Chuyên đề Thực trạng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác Quản lý đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội tại tỉnh miền núi Cao Bằng

- Cần thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo chương trình kế hoạch của BHXH Việt Nam đã đề ra, quan tâm hơn nữa đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, giải quyết chế độ, quyền lợi cho cán bộ công chức viên chức kịp thời, đúng quy định. Đánh giá công tác từng cán bộ khách quan, công bằng tạo bầu không khí dân chủ đoàn kết động viên cán bộ công chức phát huy trí tuệ, khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao. - Phối hợp với các ngành, các cấp, các cơ quan đơn vị để thực hiện tốt chính sách BHXH. Tăng cường tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức cho các đối tượng tham gia BHXH, BHYT. - Tổ chức tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ công chức, các đơn vị sử dụng lao động triển khai thực hiện tốt các Nghị định của Chính phủ, đưa chính sách BHXH, BHYT đến với mọi người dân. Với các giải pháp như trên hy vọng rằng công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH nói riêng và việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT nói chung sẽ đạt được hiệu quả cao nhất để đưa BHXH, BHYT đến với mọi người dân trong xã hội như trong chiến lược phát triển BHXH Việt Nam đến năm 2010 đã đề ra.

doc148 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1789 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác Quản lý đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội tại tỉnh miền núi Cao Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có đủ khả năng thực hiện các công việc mà vị trí công tác đòi hỏi. Còn đào tạo nâng cao chủ yếu là về chuyên môn nghiệp vụ. Xuất phát từ đặc điểm đó, công tác đào tạo cán bộ, công chức ngành BHXH cần tập trung vào thực hiện các công việc sau: - Căn cứ vào định hướng, mục tiêu phát triển của ngành để xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ chuyên trách nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, dồi dào về năng lực chuyên môn, năng lực quản lý, đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành trong giai đoạn mới. Căn cứ vào tính chất đặc thù của ngành BHXH mà bố trí công chức sao cho hợp lý, đúng nghề, đúng việc, đúng nhu cầu của ngành; Quản lý đội ngũ cán bộ công chức của ngành một cách chặt chẽ, rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ toàn ngành. Thực hiện tinh giảm biên chế có chọn lọc, đào tạo bổ sung, nâng cao một số biên chế có trình độ chuyên môn chưa đủ đáp ứng yêu cầu quản lý, kiên quyết loại bỏ những biên chế “thừa”, mà trình độ chuyên môn nghiệp vụ của họ quá thấp. Với những biên chế này đôi khi chi phí đào tạo lại bằng hoặc đôi khi còn lớn hơn chi phí đào tạo mới một biên chế khác; Xây dựng cơ cấu, số lượng đội ngũ công chức theo quy định chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và các tiêu chuẩn riêng đối với các cán bộ công chức thuộc phạm vi của ngành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ khối lượng công việc, cơ cấu tổ chức bộ máy với mục tiêu là xây dựng đội ngũ công chức có cơ cấu hợp lý, có năng lực và phẩm chất đạo đức. - Nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ công chức trên cơ sở bồi dưỡng và đào tạo lại cán bộ đáp ứng yêu cầu đặt ra trong quá trình hiện đại hoá các hoạt động của ngành. Yêu cầu hiện đại hoá các hoạt động trong điều kiện hiện nay là nhu cầu cấp bách của ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam, chỉ có con đường hiện đại hoá chúng ta mới có thể tăng năng suất lao động, mới có thể quản lý được số lượng lớn đối tượng với yêu cầu ngày càng cao. Từ đó ngành BHXH cần có nhiều chuyên gia giỏi ở nhiều lĩnh vực như: các chuyên gia về chính sách BHXH, các chuyên gia pháp lý, các chuyên gia về tính toán thống kê, đặc biệt là các chuyên gia về tin học, phần mềm- một lĩnh vực mới mà nếu chúng ta có thể vận dụng thì sẽ giải quyết được rất nhiều vấn đề về cả chuyên môn và kỹ thuật một cách đơn giản và hiệu quả hơn nhiều so với phương pháp chúng ta đang làm hiện nay. Loại chuyên gia này ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa được coi trọng. Do đó trong thời gian tới Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần bổ sung thêm những biện chế thực sự cần thiết với từng công việc cụ thể, có như vậy sự nghiệp BHXH mới có thể phát triển vững chắc, hoạt động BHXH mới thực sự mang lại lợi ích cho mọi người lao động cũng như sự ổn định cho toàn xã hội. Đó cũng chính là tính nhân văn vượt trội của BHXH. 1.1.3 Thực hiện tốt ứng dụng Công nghệ thông tin trong quản lý BHXH. Hiện nay ở hầu khắp các nước trên thế giới, Công nghệ thông tin (CNTT) đã và đang phát triển với tốc độ nhanh chóng. Tại Việt Nam, CNTT đã được áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội…Quản lý bằng CNTT sẽ tạo ra được một cơ chế thống nhất dễ dàng hơn cho các doanh nghiệp và các cơ quan, tổ chức trong và ngoài khu vực Nhà Nước thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Trước đây hầu hết việc quản lý đối tượng chính sách bằng phương pháp thủ công nên rất lâu và thường xảy ra sai sót là điều không thể tránh khỏi. Ở một số tỉnh đã đưa máy tính vào hoạt động quản lý đối tượng nhưng chỉ hạn chế trong tính toán đơn giản và lập báo cáo…mà chưa tận dụng triệt để các thành quả của CNTT, và đứng trước số lượng người tham gia BHXH ngày càng đông, sự phức tạp trong quản lý tăng lên nên tất yếu đòi hỏi phải ứng dụng CNTT vào quản lý. Với BHXH sử dụng tính ưu việt của hệ thống máy tính thì những thông tin chính về từng người lao động như: năm sinh, giới tính, thời gian tham gia BHXH, mức lương… và các thông tin về các đơn vị sử dụng lao động như tổng quỹ tiền lương tham gia BHXH, số tiền nợ đọng…đều được quản lý chặt chẽ. Vì vậy bất cứ lúc nào cơ quan BHXH cũng có thể tra cứu trên máy tính các thông tin liên quan đến việc tham gia BHXH của người lao động và người sử dụng lao động. Điều này góp phần thúc đẩy công tác thu chi hợp lý, giảm tối đa chi phí cho hoạt động bộ máy, tiết kiệm thời gian, tăng độ chính xác cho công tác quản lý và đồng nhất dữ liệu trong hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam, đồng thời tăng cường khả năng kiểm tra giám sát đối với các doanh nghiệp, các tổ chức tham gia BHXH cũng như việc thực hiện công tác thu chi của các cán bộ trong ngành. Chính vì vậy không thể phủ nhận được sự tham gia của yếu tố CNTT trong quản lý là một nhân tố tích cực góp phần giúp cho ngành BHXH tạo dựng được một Quỹ BHXH có tính cân đối lâu dài. Cùng với xu thế toàn cầu hoá, ngành BHXH cũng cần phải ứng dụng sự phát triển của CNTT vào trong quản lý BHXH đặc biệt là