bước phát triển.
_ Các cấp, các ngành thực hiện tốt Quyết định 80/QĐ - TTG của Thủ tướng Chính phủ về tiêu thụ nông sản, hàng hoá cho nông dân, đẩy mạnh liên kết 4 nhà thật chặt chẽ, đảm bảo lợi ích của các bên tham gia, tạo các chính sách kích thích sự liên kết gắn bó, hỗ trợ lẫn nhau.
_ Chính quyền địa phương cũng cần có biện pháp giúp đỡ khuyến khích các trang trại, tạo điều kiện như: chuyển nhượng, dồn điền đổi thửa… tạo điều kiện cho trang trại yên tâm sản xuất.
_ Quy hoạch vùng sản xuất, tạo điều kiện cho phát triển chuyên môn hoá vùng, tạo điều kiện tốt nhất cho sản xuất, điều đó rất cần có sự quan tâm giúp đỡ của các chính sách Nhà nước và địa phương.
3.2.1.7.Giải pháp về cơ sở hạ tầng
Quan tâm đến nâng cấp, cải tạo hệ thống kênh mương, đường giao thông, thông tin liên lạc. Xây dựng các trạm thuỷ lợi nhỏ, các đường liên thôn, liên xã, chợ đầu mối… tạo điều kiện cho tiêu thụ sản phẩm được dễ dàng và đảm bảo cho sản phẩm có chất lượng tốt nhất, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, từng bước nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh.
+ Trước hết, cần hoàn thiện và nâng cấp hệ thống đường giao thông trong huyện, đảm bảo lưu thông hàng hóa, vật tư và nông sản phẩm trong phạm vi toàn huyện. Vấn đề là nâng cấp chất lượng đường giao thông liên huyện, liên xã, phù hợp với yêu cầu phát triển của nông nghiệp hàng hoá và kinh tế nông thôn cũng như KTTT. Giải pháp nâng cấp đường giao thông hiện nay phải coi trọng chất lượng hơn là số lượng. Cần tu bổ, nâng cấp và cải tạo quốc lộ Hai qua huyện, các đường liên huyện nâng cấp về quy mô và làn đường.
+ Hoàn thiện hệ thống điện nông thôn. Hiện nay, điện nông thôn ở huyện đã về 100% số xã, 100% hộ đều có điện thắp sáng. Vì vậy, hoàn thiện hệ thống điện là ổn định nguồn điện, chất lượng đảm bảo…
+ Nâng cấp các công trình thủy lợi trong vùng, đặc biệt là hệ thống đê sông Lô. Hệ thống thuỷ lợi hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu thâm canh cao hơn và đối phó với những biến động bất thường của thời tiết. Yêu cầu tưới tiêu chủ động, tiến tới tưới tiêu theo yêu cầu của sinh trưởng và phát triển của cây trồng đang đặt ra hàng loạt vấn đề kinh tế, kỹ thuật đối với các công trình thuỷ lợi ở huyện. Do đó, cần phải nâng cấp các công trình hiện có để tăng công suất tưới tiêu và cải thiện phương pháp tưới tiêu. Sắp tới, vốn đầu tư xây dựng cơ bản nhấn mạnh vào việc kiên cố hóa kênh mương, gắn kết việc xây dựng kênh mương với hệ thống giao thông nội đồng.
+ Đầu tư, chuyển giao và ứng dụng kỹ thuật mới trong nông nghiệp, hệ thống các trạm kỹ thuật cần được ưu tiên đầu tư vốn, nhân lực, khoa học công nghệ.
+ Tổ chức hệ thống dịch vụ sản xuất, kinh doanh đồng bộ liên hoàn từ các khâu đầu vào cho đến các khâu đầu ra của sản xuất, hình thành hệ thống cung ứng vật tư, kỹ thuật, dịch vụ tư vấn, thông tin…
3.2.1.8. Giải pháp chống rủi ro
Trong sản xuất nông nghiệp gặp rất nhiều rủi ro, ảnh hưởng lớn đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của chủ trang trại nói riêng và của ngành nông nghiệp nói chung. Rủi ro trong nông nghiệp có thể phân thành hai loại chính như sau:
* Thứ nhất: Rủi ro do điều kiện tự nhiên: Đó là lũ lụt, hạn hán, sâu bệnh, sương muối, cháy rừng… xảy ra thường xuyên làm giảm năng suất, chất lượng và số lượng của sản phẩm, gây ảnh hưởng tới kết quả thu hoạch.
