Trong những năm qua, cùng với quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên cả nước thì quận Cầu Giấy cũng đã có những bước phát triển vượt bậc, trở thành một trong những nơi thu hút lao động và người dân nơi khác đổ về.
Quá trình đô thị hóa đang dần một thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, đẩy người lao động nông nghiệp đứng trước nguy cơ bị thất nghiệp. Trong khi đó vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng ở nhiều nơi còn nhiều bất cập dẫn tới tình trạng thu hồi kéo dài, gây chậm tiến độ thực hiện các dự án. Các vấn đề khác như: môi trường, văn hóa, cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị, quản lý đô thị, an ninh xã hội cũng trở nên phức tạp hơn. Giải quyết việc làm, đảm bảo ổn định đời sống cho lao động nông nghiệp bị mất đất một cách thỏa đáng là vấn đề khó khăn, phức tạp, đòi hỏi thời gian cũng như sự nỗ lực của toàn dân, toàn quận.
84 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1930 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và phương hướng tiếp tục giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp sau khi bị thu hồi đất ở quận Cầu Giấy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quận, vừa tạo việc làm cho lao động nông nghiệp khi mà họ không còn đất canh tác. Hiện tại, toàn Quận có khá nhiều khu chợ: Chợ Xe Máy, chợ Đồng Xa, Chợ Đêm nông sản thực phẩm, chợ 337…
Quận cũng đã có các biện pháp hỗ trợ, đào tạo cho lao động nông nghiệp, đặc biệt là lao động trẻ (dưới 35 tuổi) để họ có thể nhanh chóng tìm được việc làm mới trong công nghiệp hoặc dịch vụ với thu nhập cao hơn và ổn định hơn. Hàng năm, đã tạo được việc làm cho trên 3000 lao động, trong đó có 31 – 35 % lao động đã qua đào tạo. Tuy nhiên, việc đào tạo chưa có bài bản, thiếu chiến lược và kế hoạch rõ ràng, cụ thể. Do vậy, công tác đào tạo chưa thực sự đạt hiệu quả. Cũng có những hộ gia đình tự bỏ tiền ra đi học nghề. Bước đầu đã đem lại kết quả.
Trên địa bàn Quận hiện có hàng trăm khu chưng cư cao tầng, tạo nên dáng vẻ đô thị của một Quận mới được thành lập. Điều kiện sinh hoạt, điện, nước theo kết quả điều tra gần như tốt hơn chỗ ở cũ trước khi thu hồi đất. Điều kiện mua sắm, trường học cũng tốt hơn. Đặc biệt, là vấn đề an ninh. Hiện nay, quan niệm của người dân về tình hình an ninh chủ yếu về tình hình tội phạm như trộm cắp, nghiện hút, mại dâm…Tuy nhiên, cần phải hiểu an ninh theo nghĩa rộng hơn, bao gồm cả những nếp sống đô thị, môi trường nhân văn…Trên thế giới, các quy chế tổ chức an ninh cho các khu ở tập trung rất chặt chẽ. Các ban quản lý được thành lập, những quy ước, quy chế tiếp khách, giám sát người lạ, quản lý dân cư nội bộ được xây dựng. Trên thực tế, ở phần lớn các khu tái định cư, các ban quản lý, các đội tự quản đã được thành lập…Vì vậy, so với điều kiện chung tình hình an ninh trong các khu tái định cư đã được đảm bảo.
Theo kết quả thống kê thì các hộ gia đình sau khi bị thu hồi đất có phương tiện sinh hoạt hiện đại như ti vi, ô tô, máy vi tính…tăng, tuy không nhiều và nếu so sánh với mức tăng chung của xã hội thì vẫn là thấp. Nguồn gốc của tiền dùng để mua sắm phương tiện phục vụ sản xuất và đời sống của các hộ bị thu hồi đất có tới 50% là tiền bồi thường thu hồi đất. Thực tế có nhiều gia đình khi nhận được tiền bồi thường, thay cho đầu tư vào sản xuất là sử dụng tiền đó để xây nhà, mua sắm các đồ dùng đắt tiền để tiêu dùng. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho tư liệu phục vụ đời sống của các hộ bị thu hồi đất tăng lên. Tuy vậy, việc sử dụng tiền bồi thường như vậy sẽ tiềm ẩn những điều bất ổn về thu nhập, đời sống của các hộ bị thu hồi đất, về những vấn đề xã hội sẽ nảy sinh khi nếp sống hiện tại không phù hợp với khả năng tài chính của họ. Sau một thời gian ngắn, số tiền bồi thường thu hồi đất không còn, những hộ này sẽ xử trí thế nào? Đã có những vấn đề tiêu cực như nghiện hút khi dùng tiền bồi thường để tiêu xài hoang phí, gia đình bất hòa khi chia tiền bồi thường không đều, trộm cắp khi không còn tiền…Đây là một thực tế đáng buồn, là hậu quả của thu hồi đất, của bồi thường bằng tiền mà các gia đình và cả xã hội phải gánh chịu…
2.4. Những ưu điểm, tồn tại và những vấn đề đặt ra cần giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp sau khi bị thu hồi đất ở quận Cầu Giấy trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Những ưu điểm nổi bật
Qua phân tích thực trạng trên, ta có thể thấy rõ việc thu hồi đất đã cải thiện đáng kể điều kiện sống cho người dân, tuy so với mức tăng chung của toàn xã hội còn thấp. Nhìn chung, điều kiện điện, nước sinh hoạt, trường học hay điều kiện mua sắm đều thuận lợi cho người dân hơn.
Việc thu hồi đất nông nghiệp, phục vụ cho các ngành khác đã làm cho mức đóng góp của sản xuất nông nghiệp giảm đáng kể, thay vào đó công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh, phù hợp với quá trình CNH – HĐH của cả nước, của toàn Thành phố và của quận Cầu Giấy.
Biểu 16. Giá trị sản xuất các ngành do quận Cầu Giấy quản lý
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
Tổng GTSX
Trong đó
Ngành CN, XD
Ngành DV
Ngành NN
1997
204.912
45.556
148.579
10.777
1998
239.215
55.242
169.174
14.799
1999
313.234
71.554
226.823
14.857
2000
318.543
89.797
215.369
13.377
2001
419.218
172.592
237.948
8.678
2002
550.017
239.807
301.575
8.635
2003
1.003.975
348.881
648.267
6.827
2004
1.201.121
426.400
773.040
1.681
2005
1.436.979
514.632
921.828
519
2006
1.719.151
619.578
1.099.253
320
Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy
Ghi chú: Giá trị sản xuất tính theo giá hiện hành
Như vậy, trong vòng 10 năm từ năm 1997 – 2006, GTSX các ngành đã tăng 1.514.239 triệu đồng với tốc độ tăng bình quân là 128,18. Trong đó, ngành công nghiệp, xây dựng tăng 574.022 triệu đồng với tốc độ tăng bình quân là 35,14%. Ngành dịch vụ tăng 950.674 triệu đồng với tốc độ tăng bình quân là 28,09%. Ngành nông nghiệp giảm 14.479 triệu đồng. Những kết quả trên cho thấy giá trị sản xuất toàn Quận ngày một gia tăng theo chiều hướng tốt, phù hợp với quá trình đô thị hóa.
