Chuyên đề Tìm hiểu hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần quân đội

Lời nói đầu 1 Chương 1 : HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG 2 1.1. Ngân hàng Thương mại (NHTM) 2 1.1.1. Khái niệm NHTM 2 1.1.2. Hoạt động cơ bản của NHTM 2 1.2. Hệ thống NHTM Việt Nam 5 1.2.1 Cơ cấu tổ chức 5 1.2.2 Quản trị điều hành 7 Chương 2 : THỰC TRẠNG VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ QUẢN TRỊ ĐIỀU HÀNH TẠI NHTM CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI 10 2.1. Vài nét về NHTM cổ phần quân đội 10 2.1.1 Sự ra đời của NHTM cổ phần quân đội 10 2.1.2 Cơ cấu tổ chức và quản trị điều hành của NHTM cổ phần quân đội 11 2.2. Kêt quả kinh doanh của ngân hàng trong những năm gần đây 16 2.2.1 Đánhgiá chung 16 2.2.2 Báo cáo kết quả kinh doanh của NHTMCP Quân Đôi. 17 Chương 3 : MỘT SỐ Ý KIẾN NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA NHTM CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI 22 3.1. Đánh giá chung hoạt động của ngân hàng 22 3.1.1 Những mặt mạnh 22 3.1.2 Hạn chế và nguyên nhân 23 3.2. Một số giải pháp 29 3.2.1 Giải pháp ở tầm vĩ mô 29 3.2.2 Giải pháp đối với NHTM cổ phần quân đội 31 Kết luận 35 Tài liệu tham khảo 35

doc42 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1756 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tìm hiểu hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần quân đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gửi không kỳ hạn gấp nhiều lần dự trữ ban đầu mà họ nhận được lượng tiền gửi mở rộng nâng tỉ lệ nghịch với tỉ lệ dự trữ bắt buộc và tỉ lệ thuận với lượng dự trữ mới. Lượng tiền gửi mở rộng bằng 1/Rd x dự trữ mới . (KD) là tỉ lệ dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Trung ương (NHTW) qui định, đó chính là lượng tiền mặt gửi lại trên tổng số tiền gửi huy động được. Tuy nhiên số tiển gửi được tạo ra trên thực tế còn phụ thuộc vào hành vi các người gửi tiền (đó chính là tỉ lệ rút tiền mặt của khách hàng và mức độ sử dụng vốn của NH để cho vay. Như vậy quá trình tạo tiền trong hệ thống NHđược diễn ra trong mối liên hệ mật thiết giữa các NHTM với nhau. *Tóm lại : NHTM kinh doanh tiền tệ bằng việc tạo ra các dịch vụ NH bao gồm dịch vụ nhận tiền gửi, dịch vụ cho vay, dịch vụ thanh toán, dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ uỷ thác, dịch vụ tư vấn đầu tư trả góp… để tới được hoá lợi nhuận thì vấn đề NH phải giảm được các chi phí tới mức thấp nhất như chi phí về lãi suất, chi phí về quảng cáo, giao dịch, chi phí tìm kiếm thong tin và các chi phí rủi ro khác. 1.2. HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM . 1.2.1. Cơ cấu tổ chức : Hệ thống NHTM Việt Nam được thành lập chính thức ngày 26/3/1988 theo quyết định số 53/HĐBT, Hệ thống NHTM Việt Nam ra đời sau hệ thống NH Nhà nước. Song đến nay hệ thống NHTM Việt Nam đã phát triển thành một hệ thống tương đối toàn diện, bao gồm các NHTM quốc doanh đại diện cho các lĩnh vực kinh tế như : NH Ngoại thương, NH Công thương, NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn, NH đầu tư và phát triển, NH phục vụ nghười nghèo… Các NHTM cổ phần, các NH thương mại nước ngoài… Đến nay hệ thống NHTM Việt Nam đã có mặt phục vụ cho hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực kinh tế khác nhau và có chi nhánh ở hầu hết các tỉnh, thành phố. Cơ cấu tổ chức của một NHTM cổ phần bao gồm : -Hội đồng quản trị : là cơ quan lãnh đạo cao nhất trong NHTM. Hội đồng Quản trị là cơ quan thực thi nhiệm vụ do đại hội cổ đông giao cho, là cơ quan lãnh đạo của NHTM giữa 2 kỳ đại hội cổ đông. Tuy nhiên, các NHTM quốc doanh thì Hội đồng quản trị do Thống đốc NH Nhà nước Việt Nam xem xét quyết định thành lập chứ không phải do các thành viên Hội đồng quản trị góp vốn, bởi lẽ NHTM quốc doanh là NH do Nhà nước thành lập và góp vốn đầu tư, vốn của NHTM quốc doanh là vốn 100% của Nhà nước. Các NHTM cổ phần thi Hội đồng quản trị là do Đại hội cổ đông bầu ra. -Ban Tổng giám đốc (giám đốc) do Đại hội cổ đông bầu ra hoặc do Hội đồng quản trị (HĐQT) thành lập (tuỳ từng điều kiện và quy chế của từng doanh nghiệp). Ban giám đốc là người điều hành mọi hoạt động kinh doanh của NHTM theo sự lãnh đạo của HĐQT và các chính sách, chiến lược kinh doanh để được đề ra giúp việc cho Ban giám đốc có các chuyên viên giúp việc và các Ban tham mưu, phòng ban tại trụ sở chính. -Các đơn vị thành viên. -Các đơn vị trực thuộc đơn vị thành viên. Như vậy NHTM cổ phần được cấu thành như sơ đồ sau : Hội đồng quản trị Các chuyên viên giúp việc Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc Các đơn vị thành viên Các đơn vị trực thuộc đơn vị thành viên Các ban tham mưu giúp việc tại trụ sở chính, văn phòng đại diện miền… Các NHTM được phân thành nhiều phòng ban để thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của NHTM. Cũng như các tổ chức kinh doanh khác, sự chia ra thành phòng ban trong NH xuất phát từ việc một người không thể tiến hành hết tất cả công việc liên quan tới một nhóm các hoạt động. Sự phân chia thành các phòng ban khiến ta có thể cung cấp các dịch vụ nâng cao, mở rộng cho khách hàng và phát triển năng lực đối với các nhân viên và viên chức, giảm các chi phí hoạt động… Mức độ phân chia phòng ban cũng thay đổi cùng với quy mô và công việc của NH. Việc không có một phòng ban này hay phòng ban kia không có ý nghĩa là chức năng cụ thể của phòng ban đó không được thự hiện tại NH. Các NH áp dụng cả chức năng quản trị theo hình thức trực tuyến và tham mưu. 1.2.2. Quản trị ngân hàng (QTNH) Mục tiêu cơ bản của QTNH cũng giống như mục tiêu của các tổ chức kinh doanh khá, đó là doanh lợi đạt đến mức tối đa của các chủ sở hữu, nâng đến mức tối đa thời giá của các khoản niên kim tương lai cho các cổ đông dưới hình thức tăng cổ phần hoặc tăng vốn. Về cơ bản. Quản trị trong NH không khác gì với quản trị ở các tổ chức khác. Các chức năng cơ bản của quản trị như : Hoạch định, tổ chức, tuyển dụng nhân sự, hướng dẫn và kiểm tra… cũng được áp dụng nhân sự, hướng dẫn và kiểm tra… cũng được áp dụng đối với công tác QTNH. Việc gia tăng doanh lợi của 1 NHTM là hàm số của các biến số, bao gồm tổng thu nhập, chi phí quản lý, chi phí NH, thời giá của tiền, sử dụng vốn. Việc thực