* Thứ hai: Rủi ro do yếu tố thị trường, chính sách: Đó là thay đổi về cơ cấu sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đô thị hoá, mất cân bằng giữa cung và cầu… Để đảm bảo sản xuất ổn định, tạo an tâm đối với người sản xuất để tránh rủi ro thì cần áp dụng:
_ Thành lập hiệp hội, câu lạc bộ trang trại để từ đó hình thành các quỹ bảo hiểm về giá trên cơ sở tự nguyện. Nếu sản phẩm bán quá quy định thì người sản xuất nộp một tỷ lệ nhất định để gây quỹ, nếu sản phẩm bán dưới mức quy định thì bù lỗ cho các trang trại.
_ Các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản phẩm khi mua thông qua hiệp hội ký các hợp đồng dài hạn, chi tiết cho từng sản phẩm, đảm bảo cho các trang trại mua đầu vào và bán đầu ra không bị ép giá.
_ Đảm bảo hệ thống thông tin về thời tiết, dịch bệnh gây hại để có công tác chuẩn bị phòng tránh kịp thời, hạn chế đến mức tối đa ảnh hưởng xấu.
Các biện pháp phòng chống sẽ đảm bảo cho sản xuất, thị trường ổn định tạo điều kiện cho các trang trại không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, đảm bảo phát triển KTTT nhanh, mạnh và bền vững.
3.2.1.9. Giải pháp đối với bản thân chủ trang trại
Chủ trang trại cần tự ý thức nâng cao kiến thức sản xuất, kiến thức thị trường để tiến hành sản xuất một cách đúng đắn nhất và hiệu quả nhất.
Về công tác thị trường, các chủ trang trại nói riêng, người sản xuất nông sản nói chung phải chủ động tìm kiếm thông tin chỉ dẫn cần sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất bao nhiêu. Các chủ trang trại cần chủ động xâm nhập thị trường sâu hơn, hiễu rõ nhu cầu của người tiêu dùng để tiến hành sản xuất đúng đắn.
Nâng cao trình độ nhận thức, trình độ quản lý và chuyên môn nghiệp vụ để có thể kinh doanh hiệu quả. Nhanh chóng tham gia các lớp đào tạo về các lĩnh vực:
+ Kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi từng loại cây, con
+ Công nghệ lập quy hoạch cụ thể sử dụng đất đai của trang trại
+ Các vấn đề về kinh tế và quản lý trang trại
Chủ động đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đưa giống mới, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương.
Quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của ngời lao động, tạo mối quan hệ mật thiết giữa chủ trang trại và người lao động, tạo thuận lợi trong công việc và ý thức kỷ luật. Phát huy sáng kiến của người lao động, có chế độ thưởng một cách hợp lý cho những người có sáng kiến lam lợi cho trang trại.
3.2.2. Những giải pháp cụ thể cho từng MH KTTT
Bên cạnh những giải pháp mang tính rộng lớn và mang tầm vĩ mô như đã nêu ở trên, việc nghiên cứu và tìm ra các giải pháp nhằm sử dụng nguồn nội lực tại từng trang trại cũng rất cần thiết để giúp cho các trang trại hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Dựa vào thực trạng MH và kết quả nghiên cứu, chúng tôi đưa ra một số giải pháp cụ thể cho từng MH KTTT như sau:
3.2.2.1. Với MH1:
Có thể nói hiện nay, diện tích chuyển đổi cây hàng năm có giá trị kinh tế thấp sang cây ăn quả tăng rất nhanh. Hiện tại vấn đề tiêu thụ hoa quả của các trang trại trên địa bàn huyện chưa phải là vấn đề đáng lo ngại vì sản phẩm thu được chưa lớn lại gần thị trường TP Việt trì, Vĩnh phúc, Hà nội. Nhưng trong vài năm tới, sản lượng thu hoạch sẽ tương đối lớn, để tránh tình trạng giá cả xuống thấp trong thời vụ làm thiệt hại cho người nông dân thì huyện cần phải có chiến lược tiêu thụ sản phẩm.