Những tồn tại và nguyên nhân
Trên địa bàn Quận vẫn tồn tại đất nông nghiệp, nhưng lại bị kẹt giữa các khu chung cư cao tầng. Do vậy, hầu như những diện tích đất đó đều bị bỏ hoang, không thể tiếp tục sản xuất nông nghiệp bởi không có hệ thống thủy lợi. Thu hồi đất nhanh, lao động dư thừa nhiều gây khó khăn trong vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp. Đời sống của người dân bị xáo trộn. Song, Quận chưa có biện pháp hữu hiệu để giải quyết cho phù hợp với tình hình thực tế.
Nguyên nhân:
Nguyên nhân khách quan:
+ Do điểm xuất phát đi lên của Quận thấp; từ xã, thị trấn lên phường nên có nhiều bất cập cả về cơ sở hạ tầng, điều kiện thực hiện, trình độ dân trí, khi đi vào hoạt động càng bộc lộ mâu thuẫn với yêu cầu ngày càng cao của quá trình đô thị hóa. Lao động nông nghiệp do vậy khi bị mất đất, phải chuyển sang lĩnh vực hoàn toàn mới thì lúng túng, không thích ứng được với công việc mới. Ngay cả những khu công nghiệp mở ra ngay trên vùng đất bị thu hồi cũng không tuyển những lao động này bởi họ không đáp ứng được yêu cầu công việc.
+ Các chính sách ban hành ở một số lĩnh vực, nhất là trong quản lý đô thị, giải phóng mặt bằng, …chưa phù hợp với tình hình thực tế, gây khó khăn trong quá trình triển khai, thực hiện nhiệm vụ.
Nguyên nhân chủ quan:
+ Bản thân nội tại kinh tế Quận nhỏ bé nhưng chưa tận dụng, khai thác thế mạnh, đặc biệt là về khoa học kỹ thuật sẵn có trên địa bàn để tạo nhiều khu công nghiệp, thu hút việc làm với lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi.
+ Vấn đề đầu tư cho công tác đào tạo nghề với những người bị thu hồi đất chưa thỏa đáng
+ Công tác quản lý, hướng dẫn người dân trong việc sử dụng hợp lý và hiệu quả số tiền được bồi thường do mất đất
2.4.3. Những vấn đề đặt ra nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp sau khi bị thu hồi đất chuyển đổi mục đích sử dụng
Việc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia là một yêu cầu khách quan, mang tính tất yếu của quá trình CNH – HĐH đất nước. Nó đã, đang và sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ trên cả nước nói chung, trên địa bàn quận Cầu Giấy nói riêng. Trong thực tế vẫn còn những nhận thức khác nhau về vấn đề này. Một số người đã quá nhấn mạnh đến khuyết điểm, phủ nhận những kết quả nhận được. Ngược lại, có người lại quá nhấn mạnh kết quả, bỏ qua những vấn đề kinh tế - xã hội đã và đang tiềm ẩn nếu không có nhận thức và có biện pháp xử lý hậu quả sẽ là không nhỏ. Cần phải thấy rằng, việc thu hồi đất trong Quận thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng kể. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội được nâng cấp, được xây mới ngày càng nhiều, càng hiện đại và đồng bộ. Các đô thị mới như Khu đô thị mới Trung Yên, Làng Quốc tế Thăng Long, Khu đô thị mới Yên Hòa, Khu đô thị mới Trung Hòa – Nhân Chính được xây dựng to đẹp và hiện đại. Tuy vậy, bản thân vấn đề thu hồi đất nông nghiệp cũng có những mặt trái của nó.
Để phục vụ cho việc thu hồi đất, giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho người có đất bị thu hồi, ngoài Luật đất đai năm 1993 và được sửa đổi năm 2003, Chính phủ đã ban hành khá nhiều văn bản làm cơ sở pháp lý chi việc giải quyết các vấn đề đó, như:
Quyết định số 186/HĐBT ngày 31/5/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về bồi thường thiệt hại cho đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển đổi mục đích sử dụng.
Nghị định số 90/CP ngày 17/8/1994 của Chính phủ về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất.
Nghị định 181/NĐ-CP ngày 29/10/2004 hướng dẫn thi hành Luật đất đai năm 2003.
Nghị định 197/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương hướng xác định giá đất và khung giá các loại đất, v.v…
Trên cơ sở các Nghị định của Chính phủ, quận Cầu Giấy cũng đã đưa ra hàng loạt văn bản cụ thể tới từng phường sao cho vừa không trái với những quy định ở trên, vừa phù hợp với hoàn cảnh thực tế của Quận.
Tuy vậy, Quận vẫn chưa có một chiến lược, một quy hoạch và một kế hoạch rõ ràng, có cơ sở khoa học vững chắc về vấn đề này. Bởi vậy, việc tiến hành thu hồi đất, bồi thường và giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho người dân diễn ra còn lúng túng, và trong chừng mực nào đó còn mang tính tùy tiện.
Đứng trên quan điểm phát triển mà xét, việc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia chính là điều kiện và thời cơ tốt nhất để chúng ta chuyển bộ phận quan trọng lực lượng lao động nông nghiệp, là khu vực có năng suất lao động thấp, sang công nghiệp và dịch vụ, là khu vực có năng suất lao động cao. Muốn làm được việc đó, đi đôi với kế hoạch và quy hoạch sử dụng đất, thu hồi đất cần phải có kế hoạch đào tạo nghề cho những người bị thu hồi đất và có kế hoạch sử dụng họ sau khi đào tạo. Để làm được điều đó là phải có sự đầu tư thỏa đáng cho công tác đào tạo nghề cho người bị thu hồi đất, rất tiếc là điều này vẫn chưa làm được. Người dân mất đất tự đào tạo, tự tìm việc là chính, việc làm linh tinh vẫn là chính. Nền kinh tế đang dịch chuyển sang hướng sản xuất hàng hóa, công nghiệp hóa, nhưng sự dịch chuyển của lao động lại theo chiều hướng ngược lại đối với những người bị thu hồi đất.
Một vấn đề nữa cũng hết sức cấp bách mà Quận vẫn chưa chú ý giải quyết, đó là việc hướng dẫn người dân trong việc sử dụng hợp lý và hiệu quả số tiền được bồi thường do mất đất. Số hộ sử dụng tiền bồi thường để đầu tư sản xuất, kinh doanh, đầu tư cho đào tạo nghề nghiệp, mua bảo hiểm xã hội, v.v…không nhiều. Đa phần các hộ chi vào việc xây nhà cửa, mua sắm các phương tiện sinh hoạt đắt tiền. Nhìn bề ngoài có vẻ như đời sống của họ được cải thiện rõ rệt, tuy nhiên, bên trong tiềm ẩn một nguy cơ bất ổn rất lớn. Không nghề nghiệp, không có thu nhập ổn dịnh, chẳng mấy chốc, số tiền bồi thường sẽ hết. Lúc ấy, đội quân thất nghiệp sẽ gia tăng nhanh chóng.
Trong Quận, kế hoạch thu hồi đất luôn gắn với kế hoạch tái định cư. Việc chuyển đến các khu tái định cư đã làm thay đổi bộ mặt đô thị của Quận. Tuy nhiên, cũng không ít vấn đề nảy sinh tại các khu tái định cư, ảnh hưởng tới tâm tư, tình cảm của người dân. Ở những tầng cao, hiện tượng nước sinh hoạt thiếu vẫn còn xảy ra. Nhiều hộ gia đình trước khi bị thu hồi đất ở mặt đường, công việc kinh doanh, buôn bán tốt. Sau khi bị thu hồi đất, chuyển đến khu tái định cư, đồng thời, công việc cũng mất đi. Đời sống gặp nhiều khó khăn.