quản lý đối tượng tham gia BHXH. Việc hoàn thiện công tác quản lý nghiệp vụ BHXH trên máy tính là yêu cầu cấp bách của cả hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Chính vì vậy Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định số 1358/QĐ- TTg ngày 16/01/2001 về “Phê duyệt Dự án phát triển Công nghệ thông tin Bảo hiểm xã hội Việt Nam giai đoạn 2001- 2010”. Đồng thời, chúng ta cũng đã xây dựng lộ trình đưa CNTT vào quản lý BHXH đến năm 2010, gồm 2 giai đoạn 2004- 2005 và 2006- 2010. Những việc làm đó thể hiện quyết tâm cao và nhất quán của lãnh đạo BHXH Việt Nam trong việc ứng dụng CNTT vào quản lý BHXH. Để có thể thực hiện được điều đó thì chúng ta cần chú ý một số điểm quan trọng sau: Một là, cần điều chỉnh và nâng cao nhận thức của việc ứng dụng CNTT, không ít người vẫn còn quan niệm chưa đúng về ứng dụng CNTT: họ chỉ chú trọng việc mua sắm máy vi tính và các thiết bị tin học chỉ để giải quyết công việc soạn thảo văn bản, lập báo cáo, chạy một số ứng dụng đơn giản; quan trọng hoá giải pháp phần mềm, phần cứng mà không chú trọng các phần khác; chưa liên kết được yêu cầu của người quản lý với yêu cầu của người thiết kế, xây dựng phần mềm...Nếu nhận thức không đầy đủ, chúng ta sẽ lãng phí nhiều tiền bạc, thời gian mà không thu được nhiều ích lợi từ việc đó. Để nâng cao nhận thức cần quan tâm đào tạo con người, coi con người là nhân tố quyết định sự thành bại của việc ứng dụng CNTT; song song với việc đào tạo con người, chúng ta cần nhận thức lại vai trò của CNTT nhằm có sự điều chỉnh phù hợp về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy CNTT nói riêng, toàn bộ tổ chức nói chung để CNTT thực sự là công cụ của phương thức quản lý hiện đại, có tính chuyên nghiệp cao. Hai là, xây dựng hệ thống thông tin (cơ sở dữ liệu BHXH) theo chuẩn quốc gia, quốc tế; đảm bảo nguyên tắc đồng bộ để có thể chia sẻ, khai thác, cập nhật, bảo trì. Ba là, cần hoàn thiện quy trình quản lý BHXH với những bước đi hợp lý tiến đến phương thức quản lý BHXH hiện đại, chuyên nghiệp, có khả năng đáp ứng yêu cầu cao việc mở rộng phạm vi, đối tượng BHXH; đồng thời đảm bảo cung cấp dịch vụ BHXH tốt nhất đến tất cả đối tượng tham gia và hưởng BHXH. Bốn là, cần lựa chọn giải pháp phần mềm, phần cứng, bảo mật thông tin đáp ứng yêu cầu quản lý BHXH và phù hợp với sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của CNTT. Lựa chọn giải pháp đúng thì hiệu quả quản lý càng cao, đồng thời chúng ta sẽ tiết kiệm được chi phí do sự lạc hậu, tính không tương thích của công nghệ, bởi sự phát triển quá nhanh của công nghệ trên thế giới. 1.1.4 Nâng cao hiệu quả tuyên truyền về BHXH. BHXH là một chính sách xã hội lớn của Nhà Nước ta nhằm đảm bảo an sinh xã hội và quyền lợi về BHXH cho người lao động khi gặp rủi ro phải tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động. Cùng với sự đổi mới toàn diện và sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung, từ năm 1995 công tác BHXH ở nước ta cũng đã chuyển sang một cơ chế thực hiện các chế độ BHXH hoàn toàn mới so với trước đây. Những nội dung chủ yếu của sự đổi mới chính sách BHXH là: mở rộng đối tượng tham gia BHXH; hình thành một Quỹ BHXH tập trung độc lập do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động; thành lập hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam từ Trung ương đến địa phương để thực hiện chính sách BHXH…Qua hơn 10 năm thực hiện đến nay có thể khẳng định rằng những quan điểm nội dung và phương pháp đổi mới chính sách BHXH của Đảng và Nhà Nước ta là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với mục tiêu đổi mới toàn diện đất nước. Công tác BHXH đã từng bước khẳng định tầm quan trọng và vị thế của mình đối với việc phát triển kinh tế- xã hội của đất nước cũng như việc đảm bảo quyền lợi về BHXH cho người lao động. Tuy nhiên việc thực hiện chế độ chính sách BHXH theo cơ chế mới cũng gặp phải không ít khó khăn vướng mắc cần tháo gỡ. Một trong những khó khăn lớn nhất là việc người lao động, chủ sử dụng lao động chưa nhận thức được đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của chính sách BHXH. Từ đó họ chưa có được thái độ và hành vi đúng đắn trong việc thực hiện chế độ chính sách BHXH theo quy định của pháp luật. Do đó hiện tượng né tránh, trốn nộp BHXH cho người lao động còn khá phổ biến, nhất là khu vực các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Số tiền nợ đọng BHXH của các đơn vị, doanh nghiệp cũng không nhỏ. Trong trường hợp như vậy thì cơ quan BHXH có quyền từ chối chưa giải quyết chế độ BHXH cho người lao động theo nguyên tắc “có đóng, có hưởng”. Rất nhiều trường hợp người sử dụng lao động đã thu tiền BHXH của người lao động nhưng không nộp cho cơ quan BHXH. Người lao động bị lợi dụng, vi phạm quyền lợi của mình về BHXH từ chủ sử dụng lao động mà vẫn không biết, không dám đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình. Nguyên nhân đơn giản là vì họ không có hiểu biết đúng đắn, đầy đủ về chế độ, chính sách BHXH do pháp luật quy định. Chính vì vậy, việc tuyên truyền giải thích nhằm nâng cao nhận thức về BHXH của người lao động và chủ sử dụng lao động có ý nghĩa hết sức quan trọng và cấp bách trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế thực hiện chính sách BHXH hiện nay. Thiết nghĩ, đây không phải là công việc của ngành BHXH mà là nhiệm vụ chung của nhiều ngành, nhiều cấp, của toàn xã hội, bởi đây là việc tuyên truyền, giải thích một chính sách lớn của đảng và Nhà Nước, một nội dung của Bộ luật Lao động và quan trọng hơn nữa là nó góp phần vào việc đảm bảo quyền lợi về BHXH của người lao động, cán bộ công chức và lực lượng vũ trang, những người bằng sự cống hiến của mình góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Để nâng cao hiệu quả tuyên truyền về BHXH đối với người lao động và chủ sử dụng lao động thì trước hết phải xác định rõ nội dung tuyên truyền đó là phải tuyên truyền, giải thích về bản chất, nội dung của chính sách BHXH. Từ đó họ có thể hiểu được bản chất nhân văn, nhân đạo của BHXH, họ có thể phân biệt được sự khác nhau giữa BHXH và các loại hình bảo hiểm thương mại khác. Mặt khác cũng phải tuyên truyền, giới thiệu cho họ về nội dung các chế độ BHXH mà người lao động tham gia BHXH được hưởng. Đặc biệt cần nhấn mạnh nội dung “Tham gia BHXH vừa là nghĩa vụ, vừa là quyền lợi của người lao động”. Việc giải đáp những vướng mắc của người lao động trong quá trình thực hiện các chế độ BHXH, việc phản ánh tâm tư nguyện vọng của người lao động cũng hết sức cần thiết và hợp lý…Những nội dung nói trên cần phải được thể hiện bằng các hình thức các phương pháp thực hiện phù hợp thì mới đạt hiệu quả cao. Do đối tượng tuyên truyền về BHXH là người lao động và