hiện các quyết định trong NHTM phải được thực hiện một cách nhanh chóng và cương quyết. Khách hàng luôn luôn đòi hỏi NH cung cấp các dịch vụ tài chính cho họ một cách kịp thời và có hiệu quả. Nghiệp vụ NH là một dịch vụ lao động khẩn trương và do vậy để hoạt động có hiệu quả, các nhân viên thực hiện phải được thông tin và có sự hiểu biế về các chính sách và các luật lệ của định chế. Tuy nhiên, thời gian không cho phép tất cả các quyết định đều được thực hiện một cách có hiệu quả như nhau. Đứng trên giác độ của tính hữu hiệu, người lãnh đạo và điều hành không thể quan tâm đến các quyết định mang tính thường lệ, hàng ngày. Hơn nữa các chi nhánh NH, các bộ phận hội sở của nó nằm rải rác trên các khu vực địa lý rộng lớn, những đội ngũ nhân viên của họ cần phải được liên tục thông báo về các phương thức quản trị của một NH. *Hoạt động đầu tiên trong quản trị điều hành là công việc hoạch định, bất kì một hãng kinh doanh nào đều phải phác hoạ phương hướng hoạt động trong tương lai của họ. Kết quả cuối cùng của việc hoạch định là phát triển một chiến lược để sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp trong môi trường dự định để đạt được tất cả các mục tiêu đề ra. Nhiều Ngân hàng nhận thấy sự quan trọng của chức năng này nên đã lập ra phòng kế hoạch gồm các nhân viên có năng lực chuyên môn. Hoạch định là công việc quản trị tổng hợp. Trong quá trình hoạch định, bước đầu tiên là việc đánh giá thực lực của NH : Tích sản, tiền uỷ thác, thanh khoán và vốn; sự tiếp cận của nó trong cộng đồng, trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân viên và ưu thế của nó trong khu vực và thị trường. QTNH phải thực hiện được nhiều giả định về tương lai và đưa tổ chức của mình vào hoà nhập với môi trường mong muốn đó. Chính trong giai đoạn này công việc dự báo là hết sức quan trọng và có ý nghĩa. Các dự kiến về các yếu tố tài chính và kinh tế sẽ ảnh hưởng đến NH trong những tháng tới cần phải được tính tới; Phải dự toán trước được các câu hỏi mang tính chiến lược. Sau khi định giá được các yếu tố bên ngoài. Việc quản trị NH phải xét đến các yếu tố bên trong một NH như phương hướng kinh doanh, vấn đề về đội ngũ nhân viên, vấn đề đổi mới những loại dịch vụ hiện có… Cái đích cuối cùng mà tất cả các hoạt động đều phải hướng tới nhằm đạt kết quả chung đó là việc xác định các mục tiêu, là cơ sở để quyết định các chính sáh của NH và sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức của NH cũng như ảnh hưởng đến số lượng nhân viên cần tuyển dụng. Sau khi đặt các mục tiêu, tiếp theo là việc thiết lập các chính sách của NH. Việc đưa ra các chính sách có vai trò hướng dẫn toàn bộ hoặc chỉ ra những ranh giới để các nhà quản trị có thể hoạt động. Chính sách phải được linh động và được xem xét lại thường xuyên nhằm hoàn thiện thêm. *Khi đã hình thành mục tiêu và các chính sách, bước kế tiếp là phải đạt được một chiến lược nhằm đạt được mục tiêu và mục đích đó. Chiến lược là bản kế hoạch trong đó mục tiêu được hoạch định một cách rõ ràng nhất. Chiến lược là một chương trình hành động bao gồm việc sử dụng hữu hiệu các tiềm lực để đạt được các mục tiêu nhất định. *Một trong những đòi hỏi ở bất cứ hãng kinh doanh nào đều thông báo các mục tiêu đã thiết lập, các chính sách và các điều lệ hoạt động cho tất cả những ai cần tới. Nguồn thông tin cần phải được mở rộng trong các tổ chức NH và các chi nhánh, giữa các thư ký, thủ quỹ, nhân viên kế toán… bản thân NH cũng đã trở thành nguồn thông tin quan trọng đối với các tổ chức kinh tế và các cá nhân. *Cuối cùng là công tác kiểm tra, kiểm tra là một yêu cầu được thực hiện đầy đủ nhất trong số các chức năng về quản trị NH, xuất phát từ vai trò của NH trong XH, các NH dựa vào lòng tin của quần chúng NH đóng vai trò chính trong việc cân đối lượng tiền của nhà nước và được điều hành chặt chẽ bởi các cơ quan điều hành NH, qua vô số những điều luật và quy định này bao hàm các tiêu chuẩn của sự chính xác. Chương 2 THỰC TRẠNG VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ QUẢN TRỊ ĐIỀU HÀNH TẠI NHTMCP QUÂN ĐỘI. 2.1. VÀI NÉT VỀ NHTMCP QUÂN ĐỘI. 2.1.1. Sự ra đời của NHTMCP Quân đội. Theo Nghị định 88 của Hội đồng Bộ trưởng cho phép các doanh nghiệp Quân đội làm kinh tế kết hợp với quốc phòng. Các doanh nghiệp này hoạt động hầu hết trong các lĩnh vực kinh tế, các ngành công nghiệp quốc phòng, sản xuất và kinh doanh các mặt hàng tiêu dùng, khai thác khoáng sản, công nghiệp đóng tàu, bưu chính viễn thông, xây dựng, giao thông… Vừa thực hiện mục tiêu kinh tế, vừa kết hợp với quốc phòng. Tuy nhiên trong quá trình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp Quân đội rất cần vốn đầu tư cũng như mở các tài khoản để giao dịch. Như vậy họ cần phải vay vốn của các Ngân hàng, khi đó các doanh nghiệp Quân đội phải chịu sự kiểm tra về tình hình tài chính cũng như lĩnh vữc kinh doanh của các ngân hàng mà họ dự định cho vay vốn. Song các doanh nghiệp quân đội trong một số các lĩnh vực kinh doanh cần phải giữ bí mật không được phép tiết lộ ra bên ngoài. Trước tình hình đó cân phải có một ngân hàng Quân đội để phục vụ các doanh nghiệp Quân đội làm kinh tế kết hợp với quốc phòng. Bởi vậy Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và kinhtế nay là Tổng Cục Công nghiệp Quốc phòng đã xin phép Bộ Quốc phòng, Ngân hàng nhà nước, Bộ Tài chính để mở một NH đó là NHTMCP Quân đội theo quyết định số 0054/NHNN-QĐ ký ngày 20-9-1994. Đến ngày 4-11-1994 thì NH bắt đầu khai trương và đi vào hoạt động có một trụ sở duy nhất tại 28 Điện Biên phủ - Hà Nội. Với số vốn điều lệ ban đầu là 20 tỉ đồng và 28cán bộ công nhân viên chức. Đến nay sau hơn 8 năm đi vào hoạtđộng số vốn của NH đã tăng lên là 240 tỉ đồng và 170 cán bộ công nhân viên, có 3 phòng giao dịch tại Hà Nội, 1 chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh, 1 chi nhánh Hải Phòng và lập Công ty chứng khoán Thăng Long. Mục tiêu ban đầu trong hoạt động của NHTMCP Quân đội là phục vụ các doanh nghiệp Quân đội làm kinh tế, kết hợp với quốc phòng, nên NH có 1 đặc thù là hoạt động ổn định, có hiệu quả, với nhịp độ tăng trưởng khá và không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng. Các tiêu chuẩn chất lượng hàng đầu cho các dịch vụ do NH