Chương 3
NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TIẾP TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP SAU KHI BỊ THU HỒI ĐẤT CHUYỂN ĐỔI MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG
Quan điểm và phương hướng tiếp tục giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi ở quận Cầu Giấy trong thời gian tới
*Dự báo về xu thế đô thị hóa trên địa bàn Quận: Sự gia tăng quá trình đô thị hóa trên địa bàn Quận trong tương lai đang và sẽ tác động đến quy hoạch phát triển của Quận theo hai hướng:
Thứ nhất: Tác động tích cực
Quá trình đô thị hóa của Quận nằm trong quá trình đô thị hóa của Hà Nội theo hướng xây dựng thành phố hiện đại, văn hóa, môi trường. Định hướng nội dung và các chính sách phát triển của Quận trước hết phải phù hợp những yêu cầu chung phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô. Hơn nữa, quá trình đô thị hóa trên địa bàn Quận một khi được nhìn nhận trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của Thành phố như một hệ thống phát triển đồng bộ và toàn diện sẽ giúp chính quyền Quận tận dụng tối đa những lợi thế của đô thị hóa, chủ động tạo điều kiện phát triển, nâng cao đời sống dân cư đi đôi với đóng góp hơn nữa cho GDP Hà Nội. Sự gia tăng đô thị hóa trong những năm tới sẽ thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Quận theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ và công nghiệp, giảm tỷ trọng nông nghiệp, đồng thời đặt ra trong quy hoạch phát triển việc tăng yêu cầu sử dụng các công cụ quản lý, các chính sách quản lý và hạng mục đầu tư phát triển đô thị cũng như yêu cầu tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển năng động của các thành phần kinh tế, phát triển hợp tác giữa các cộng đồng dân cư với các cấp lãnh đạo, các tổ chức chính quyền, tổ chức tư nhân.
Thứ hai: Tác động tiêu cực
Quá trình đô thị hóa trong tương lai sẽ đặt Cầu Giấy trước một loạt thách thức mới. Cầu Giấy có sức thu hút dân cư lớn từ các quận nội thành và huyện ngoại thành, nhất là lao động nông nghiệp do sức hút của quá trình đô thị hóa làm cho lực lượng lao động dư thừa, thất nghiệp ngày càng tăng, dẫn tới nhiều tệ nạn xã hội.
Tại các phường ven đô, do phần lớn đất canh tác và hoạt động sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp dưới tác động của quá trình đô thị hóa, dẫn đến nhiều ngành nghề sản xuất (nghề nông, nghề truyền thống) cũng ngày càng bị thu hẹp hoặc mất dần. Nhiều hộ gia đình còn chưa tìm được hướng đi cho mình khi gia đình họ không có nghề phi nông nghiệp nào khác. Số tiền họ nhận được qua việc đền bù đất đai trong nhiều trường hợp không được sử dụng một cách có hiệu quả. Hoạt động dịch vụ, thương mại và sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở một số phường ven đô còn chưa phát triển. Hơn nữa, trên địa bàn lao động nông nghiệp chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ lớn. Trong khi tình hình thu hồi đất lại diễn ra rất phức tạp và nhanh chóng. Điều đó đã khiến cho lao động nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn để ổn định cuộc sống sau khi bị thu hồi đất… Ngoài ra, công tác quản lý phường hiện nay do những đòi hỏi thực tế khách quan khác với công tác quản lý làng, xã trước kia, trogn khi đó một số cán bộ phường theo quán tính vẫn còn mang lề lối làm việc và tác phong của cán bộ làng – xã, chưa được đào tạo một cách toàn diện và quản lý hành chính nhà nước.
*Dự báo cơ cấu kinh tế quận Cầu Giấy đến năm 2010:
Cơ cấu theo lãnh thổ:
Công nghiệp mở rộng: 57,6%
Dịch vụ : 42%
Nông nghiệp : 0,4%
Cơ cấu theo Quận quản lý
Công nghiệp mở rộng: 18,2%
Dịch vụ: 80,8%
Nông nghiệp: 1%
* Dự báo cơ cấu kinh tế quận Cầu Giấy đến năm 2020:
Cơ cấu theo lãnh thổ:
Công nghiệp mở rộng: 46,19%
Dịch vụ: 53,8%
Nông nghiệp: 0,01%
Cơ cấu theo Quận quản lý:
Công nghiệp mở rộng: 17%
Dịch vụ: 82,95%
Nông nghiệp: 0,05%
3.1.1. Các quan điểm chủ đạo phát triển kinh tế - xã hội quận Cầu Giấy trong thời gian tới
Thế giới bước vào thế kỷ XXI với tinh thần tăng cường hòa bình, đối thoại và hợp tác trong sự cạnh tranh toàn diện ngày càng gay gắt và ưu tiên cho mục tiêu kinh tế, vì sự tồn tại, phát triển và tiến bộ chung của mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng, mỗi cá nhân, cũng như của toàn nhân loại. Đặc biệt, với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO (ngày 7/11/2006) đã mở ra cho Việt Nam những cơ hội mới, tập trung phát triển kinh tế - xã hội, đẩy nhanh tốc độ, nâng cao hiệu quả thực hiện quá trình CNH – HĐH đất nước, tham gia rộng rãi và bình đẳng hơn vào các tiến trình và quan hệ kinh tế quốc tế. Bên cạnh những thuận lợi đó thì thách thức cũng không nhỏ, đặc biệt là trong việc thu hẹp chênh lệch trình độ phát triển nhiều mặt với các nước khu vực về năng lực thể chế, về kinh tế, khoa học – kỹ thuật, về hệ thống hạ tầng kỹ thuật, về mạng lưới dịch vụ xã hội và đào tọa nhân lực; lẫn trong việc phát huy và kết hợp hiệu quả các nguồn lực trong nước và nước ngoài, thực hiện tốt các cam kết và sự an toàn trong hội nhập.
Vị thế của Thu đô Hà Nội được Nghị quyết 15/NQ-TƯ của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô đến năm 2010 khẳng định: “là trái tim của cả nước, đầu não Chính trị - Hành chính quốc gia, Trung tâm lớn về văn hóa giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế”.
Trên cơ sở các đặc điểm tự nhiên, thực trạng kinh tế - xã hội, những xu thế phát triển trong và ngoài nước và định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố, cũng như tính đến các tiềm năng, lợi thế so sánh và khả năng hợp tác trên mọi lĩnh vực của quận Cầu Giấy với các quận, huyện và với các địa phương khác trong và ngoài Thành phố, việc quy hoạch tồng thể và sự điều hành quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong 10 năm tới của quận Cầu Giấy cần quán triệt quan điểm sau:
Quan điểm 1: Chủ động và kết hợp hài hòa trong quản lý xây dựng đô thị, phát triển kinh tế - xã hội Quận phù hợp với định hướng chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của thành phố đến năm 2010.