người sử dụng lao động nên phải sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền khác nhau mới có thể phù hợp với nhận thức, tâm lý và trình độ của họ. Đối với người lao động nên sử dụng nhiều hình thức trực quan sinh động như truyền hình, sách hỏi đáp về BHXH, tờ rơi giới thiệu về BHXH, các loại ấn phẩm tuyên truyền như áp phích, tranh cổ động, lịch, vật lưu niệm có nội dung BHXH; thông qua các cuộc thi tìm hiểu về BHXH, sáng tác ca khúc về BHXH…kinh phí thực hiện nên được trích từ nguồn kinh phí nghiệp vụ tuyên truyền, chi phí thu của ngành BHXH. Tạp chí BHXH cũng là cơ quan ngôn luận có thể chuyển tải được hầu hết các nội dung nói trên đến với người lao động và người sử dụng lao động. Do đó cần có các biện pháp tăng cường phát hành tạp chí BHXH đến tận cơ sở nhằm góp phần nâng cao nhận thức của họ về BHXH. Sự phối hợp của Bảo hiểm xã hội Việt Nam với các cơ quan thông tin đại chúng như Đài truyền hình Việt Nam, đài tiếng nói Việt Nam, các báo như Nhân dân, Quân đội nhân dân, Lao động, Lao động xã hội, Thời báo tài chính, doanh nghiệp…để tuyên truyền BHXH cũng là một hình thức quan trọng mang lại hiệu quả tuyên truyền cao. Việc nhận thức đúng đắn của người lao động và chủ sử dụng về ý nghĩa và tầm quan trọng của BHXH đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa công tác thông tin tuyền về BHXH cả bề rộng lẫn chiều sâu của hoạt động này. Trước hết nó đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ, có hiệu quả trong công tác tuyên truyền về BHXH giữa Bảo hiểm xã hội Việt Nam với các cơ quan thông tin đại chúng, hệ thống tổ chức công đoàn và các cơ quan có liên quan trong xã hội. Thứ hai, Kiện toàn hệ thống cơ quan BHXH và các tổ chức có chức năng tuyên truyền về BHXH. Thứ ba, Nâng cao năng lực tuyên truyền vận động cho các cán bộ BHXH và cán bộ tuyên truyền về BHXH Thứ tư, Nghiên cứu đặc điểm của đối tượng tuyên truyền và thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tuyên truyền về BHXH phù hợp với những đặc điểm đó. Thứ năm, Thường xuyên phối hợp với các ngành các cấp để nâng cao hiệu quả tuyên truyền về BHXH. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể đạt được hiệu quả như mong muốn, đưa chính sách BHXH đi vào cuộc sống của mọi người lao động trong xã hội. 1.1.5 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và công tác pháp chế trong hoạt động quản lý BHXH Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH là nhằm mục đích đảm bảo cho việc thực hiện chính sách một cách có hiệu quả, bảo vệ được quyền lợi cho người lao động. Để thực hiện công tác này thì cơ quan BHXH tỉnh Cao Bằng cần tiến hành thanh tra kiểm tra thường xuyên, theo kế hoạch, theo chương trình và theo chuyên đề cụ thể, không nên chỉ kiểm tra theo đơn thư khiếu nại một cách đơn thuần và thụ động. Tăng cường kiểm tra các đối tượng thuộc diện bắt buộc tham gia mà chưa chịu tham gia BHXH, kiểm tra tình hình thu nộp BHXH của các đơn vị sử dụng cho người lao động, kiểm tra đối tượng di biến động, thay đổi chỗ ở để có những điều chỉnh kịp thời. Để nắm chắc tình hình thực hiện BHXH cho người lao động tại các cơ quan đơn vị thì các cán bộ chuyên quản phải đến tận nơi kiểm tra giám định tình hình, tiếp xúc trực tiếp với những người lao động tại cơ sở, từ đó có thể phát hiện ra những đối tượng gian lận hay trốn đóng BHXH cho người lao động. Có như vậy mới đảm bảo quyền lợi cho người lao động và tạo dựng được lòng tin của người lao động đối với chính sách BHXH của Đảng và Nhà Nước. Không chỉ có kiểm tra tại các đơn vị, cơ sở mà cần phải kiểm tra cả công tác quản lý BHXH, công tác tiếp nhận và sử dụng thanh toán chi phí KCB- BHYT, kiểm tra các cán bộ trong ngành xem có hoàn thành nhiệm vụ được giao không. Việc đó sẽ góp phần làm trong sạch bộ máy quản lý bởi vì hiện nay vẫn có tình trạng các cán bộ thu ghi chép không đầy đủ theo các biểu mẫu quy định của ngành, không thực hiện đối chiếu số thu với đơn vị sử dụng lao động đúng thời gian quy định làm chậm tiến độ thu BHXH. Để giải quyết vấn đề này thì việc tăng cường phối hợp với các sở ban ngành như Thanh tra Nhà Nước, Viện Kiểm sát Nhân dân, Sở Lao động Thương binh và Xã hội để thực hiện thanh tra, kiểm tra là vô cùng cần thiết. Bên cạnh đó cần có chế tài xử phạt đối với các trường hợp vi phạm, không chấp hành chính sách chế độ BHXH. Đây là biện pháp tăng cường pháp chế trong lĩnh vực BHXH bởi vì hiện nay Nhà Nước chỉ giao cho cơ quan BHXH quyền kiểm tra, chưa giao quyền xử lý các trường hợp vi phạm chính sách BHXH. Nên chăng các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đã được quy định trong Bộ luật lao động và các Nghị định của Chính phủ ai không chấp hành sẽ bị xử phạt theo luật định? có xử lý nghiêm minh đúng người đúng việc, đúng thời gian thì công tác xử lý mới có hiệu quả. Vì vậy đề nghị chính phủ đã giao cho ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam quyền thanh tra, kiểm tra thì có quyền xử phạt. Đây là bài học kinh nghiệm của Thái Lan, Malaysia...đã làm. Mức phạt cũng phải được nghiên cứu điều chỉnh, ít nhất cũng phải bằng mức thu BHXH ở đơn vị đó thì mới có thể làm cho đơn vị đó sẽ không tái phạm. 1.2 Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác Quản lý đối tượng tham gia BHXH. 1.2.1 Cần phải có các biện pháp bắt buộc đăng ký tham gia BHXH. Để có một quy trình đăng ký hiệu quả thì cơ quan BHXH phải sử dụng tất cả các nguồn lực để nhận dạng các đơn vị chưa đăng ký tham gia vào hệ thống BHXH. Có nhiều nguồn thông tin khác nhau có sẵn để xác định và nắm bắt được các chủ sử dụng lao động không chịu đăng ký như: + Các hồ sơ của các cơ quan chức năng của chính phủ chịu trách nhiệm đăng ký thành lập doanh nghiệp hoặc cấp phép hoạt động. + Hồ sơ của các doanh nghiệp tham gia vào các đấu thầu công khai hợp đồng của chính phủ. + Các đơn khiếu nại của người lao động, công đoàn, và của công chúng liên quan tới sự vi phạm quy định BHXH của chủ sử dụng lao động. + Các bố cáo qua phương tiện thông tin đại chúng của các doanh nghiệp mới thành lập. Trên cơ sở dữ liệu có được từ các nguồn thông tin khác nhau, cơ quan BHXH sẽ có khả năng kiểm tra từ các danh mục và hồ sơ gốc của các tài liệu thông tin liên quan tới chủ sử dụng lao động chưa đăng ký, sau đó yêu cầu họ đăng ký thông qua thư, điện thoại… Nếu chủ sử dụng lao động được yêu cầu vẫn không có phản ứng tích cực thì lúc đó các thanh tra lao động và cán bộ cơ quan BHXH nên tới làm việc tại đơn vị yêu cầu họ đăng ký . Nếu biện pháp này cũng không hiệu quả thì cơ quan BHXH phải sử dụng đến biện pháp lý (truy tố) đối với các chủ sử dụng lao động vi phạm để bắt buộc phải tuân thủ. 1.2.2 Cần phải có các chế tài bắt buộc đóng BHXH: + Thông qua các quy định của