cung cấp là nhanh chóng, chính xác và thuận tiện cho khách hàng. Nhờ vậy mà NH đã hỗ trợ tích cực cho khách hàng của mình phát triển. Nhiệm vụ của NHTMCP Quân đội khi bước sang thế kỷ mới là tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các nghiệp vụ, nâng cao trình độ công nghệ, khả năng hợp tác trong nước và quốc tế với mục tiêu là cung cấp các dịch vụ, sản phẩm ngân hàng tiện lợi với chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước… Bởi vậy NH đã đa dạng hoá các loại hình hoạt động, đa dạng hoá các khách hàng không những trong mà cả ngoài Quân đội; Cơ cấu cho vay đã có những thay đổi theo hướng mở rộng thị trường, đối tượng cho vạy ngoài những khách hàng truyền thống, được nhằm vào những khách hàng lớn kinh doanh có hiệu quả như bưu chính viễn thông, vận tải biển, xuất khẩu nông lâm sản, xây dựng giao thông, vận tải, dầu khí, dịch vụ bay, trồng rừng… Hiện nay NHTMCP quân đội có quan hệ đại lý với trên 200 NH của 50 nước trên thế giới và đã khẳng định được uy tín của mình trong quan hệ thanh toán và giao dịch với các nước trên thế giới… Tạo chuyển biến mới trong cơ cấu vốn tín dụng. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức và quản trị điều hành của NHTMCP quân đội. ĐẠI HỘI CỔ ĐÔNG BAN KIỂM SOÁT HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ Phòng Ngân quỹ BAN GIÁM ĐỐC Thanh tra quốc tế Ban tư vấn Tín dụng Kiểm soát nội bộ Văn phòng Đầu tư và phát triển Công nghệ thông tin Kinh doanh ngoại tệ C.ty chứng khoán Thăng Long Chi nhánh T.P Hồ Chí Minh Phòng giao dịch Ba Son Chi nhánh Hải Phòng Phòng giao dịch số 1 Phòng giao dịch số 2 Phòng giao dịch số 3 Kế toắn a- Đại hội cổ đông : Là cơ quan quyết định cao nhất của NH, gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, mỗi năm họp ít nhất một lần, hoặc khi có quyết định của HĐQT, hoặc theo yêu cầu của cổ đông (hay nhóm cổ đông) sở hữu trên 10% số cổ phần phổ thông của Công ty trong thời gian liên tục 6 tháng hoặc theo yêu cầu của ban kiểm soát. Thể thức thông qua quyết định của Hội đồng cổ đông bằng hình thức biểu quyết tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến bằng văn bản. Thông qua quyết định bằng hình thức biểu quyết tại cuộc họp khi được số cổ đông đại diện cho ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả các cổ đông dự họp chấp thuận trong các trường hợp : - quyết định về loại cổ phần và số lượng cổ phần được quyền chào bán của mỗi loại, quyết định sửa đổ bổ sung điều lệ công ty. -Quyết định tổ chức lại công ty, quyết định giải thể công ty, quyết định bán tài sản có giá trị lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản ghi trong sổ kế toán của Công ty. -Các trường hợp khác thuộc thẩm quyền của đại hội đồng cổ đông được thông qua khi được số cổ đông đại diện cho ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết của các cổ đông dự họp chấp thuận. b- Hội đồng quản trị (HĐQT) là cơ quan điều hành cao nhất trong việc ra các quyết định về quản trị chiến lược dài hạn, có toàn quyền nhân danh NH quyết định mọi vấn đề trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội cổ đông. Cơ cấu bao gồm 1 chủ tịch, 2 phó chủ tịch và 3 thành viên. Mỗi 1 tháng HĐQT họp 1 lần để triển khai thực hiện phương án kinh doanh đã được đại hội cổ đông thông qua. c. Ban kiểm soát : Là cơ quan thay mặt các cổ đông giám sát toàn bộ các hoạt động kinh doanh tiền lệ của NH. Cơ cấu gồm 1 kiểm soát trưởng và 2 kiểm soát viên. d- Ban Tổng giám đốc : Là cơ quan điều hành cao nhất của NH chịu trách nhiệm điều hành các hoạt động kinh doanh hàng ngày của NH theo các mục tiêu và chiến lược của HĐQT đề ra, hiện thời tại NHCP quân đội. Đây cũng chính là người đại diện tư cách pháp nhân cho NHTMCP quân đội. Cơ cấu bao gồm : 1 tổng giám đốc và 3 phó tổng giám đốc. e- Các phòng ban chức năng : *Ban tư vấn : là cơ quan chuyên tham mưu giúp việc cho HĐQT và Ban tổng giám đốc. *Phòng tín dụng : cơ cấu gồm 1 trưởng phỏng và 2 phó phòng và 9 nhân viên. Phòng có nhiệm vụ tổng hợp phân tích thông tin kinh tế, quản lý và phân loại danh mục khách hàng, thu nhập thông tin để phòng ngừa và xử lý rủi ro về tín dụng, chấp hành báo cáo thống kê kiểm tra nghiệp vụ chuyên đề và các nhiệm vụ cho NH. Thẩm định và xem xét các phương án cho vay ngắn hạn. *Phòng dự án đầu tư và phát tiền : Cơ cấu gồm 1 trưởng phòng và 2 phó phòng, 13 nhân viên. Phòng có nhiệm vụ chịu trách nhiệm thẩm định và cho vay các dự án trung, dài hạn, các hợp đồng hợp tác liên doanh liên kết góp vốn cổ phần và xây dựng các đề án chiến lược. *Phòng thanh toán quốc tế : Gồm 1 trưởng phòng, 2 phó phòng và 4 nhân viên. Là phòng thực hiện các nghiệp vụ thanh toán trong kinh doanh XNK, đầu mối thực hiện các nghiệp vụ thanh toán ra thị trường thế giới. *Phòng nguồn vốn và kinh doanh ngoại tệ :gồm 1 trưởng phòng, 1 phó phòng và 4 nhân viên. Chức năng chính là cân đối nguồn vốn và mua bán ngoại tệ như : theo dõi diễn biếm tỉ giá, lãi suất ngoại tệ trên thị trường trong và ngoài nước, tham mưu cho lãnh đạo điều chỉnh hoạt động kinh doanh của NH. Thực hiện các nghiệp vụ tiền vay, tiền gửi vốn nội, ngoại tệ trên thị trường Liên ngân hàng. *Phòng công nghệ thông tin : gồm 1 trưởng phòng và 6 nhân viên. Phòng có nhiệm vụ quản lý về công nghệ thông tin của NH. *Phòng ngân quỹ : Gồm 1 trưởng phòng, 2 phó phòng và 7 nhân viên. Nhiệm vụ của phòng là thuvà trả tiền. *Phòng tổng hợp : gồm 2 người, nhiệm vụ là xây dựng các quy chế đào tạo về Marketing. *Phòng kế toán : Gồm 1 trưởng, 1 phó phòng và 11 nhân viên, phòng có nhiệm vụ như : + Tổ chức hạch toán, theo dõi các quỹ, vốn tập trung trong toàn hệ thống NH. + Thực hiện hạch toán - kế toán các nghiệp vụ huy động vốn, cho vay và các nghiệp vụ kinh doanh khác. + Thực hiện các nghiệp vụ cất giữ giấy tờ trị giá bằng tiền và tài sản quý của khách hàng. + Thực hiện thanh toán và tham gia thanh toán liên NH. + Thự hiện các nghiệp vụ thu, chi tiền mặt, ngân phiếu thanh toán, vận chuyển tiền và quản lý kho quỹ nghiệp vụ *Phòng kiểm soát nội bộ : Gồm 1 trưởng phòng và 3 nhân viên. Với chức năng là một phòng nghiệp vụ thanh tra kiểm toán các hoạt động nội bộ của NH, nhằm mục đích giám sát các hoạt động kinh doanh của NH. *Văn phòng : gồm 1 trưởng phòng