Quan điểm 2: Phát huy mọi tiềm năng và lợi thế của Quận, khai thác và kết hợp có hiệu quả các nguồn lực trên địa bàn, thúc đẩy sự hợp tác và liên kết cao với các địa phương khác trong và ngoài Thành phố, cùng Thành phố tham gia tích cực vào quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Quan điểm 3: Kết hợp hài hòa giữa yêu cầu đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế và đô thị hóa, với yêu cầu phát triển bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái, giải quyết các vấn đề xã hội, giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống Thăng Long – Hà Nội. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, củng cố hệ thống chính trị, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự đô thị, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
3.1.2. Phương hướng tiếp tục giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi ở quận Cầu Giấy trong thời gian tới
Trong những năm tới, việc thu hồi đất sẽ tiếp tục diễn ra không ngừng mạnh mẽ hơn, mà còn trên phạm vi rộng hơn. Quận hiện nay cũng đã có công văn xuống các phường, đề rõ phạm vi không gian, thời gian của việc thu hồi đất tới các hộ gia đình. Do vậy, số người cần bảo đảm việc làm, ổn định đời sống cũng sẽ lớn hơn hiện nay rất nhiều. Đây là vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải có sự nỗ lực của toàn Quận. Căn cứ vào quy hoạch tổng thể, vào những quan điểm chủ đạo về phát triển kinh tế - xã hội của Quận trong thời gian tới, Quận đã đề ra phương hướng, chiến lược cho việc giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong thời gian tới.
Thứ nhất, cần phải đứng trên quan điểm phát triển để giải quyết vấn đề thu hồi đất và bảo đảm việc làm cho người dân có đất bị thu hồi
Đất đai như chúng ta đã biết, nó là sản phẩm của tự nhiên, tặng vật của tự nhiên cho con người, là điều kiện của lao động. William Petty đã từng nói "đất đai là cha, còn lao động là mẹ của mọi của cải vật chất"
Trong nền kinh tế thị trường, đất đai là một trong 4 yếu tố chủ yếu hợp thành đầu vào của quá trình sản xuất (đất đai - lao động - vốn - công nghệ). Tuy nhiên, vai trò của đất đai trong từng ngành, từng lĩnh vực sản xuất, kinh doanh có khác nhau. Đối với các ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ, văn hoá, xã hội,... đất đai là nền móng để dựng nhà xưởng, và các công trình cần thiết. Nhưng đối với lĩnh vực nông nghiệp, đất đai lại có một vai trò hết sức quan trọng. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được. Khác với các loại tư liệu sản xuất khác là sau một thời gian sẽ hao mòn giá trị sử dụng thì sản xuất của đất đai là vô hạn nếu chúng ta biết bồi dưỡng, cải tạo đất. Tuy vậy, đất đai cũng bị giới hạn về mặt không gian diện tích. Chúng ta không thể tuỳ ý mở rộng diện tích đất theo ý muốn. Bởi vậy, khi chúng ta lấy đất nông nghiệp sang sử dụng cho lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ...thì cần phải có những chính sách để sử dụng đất thật hiệu quả. Chủ trương thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia...của nước ta nói chung, trên địa bàn quận Cầu Giấy nói riêng thực chất là thực hiện việc phân bổ lại nguồn lực đất đai giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, để sử dụng hợp lý hơn, hiệu quả hơn nguồn lực quý giá này, bảo đảm nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, sớm thực hiện được nghị quyết do đại hội Đảng lần thứ IX đề ra là đến năm 2020 về cơ bản nước ta thành một nước công nghiệp.
Nguồn lực đất đai đã được chuyển dịch và phân bố theo hướng CNH - HĐH và đô thị hoá, do vậy phương hướng để giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi của quận Cầu Giấy là cũng phải được thực hiện theo hướng đó, tức là tạo cho họ có việc làm đòi hỏi chuyên môn, kỹ thuật cao hơn trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ với thu nhập cao hơn, ổn định ơn, đồng thời, có cuộc sống đầy đủ hơn, văn minh và hiện đại hơn.
Với chủ trương đó, trong thời gian qua, quận Cầu Giấy đã đưa họ đến khu tái định cư ở những khu đô thị mới. Cảnh quan đô thị Quận đã thay đổi rất nhiều so với trước đây. Cầu Giấy ngày càng mang dáng dấp của một đô thị văn minh, hiện đại với những khu chung cư cao tầng.
Thứ hai, đảm bảo hài hòa giữa các lợi ích: Lợi ích quốc gia, lợi ích của người dân có đất bị thu hồi và lợi ích của các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh cơ sở hạ tầng, trong đó, lợi ích quốc gia là chủ đạo, lợi ích của người dân là cơ sở xuất phát, lợi ích của các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh cơ sở hạ tầng là quan trọng.
Như đã nói, để có sự phát triển, trong quá trình thu hồi đất, cần có chính sách để đảm bảo lợi ích thỏa đáng. Việc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia có liên quan đến nhiều mối quan hệ lợi ích.
Về phía người dân bị thu hồi: Vấn đề thu hồi đất là vì lợi ích của quốc gia, của Thành phố, của Quận, thế nhưng thu hồi đất lại ảnh hưởng đến lợi ích cơ bản và có thể nói là vấn đề sống còn của mỗi người dân có đất bị thu hồi. Họ không còn ruộng để sản xuất, không có việc làm truyền thống quen thuộc của họ. Tuy được di chuyển đến những căn hộ chung cư sang trọng nhưng dù sao cuộc sống của họ cũng bị xáo trộn. Do vậy, nếu không đảm bảo cho họ được việc làm, có thu nhập thường xuyên và ổn định thì sẽ lâm vào cảnh khó khăn. Chính vì vậy, trong quá trình thu hồi đát để phục vụ khu công nghiệp, khu đô thị, giải quyết việc làm cho người dân có đất bị thu hồi là vấn đề đặt ra hàng đầu.
Về phía nhà đầu tư, có thể đó là Nhà nước với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng và lợi ích quốc gia, có thể đó là chủ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau do mua quyền sử dụng đất của dân nên sẽ có đất để phát triển khu công nghiệp, khu đô thị, phát triển các doanh nghiệp tiến hành sản xuất – kinh doanh, thu lợi nhuận cao hơn khi chưa vào khu công nghiệp, khu đô thị.
Quá trình thu hồi đất diễn ra thành công hay không phụ thuộc vào việc giải quyết các mối quan hệ lợi ích này có đúng đắn hay không. Nhận thức rõ về mối quan hệ này, Quận luôn ưu tiên giải quyết lợi ích cho lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi, coi đó là gốc rễ thắng lợi của chủ trương thu hồi đất để phục vụ CNH – HĐH. Quận cũng đã có công văn xuống các phường chỉ đạo việc thu hồi đất, nêu rõ là cán bộ địa phương cần công tâm, trong sạch, liêm khiết.
Thứ ba, cần theo nguyên tắc thị trường, đồng thời, Quận cần tạo môi trường và thực hiện điều tiết để đảm bảo việc làm, ổn định đời sống cho lao động nông nghiệp bị thu hồi đất
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên giải quyết việc làm cho người dân có đất bị thu hồi để phục vụ quá trình CNH – HĐH và đô thị hóa phải được thực hiện theo cơ chế kinh tế thị trường, nguyên tắc pháp luật và chính sách phù hợp. Do vậy, việc bồi thường, đền bù, thu hồi đất, xây dựng các khu tái định cư, giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất cần tuân thủ theo nguyên tắc thị trường. Điều này thể hiện trước hết ở giá cả đền bù giải tỏa và giá đất, giá nhà các khu tái định cư phải được hình thành trên nguyên tắc thỏa thuận giữa Nhà nước với người dân, giữa các doanh nghiệp với người dân.
Đồng thời, theo nguyên tắc thị trường, cũng đòi hỏi người lao động phải nâng cao tính chủ động trong việc tìm việc làm, sử dụng tiền đền bù để có thu nhập ổn định, và sớm ổn định đời sống của bản thân và gia đình.
Bên cạnh đó, Quận cũng phải tăng cường vai trò điều tiết của mình, giúp các phường thực hiện một cách đồng bộ, hợp lý, vừa giải quyết được lợi ích của người dân, của doanh nghiệp; vừa tuân theo quy định của pháp luật, theo chủ trương quy hoạch của Thành phố Hà Nội.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp sau khi bị thu hồi đất
Vấn đề việc làm là vấn đề cơ bản và lâu dài để phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Đối với quận Cầu Giấy, đây vừa là vấn đề cấp bách trước mắt, vừa là vấn đề có tính lâu dài. Bởi lẽ, hiện nay, số lượng lao động chưa có việc làm ở quận Cầu Giấy ngày càng gia tăng. Mặc dù hàng năm, Quận đã giải quyết được một số lượng lớn công việc cho người lao động nhưng vẫn chưa thể đáp ứng nhu cầu việc làm ngày càng tăng. Nhất là đội ngũ lao động nông nghiệp, sau khi Quận tiến hành thu hồi đất đai, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, thương mại hay để xây dựng các khu đô thị…Lao động nông nghiệp bị mất đất, yêu cầu phải chuyển sang lĩnh vực khác nhưng họ lại chưa thực sự thích ứng được với công việc mới. Trong thời gian qua, Quận đã có nhiều biện pháp để giải quyết vấn đề khó khăn này, tuy vậy, vẫn chưa thực sự có hiệu quả. Sau đây là một số giải pháp chủ yếu tiếp tục giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp sau khi bị thu hồi đất.
3.2.1. Nhóm giải pháp về công tác tổ chức và quản lý
3.2.1.1. Công tác quy hoạch kinh tế, xã hội, quy hoạch đất đai, tổ chức tái định cư
Thực tiễn những năm qua cho thấy, công tác dự báo, quy hoạch, kế hoạch phát triển đô thị, các khu công nghiệp có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Do công tác dự báo, quy hoạch và kế hoạch chưa tốt nên việc đảm bảo việc làm cho người dân có đất bị thu hồi trong những năm qua được thực hiện một cách thụ động. Do đó, thứ nhất, về dài hạn và trên tổng thể nền kinh tế cần phải có sự gắn kết giữa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Quận nói chung, chiến lược phát triển các ngành kinh tế kỹ thuật, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu vực kinh tế, các khu công nghiệp, khu đô thị…với chiến lược phát triển, phân bố và sử dụng nguồn nhân lực, chiến lược đào tạo ngành nghề để chuẩn bị một đội ngũ lao động phù hợp với yêu cầu của việc thu hồi đất ở từng địa phương, từng vùng.
Thứ hai, cần nắm rõ thực trạng tình hình lao động, việc làm ở những khu vực có đất bị thu hồi, từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo lao động thật chi tiết, cụ thể. Cần xây dựng đề án phát triển nguồn nhân lực tầm dài hạn cho đến 2020 để tạo việc làm cho dân cư.
Thứ ba, khắc phục tình trạng “quy hoạch treo”, đất đã được thu hồi nhưng không triển khai dự án theo đúng tiến độ, hoặc chủ đầu tư nhận đất nhưng cũng không triển khai xây dựng dẫn đến dân mất đất không có việc làm, còn doanh nghiệp cũng không thu hút được lao động vào làm việc. Đây là hiện tượng phổ biến và gây làng phí lớn, dân rất bất bình.
3.2.1.2. Tăng cường vai trò và trách nhiệm của chính quyền các cấp trong việc thu hồi, tạo việc làm cho người dân bị mất đất
Đây là một trong những yếu tố quyết định đến thành công của công tác giải phóng mặt bằng để xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị…Muốn vậy, mọi cam kết với dân cần phải được thực hiện một cách nghiêm túc. Chính quyền phải cùng dân tháo gỡ những khó khăn trong quá trình thực hiện. Trong đó, cán bộ lãnh đạo cấp cao của Quận nên trực tiếp đối thoại để giải quyết những vấn đề gay cấn nhất trong việc thu hồi, đền bù, giải tỏa, cũng như trong việc giải quyết việc làm, tổ chức đời sống cho người dân thì việc giải phóng mặt bằng sẽ tiến hành thuận lợi.
Trước khi giải phóng mặt bằng, cán bộ Ban đền bù, cán bộ các ban ngành có liên quan của địa phương xuống với dân, động viên, giải thích mọi vướng mắc để người dân chấp thuận nhận tiền đền bù, tạo điều kiện giải phóng mặt bằng nhanh. Sau giải phóng mặt bằng, giải tỏa, cán bộ công chức các ngành có liên quan cần tiếp tục đến với dân ở khu tái định cư, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của người dân, để có những giải pháp kịp thời phù hợp, kiến nghị với các cấp có thẩm quyền để giải quyết.
3.2.1.3. Đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn lao động nông nghiệp
Như đã phân tích ở trên, hiện nay chất lượng nguồn lao động trong Quận còn thấp, nhất là đội ngũ lao động nông nghiệp bị mất đất. Do vậy, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn lao động là vấn đề cấp bách hiện nay, đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Quận.
3.2.1.4. Thông tin, tuyên truyền và giáo dục
Cần làm cho người dân hiểu rõ sự cần thiết và ý nghĩa quan trọng của việc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia. Cần làm cho người dân hiểu rõ, từ nước nông nghiệp truyền thống muốn trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thì phải đẩy mạnh CNH đất nước và chỉ như thế thì mới đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân mới được nâng cao. Rõ ràng việc thu hồi đất trong những năm qua để phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị đã có tác động rất tích cực đối với quá trình CNH, đô thị hóa. Vì thế, cần làm cho người dân thấy rõ tác động này và có thái độ thực hiện nghiêm túc Chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc thu hồi đất.
Bên cạnh đó, cần sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền sâu rộng cho nhân dân hiểu rõ mục tiêu, các bước tiến hành, các thủ tục phải thực hiện và chính sách của Nhà nước trong việc thu hồi đất. Nên có chương trình phát thanh truyền hình tuyên truyền cho người dân về vấn đề này để cung cấp cho người dân thông tin về quy hoạch các khu công nghiệp, khu đô thị, về tiến độ thời gian thực hiện, về cơ hội nghề nghiệp cho người dân.
Ngoài ra, cũng nên tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục từ các cơ quan đoàn thể để hỗ trợ.
3.2.1.5. Công tác giải phóng mặt bằng
Phải đồng bộ và nhất quán trong công tác chỉ đạo thực hiện các cơ chế, chính sách thu hồi đất giải phóng mặt bằng một cách phù hợp với thực tế
Cần đảm bảo sự đồng bộ trong việc giải quyết giữa thu hồi đất với việc làm của người dân có đất bị thu hồi.
Đảm bảo sự đồng bộ trong chính sách giữa chính sách thu hồi với chính sách tái định cư, giữa giá đất thu hồi và giá đất áp dụng cho thuê, giao đất
Đảm bảo sự đồng bộ trong xây dựng các khu tái định cư
Đảm bảo sự đồng bộ về chất lượng và thời gian tiến hành các công việc chủ yếu trong toàn bộ quá trình thu hồi đất.
Đảm bảo sự đồng bộ giữa tái định cư với giải phóng mặt bằng
Phải đảm bảo sự đồng bộ giữa đội ngũ cán bộ làm công tác thu hồi đất với quy mô và tốc độ thu hồi đất nhằm thực hiện các dự án.
3.2.1.6. Xuất khẩu lao động
Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động trong đó chú trọng tuyển lao động nông nghiệp đã qua đào tạo nghề.