pháp luật để đề ra các hình phạt cho những chủ sử dụng lao động không đăng ký tham gia và không đóng BHXH cho người lao động. Cụ thể trong Luật BHXH cần quy định một số vấn đề như sau: -Tất cả các chủ sử dụng lao động đều phải tham gia BHXH cho người lao động mà không tính đến số lượng người lao động được thuê. Lý do chính cho quy định này là mục tiêu của các chương trình an sinh xã hội là mở rộng sự bảo đảm xã hội cho càng nhiều người lao động càng tốt. Hơn nữa quy định này sẽ không cho các chủ sử dụng lao động có cơ hội khai giảm số lượng lao động dưới mức quy định của pháp luật nhằm trốn đăng ký với cơ quan BHXH - Yêu cầu tất cả các cơ sở kinh doanh phải có được giấy chứng nhận từ cơ quan BHXH về việc đăng ký và thường xuyên đóng BHXH trước khi cho phép tham gia đấu thầu các hợp đồng của chính phủ. - Trao quyền hạn thích đáng cho cơ quan BHXH để thanh tra các cơ sở kinh doanh và các hồ sơ liên quan để có được thông tin về số lượng lao động thực tế và thu nhập thực tế làm cơ sở tính BHXH của họ. quyền hạn này nên bao gồm quyền đánh giá các trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với các khoản đóng góp không được nộp và mức phạt tương ứng. - Đưa ra các hình phạt dân sự và hình sự thực tế đối với sự vi phạm luật thường xuyên, bao gồm cả các hình phạt đối với việc dây dưa, nộp chậm tiền đóng BHXH... - Thiết lập các toà án đặc biệt để xử các rường hợp kiện chủ sử dụng lao động không có khả năng hoặc từ chối đóng BHXH nhằm tạo điều kiện giải quyết nhanh chóng các trường hợp này. - Tuyên bố ân xá hoặc giảm các hình phạt tích luỹ để khuyến khích các chủ sử dụng lao độngphạm lỗi nộp đầy đủ các khoản nợ BHXH và tuân thủ quy định trong tương lai. - Bắt buộc các chủ sử dụng lao động không đóng BHXH phải chịu trách nhiệm chi các chế độ trợ cấp cho người lao động được quyền hưởng. - Trong trường hợp xảy ra phá sản, ưu tiên cho việc chi trả các khoản nợ BHXH. + Cần có hệ thống giám sát để cung cấp thông tin chính xác về chủ sử dụng lao động không thực hiện trách nhiệm pháp lý trong việc nộp các khoản đóng góp cho cơ quan BHXH. Cần nhấn mạnh rằng chỉ có sự trợ giúp của hệ thống vi tính hoá thì cơ quan BHXH mới có thể thực hiện hiệu quả nhiệm vụ giám sát này, một hệ thống thủ công như hiện nay sẽ không thể hiệu quả được bởi vì nó không có độ chính xác cao, hỗn độn, mất nhiều thời gian và dễ bị sửa đổi và làm sai lệch. + Cơ quan BHXH cũng phải tổ chức một đội thanh tra với mục đích viếng thăm các chủ sử dụng lao động có vấn đề với việc nộp BHXH. Sự thanh kiểm tra được bắt đầu bằng một yêu cầu của hệ thống giám sát, bởi các thắc mắc nhận được từ người lao động, các tổ chức cônng đoàn, ý kiến của công chúng hoặc từ sự nghi ngờ của đội thanh tra. Thông qua sự thanh tra cơ sở kinh doanh và thẩm địnhh hồ sơ của chủ sử dụng lao động, phát hiện ra chính xác số tiền mà chủ sử dụng lao động không đóng góp, thanh tra viên có nhiệm vụ yêu cầu chủ sử dụng lao động phải thanh toán số tiền chưa đóng. Nếu các chủ sử dụng lao động không thực hiện như đã được yêu cầu trong một khoảng thời gian quy định, các thanh tra viên sẽ làm một báo cáo trong đó bao gồm các phát hiện của họ để đưa ra các biện pháp pháp lý phù hợp. Thủ tục thanh tra hợp lý cần được các cơ quan BHXH lập ra để hướng dẫn các thanh tra viên. Cần phải nhấn mạnh rằng với chức năng và quyền hạn của mình các thành viên của đội thanh tra rất dễ bị cám dỗ để thoả hiệp các quyết định của họ, do đó họ cần phải được tuyển chọn kỹ lưỡng, được định hướng và giám sát thường xuyên, tại chỗ bởi các thanh tra cấp cao hơn. Đồng thời cần có sự thuyên chuyển các thanh tra viên hàng năm nhằm đảm bảo các chế tài được thực hiện và tuân thủ chặt chẽ, không thiên vị là điều vô cùng cần thiết. + Biện pháp pháp lý: Việc truy tố các chủ sử dụng lao động vi phạm pháp luật phải được coi là biện pháp cuối cùng, việc này có thể có tác dụng răn đe đối với các đối tượng đang có ý định vi phạm, sự thất bại trong việc truy tố hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc trong việc đưa ra các hình phạt đối với các chủ sử dụng lao động vi phạm sẽ làm cho chương trình BHXH bị mất uy tín và càng tăng cường nhận thức rằng luật có thể bị vi phạm mà không bị trừng phạt. Hậu quả là sẽ kéo theo hàng loạt các chủ sử dụng lao động vi phạm. Như vậy cần phải có một toà án đặc biệt như trên đã đề cập để giải quyết các vụ vi phạm của chủ sử dụng lao động, toà này sẽ giúp giải quyết các vụ việc một cách nhanh chóng, đồng thời cảnh báo nghiêm khắc đối với các đối tượng vi phạm tiềm tàng và chứng tỏ sự quyết tâm của Chính phủ trong việc bắt buộc tuân thủ pháp luật. + Cơ quan BHXH cũng cần phải có các hoạt động hỗ trợ như: Đơn giản hoá các thủ tục thanh toán để tạo điều kiện cho các chủ sử dụng đóng BHXH dễ dàng và thuận tiện nhất; Cung cấp các bản báo cáo đóng BHXH định kỳ cho từng người lao động để họ có thể giám sát chủ sử dụng lao động nộp BHXH cho mình; Thường xuyên tiến hành các chiến dịch thông tin công cộng hướng vào các quy định về chính sách BHXH và những hậu quả nếu vi phạm các quy định đó... Có thể nói rằng những thách thức mà các cơ quan BHXH phải đối mặt để có thể thành công trong công tác thu BHXH là không dễ vượt qua. Nhưng nếu có sự quyết tâm cao của cán bộ công chức tận tụy trung thực và có năng lực của ngành BHXH, sự phối kết hợp của các sở ban ngành cũng như sự hỗ trợ từ phía Chính phủ thì có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách dễ dàng. 1.2.3 Nâng cao vai trò của công đoàn cơ sở trong việc thực hiện chính sách BHXH. Công đoàn cơ sở là nơi trực tiếp tuyên truyền, vận động, triển khai thực hiện các chế độ chính sách BHXH gắn liền với công tác kiểm tra, giám sát bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Là lực lượng đông đảo, đi đầu tưrong việc thực thi các chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà Nước. Tuy nhiên trong thời gian qua việc phối hợp thực hiện chức năng kiểm tra giám sát, bảo vệ quyền lợi của người lao động đối với tổ chức công đoàn mới chỉ dừng lại ở cấp Trung ương, Liên đoàn lao động cấp Tỉnh và một số công đoàn cấp huyện, còn lại các công đoàn cơ sở ở các cơ quan đơn vị đặc biệt là công đoàn cơ sở ở các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế chưa có tiếng nói đích thực trong chức năng vai trò nhiệm vụ của công đoàn theo pháp luật quy định, có chăng cũng chỉ là hình thức. Đặc biệt là ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì thậm chí chưa thành lập công đoàn. Do đó các đơn vị sử dụng lao động cố ý né tránh đăng ký tham gia, trốn đóng BHXH cho người lao động, quyền lợi của người lao động bị cắt xén, thậm chí còn chiếm dụng 5% của người lao động nộp BHXH hàng tháng mà các ngành chức năng