3.2.2.2. Với MH2:
Cần được sản xuất xa dân cư, tránh ô nhiễm môi trường hoặc khuyến khích các trang trại xây dựng hầm Biogas vừa xử lý được chất thải, vửa sử dụng khí gas, giảm chi phí cho trang trại.
* Đối với trang trại chăn nuôi gia cầm: Vấn đề đặt ra hiện nay đó là tình trạng dịch bệnh H5N1 đang là vấn đề hết sức bức xúc. Vì vậy, vấn đề an toàn đặt lên hàng đầu, cần xây dựng ở khu vực xa khu dân cư, có biện pháp phòng chống, bảo đảm tốt nhất. Cần có những biện pháp phục hồi và phát triển đàn gia cầm sau dịch cúm. Cần có chính sách hỗ trợ tích cực đối với cán bộ chăn nuôi gia cầm, các cơ sở chăn nuôi bị tiêu huỷ do dịch cúm như: khoanh nợ, hỗ trợ về giống, kỹ thuật phòng chống dịch bệnh… Mặt khác, củng cố tăng cường nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống thú y cơ sở, tăng cường công tác kiểm dịch động vật, kiểm tra, kiểm soát các lò giết mổ… nâng cao nhận thức của người dân về công tác thú y theo Pháp lệnh thú y.
* Đối với trang trại chăn nuôi lợn: Các trang trại trên địa bàn huyện đang sử dụng lợn 1/2 máu ngoại. Đảm bảo cho chất lượng thịt cao, đạt hiệu quả lớn. Trong những năm tới, tăng cường phát triển chăn nuôi, đặc biệt là gia súc phục vụ nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Góp phần chuyển dịch cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp, tăng tỷ trọng chăn nuôi và giảm tỷ trọng trồng trọt, phát triển nông nghiệp cân đối và bền vững.
3.2.2.3. Với MH3:
Tiềm năng chăn nuôi cá ở huyện Phù ninh còn rất lớn. Cần có quy hoạch và tổ chức sản xuất hợp lý, đảm bảo thuận lợi trong quá trình sản xuất. Cần tập trung phát triển theo mô hình VAC khép kín để tận dụng tối đa các điều kiện sản xuất. Đây cũng là điều kiện cần thiết để thực hiện quy hoạch tổng thể sản xuất trên địa bàn huyện.
3.2.2.4. Với MH4:
Đây là MH trang trại hoạt động khá hiệu quả trong huyện. Vì có quy mô diện tích lớn, lại đa dạng cả về cơ cấu sản xuất. Tuy nhiên, qua tìm hiểu tôi được biết các trang trại chưa có quy hoạch cụ thể, hợp lý mà chỉ dừng lại ở mức thiết kế. Vì vậy, dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, nhiều khâu thiếu chọn lọc, thiếu trọng tâm.
MH4 là MH tương đối ổn định, có tính bền vững cao, vì vậy cần sử dụng một cách hợp lý cả về đất đai, lao động, vốn… đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế cao. Kết hợp một cách hợp lý giữa trồng trọt với chăn nuôi, sản xuất với chế biến tổng hợp, có thể nói hình thức hoạt động này chính là xu hướng phát triển của KTTT của huyện Phù ninh trong tương lai.
NHỮNG ĐỀ SUẤT VÀ KIẾN NGHỊ
Nhận thức được vai trò quan trọng của KTTT đối với nông nghiệp và nông thôn và tiềm năng to lớn chưa được khai thác. Để KTTT phát triển nhanh, mạnh và bền vững tôi có một số kiến nghị sau:
- Đối với Nhà nước: cần xem xét lại những chủ trương, chính sách cần thực hiện đồng bộ các chính sách để chính sách thực sự đến với người nông dân.