Tăng cường đầu tư, hỗ trợ tài chính và khuyến khích người lao động tham gia vào các khoá học giáo dục hướng nghiệp và đào tạo nghề trước khi tham gia xuất khẩu lao động để đảm bảo chất lượng nguồn lao động để xuất khẩu. Chú trọng ưu tiên đào tạo những lao động sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp, những lao động trẻ ở độ tuổi từ 18 – 24. Thực hiện liên thông, liên kết giữa các doanh nghiệp xuất khẩu lao động với các cơ sở đào tạo và chính quyền Quận để tạo nguồn cung lao động cho các hoạt động xuất khẩu lao động cũng như đầu ra cho lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi đã tham gia các khóa đào tạo nghề, đáp ứng nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài.
Bên cạnh việc xúc tiến mở rộng thị trường xuất khẩu lao động chất lượng cao, cần đẩy mạnh việc khai thác thị trường lao động truyền thống, các thị trường có nhu cầu tuyển dụng lao động chất lượng thấp, lao động giản đơn để lao động nông nghiệp có cơ hội tham gia vào hoạt động xuất khẩu lao động. Nghiên cứu xây dựng chính sách, các biện pháp quản lý, giám sát hoạt động xuất khẩu lao động phù hợp và có hiệu quả. Trong đó cần có các chế tài đủ mạnh để xử lý những trường hợp vi phạm kỷ luật về xuất khẩu lao động nhằm hạn chế những tiêu cực phát sinh gây thiệt hại về kinh tế đối với người lao động, làm mất trật tự an toàn xã hội, đảm bảo uy tín của Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế cũng như hiệu quả của hoạt động này dối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta.
Nhà nước cần sớm ban hành và triển khai thực hiện Luật xuất khẩu lao động làm cơ sở thuận tiện cho việc quản lý cũng như tạo sự minh bạch, rõ ràng nghiêm minh trong hoạt động xuất khẩu lao động. Đặc biệt cần quan tâm đào tạo nghành nghề cho người lao động xuất khẩu để đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu lao động, hết hạn hợp đồng xuất khẩu lao động về nước được tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh ở trong nước nhằm sử dụng nguồn vốn và các kỹ năng lao động trong quá trình tham gia lao động ở nước ngoài, qua đó phát huy được hiệu quả hoạt động xuất khẩu lao động đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội.
3.2.1.7. Công tác tổ chức thực hiện
Cần huy động và có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng trong thu hồi đất, giải quyết việc làm thu nhập và đời sống cho người dân.
Tăng cường đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai, tổ chức các khu tái định cư
Những năm gần đây, khối lượng quy mô thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất tăng lên nhanh chóng. Và trong những năm tới, dự án quy hoạch tổng thể trên toàn Quận là sẽ không còn diện tích đất nông nghiệp, do vậy, công tác đào tạo cho đội ngũ cán bộ này là hết sức cần thiết. Cần có các lớp đào tạo ngắn ngày, bồi dưỡng nghiệp vụ có liên quan cho đội ngũ này. Đặc biệt, cần có cơ chế chính sách về tiền lương, thu nhập cho đội ngũ cán bộ chuyên trách trong công tác này, cũng như có cơ chế thưởng phạt nghiêm minh, sao cho tiền lương của họ đảm bảo được cuộc sống bình thường theo mặt bằng giá cả để họ yên tâm công tác, đồng thời, khuyến khích họ hăng hái nhiệt tình, có trách nhiệm cao trong công việc và có đủ điều kiện để giữ phẩm chất của người cán bộ.
3.2.2. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách
3.2.2.1. Chính sách về tạo việc làm cho người bị thu hồi đất
Trước hết, trong hệ thống chính sách liên quan đến thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai, thì trách nhiệm của Nhà nước đối với chính sách việc làm chưa thực sự thỏa đáng. Do đó, Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống chính sách liên quan đến vấn đề này. Sau đó là trách nhiệm của Quận. Quận có nhiệm vụ triển khai, vận dụng chính sách Nhà nước một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của Quận, với tình hình thực tế thị trường hiện nay.
Chính sách hỗ trợ bằng tiền là chưa đủ, bởi lẽ không phải bất cứ lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi, nhờ vào tiền hỗ trợ cũng có thể học được nghề mới, tìm được chỗ làm việc mới. Trong điều kiện chất lượng lao động của Quận thấp, trình độ văn hóa thấp, thiếu thông tin về nhu cầu nghề nghiệp và nhiều lý do khác nhau đã hạn chế cơ hội tìm được nghề nghiệp mới. Do đó, mặc dù nhận được tiền để chuyển đổi nghề nghiệp, nhưng số người chuyển đổi được nghề nghiệp, tìm được việc làm mới trong Quận là chưa nhiều.
Đối với độ tuổi thanh niên, việc thu hút lực lượng lao động này vào các khu công nghiệp có điều kiện thuận lợi hơn, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Trong Quận đã quy định mỗi ha đất thu hồi phục vụ cho dự án, chủ doanh nghiệp phải đào tạo và sử dụng một lực lượng lao động nhất định của địa phương. Trên thực tế, có doanh nghiệp tuyển dụng lao động tại chỗ, nhưng sau một thời gian lại phải thải hồi, hoặc vì số lao động này không đáp ứng được nhu cầu công việc, hoặc vì không quen với yêu cầu của lao động công nghiệp nên xin ra khỏi nhà máy, xí nghiệp…Kết quả là lao động trẻ vẫn không có việc làm.
Khó khăn lớn nhất là đối với số lao động lớn tuổi (từ 35 tuổi trở lên). Mặc dù rất có kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp, song khi bị thu hồi đất thì lao động này rất khó thích nghi với môi trường mới. Tuổi lại cao, khó được tuyển vào các doanh nghiệp, việc tham gia các khóa đào tạo chuyển nghề đối với họ là rất khó khăn so với lao động trẻ, nên nguy cơ thất nghiệp toàn phần và kéo dài đối với họ là rất lớn.
*Một số giải pháp cụ thể về chính sách tạo việc làm cho người bị thu hồi đất
Thứ nhất, với tình hình trên, trong quá trình xây dựng các dự án đô thị hóa cần xác định vị trí xứng đáng của chỉ tiêu số nơi làm việc có thể tạo ra được cụ thể là:
Số việc làm có thể tạo ra của khu vực đô thị hóa
Số lao động có thể thu hút vào việc làm tại các gia đình bị mất đất
Số việc làm gián tiếp có khả năng tạo ra được do quá trình đô thị hóa
Trong điều kiện chất lượng lao động của Quận thấp như vậy và trong sự cạnh tranh mạnh mẽ, cần chú ý tới số việc làm được tạo ra gián tiếp từ các khu vực công nghiệp, dịch vụ. Theo một số kết quả nghiên cứu sự tác động của các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có thể tạo ra việc làm gián tiếp là trên 1,95, cá biệt có trường hợp doanh nghiệp có tỷ lệ 1/59. Có nghĩa là 1 người có việc thì có 59 có việc làm gián tiếp được tạo ra. Những việc làm gián tiếp này tạo ra do hình thành hệ thống mạng lưới phục vụ đời sống cho công nhân: bán hàng, các dịch vụ, văn hóa nhu yếu phẩm…Vì vậy, khi quy hoạch, lấy đất nông nghiệp sang phục vụ lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, đô thị…thì cần quan tâm đến sự hình thành hệ thống việc làm được gián tiếp tạo ra và hệ thống chính sách cần có để thu hút, khuyến khích phát triển…Nước ta là một nước được coi là an toàn để các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư, nhưng trên thực tế có chế chính sách của nước ta vẫn còn nhiều bất cập, nhiều khi gây cản trở trong thu hút đầu tư nước ngoài. Cầu Giấy cũng nằm trong xu thế chung đó. Tuy nhiên, trên địa bàn Quận hiện nay, số lượng các công ty có vốn đầu tư nước ngoài là không lớn, nếu không muốn nói là còn quá khiêm tốn. Do đó, Quận cần có những cơ chế chính sách thông thoáng hơn để thu hút đầu tư.