chưa có biện pháp xử lý. Ở những nơi đó, một số công đoàn không dám đấu tranh, đòi hỏi quyền lợi chính đáng cho người lao động và cho cả chính mình với nhiều lý do khác nhau. Cán bộ công đoàn cũng là những người làm công ăn lương tại đó nên thiên về công tác chuyên môn hơn là công tác công đoàn, lệ thuộc chủ sử dụng lao động. Bên cạnh đó sự lãnh đạo của Đảng bộ ở các doanh nghiệp chưa tạo điều kiện để công đoàn cơ sở hoạt động đúng chức năng của mình, sự chỉ đạo của công đoàn cấp trên với công đoàn cơ sở chưa kịp thời chưa cụ thể dẫn đến chức năng hoạt động công đoàn trong việc thực thi chính sách BHXH đối với người lao động còn lúng túng. Trình độ, năng lực ban chấp hành công đoàn cơ sở còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy để có thể nâng cao được vai trò của công đoàn cơ sở thì cần phải thực hiện một số giải pháp cụ thể sau: Trước hết, cần có một ban chấp hành có năng lực, phải am hiểu luật pháp, có trình độ chuyên môn giỏi, nhiệt tình trong công tác, biết sống vì mọi người, có tiếng nói thuyết phục được chủ sử dụng lao động. Thứ hai là các cấp Uỷ Đảng, các chi Đảng bộ cơ sở và công đoàn cấp trên thường xuyên tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, tạo điều kiện thuận lợi để công đoàn phát huy tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình trong thời kỳ đổi mới, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của giai cấp, lợi ích của người lao động đúng pháp luật, đó cũng chính là bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền. Thứ ba, chú trọng chăm lo đào tạo bồi dưỡng để cán bộ công đoàn có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về chuyên môn, đủ sức đảm đương nhiệm vụ được giao. Thứ tư, Liên đoàn lao động tỉnh cần sớm củng cố các công đoàn cơ sở, phủ kín tổ chức công đoàn cơ sở ngoài quốc doanh, để họ thực sự là chân rết trong việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà Nước. Đặc biệt là đưa chính sách BHXH sớm đi vào cuộc sống, vì đây là nghĩa vụ và quyền lợi của họ. Như vậy, có thể thấy rằng công đoàn đóng một vai trò không nhỏ trong việc thực hiện chính sách BHXH đối với người lao động, có nâng cao được vai trò của công đoàn ở cơ sở thì công tác quản lý đối tượng tham gia mới được thực thi một cách có hiệu quả và BHXH mới thực sự đến được với người lao động. 1.2.4 Hoàn thiện khâu lưu trữ hồ sơ; cấp, quản lý, sử dụng sổ BHXH. * Khâu lưu trữ hồ sơ tài liệu: Hoạt động BHXH liên quan trực tiếp đến nghĩa vụ và quyền lợi của hàng triệu lao động tham gia BHXH. Vì vậy trong quá trình hoạt động của ngành cũng có hàng triệu hồ sơ của người lao động được cơ quan BHXH các cấp lập, quản lý, khai thác sử dụng ở mức độ và thời gian khác nhau. Những hồ sơ này thường tồn tại trong một thời gian dài, bao gồm từ khi người lao động bắt đầu tưham gia BHXH đến khi đủ điều kiện hưởng BHXH và cả sau khi người lao động bị chết. Nếu chỉ tính riêng hồ sơ liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH của người lao động, cơ quan BHXH đã phải lập, quản lý và lưu giữ trên 40 năm (trường hợp người lao động đi làm từ năm 18 tuổi và nghỉ hưu khi 60 tuổi). Hồ sơ này là căn cứ chủ yếu và tiến tới là căn cứ duy nhất để xác định mức hưởng lương hưu hoặc trợ cấp BHXH khi người lao động đủ điều kiện theo quy định. Vì vậy việc bảo quản lưu giữ hồ sơ của người lao động là hết sức quan trọng và là một đòi hỏi khách quan trong công tác quản lý của ngành nói chung và quản lý đối tượng tham gia BHXH nói riêng. Chính vì vậy chúng ta cần phải có những giải pháp cụ thể đối với công tác quản lý hồ sơ như sau: - Cần phải xác định được loại hồ sơ tài liệu cũng như thời gian lưu trữ ở cơ quan BHXH các cấp, hồ sơ tài liệu phải được tập trung vào một đầu mối để dễ dàng trong công tác bảo quản, khai thác sử dụng khi cần thiết. bên cạnh đó cần phải phân loại được hồ sơ tài liệu đã hết giá trị sử dụng hoặc hết thời hạn lưu trữ để tiêu huỷ nhằm giảm tải số lượng hồ sơ tài liệu đang ngày càng tăng lên nhanh chóng. - BHXH tỉnh phải thành lập một phòng quản lý lưu trữ hồ sơ để phục vụ cho mục đích khai thác sử dụng thông tin một cách nhanh chóng, chính xác. Cũng cần phải đưa CNTT vào quản lý và khai thác, sử dụng hồ sơ tài liệu đang lưu trữ. - Nên chăng Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần có một văn bản quy định thống nhất và chi tiết về công tác lưu trữ hồ sơ, tài liệu trong toàn ngành chứ không phải chỉ trong phạm vi từng đơn vị chuyên môn như hiện nay. * Khâu cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH: Để có thể hoàn thiện khâu này thì BHXH Tỉnh Cao Bằng cần phải tổ chức hướng dẫn cho các đơn vị sử dụng lao động về công tác cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH, trong đó đặc biệt chú ý đến những người trực tiếp làm công tác này ở đơn vị sử dụng lao động; Trong khi xác nhận quá trình tham gia BHXH trên sổ, cán bộ chuyên quản phải tiến hành rà soát để phát hiện các trường hợp sai sót một cách kịp thời để thực hiện cấp, đổi sổ theo quy định; Tiếp tục đôn đốc các đơn vị sử dụng lao động có số lao động chưa được cấp sổ còn thiếu hồ sơ lý lịch và những sổ BHXH tạm cấp, quy định rõ thời hạn, thông báo đến cơ quan quản lý cấp trên và cấp ủy Đảng để tiến hành phối kết hợp giải quyết những tồn tại vướng mắc; Hàng năm tiến hành kiểm tra, rà soát việc cấp, ghi, quản lý, sử dụng sổ theo quy định của BHXH Việt Nam, kịp thời uốn nắn, sửa chữa những sổ ghi sai và tổ chức hủy bỏ sổ hỏng, sổ bị nhòe, mối xông theo quy định, đổi những sổ BHXH do chất lượng giấy nhòe, do đơn vị sử dụng ghi sai không đúng quy định, yêu cầu đơn vị sử dụng lao động bổ sung đầy đủ các yếu tố, tiêu thức còn thiếu như chữ ký của người lao động, số chứng minh nhân dân, nơi sinh, ngày sinh...; Xử lý dứt điểm những đơn vị chưa triển khai cấp sổ cho người lao động sau 3 tháng kí hợp đồng lao động; Cải tiến thủ tục hành chính trong việc cấp sổ BHXH cho người lao động; Xây dựng quy trình quản lý sổ BHXH tại các đơn vị sử dụng lao động để tiện tra cứu theo dõi quản lý; Nghiên cứu các giải pháp khắc phục tình trạng chưa kiểm soát được sổ BHXH từ nơi khác chuyển đến; Bên cạnh đó phải đề cao vai trò trách nhiệm của đội ngũ cán bộ chuyên quản đáp ứng được yêu cầu là những tuyên truyền viên tích cực trong công tác tuyên truyền về chính sách BHXH. Với những giải pháp mới trong khâu cấp, quản lý, sử dụng sổ BHXH, tin tưởng rằng trong thời gian tới BHXH tỉnh Cao Bằng sẽ giải quyết được những khó khăn vướng mắc, đưa công tác này đi vào nền nếp. 1.2.5 Hoàn thiện các công cụ quản lý đối tượng tham gia BHXH. Như chúng ta thấy sổ BHXH, Thẻ BHYT- Phiếu KCB hiện nay chỉ là công cụ quản lý, theo dõi về một mặt, một phạm vi nhất định đối với đối tượng tham gia BHXH