- Đối với địa phương: cần có biện pháp phổ biến, tập huấn kỹ thuật, giúp đỡ người dân hiểu rõ về KTTT và vai trò của nó. Cần có những biện pháp khuyến nông, khyến lâm; hình thành các câu lạc bộ trang trại, tập huấn kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng: đường giao thông, thông tin liên lạc…
Tiếp tục hoàn thiện công tác cấp giấy chứng nhận trang trại, khuyến khích hộ gia đình thành lập trang trại nhưng đồng thời cũng tránh hình thức chạy theo thành tích mà không có hiệu quả thiết thực.
- Đối với chủ trang trại: Cần nâng cao trình độ kỹ thuật, quản lý, kết hợp quy mô trang trại với nhu cầu thị trường, sản xuất theo thị hiếu. Coi trọng công tác marketing giới thiệu sản phẩm. Tạo mối làm ăn thông qua các hợp đồng để làm ăn ổn định.
KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu thực trạng KTTT ở huyện Phù Ninh, em xin đưa ra kết luận sau:
* KTTT đã thực sự trở thành MH kinh tế vượt trội
So với kinh tế hộ nông dân, KTTT mang lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội cao. KTTT không chỉ phát triển mạnh trên phạm vi cả nước mà còn là mô hình kinh tế chủ yếu ở Phù ninh, đa phần được hình thành trên các xã miền núi có điều kiện thuận lợi phát triển. Các trang trại đã hoàn thành việc phủ xanh đất trống đồi trọc, góp phần hạn chế thiên tai, phòng trừ lũ lụt, xói mòn. Giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao động nhàn rỗi, góp phần giảm nghèo, thay đổi bộ mặt nông thôn.
* Sản xuất kinh doanh của các trang trại còn nhiều hạn chế và thiếu hợp lý
Phát triển KTTT theo hướng tự phát, quy mô đất đai lớn nhưng không đồng đều. Nguồn hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, hầu hết còn chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phương hướng sản xuất kinh doanh chưa có tính khoa học, hệ thống, đa phần chạy theo xu hướng chung của địa phương, kết hợp cây trồng, vật nuôi còn thiếu hợp lý.
Vốn đầu tư còn thấp, không đồng đều giữa các trang trại, đầu tư xây dựng cơ bản còn cao.
Nguồn lao động khá phong phú nhưng việc sử dụng, quản lý và khai thác sức lao động còn thiếu hợp lý, hiệu quả chưa cao. Có trang trại thừa lao động, lại có trang trại không dám sử dụng lao động thuê ngoài. Trình độ tay nghề của lao động chưa cao cộng thêm trình độ quản lý, kỹ thuật của chủ trang trại còn nhiều hạn chế, mức đầu tư cho khoa học kỹ thuật, máy móc kém.
* Tính thị trường chưa thực sự đi vào sản xuất của các TT
Các trang trại đã tạo ra vùng sản xuất hàng hoá lớn, có tỷ suất hàng hóa cao, nhưng việc tiêu thụ còn gặp nhiều khó khăn, sản phẩm chủ yếu tiêu thụ qua tư thương. Giá cả bấp bênh không ổn định, lại luôn bị các nhà buôn ép giá. Những vấn đề đó là do quy luật thị trường tạo nên, các trang trại chưa có biện pháp khắc phục phù hợp và nhận thức đúng đắn về quy luật kinh tế thị trường. Họ chưa có hệ thống Marketing giới thiệu sản phẩm, khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin còn nhiều hạn chế, chưa tạo ra được mối liên hệ và thông tin liên tục giữa các trang trại.
* Tiềm năng khai thác của các trang trại còn lớn
Diện tích rộng, lao động dồi dào, vốn đầu tư lớn… đó là các yếu tố không thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp, điều kiện phát triển trang trại. Ngành chăn nuôi trên địa bàn huyện đang phát triển nhanh, cần tiếp tục phát huy, chú trọng phát triển chăn nuôi đại gia súc bởi địa phương có điều kiện phát triển, nhu cầu hàng hoá đối với các sản phẩm này là cao./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32111.doc