Thứ hai, đối với người lao động nông nghiệp từ 35 trở lên, khó có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp khi bị thu hồi đất, Quận cần dành một phần đất trong hoặc sát với khu công nghiệp cấp cho nông dân để tổ chức các hoạt động dịch vụ như xây nhà cho thuê, bán hàng tạp hóa, quán ăn, sửa chữa xe máy…phục vụ sinh hoạt cho các khu công nghiệp.
Chính sách này Quận đã áp dụng vào bước đầu đem lại hiệu quả. Theo kết quả điều tra cho thấy, người dân rất ủng hộ chính sách này.
Thứ ba, đối với lực lượng lao động thanh niên: Quận cần có kế hoạch đào tạo nghề và tuyển dụng lao động trẻ vào làm việc cho các doanh nghiệp tại địa phương hoặc đi xuất khẩu lao động. Khi thực hiện di dân tái định cư hoặc thu hồi đất, cần đánh giá đúng thực trạng lao động, việc làm của những hộ sau khi bị thu hồi đất. Trên cơ sở đó, các cơ sở dạy nghề, các doanh nghiệp mới có được kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động sát với yêu cầu của các doanh nghiệp. Điều này tránh cho người lao động không đủ năng lực nhưng vẫn theo học để rồi lại hoặc tự bỏ nghề, hoặc bị doanh nghiệp sa thải. Với lực lượng lao động trẻ này nên dùng một phần tiền đền bù để đào tạo nghề bắt buộc cho họ, đồng thời có cơ chế buộc các doanh nghiệp phi nông nghiệp được sử dụng đất thu hồi phải có trách nhiệm tuyển dụng số thanh niên được đào tạo này vào làm việc.
Thứ tư, Quận cần chủ động hướng dẫn người dân sử dụng tiền đền bù một cách có hiệu quả.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tạo việc làm cho người lao động chưa đầy đủ là vấn đề về vốn. Tuy nhiên, đối với những lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi đều được tiếp nhận đền bù. Như vậy, các đối tượng này là có vốn, thậm chí là vốn lớn. Nhưng họ vẫn chưa thực sự biết làm ăn, kinh doanh. Do đó vấn đề đặt ra là cần có cơ chế chính sách quản lý số vốn này, hướng dẫn họ vào việc làm đảm bảo cho cuộc sống. Thông thường đối tượng tiếp nhận đền bù thường sử dụng vốn vào mấy dạng:
Số tiền được đền bù nhiều: Xây dựng nhà cửa, mua sắm thiết bị nâng cao đời sống
Số được đền bù ít: Thường bổ sung vào chi tiêu hàng ngày phục vụ ăn uống, giải trí.
Số ít đầu tư vào sản xuất phát triển nghề phụ
Thực tế cho thấy, ở một số nơi, sau khi nhận tiền đền bù người lao động dùng vào chi phí ăn tiêu, một thời gian sau lại rơi vào cảnh nghèo khổ không có việc làm. Vì vậy, đối với những trường hợp trên, chúng ta cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Cần giải thích và hướng dẫn cho người lao động, làm cho họ hiểu nên dùng tiền đền bù vào công việc gì thì có lợi, tránh tình trạng sử dụng vào việc ăn chơi tiêu xài trước mắt.
Khi xây dựng kế hoạch đền bù cho từng hộ cần yêu cầu họ xây dựng các dự án, chương trình kế hoạch sử dụng vốn đền bù, trong đó đặc biệt chú ý tới chương trình kế hoạch đầu tư tạo việc làm hoặc đầu tu cho giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong trường hợp không có chương trình kế hoạch thì nên chi trả cho họ theo một tỷ lệ nhất định, phần còn lại gửi vào ngân hàng, để họ hưởng lãi của ngân hàng. Tuy nhiên, đây là việc hết sức khó khăn, bởi lẽ nếu không khéo léo sẽ dẫn đến sự phản đối của người dân ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình giải phóng mặt bằng.
Bên cạnh giải pháp sử dụng nguồn vốn do đền bù mà có, cần có chính sách cho vay vốn với lãi suất ưu đãi để đầu tư tạo việc làm như vay vốn từ Quỹ quốc giải quyết việc làm, Quỹ hỗ trợ người dân, Ngân hàng phục vụ người nghèo…
3.2.2.2. Chính sách về đền bù và bồi thường thiệt hại
Vấn đề đền bù và bồi thường thiệt hại tuy đã được Quận tập trung giải quyết, nhưng hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Những tranh chấp và khiếu kiện hiện nay liên quan rất nhiều đến việc đền bù và bồi thường thiệt hại của người dân có đất bị thu hồi bởi một số lý do như: giá đất đền bù chưa sát với giá thị trường, quan hệ giao dịch đất đai còn mang nặng tính chất hành chính, nặng về ép buộc, thậm chí cưỡng chế mà không dựa trên cơ sở thỏa thuận…Do đó, trong cơ chế chính sách đền bù và bồi thường thiệt hại cho lao động nông nghiệp cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, chính sách đền bù và bồi thường thiệt hại phải đảm bảo tính đủ giá trị quyền sử dụng đất cho người dân có đất bị thu hồi. Giá trị quyền sử dụng đất này phải được xây dựng trên cơ sở mặt bằng giá cả tính đến lợi ích thỏa đáng cho người dân.
Thứ hai, áp dụng nguyên tắc địa tô chênh lệch hai đối với đất đai được chuyển đổi mục đích sử dụng và phần chênh lệch này phải tập trung vào ngân sách nhà nước. Khi chuyển đổi từ đất nông nghiệp sang đất chuyên dùng, xây dựng các khu đô thị, rõ ràng giá đất có sự thay đổi. Do có san lấp, xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng giáo dục, y tế, văn hóa, giao thông, điện, nước nên giá trị đất đai tăng lên. Chính vì thế, Nhà nước cần có sự tính toán đầy đủ sự gia tăng này để bù đắp chi phí. Phần còn lại phải tập trung vào ngân sách nhà nước. Có sự điều tiết như thế mới đảm bảo được sự công bằng giữa người dân có đất bị thu hồi với các đơn vị được thu nhận đất, khắc phục được tình trạng bất hợp lý hiện nay giữa giá đất nông nghiệp thu hồi với giá đất và nhà ở do các đơn vị xây dựng bán cho người dân.
Thứ ba, áp dụng nguyên tắc thỏa thuận thay cho ép giá. Việc thu hồi đất là vì mục tiêu phát triển chung mà lợi ích cuối cùng là người dân được hưởng, song đối với những đối tượng trực tiếp có đất bị thu hồi phải chịu sự xáo trộn về việc làm, về cuộc sống. Vì thế, để người dân thựuc hiện lợi ích chung, Nhà nước phải đảm bảo lợi ích trước mắt và thiết yếu của họ. Vì thế vấn đề giá cả đất thu hồi phải được xác lập trên nguyên tắc giữa người dân với các cơ quan thực thi của Nhà nước, mà trực tiếp ở đây là với chính quyền Quận.