hoặc BHYT; nó chưa bao quát được toàn bộ quá trình làm việc, tham gia BHXH, đến việc giải quyết các chế độ, chính sách cho người lao động do vậy chưa thực sự là công cụ hữu hiệu trong việc quản lý đối tượng tham gia BHXH. Chính vì vậy cần phải hoàn thiện hơn nữa các công cụ này để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động trong quá trình tham gia BHXH, BHYT cả về mặt nội dung cũng như hình thức của sổ BHXH, Thẻ BHYT- Phiếu KCB. Đối với sổ BHXH: Hiện nay sổ BHXH chỉ dùng để ghi chép, cập nhật một số thông tin liên quan đến người lao động, đơn vị làm việc, ngành nghề, cấp bậc, công việc, tiền lương, phụ cấp làm căn cứ đóng BHXH, mức đóng BHXH hành tháng...những yếu tố đó chưa đầy đủ hoặc được ghi chép không kịp thời, thiếu chính xác; việc ghi sổ cho người lao động khi có yếu tố thay đổi cũng không được thường xuyên; Trong quy trình cấp sổ, quản lý và sử dụng sổ BHXH thì người lao động chỉ quản lý một tờ khai cấp sổ BHXH, cơ quan BHXH tỉnh thành phố trực thuộc trung ương quản lý một tờ khai của người lao động và danh sách đăng ký cấp sổ BHXH do đơn vị sử dụng lao động lập còn việc quản lý và ghi sổ BHXH do đơn vị sử dụng lao động tiến hành, do vậy việc ghi sổ BHXH có đúng hay không, có kịp thời không nhiều khi chúng ta không thể biết được. Mặt khác, tờ khai cấp sổ BHXH chỉ kê khai được thời gian ban đầu tưừ khi người lao động đi làm việc có tham gia BHXH đến khi được duyệt cấp sổ BHXH, các thời gian làm việc có đóng BHXH tiếp theo chỉ có duy nhất sổ BHXH thể hiện. Do vậy khi xảy ra trường hợp mất sổ BHXH phải kiểm tra, đối chiếu, rà soát nhiều hồ sơ liên quan như tờ khai ban đầu, hồ sơ của người lao động, các quyết định, hợp đồng lao động giấy tờ liên quan tiếp theo do đơn vị sử dụng lao động quản lý, các bản danh sách đăng ký khi nộp BHXH, danh sách tăng giảm lao động- tiền lương của các năm các thời kỳ, các chứng từ, bản đối chiếu thu nộp BHXH...rất mất thời gian và nếu rà soát đối chiếu không khỏi có những sai sót xảy ra. Do vậy phải hoàn thiện công cụ sổ BHXH về phương thức quản lý cũng như đổi mới và hoàn thiện hệ thống các tiêu thức liên quan đến người lao động trong suốt quá trình tham gia BHXH, nó được tập trung lại và do một cơ quan tổng hợp theo dõi và được cập nhật trong một công cụ quản lý duy nhất. Còn đối với việc quản lý phiếu KCB: Hiện nay đối tượng tham gia BHYT được cấp phiếu KCB có thời hạn chỉ một năm, trừ trường hợp nghỉ hưu kinh phí chi trả do BHXH Việt Nam cấp thì phiếu KCB mói có thời hạn dài là 3 năm. Mặt khác những phân tích về tồn tại và hạn chế của phiếu KCB như đã nói ở phần thực trạng cho thấy công cụ quản lý là phiếu KCB còn nhiều hạn chế, nó không theo dõi được quá trình tham gia BHYT của đối tượng bắt đầu tưừ thời gian nào, có những bệnh tật mãn tính, bệnh di truyền hay không ...điều đó có liên quan đến việc chi trả thanh toán cho các cơ sở KCB cũng như việc cân đối quỹ KCB. Vì những lý do đó cần phải đổi mới và hoàn thiện hơn nữa để có thể theo dõi cả quá trình tham gia BHYT cũng như quá trình KCB của đối tượng tham gia. Hiện nay ở nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới đã và đang sử dụng thẻ điện tử trong rất nhiều lĩnh vực như Thẻ tín dụng trong hoạt động Ngân hàng; Card điện thoại, internet; Thẻ mã vạch dùng để ra vào cơ quan công sở...cho nên chúng ta cũng có thể áp dụng Thẻ điện tử trong việc quản lý đối tượng tham gia BHXH, BHYT. Như vậy chúng ta có thể thay thế sổ BHXH, phiếu KCB bằng một loại thẻ thông minh (card điện tử) gọi là "Thẻ BHXH, BHYT". Thẻ này được thiết kế, lập trình sử dụng để quản lý toàn bộ quá trình tham gia BHXH từ khâu đăng ký tham gia vào hệ thống, quá trình đóng góp BHXH, quản lý hưởng khi đã ngừng đóng góp... Đồng thời cũng có thể sử dụng trong việc đi KCB- BHYT sẽ rất thuận tiện cho các đối tượng tham gia BHXH, BHYT. Để người lao động tham gia BHXH, đối tượng tham gia BHYT có được công cụ sử dụng thuận tiện, đồng thời cơ quan BHXH các cấp sử dụng công cụ đó để quản lý một cách hiệu quả nhất thì cần phải tập trung vào một số công việc sau: - Đối tượng tham gia BHXH, BHYT hoặc chỉ tham gia BHYT đều được cấp một Thẻ BHXH, BHYT. Thẻ này có thể sử dụng trong tất cả các trường hợp cập nhật thông tin cá nhân, gia đình, sức khỏe, quá trình đóng BHXH, BHYT; các thông tin về các chế độ đã hưởng BHXH,BHYT. Người được cấp thẻ này có thể sử dụng nó để thanh toán cũng như nhận trợ cấp từ cơ quan BHXH, cơ sở KCB ở bất cứ nơi nào họ muốn và thuận tiện cho họ nhất. - Cơ quan BHXH khi quản lý đối tượng bằng thẻ BHXH, BHYT thì cần phải cập nhật liên tục các thông tin luôn luôn biến động về đối tượng tham gia BHXH, BHYT liên quan đến thời gian đóng, mức đóng BHXH, BHYT của đối tượng trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ. Các thông tin đó được đưa vào lưu trữ, đồng thời sẵn sàng cung cấp cho các cơ quan BHXH trong quá trình quản lý, rà soát, đối chiếu và phục vụ cho công tác tổng hợp thông qua một hệ điều hành quản trị mạng theo chiều ngang và chiều dọc, đảm bảo phục vụ và đáp ứng được yêu cầu quản lý của hệ thống BHXH Việt Nam trong từng giai đoạn, thời kỳ. Bên cạnh đó khi sử dụng Thẻ điện tử thì phải có một mạng lưới máy tính nối mạng từ các cơ quan quản lý Nhà nước, BHXH Việt Nam đến BHXH cấp quận huyện, thị xã... để có thể lấy dữ liệu, khai thác thông tin phục vụ cho hoạt động quản lý BHXH, đồng thời có thể kiểm tra rà soát một cách dễ dàng và có hiệu quả nhất. 2. Kiến nghị 2.1 Đối với Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội - Cần sớm thông qua và nhanh chóng ban hành Luật BHXH, đồng thời phải tạo được sự tương thích giữa Luật BHXH và các Luật khác có liên quan như Luật Lao động, Luật doanh nghiệp, Luật HTX... Đây là chính sách rất lớn, nhạy cảm, có ảnh hưởng lâu dài, vì vậy trước khi thông qua dự án Luật BHXH cần phải tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của cử tri nhất là những người đang tham gia BHXH. - Đề nghị đoàn Đại biểu Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội tăng cường giám sát việc thực hiện pháp luật về BHXH ở địa phương. 