và 6 nhân viên nghiệp vụ của phòng bao gồm : + Thực hiện công tác văn thư, hành chính - quản trị. + Quản lý tài sản và lo mua sắm tài sản, trang thiết bị phục vụ cho các hoạt động của NH. + Thực hiện tuyên truyền, lễ tân, tiếp khách xây dựng NH văn minh lịch sự. + Quy hoạch cán bộ, sắp xếp bố trí cán bộ trong sổ, thực hiện theo dõi tham mưu cho giám đốc trong vấn đề khen thưởng, kỷ luật. + Đề xuất cử cán bộ đi học tập, nâng cao kiến thức, tổ chức tham quan, khảo sát trong và ngoài nước. f- Các văn phòng đại diện : Hoạt động dưới tư cách phụ thuộc riêng chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng hoạt động với tư cách độc lập cũng bao gồm các phòng ban như trên. *Công ty chứng khoán Thăng Long là công ty hoạt động theo hướng độc lập gồm có 10 nhân viên. Nhiệm vụ chủ yếu là môi giới, lưu ký, bảo lãnh kinh doanh … 2.2. KẾT QUẢ KINH DOANH CỦA NHTMCP QUÂN ĐỘI TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY : 2.2.1. Đánh gía chung : Kể từ khi bắt đầu đi vào hoạt động cho đến nay, NHTMCP Quân đội đã đạt được những thành tựu đáng kể trên tất cả các nghiệp vụ. Năm 2002 là năm thứ tám hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Cũng như các năm trước, NHTMCP Quân đội luôn giữ được mức phát triển ổn định với mức tăng trưởng khá. Yếu tố quan trọng giúp NHTPCP Quân đội có được những thành tích trên là những lợi thế mang tính truyền thống đó là có định hướng đúng, sự thống nhất cao trong quản trị điều hành, sự ủng hộ tích cực có hiệu quả của cơ quan hữu quan, của đông đảo khách hàng và của cổ đông của mình. Đi đối với yếu tố quan trọng này là sự cố gắng lao động tận tuỵ sáng tạo của đội ngũ cán bộ, công nhân viên. Đây là một điều kiện hết sức thuận lợi đã tạo cho NH một môi trường kinh doanh tương đối ổn định, khai thác được những tiềm năng hiện có. Năm 2002, mặc dù trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt trên thị trường tài chính tiền tệ, NHTMCP Quân đội vẫn duy trì được tốc độ phát triển ổn định, đảm bảo được quyền lợi của cổ đông. Đây là năm thứ 8 Ngân hàng tiếp tục tăng vốn điều lệ đến hết tháng 6/2002 đạt 240 tỉ đồng. Một điều rất đáng lưu ý là số lượng đăng ký mua cổ phần của khách hàng luôn vượt xa so với chỉ tiêu xin tăng vốn của Đại hội cổ đông đề ra. Đó là một tín hiệu tốt lành khẳng định uy tín của NHTMCP Quân đội đối với các nhà đầu tư. 2.2.2. Báo cáo kết quả kinh doanh của NHTMCP Quân Đôi. Biểu 1 : Các chỉ tiêu tài chính của NHTMCP Quân đội. Đơn vị : triệu VND Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 Lãi trước thuế 42.790 46.331 53.706 57.040 Vốn điều lệ 125.592 145.640 170.919 209051 Vốn huy động 1.293.582 1.516.049 2.211.848 2.548.968 Tổng dư nợ 687.389 792.161 1.319.781 1.743.768 Nguồn : Báo cáo thường niên của NHTMCP Quân đội 2001 Nhìn vào bảng chỉ tiêu tài chính qua các năm cho ta thấy được hoạt động kinh doanh của NHTMCP Quân đội đã phát triển ổn định với mức tăng trưởng khá, cụ thể là lãi trước thuế năm 2001 so với 1998 tăng khoảng 1,3 lần; vốn điều lệ tăng khoảng 1,7 lần ; vốn huy động tăng khoảng 2 lần. Điều này chứng tỏ công tác huy động vốn của Ngân hàng rất tốt, cùng với việc tạo được uy tín đối với khách hàng Ngân hàng đã áp dụng một mức lãi suất hấp dẫn nên nguồn vốn huy động không ngừng tăng cao; Tổng dư nợ tăng hơn 2,5 lần. Chứng tỏ ngân hàng đã tìm được nguồn đầu tư cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài quân đội vay vốn kinh doanh để thu lãi từ hoạt động tín dụng . Tiếp đến ta phân tích bảng tổng kết tài sản của NHTMCP Quân đội qua các năm từ 1999 đến 2001. Biểu 2 : Bảng tổng kết tài sản của NHTMCP Quân đội từ 31/12/1999-31/12/2001. Đơn vị : Triệu đồng TÀI SẢN CÓ 31/12/1999 31/12/2000 31/12/2001 Tiền dự trữ 934.513 1.207.927 1.219.833 Tiền mặt 38.335 21.491 206.235 Tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước 138.059 263.377 913.598 Tiền gửi các tổ chức tín dụng khác 758.119 923.059 100.000 Cho vay các tổ chức kinh tế 792.161 1.319.781 1.743.768 Đầu tư 15.216 22.434 23.700 Đầu tư chứng khoán ngắn hạn 10.101 15.885 10.000 Hùn vốn, mua cổ phần 5.115 6.549 13.700 Tài sản cố định 2.735 36.267 30.646 Tài sản có khác 23.488 47.245 16.518 TỔNG TÀI SẢN CÓ 1.768.113 2.633.654 3.034.465 TÀI SẢN NỢ 31/12/1999 31/12/2000 31/12/2001 Vốn huy động 1.516.049 2.211.848 2.548.968 Tiền gửi của khách hàng 1.407.638 1.850.345 1.841.668 Tiền gửi các tổ chức tín dụng khác 108.413 361.503 707.300 Vốn và quĩ của ngân hàng 158.684 195.227 307.945 Vốn điềulệ 145.640 170.919 209.051 Các quĩ ngân hàng 13.044 24.304 41.854 Lợi nhuận trước thuế 46.331 53.706 57.040 Tài sản nợ khác 47.049 172.873 177.552 TỔNG TÀI SẢN NỢ 1.768.113 2.633.654 3.034.465 Nguồn : Báo cáo thường niên của NHTMCP Quân đội 2001 Nhìn vào bảng tổng kết tài sản qua các năm ta thấy : + Tiền dự trữ của Ngân hàng là khá cao (chiếm khoảng 40% tổng tài sản có của Ngân hàng năm 2001). Chứng tỏ khả năng thanh toán của Ngân hàng rất tốt. Tuy nhiên lượng tiền dự trữ cao không tốt cho việc giải ngân, lượng tiền đóng băng nhiều so với lượng vốn huy động bên tài sản nợ (vốn huy động năm 2001 chiếm 84% tổng tài sản nợ). Dẫn đến việc tăng chi phí cơ hội, tăng chi phí quản lý, giảm nguồn thu từ hoạt động tín dụng. Sở dĩ như vậy là vì trong mấy năm qua tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước cũng như trên thế giới có xu hướng chững lại, nền kinh tế vẫn trong tình trạng thiểu phát, khả năng thất thu vốn của nền kinh tế thấp, bởi vậy không những NHTMCP quân đội mà hầu hết các ngân hàng đều ứ đọng vốn. Trong thời gian tới Ngân hàng Quân đội cố gắng giảm tối đa lượng tiền dự trữ tới mức cho phép. + Cho vay các tổ chức kinh tế tăng khá cao qua các năm, đặc biệt là năm 2001và đây cũng là nguồn thu chủ yếu trong tổng thu nhập của Ngân hàng. Muốn đánh giá một doanh nghiệp, một tổ chức kinh tế hay một ngân hàng hoạt động ra sao, ta cần phải xem bảng báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp nghiệp đó, thông qua lượng thu - chi ta có thể đánh giá được hiệu quả hoạt động kinh doanh của họ. Biểu 3 : Báo cáo kết quả kinh doanh của NHTMCP Quân đội THU NHẬP 1999 2000 2001 Thu lãi cho vay 85.062 97.035 120.202 Thu về kinh doanh vàng, bạc, N.tệ 1.213 1.963 7.102 Thu về dịch vụ ngân hàng 2.930 3.114 4.570 Thu lãi tiền gửi, chứng khoán 30.653 37.199 57.165 Thu khác 9.102 9 3.062 TỔNG THU NHẬP 128.960 139.320 192.107 CHI PHÍ 1999 2000 2001 Chi phí hoạt động kinh doanh 61.375 58.671 101.027 Thuế doanh thu, thuế môn bài 103 407 1.013 Chi phí lương và các khoản khác cho CBCNV 4.261 4.664 5.930 Chi phí quản lý khác 16.890 21.872 27.097 Tổng chi chí 82.629k 85.614 135.067 KẾT QUẢ KINH DOANH (lãi trước thuế) 46.331 53.706 57.040 Nguồn : Báo cáo thường niên của NHTMCP Quân đội 2001 Qua bảng thu chi ta thấy : -Thu lãi cho vay tăng đều đặn qua các năm (chiếm khoảng 63% tổng thu nhập năm 2001). Chứng tỏ ngân hàng hoạt động có hiệu quả. -Thu về kinh doanh vàng bạc, ngoại tệ năm 1999 và 2000 không đáng kể, song năm 2001 tăng mạnh, do Ngân hàng mở rộng dịch vụ kinh doanh ngoại tệ. Thu về dịch vụ ngân hàng còn thấp, cho thấy hoạt động dịch vụ ngân hàng còn kém, chưa đa dạng hoá được các loại hình dịch vụ... Thu lãi tiền gửi, chứng khoán chiếm tỷ trọng thứ hai trong tổng thu nhập (xấp xỉ 30% tổng thu nhập năm 2001), cho thấy tiền gửi của ngân hàng Quân đội vào ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng khác và đầu tư chứng khoán tương đối cao. -Tương ứng với thu lãi cho vay là chi phí hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cũng chiếm tỷ trọng cao (xấp xỉ 75% tổng chi phí năm 2001), điều này là hợp lý với tổng thu nhập. Tuy nhiên chi phí quản lý khác lại tương đối cao so với chi phí lương và các khoản cho cán bộ công nhân viên. Chứng tỏ bộ máy quản lý còn chưa hợp lý, tài sản cố định còn thấp. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng Ngân hàng TMCP Quân đội vẫn còn nhiều hạn chế phải khắc phục. Chương 3 MỘT SỐ Ý KIẾN NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA NHTMCP QUÂN ĐỘI 3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG HOẠT ĐỘNG CỦA NH. 3.1.1. Mặt mạnh : Trong những năm qua, NHTMCP Quân đội đã thực hiện tốt hoạt động huy động và sử dụng vốn trên các điểm sau đây : -Quy mô nguồn vốn huy động tăng nhanh qua từng năm, đồng thời với việc thay đổi cơ cấu huy động theo hướng hợp lý hơn : tăng tỷ trọng nguồn vốn có lãi suất thấp từ đó giảm chi phí huy động, nâng dần nguồn vốn trung và dài hạn để phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển lâu dài. -Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn : NHTMCP Quân đội đã thực hiện được các hình thức huy động vốn như : huy động tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, huy động tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, huy động bằng ngoại tệ, mở tài khoản cá nhân và phát hành séc cá nhân… Các hình thức này đã thu hút một lượng vốn lớn vào Ngân hàng, tạo điều kiện thực hiện tốt việc mở rộng hoạt động tín dụng. Thành công này thể hiện rất rõ ở quy mô nguồn vốn huy động tăng nhanh qua các năm như đã phân tích ở phần trên. -Đa dạng hoá các hình thức sử dụng vốn, đáp ứng yêu cầu ngày càng phong phú của nền kinh tế thị trường ; cho vay trực tiếp, hùn vốn liên doanh, cho vay đồng tài trơ, cho vay uỷ thác, các hình thức bảo lãnh, dịch vụ tư vấn, tài trợ các chương trình, dưu án… nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp có điều kiện đổi mới công nghệ, áp dụng kỹ thuật tiên tiến, phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. -Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, chất lượng tín dụng được cải thiện, thay đổi từng bước cơ cấu tín dụng. Các dịch vụ ngân hàng kết hợp với các chính sách phù hợp đã huy động được một lựng vốn tương đối lớn cho NHTMCP Quân đội mặc dù lãi suất huy động vốn của NH không cao so với mặt bằng chung trong toàn hệ thống NH ơ Việt Nam. Việc huy động vốn tăng đều qua các năm đảm bảo được cân đối cung cầu, đạt hệ số an toàn cao và không có tình trạng vốn tồn đọng không sinh lời. 3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân . Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên là những vướng mắc, hạn chế cả khách quan lẫn chủ quan của NHTMCP Quân đội cần phải có biện pháp khắc phục. *Những hạn chế mang tính khách quan . + Cơ chế chinh sách thay đổi thường xuyên trong thời gian qua (chính sách xuất nhập khẩu, chính sách đất đai, chính sách thuế…) làm cho môi trường kinh tế không ổn định, ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, làm đảo lộn chính sách tín dụng của từng ngân hàng, là nguyên nhân tác động mạnh mẽ đến sự bất ổn mà hiện nay các NHTM nói chung đang phải khắc phục hiệu quả. + Môi trường pháp lý kinh doanh ngân hàng : đây là vấn đề có thể nói là cơ bản và quan trọng nhất của hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động của các NHTM nói riêng, trong đó có NHTMCP Quân đội. Hiện nay, hệ thống pháp luật về hoạt động NH còn chưa đầy đủ và thiếu thống nhất. Thể hiện ở việc ban hành và hướng dẫn thực hiện các qui định, thông tư hướng dẫn chưa đồng bộ giữa cá ngành liên quan dẫn đến khi thực hiện tại các NH cơ sở có lúc bị vi phạm (điển hình là Thông tư liên bộ Tài chính - Tư pháp - Ngân hàng về thế chấp, công chứng và bảo lãnh vay vốn NH). Đặc biệt, sau khi luật NH có hiệu lực thi hành (1/10/1998), việc xác định địa vị pháp lý của các NHTM là vấn đề rất khó; cơ sở pháp lý của NH còn chưa được hoàn thiện thì liệu các NH trong hoàn cảnh này đồng thời phải tuân thủ Luật các tổ chức tín dụng cùng với hàng loạt các văn bản dưới luật có liên quan khác và còn chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Công ty thì có thể hoạt động hiệu quả được không ? Thực tế này đã nảy sinh một số vấn đề cần suy nghĩ : -Thứ nhất, NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ có mối quan hệ mật thiết nhạy cảm đối với nền kinh tế. Bất kỳ một sự tác động nào vào hệ thống NHTM thì ít nhiều đều có ảnh hưởng đến tình hình kinh tế - xã hội trong nước. Xét cho cùng sự bình đẳng trong thương trường là cần thiết, thế nhưng việc đặt vị trí NHTM ở giai đoạn hiện nay là chưa phù hợp, chưa thấy hết tầm quan trọng của hoạt động NH đối với nền kinh tế mà chỉ đơn cử xem hoạt động của NHTM như doanh nghiệp bình thường. -Thứ hai : Khi xác định rõ NHTM là một pháp nhân kinh tế độc lập nhưng vẫn có sự chồng chéo, thiếu đồng bộ giữa các qui định của Nhà nước đã đẩy các NHTM vào thế bí, không lối