3.2.2.3. Chính sách về công tác tái định cư
Từ thực tế xây dựng các khu tái định cư cho người dân có đất bị thu hồi trong bản thân nội tại Quận đang nảy sinh nhiều bất cập, các khu tái định cư thực hiện với tiến độ chậm, giải tỏa nhiều nhưng tái định cư không đựơc giải quyết kịp thời; Chất lượng các khu tái định cư kém và không đồng bộ; Bố trí tái định cư chưa khoa học, thiếu các biện pháp hỗ trợ sản xuất và đời sống đúng mức cho dân cư. Điều đó làm cho người dân có đất bị thu hồi lo ngại, cuộc sống bị xáo trộn, thậm chí còn gây mất lòng tin của người dân đối với Nhà nước, hoặc có biểu hiện chống đối, không muốn đến khu tái định cư, làm cho tiến độ bàn giao đất bị chậm. Do vậy, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Thứ nhất, đảm bảo sự đồng bộ của các khu tái định cư. Trong các khu tái định cư, nhất thiết phải có trường học, bệnh viện, chợ, nước sạch để đảm bảo cuộc sống bình thường cho người dân.
Thứ hai, về quy trình thực hiện: Phải đảm bảo chỉ khi nào có được các khu tái định cư đảm bảo điều kiện sinh sống cho người dân mới thực hiện thu hồi đất. Quận cần xây dựng Quỹ tái định cư để phục vụ cho việc đền bù, giải tỏa: Nguồn vốn này được hình thành từ nguồn thu về đất.
Thứ ba, cần xây dựng các chế tài cần thiết để đảm bảo cho việc thực hiện chính sách tái định cư một cách nghiêm minh. Ở đây, quan trọng nhất là tạo ra một chế tài buộc các bên cố liên quan tới thu hồi đất, đền bù thiệt hại, giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi, v.v…phải thực hiện công việc công khai, minh bạch, rõ ràng và người dân phải được tham gia giám sát một cách thực sự.
3.2.2.4. Chính sách xã hội trong công tác thu hồi đất và giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho người có đất bị thu hồi
Thứ nhất, các khu tái định cư phải được đảm bảo về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội như giao thông, điện, nước sạch; Phải có trường học cho các cháu từ nhà trẻ, mẫu giáo đến phổ thông cơ sở; Phải có bệnh viện và chợ cho dân cư ổn định sinh hoạt. Vấn đề nước sạch cần phải được quan tâm giải quyết kịp thời bởi trong Quận, hiện tại một số khu tái định cư cho lao động nông nghiệp sau khi bị thu hồi đất chưa đáp ứng được vấn đề này. Những tầng cao thường xuyên bị thiếu nước.
Thứ hai, cần thực hiện nguyên tắc chừng nào các khu tái định cư không đảm bảo các điều kiện trên thì chưa nghiệm thu; và nếu chưa nghiệm thu khu tái định cư thì cũng chưa thực hiện việc di dời, giải phóng mặt bằng.
Thứ ba, cán bộ công chức trong bộ máy quản lý phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc nghiệm thu các khu tái định cư nếu không được xây dựng theo đúng thiết kế, không đồng bộ, hoặc không đảm bảo chất lượng.
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, cùng với quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên cả nước thì quận Cầu Giấy cũng đã có những bước phát triển vượt bậc, trở thành một trong những nơi thu hút lao động và người dân nơi khác đổ về.
Quá trình đô thị hóa đang dần một thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, đẩy người lao động nông nghiệp đứng trước nguy cơ bị thất nghiệp. Trong khi đó vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng ở nhiều nơi còn nhiều bất cập dẫn tới tình trạng thu hồi kéo dài, gây chậm tiến độ thực hiện các dự án. Các vấn đề khác như: môi trường, văn hóa, cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị, quản lý đô thị, an ninh xã hội…cũng trở nên phức tạp hơn. Giải quyết việc làm, đảm bảo ổn định đời sống cho lao động nông nghiệp bị mất đất một cách thỏa đáng là vấn đề khó khăn, phức tạp, đòi hỏi thời gian cũng như sự nỗ lực của toàn dân, toàn quận.
Quận Cầu Giấy là một quận mới thành lập trên cơ sở các xã nông nghiệp là chủ yếu nên có những khó khăn riêng. Quận luôn có những chính sách ưu đãi, khuyến khích đối với những cá nhân và tập thể mong muốn làm ăn, mở rộng sản xuất trên địa bàn quận. Quận cũng đã có những chính sách, chiến lược phát triển kinh tế, xã hội. Tuy vậy, vì là vấn đề khó khăn, phức tạp nên chưa thể giải quyết ngay được. Ủy ban nhân dân quận Cầu Giấy đã quyết tâm đầu tư tập trung và triển khai nhanh quy hoạch các dự án phát triển đô thị, tránh tình trạng đất đã có quy hoạch bỏ hoang hóa không xây dựng, nhằm nâng cao chất lượng đô thị và quản lý đô thị.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội quận Cầu Giấy giai đoạn 2001 – 2010 - Ủy ban nhân dân quận Cầu Giấy
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010 quận Cầu Giấy
Các tài liệu báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy
Báo cáo thống kê diện tích đất đai của Phòng Tài nguyên môi trường quận Cầu Giấy
Niên giám thống kê Hà Nội 1996 – 2000
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – kỳ 1 – tháng 4/2006
Tạp chí Cộng sản số 19 – tháng 7/2003
Thực trạng thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia – Đề tài độc lập cấp Nhà nước – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Tạp chí Lao động và xã hội số 246 (1 – 15/9/2004), số 247 (16 – 30/9/2004)
Đoan Trang: Giải tỏa nhiều, tái định cư không bao nhiêu – Báo Tuổi trẻ, ngày 24/8/2005
Đền bù thu hồi đất “sát giá thị trường” – trang web Vietnamnet – ngày 27/3/2004
Thu tiền sử dụng đất đối với trường hợp được đền bù: Cần được quy định thêm 13/10/2005.
MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
Biểu 1. Tình hình lao động bị mất việc làm trong nông nghiệp do thu hồi đất giai đoạn 2001 – 2005 22
Biểu 2. Dân số và lao động quận Cầu Giấy 27
Biểu 3. Nguồn lao dộng quận Cầu Giấy 28
Biểu 4. Diện tích đất thu hồi bình quân mỗi hộ phân theo loại đất 33
Biểu 5. Biến động đất nông nghiệp của các huyện ngoại thành Hà Nội 34
Biểu 6. Biến động diện tích đất nông nghiệp quận Cầu Giấy thời kỳ 1998 – 2007 37
Biểu 7. Diện tích đất nông nghiệp quận Cầu Giấy giai đoạn từ năm 2005 – 2007 40
Biểu 8. Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi thời kỳ 1998 – 2006 41
Biểu 9. Tiền bồi thường bình quân một hộ phân theo loại đất ở quận Cầu Giấy 44
Biểu 10. Cơ cấu lao động quận Cầu Giấy giai đoạn 1998 – 2006 46
Biểu 11. Cơ cấu nghề nghiệp của người dân có đất bị thu hồi trước khi bị thu hồi đất 47
Biểu 12. Cơ cấu nghề nghiệp của người dân có đất bị thu hồi sau khi bị thu hồi đất 48
Biểu 13. Tình trạng việc làm người lao động 50
Biểu 14. Mức thu nhập bình quân của người dân ở quận Cầu Giấy 50
Biểu 15. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp quận Cầu Giấy giai đoạn 1998 – 2003 52
Biểu 16. Giá trị sản xuất các ngành do quận Cầu Giấy quản lý 55
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32099.doc