2.2 Đối với Chính phủ: - Tổ chức tổng kết đánh giá toàn diện việc tổ chức thực hiện BHXH từ năm 1995 đến nay đẩy nhanh tiến độ soạn thảo dự án Luật trình Quốc hội phê chuẩn. - Chỉ đạo các bộ ngành chức năng, các tỉnh, thành phố để tăng cường công tác quản lý nhà nước về BHXH ở địa phương, ắn trách nhiệm phối hợp của các cơ quan liên quan và chính quyền các cấp với cơ quan BHXH trong việc quản lý đối tượng tham gia BHXH ngay từ khi thành lập doanh nghiệp, tăng cường số lượng, chất lượng thanh tra viên và tổ chức thanh tra, kiểm tra xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm việc thực hiện chính sách BHXH. - Chỉ đạo BHXH Việt Nam và các cơ quan liên quan tăng cường tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động về chính sách BHXH; Củng cố tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực cho cán bộ, viên chức; Cải cách thủ tục hành chính, thực hiện công khai việc đóng- hưởng BHXH ở cơ sở, thông báo định kỳ cho người lao động để tạo thuận lợi cho người sử dụng lao động và người lao động trong việc tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH; Xác định, phân loại đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, phân cấp đến xã phường để quản lý chặt chẽ đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tham gia BHXH theo quy định, trên cơ sở đó định kỳ thông báo cho cơ quan chức năng thanh tra, kiểm tra xử lý việc vi phạm theo luật pháp. - Chỉ đạo các cơ quan chức năng rà soát các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật về BHXH, khắc phục sớm những bất cập trong thực hiện chính sách BHXH, đồng thời xem xét tính khả thi của các văn bản pháp quy mà chính phủ và các bộ, ngành đã ban hành. 2.3 Đối với BHXH Việt Nam - Đề nghị BHXH Việt Nam tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy, của đội ngũ cán bộ, BHXH Việt Nam phải tập trung vào việc kiện toàn cơ cấu tổ chức từ Trung ương đến địa phương theo hướng tinh gọn, hiệu quả, phù hợp yêu cầu nhiệm vụ; Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải tiến lề lối làm việc; Xử lý nghiêm khắc mọi biểu hiện quan liêu cửa quyền, phiền hà sách nhiễu cho người tham gia BHXH; Đồng thời cũng cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, nâng cao nhận thức trình độ phẩm chất chính trị cho đội ngũ cán bộ công chức. - Khi có các chế độ chính sách BHXH, BHYT và các quy định mới bổ sung, sửa đổi, các bộ ngành Trung ương và BHXH Việt Nam cần có các văn bản chỉ đạo sớm để BHXH các tỉnh tổ chức triển khai thực hiện kịp thời. - Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần phải có kế hoạch phổ biến kiến thức tin học cho cán bộ công chức toàn ngành; trang bị đồng bộ hệ thống máy tính với những phần mềm quản lý chuyên dụng và được nối mạng với nhau nhằm dễ dàng trong công tác quản lý, kiểm tra, báo cáo. Bên cạnh đó đề nghị Bảo hiểm xã hội Việt Nam tạo điều kiện về biên chế để mỗi tỉnh có thể tiếp nhận một số chuyên viên kỹ thuật giỏi về vi tính để xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình áp dụng CNTT vào quản lý nhiệp vụ BHXH. - Cần nghiên cứu bổ sung sửa đổi chế độ chính sách BHXH. Đặc biệt là phải có chính sách ưu tiên đối với đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa điều kiện đặc biệt khó khăn phù hợp với từng vùng, miền của Tổ quốc; 2.4 Đối với Tỉnh Ủy, UBND Tỉnh Cao Bằng: - Tiếp tục quan tâm, chỉ đạo các Huyện, Thị, các Sở, Ban, Ngành đoàn thể và các cơ quan thông tin tuyên truyền địa phương phối hợp với BHXH Tỉnh Cao Bằng tuyên truyền sâu rộng về các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà Nước về chế độ chính sách BHXH, BHYT đi đôi với việc chỉ đạo các ngành chức năng phối hợp kiểm tra thực hiện chế độ chính sách BHXH, BHYT trên địa bàn tỉnh. - Cần đầu tưư hơn nữa cơ sở vật chất phục vụ cho công tác quản lý BHXH, đặc biệt là đầu tưư vào các cơ sở KCB trong tỉnh, nhất là các trạm y tế xã, phường để nhân dân và các đối tượng có thẻ BHYT ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn có điều kiện để chăm sóc sức khỏe và KCB tại nơi cư trú. 2.5 Đối với BHXH tỉnh Cao Bằng - Cần thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo chương trình kế hoạch của BHXH Việt Nam đã đề ra, quan tâm hơn nữa đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, giải quyết chế độ, quyền lợi cho cán bộ công chức viên chức kịp thời, đúng quy định. Đánh giá công tác từng cán bộ khách quan, công bằng tạo bầu không khí dân chủ đoàn kết động viên cán bộ công chức phát huy trí tuệ, khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao. - Phối hợp với các ngành, các cấp, các cơ quan đơn vị để thực hiện tốt chính sách BHXH. Tăng cường tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức cho các đối tượng tham gia BHXH, BHYT. - Tổ chức tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ công chức, các đơn vị sử dụng lao động triển khai thực hiện tốt các Nghị định của Chính phủ, đưa chính sách BHXH, BHYT đến với mọi người dân. Với các giải pháp như trên hy vọng rằng công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH nói riêng và việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT nói chung sẽ đạt được hiệu quả cao nhất để đưa BHXH, BHYT đến với mọi người dân trong xã hội như trong chiến lược phát triển BHXH Việt Nam đến năm 2010 đã đề ra. KẾT LUẬN Chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội của Đảng và Nhà Nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay BHXH đang trở thành nhu cầu cấp thiết và đòi hỏi khách quan của người lao động. BHXH là phương tiện để bảo vệ, che chở người lao động khỏi ảnh hưởng trực tiếp của những hạn chế trong cơ chế mớin và là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị xã hội. Cùng với việc đổi mới chính sách BHXH thì việc thực hiện BHXH gặp không ít khó khăn. Những khó khăn trong công tác BHXH có nguyên nhân từ phía người lao động, người sử dụng lao động và cả nguyên nhân chủ quantừ phía cơ quan BHXH. Đó là sự thiếu hụt trong nhận thức của khá nhiều người lao động, chủ sử dụng lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Điều này dẫn đến những thiệt thòi cho người lao động khi có rủi ro xảy ra. Nhiều chủ doanh nghiệp không thực sự tuân thủ các quy định trong việc thực hiện nghĩa vụ về BHXH đối với người lao động mà họ sử dụng. chính vì vậy việc quản lý đối tượng tham gia BHXH là một khâu không thể thiếu trong việc thực hiện chính sách BHXH nhất là ở một địa phương vùng sâu, vùng xa như tỉnh Cao Bằng nhận thức về BHXH chưa được sâu sắc, gây khó khăn cho hoạt động BHXH. Bước sang giai đoạn phát triển mới hy vọng rằng BHXH sẽ phát triển toàn diện hơn để đáp ứng nhu cầu của người lao động trong nền kinh tế quốc dân. Muốn làm được điều đó thì phải dựa trên những tính toán chính xác, cân nhắc thận trọng và phải được sự quan tâm của Đảng và Nhà Nước cũng như các bộ ngành liên quan và các bên tham gia BHXH. Có như vậy công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH mới có những bước đi đúng đắn phù hợp với tình hình hiện tại và định hướng phát triển trong tương lai./. Thời gian thực tập vừa qua đã giúp em tìm hiểu về công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại Tỉnh Cao Bằng, tuy đã cố gắng nỗ lực rất nhiều nhưng không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong được sự góp ý của Giáo viên hướng dẫn Th.s Tô Thị Thiên Hương và toàn thể các thầy cô giáo trong bộ môn. Em xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình kinh tế bảo hiểm. Trường Đại học KTQD – NXB Thống kê, Hà Nội - 2004 2. Các quy định pháp luật về BHXH – NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội – 2003 3. Giáo trình Bảo hiểm xã hội – NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội – 2004 4. Những điều cần biết về BHXH - Hệ thống các văn bản về BHXH – NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 2000 5. Niên giám thống kê 2003, 2004, 2005 6. Bảo hiểm xã hội những điều cần biết - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, năm 1999 7. Báo cáo tổng kết hoạt động của BHXH Việt Nam từ năm 1997 – 2005 8. Một số Công ước của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Hà Nội – 2000 9. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, năm 2001 MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BHXH VÀ QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH 3 I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHXH 3 1. Sự cần thiết khách quan của BHXH. 3 2. Bản chất và chức năng của BHXH 7 2.1 Bản chất: 7 2.2 Chức năng: 9 3. Quan điểm về BHXH 11 3.1. Chính sách BHXH. 12 3.2. Nhà nước và Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ, trách nhiệm BHXH cho người lao động, đồng thời người lao động cũng phải tự BHXH cho mình.. 12 3.3. Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp. . 13 3.4. Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố sau 13 3.5. Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHXH.. 13 4. Quỹ BHXH 13 4.1. Khái niệm: 13 4.2. Nguồn hình thành quỹ BHXH 14 4.2.1 Sự đóng góp của người lao động 14 4.2.2 Sự đóng góp của người sử dụng lao động 14 4.2.3 Nhà nước đồng và hỗ trợ 14 4.2.4 Các ngồn thu khác. 15 4.3. Mục đích sử dụng quỹ BHXH. 16 5. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của BHXH trên thế giới và ở Việt Nam. 17 5.1. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của BHXH trên thế giới. 17 5.2. Quá trình thực hiện BHXH ở Việt Nam. 18 II. QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH, BHYT 22 1. Đối tượng tham gia BHXH, BHYT 22 2. Sự cần thiết phải quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. 28 3. Nội dung quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. 29 3.1. Quản lý đăng ký tham gia BHXH. 29 3.2 Quản lý thu nộp BHXH 33 3.3. Quản lý di biến động đối tượng 36 4. Công cụ quản lý 36 4.1. Quản lý đối tượng tham gia BHXH thông qua công cụ pháp luật. 36 4.1.1. Đối tượng tham gia BHXH: 37 4.1.2 Đối tượng tham gia BHYT: 39 4.2 Quản lý đối tượng tham gia BHXH thông qua công cụ quản lý tác nghiệp 41 4.2.1 Sổ đăng ký đối tượng tham gia BHXH 41 4.2.2 Bản kê khai danh sách người lao động tham gia BHXH: 42 4.2.3 Sổ BHXH. 44 4.2.4 Phiếu khám chữa bệnh, thẻ BHYT 50 4.2.5 Các tài liệu hồ sơ giấy tờ khác: 53 4.2.6 Hệ thống máy tính: 54 4.2.7 Công tác thanh tra, kiểm tra trong quản lý đối tượng tham gia BHXH 54 5. Trách nhiệm của các chủ thể liên quan trong quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. 55 5.1 Nhà Nước 55 5.2 Cơ quan BHXH 56 5.3 Đơn vị sử dụng lao động 56 5.4 Người lao động 56 6. Nguyên tắc trong quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội 56 7. Kinh nghiệm một số nước trên thế giới trong quản lý đối tượng tham gia BHXH 58 7.1 Sử dụng thẻ BHXH để quản lý người lao động ở Mỹ 58 7.2 Sử dụng tài khoản cá nhân ở Malaysia: 60 7.3 Ở một số nước khác: 60 7.4 Tham luận về vấn đề đăng ký tham gia và thu BHXH cùng các chế tài bắt buộc đóng BHXH của ông Hector Inductivo. 62 7.4.1 Về vấn đề đăng ký tham gia chương trình BHXH. 62 7.4.2 Về vấn đề thu đóng góp BHXH. 65 Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở TỈNH MIỀN NÚI CAO BẰNG. 66 I. VÀI NÉT VỀ TỈNH CAO BẰNG 66 1. Giới thiệu chung về tỉnh Cao Bằng: 66 2. Vài nét về cơ quan BHXH tỉnh Cao Bằng 66 2.1 Lịch sử hình thành và phát triển. 66 2.2 Chức năng và nhiệm vụ 67 2.3 Hệ thống tổ chức bộ máy của BHXH Tỉnh Cao Bằng. 69 II. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN BHXH Ở TỈNH CAO BẰNG. 69 1.Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện chính sách BHXH ở Tỉnh miền núi Cao Bằng. 69 1.1 Thuận lợi 69 1.2 Khó khăn 70 2. Những kết quả đã đạt được: 71 III. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH Ở TỈNH CAO BẰNG. 72 1. Công tác đăng ký tham gia BHXH: 75 2. Công tác thu BHXH. 95 3. Quản lý di biến động đối tượng tham gia BHXH. 99 4. Đánh giá công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH 105 Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH Ở TỈNH CAO BẰNG 109 I. MỤC TIÊU CỦA NGÀNH BHXH VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020. 109 II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH TẠI TỈNH CAO BẰNG. 110 1. Giải pháp 110 1.1. Các giải pháp chung cho việc thực hiện chính sách BHXH. 110 1.1.1 Hoàn thiện công cụ quản lý Nhà Nước về BHXH. 110 1.1.2 Tăng cường công tác tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ: 113 1.1.3 Thực hiện tốt ứng dụng Công nghệ thông tin trong quản lý BHXH. 117 1.1.4 Nâng cao hiệu quả tuyên truyền về BHXH. 120 1.1.5 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và công tác pháp chế trong hoạt động quản lý BHXH 123 1.2 Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác Quản lý đối tượng tham gia BHXH. 125 1.2.1 Cần phải có các biện pháp bắt buộc đăng ký tham gia BHXH. 125 1.2.2 Cần phải có các chế tài bắt buộc đóng BHXH: 126 1.2.3 Nâng cao vai trò của công đoàn cơ sở trong việc thực hiện chính sách BHXH. 129 1.2.4 Hoàn thiện khâu lưu trữ hồ sơ; cấp, quản lý, sử dụng sổ BHXH. 131 1.2.5 Hoàn thiện các công cụ quản lý đối tượng tham gia BHXH. 133 2. Kiến nghị 136 2.1 Đối với Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội 136 2.2 Đối với Chính phủ: 136 2.3 Đối với BHXH Việt Nam 137 2.4 Đối với Tỉnh Ủy, UBND Tỉnh Cao Bằng: 138 2.5 Đối với BHXH tỉnh Cao Bằng 139 KẾT LUẬN 140 Tài liệu tham khảo 141 DANH MỤC BIỂU, HÌNH TT Nội dung Trang BIỂU: Biểu 1: Tình hình tham gia BHXH, BHYT bắt buộc tại cơ quan BHXH Tỉnh Cao Bằng (giai đoạn 1996- 2005) 66 Biểu 2: Cơ cấu đối tượng tham gia BHXH, BHYT bắt buộc tại BHXH tỉnh Cao Bằng trong những năm gần đây (2001- 2005) 67 Biểu 3: Tình hình cấp sổ BHXH cho người lao động trên địa bàn tỉnh Cao Bằng (1996- 2005) 72 Biểu 4: Báo cáo tổng hợp tình hình quản lý phiếu KCB, thẻ BHYT Quý IV năm 2005 73 Biểu 5: Tiến độ thu BHXH, BHYT bắt buộc giai đoạn 1996- 2005 75 HÌNH: Hình 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy của BHXH Tỉnh Cao Bằng. 62 Hình 2: Biểu đồ số người tham gia BHYT tự nguyện qua các năm (1996-2005) 70

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36352.doc
Tài liệu liên quan