thoát. Thực hiện theo luật NH thì trái luật Công ty, Luật Doanh nghiệp Nhà nước. Đôi khi các văn bản ra sau phủ nhận các văn bản ra trước, qui định cấp dưới mâu thuẫn qui định cấp trên, tính hiệu lực của văn bản pháp quy nằm rải rác ở nhiều qui định khác nhau. -Thứ ba : Là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ thì phải huy động và cho vay, trong hoạt động kinh doanh tất yếu phải có rủi ro. Việc hình sự hoá hoạt động NH đã gây áp lực làm cho các NHTM co lại, không muốn mở rộng hoạt động kinh doanh. Nhiều NH không dám đầu tư mở rộng hình thức cho vay cung cấp vốn cho nên kinh tế, uy tín NH có phần giảm sút sau khi một số doanh nghiệp lớn có quan hệ giao dịch với ngân hàng sụp đổ. - Thứ tư : Xác lập quan hệ tín dụng giữa cho vay - đi vay, quan hệ này phải chẳng chỉ bị chi phối bởi Luật Ngân hàng mà không bị điều chỉnh bởi các luật khác? Nếu bị điều chỉnh bởi luật khác trong quan hệ tín dụng thì có được không và xử lý các vấn đề liên quan dựa trên cơ sở nào ? - Thứ năm : Khi xác định rỡ NHTM cổ phần là một pháp nhân kinh tế, vốn điều lệ do các cổ đông đóng góp, tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và cam kết với khách hàng của mình trước pháp luật, có bảng cân đối kế toán, thực hiện hạch toán kinh doanh độc lập, thì ngoài chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động ngân hàng, NHNN có chịu trách nhiệm trong cơ chế tài chính của các NHTMCP hay không ? Quyền lợi và trách nhiệm của NHNN như thế nào đối với NHTM, đặc biệt là những NHTMCP trong việc hiện đại hoá hệ thống ngân hàng. - Thứ sáu : Sự rủi ro của hoạt động ngân hàng bắt nguồn từ hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, việc xây dựng tài sản cầm cố, thế chấp, gia hạn nợ, khoanh nợ chưa được quán triệt bằng pháp luật một cách rõ ràng. Sự ra đời của các doanh nghiệp tràn lan nhưng có vốn điều lệ thấp, có con dấu riêng, có tư cách pháp nhân và có quyền vay vốn của ngân hàng. Mặt khác, các doanh nghiệp này quy mô nhỏ, vốn hoạt động ít buộc phải vay ngân hàng (không loại trừ nhiều trò “phù phép”) để có vốn hoạt động. Đến khi không trả được nợ, ngân hàng vẫn phải cho vay để doanh nghiệp tồn tại, kiếm tiền trả nợ dần, nếu không doanh nghiệp phá sản thì ngân hàng mất vốn. Khi doanh nghiệp phá sản, quyền ưu tiên giải quyết vốn của ngân hàng đã tham gia vào tài sản của doanh nghiệp phá sản rất hạn chế (trong lúc đó vốn vay ngân hàng của các doanh nghiệp này thường chiếm tỷ lệ lớn 70-90% vốn hoạt động của doanh nghiệp). Trách nhiệm thuộc về ai khi cấp giấy phép tràn lan cho các doanh nghiệp này, phải chăng chính những mấu chốt này làm gia tăng thất thoát, rủi ro vốn của hoạt động ngân hàng trong giai đoạn hiện nay ? *Những hạn chế thuộc chủ quan từ phía Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội. a- Hạn chế trong công tác huy động vốn. + Mạng lưới NH mặc dù đã được mở rộng song các chi nhánh NH vẫn còn ít, vì vậy việc thực hiện các dịch vụ NH trong phạm vi cả nước còn gặp nhiều khó khăn. + Công nghệ khoa học áp dụng trong việc cung ứng các dịch vụ cho khách hàng, nhất là trong quan hệ gửi - rút tiền của dân chúng tuy đã được đầu tư song vẫn còn lạc hậu so với các quốc gia phát triển. Đa số các hoạt động gửi và rút tiền của dân chúng với Ngân hàng được thực hiện chủ yếu là thủ công và trực tiếp, mất nhiều thời gian. + Lĩnh vực thông tin tiếp thu chưa được quan tâm đúng mức, vì vậy người dân ít có điều kiện hiểu biết đầy đủ về Ngân hàng cũng như các dịch vụ của NH. Chẳng hạn nếu họ muốn tìm hiểu các dịch vụ, thủ tục thực hiện các dịch vụ người dân cũng không biết phải bắt đầu từ đâu. + Lãi suất tiền gửi : do là một Ngân hàng cổ phần nên lãi suát huy động vốn của NHTMCP Quân đội không cao so với mặt bằng chung trong toàn hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam, trong khi những NH của Nhà nước có những nguồn vốn ưu đãi của Chính phủ, nhiều vốn tài trợ với lãi suất thấp, điều đó tạo ra sự cạnh tranh bất bình đẳng giữa những ngân hàng lớn và những ngân hàng cổ phần nói chung cũng như những NH quân đội nói riêng. Lãi suất tiền gửi ngắn hạn đã được điều chỉnh nhiều lần và hiện nay có thể coi là tương đối hợp lý. Song đối với lãi suất tiền gửi trung và dài hạn thì chưa tương xứng với thời gian gửi tiền của người dân. Bởi vì, đối với người dân, gửi tiền vào NH có thời hạn càng dài càng chịu nhiều rủi ro, trong tâm lý chung vẫn còn ám ảnh bởi những đợt lạm phát phi mã của những năm 80, do đó cần phải có một mức lãi suất đối với tiền gửi trung và dài hạn đủ cao để bù đắp những rủi ro như vậy. Một mặt người dân không muốn gửi tiền dài hạn vào NH vì những lý do như trên, mặt khác NHTMCP Quân đội không muốn huy động vốn dài hạn do đầu tư trung và dài hạn chưa phù hợp với hoạt động kinh doanh của NH hiện nay. Bởi một số lý do sau : + Môi trường đầu tư vốn huy động được chưa hấp dẫn. + Nhiều rủi ro khi cho vay vốn dài hạn. + Chính sách, chiến lược kinh tế chưa rõ ràng, cụ thể. + Huy động vốn trung và dài hạn phải trả lãi suất cao hơn huy động ngắn hạn. Cho nên để có lãi bắt buộc NH phải có vay với lãi suất cao. Thực tế hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể chịu được mức lãi suất cho vay như vậy. Vì thế để đáp ứng nhu cầu vay vốn trung hạn và dài hạn của các doanh nghiệp, NHTMCP Quân đội phải dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay. b- Hạn chế trong công tác sử dụng vốn : Qua khảo sát và nghiên cứu thực tế công tác sử dụng vốn hiện nay tại NHTMCP Quân đội chúng ta thấy nổi lên một số vấn đề sau : - Thứ nhất, vấn đề thế chấp tải sản : Trong thời gian qua, từ thực tiễn xét xử nhiều vụ án liên quan đến ngành NH, cách nhìn nhận và phán quyết của các cơ quan chức năng và thực tế của việc xử lý nợ quá hạn, các NHTM nói chung, trong đó có NHTMCP Quân đội có tâm lý là để đảm bảo an toàn nhất đối với các khoản cho vay và bảo lãnh, trước hết NH đòi hỏi thế chấp tài sản, còn phương án sản xuất kinh doanh là thứ yếu. Do đó, nhiều phương án kinh doanh khi tiến hành thẩm định thỉ 90% không có cơ sở thực tế, hơn nữa việc thẩm định nhiều khi không đúng với thực tế. Cũng chính vì lý do đó nên khi phương án sản xuất kinh doanh triển khai gặp khó khăn, thực hiện không có hiệu quả, nợ quá hạn phát sinh. Vì vậy, thiết nghĩ NH cần có những biện pháp làm cho việc thẩm định phương án giữa lý thuyết cần có những biện pháp làm cho việc thẩm định phương án giữa lý thuyết và thực tế sát đúng với nhau, coi việc thẩm định hiệu quả thực tế là quan trọng hàng đầu và hạch toán đầy đủ chi phí thẩm định vào hoạt động kinh doanh của NH. Nói cách khác vấn đề cơ bản của việc cho vay là tính hiệu quả trong thực tế của dự án xin vay. Điều này tất nhiên đòi hỏi cán bộ NH phải có kiến thức kinh tế tổng hợp, phân tích và dự đoán những diễn biến thị trừng trong và ngoài nước. Nếu như dứan xin vay vốn có sự ràng buộc về việc mua bảo hiểm thì càng tốt. - Thứ hai, về vấn đề lãi xuất : Trong những năm gần đây, lãi suất cho vay đã được điều chỉnh về một mức tương đối hợp lý. Tuy nhiên, do mức lãi suất huy động vốn thường cao hơn so với những NHTM quốc doanh và NHNN nên lãi suất cho vay của NHTMCP Quân đội thường cao hơn so với mặt bằng chung. Điều đó cũng gây ra không ít khó khăn cho NHTMCP Quân đội trong việc cho vay vốn, đặc biệt là đối với những khách hàng lớn. - Thứ ba, là khả năng cung cấp vốn cho các doanh nghiệp : Vì lượng vốn huy động của các NHTMCP đa số là thấp, trong khi đó vốn tự có và coi như tự có còn nhỏ, đặc biệt bị hạn chế bởi mức vay tối đa của NHNN (15%) cho một khách hàng trên vốn tự có. Chính vì vậy NHTMCP Quân đội không đáp ứng được nhu cầu vốn lớn của những công ty lớn và những dự án có cầu tín dụng lớn. Kể cả mộpt số NHcho vay hợp vốn thì những NH hợp vốn cũng không đáp ứng được những dự án có tầm cỡ của Nhà nước. - Thứ tư là vấn đề cung cấp ngoại tệ cho khách hàng : Do toàn bộ những mảng thanh toán xuất nhập khẩu, đặc biệt là những lĩnh vực hàng xuất khẩu tập trung vào những NHTM nên NHTMCP Quân đội không thu hút được ngoại tệ từ những hoạt động xuất khẩu, do đó không đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ cho những khách hàng nhập khẩu của mình. - Thứ năm là, trình độ quản lý cũng như trình độ nghiệp vụ của các cán bộ ngân hàng : còn hạn chế, một phần là chưa quen với hoạt động NH trong cơ chế thị trường. Vấn đề này đã được nêu ra rất nhiều và NHTMCP Quân đội đang dần khắc phục thông qua các công tác đào tạo bồi dưỡng về nhận thức và năng lực chuyên môn, đào tạo mở rộng, đào tạo theo chuyên đề cả trong và ngoài nước. - Thứ sau, mạng lưới ngân hàng cũng như các trang thiết bị chuyên dụng còn thiếu, lạc hậu gây ảnh hưởng tới việc quản lý, theo dõi các khoản cho vay. 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI. 3.2.1. Giải pháp ở tầm vĩ mô . Giải pháp 1 : Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và các quy chế cần thiết tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động của các NHTM. Nhà nước, cụ thể là Quốc hội cần kết hợp với NHNN để hoàn thiện Luật NHNN và luật các tổ chức tín dụng (đã có hiệu lực từ 1/10/1998) nhằm tạo ra cho cácNHTM một hành lang pháp lý phù hợp thúc đẩy hoạt động của ngành NH. Hiện nay hiện tượng chồng chéo, xung đột lẫn nhau giữa các văn bản Luật và dưới Luật trong hệ thống văn bản của ngành đã gây khó khăn cho các NHTM khi thực thi. Các văn bản này phải mang tính pháp lý cao hơn nữa chứ không đơn thuần chí là hướng dẫn nghiệp vụ như hiện nay. Giải pháp 2 : ổn định kinh tế vĩ mô. Chính phủ và NHNNcần đưa ra các biện pháp ổn định kinh tế - chính trị - xã hội, ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát và các định được quyền lợi giữa người gửi tiền, người vay tiền và các trung gian tài chính. Việc ổn định kinh tế, chính trị, xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút dân chúng gửi tiền vào hệ thống NH, là động lực cho việc thu hút các nguồn lực nhàn rỗi trong dân cư. Đồng thời nhằm tác động tới tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Giải pháp 3 : Tăng cường quản lý các NHTM từ phía NHNN. NHNN cần phải nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra kiểm tra và quản lý các NHTM, cần đề ra các biện pháp xử lý, khắc phục những khuyết điểm, chấn chỉnh, xử lý những sai phạm đã phát hiện. Mặt khác, cần chú trọng đúng mức đấu tranh phòng chống tiêu cực và tham nhũng ngay từ mỗi ngân hàng, NHNN cần có chính sách khuyến khích đối với hệ thống NH trong nước trên các phưng diện : lãi suất chiết khấu, thuế, vốn điều lệ, công nghệ NH… nhằm tạo sức cạnh tranh ccho các NHTM trước các ngân hàng nước ngoài. Giải pháp 4 : Xây dựng cơ chế lãi suât thích hợp. Chính sách lãi suất là nhằm thực hiện chính sách tiền tệ, đồng thời nó cũng có tác động trực tiếp đến hoạt động huy động và sử dụng vốn của NHTM. Trong các năm qua, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, NHNN đã từng bước khắc phục chính sách bao cấp, chuyển từ cơ chế lãi suất âm sang lãi suất thực dương, xoá bỏ dần sự phân biệt về lãi suất áp dụng cho các thành phần kinh tế khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay trong cơ chế lãi suất do NHNN ấn định còn tồn tại nhiều khung lãi suất khác nhau, sự điều hành lãi suất mặc dù đã theo sát tín hiệu thị trường song vẫn còn bị chi phối bởi các yếu tố phi thị trường và nhận định chủ quan, đó là điều khó tránh khỏi vì chúng ta chưa có một thị trường tiền tệ thực sự để giúp cho lãi suất được hình thành một cách khách quan thông qua quan hệ cung - cầu mà NHTW có thể căn cứ vào đó để quyết định sự điều chỉnh cần thiết. Trong thời gian tới cần phải tiến tới tự do hoá lãi suất của hệ thống NH đối với nền kinh tế, cải tiến triệt để việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Giải pháp 5 : Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán, thị trường vốn. Để tạo điều kiện thu hút nguồn vốn trung và dài hạn, NHNN cần sớm đưa thị trừơng chứng khoán vào hoạt động. Thị trường chứng khoán là nơi quy tụ và phân phối các nguồn vốn tiềm tàng trong dân cư và trong các doanh nghiệp để các nguồn vốn nhỏ, lẻ, ngắn hạn thành các nguồn vốn có thời hạn dài hơn. Bên cạnh đó NHNN cần xúc tiến hình thành thị trường vốn, đẩy mạnh hoạt động của thị trường tiền tệ. Những thị trường này đi vào hoạt động sẽ tạo điều kiện cho dân chúng, các nhà đầu tư, các NHTM tham gia mua bán trên thị trường, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế theo diễn biến và điều tiết từ nơi thừa sang nơi thiếu trong nền kinh tế. Đồng thời, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp. Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách tài chính thích hợp tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có đủ vốn tự có để giúp cho ngành NH giảm gánh nặng về vốn với họ. Hiện nay đối với nhiều doanh nghiệp, trong nguồn vốn kinh doanh của họ thì nguồn vốn từ NH chiếm tới hơn 90%, chính điều này dễ tạo rủi ro cho ngân hàng. 3.2.2. Giải pháp đối với NHTMCP Quân đội. Giải pháp 6 : Cần nghiên cứu và đưa ra nhiều hình thức huy động mới. NHTMCP Quân đội cần nghiên cứu và đưa ra những hình thức huy động vốn mới như tiết kiệm có thưởng, kỳ phiếu, tín phiếu ngân hàng hoặc tiến tới thực hiện “bảo hiểm tiền gửi” trong điều kiện tiềm ẩn nguy cơ lạm phát. Giải pháp 7 : Xây dựng quy trình cho vay trên cơ sở gắn liền khoản vay với trách nhiệm của cán bộ. Ngân hàng cần tổ chức lại qui trình giải quyết các khoản vay trên cơ sở nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng và hội đồng xét duyệt. Các khoản vay ngắn hạn cần có kế hoạch kinh doanh còn các khoản vay dài hạn cần có dự sán khả thi, được duyệt. Ngân hàng cần chú trọng vào các khoản vay có chất lượng chứ không chỉ tăng doanh số cho vay. Bên cạnh đó, trách nhiệm của cán bộ xét duyệt phải được gắn với những quyền lợi cụ thể từ khi bắt đầu cho vay (giải ngân) đến khi thu hồi cả vốn và lãi. Giải pháp 8 : Tăng cường sự quản lý đối với khoản vay và hoạt động của doanh nghiệp NHTMCP Quân đội cần tăng cường các biện pháp quản lý kinh doanh đối với các doanh nghiệp nhằm thực hiện đúng chức năng, quy mô hoạt động phù hợp với vốn điều lệ. NH phải giám sát hoạt động của doanh nghiệp sau khi vay được vốn và cần có phương án giải quyết sớm những sai lầm của doanh nghiệp gây ra. Và có thể thu hồi khoản vay trước thời hạn để đảm bảo không bị mất vốn. Bên cạnh đó, Ngân hàng nên tư vấn, giúp đỡ cho các doanh nghiệp hoặc có thể tham gia vào việc lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhằm sớm đưa doanh nghiệp ra khỏi tình hình khó khăn, giúp cho việc thu hồi khoản nợ được dễ dàng. Giải pháp 9 : Mở rộng lĩnh vực đầu tư. Hoạt động của Ngân hàng không nên chỉ bó hẹp trong một vài lĩnh vực mà cần được mở rộng phạm vi sang những lĩnh vực mới mẻ, những ngành kinh tế khác, đặc biệt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các hộ gia đình, các cá thể, xuất phát từ thực tiễn, là thị phần của các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng thu hẹp dần do một loạt các doanh nghiệp bị phá sản và do quá trình cổ phần hoá. Giải pháp 10 : Mở rộng các hình thức cho vay trung dài hạn trên cơ sở giải quyết những khó khăn trong vấn dề thủ tục. Giải pháp 11 : Nâng cao lượng tín dụng. Ngân hàng cần chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng trên cơ sở một qui trình tín dụng chặt chẽ, hợp lý nhưng không xơ cứng, phù hợp với qui chế tín dụng hiện hành. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá, phân loại khách hàng để có quan hệ tín dụng phù hợp cho từng đối tượng. Phối hợp chặt chẽ với NHNN và các NHTM khác trong việc trao đổi các thông tin rủi ro tín dụng ngân hàng cũng tổ chức việc tổng hợp thông tin, tạo các kênh cảnh báo sớm để phòng ngừa rủi ro tín dụng. Giải pháp 12 : Nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng . Nâng cao chất lượng dịch vụ bằng cách sử dụng những hệ thóng phương tiện, những phần mềm hiện đại (phần mềm kế toán, báo cáo tổng hợp liên kết, mảng thanh toán điện tử ngân hàng…). Với mục tiêu an toàn, nhanh chóng, chính xác, thuận tiện, phải tạo ra một sự chuyển biến thực sự cả phạm vi và chất lượng nhằm làm cho hoạt động dịch vụ có tính cạnh tranh cao, thu hút được đông đảo khách hàng và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng nguồn thu của khách hàng. Giải pháp 13 : Hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng. Hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng là một trong những thách thức lớn nhất đối với các NHTMCP Quân đội. Công nghệ Ngân hàng phải đáp ứng việc xử lý thông tin giúp cho việc quản lý NH có hiệu quả, khai thác được tối đa các nguồn thong tin từ bên ngoài phục vụ các hoạt động nghiệp vụ, phát triển các dịch vụ và sản phẩm NH mới, mang lại lợi thế và mở rộng chủng loại để tăng doanh thu vì vậy phải giành một khoản đầu tư thích đáng cho công nghệ thông tin. Giải pháp 14 : Xây dựng một đội ngũ cán bộ am hiểu, thành thạo trong lĩnh vực mà NH có liên quan. NHTMCP Quân đội cần chấn chỉnh lại hoạt động tín dụng trong môi trường đầu tư không thuận lợi và có nhiều rủi ro như hiện nay. Để thực hiện được điều này, NH cần coi việc quan trọng hàng đầu là xây dựng một đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn, có đạo đức tốt. Nhân viên NH cần phát triển được tuyển chọn từ nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau. NH cần hoàn thiện, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ cho phù hợp với tình hình hiện nay và tương lai. Nhận xét chung : Năm 2000 - 2004 là một thời kỳ vô cùng quan trọng để NHTMCP Quân đội tự khẳng định mình tạo tiền đề cho sự phát triển ổn định lâu dài. Đây cũng là một giai đoạn có nhiều khó khăn cho hoạt động kinh doanh tiền tệ, chưa thể lường hết được những yếu tố không thuận lợi đang tiềm ẩn. Tuy vậy, chúng ta hy vọng rằng với sự thống nhất cao về định hướng của cổ đông, sự đồng nhất trong quản lý chỉ đạo của Hội đồng quản trị, sự ủng hộ nhiệt tình có hiệu quả của các cơ quan, các ngành liên quan, của khách hàng và tinh thần phấn đấu, đoàn kết của tập thể cán bộ nhân viên vì một ngân hàng phát triển, thống nhất và lợi ích. Chúng ta tin rằng NHTMCP Quân đội sẽ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đề ra cho giai đoạn 2000 - 2004. KẾT LUẬN Trong những năm trước đổi mới, nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, do vậy cơ chế hoạt động của các NHTM nước ta trong giai đoạn này cũng phải tuân thủ những nguyên tắc quản lý nhất định. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, có thể nói hoạt động của các NHTM Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút và phát triển các nguồn vốn. Trong giai đoạn này, nền kinh tế nước ta muốn ổn định và tăng trưởng theo mục tiêu phương hướng chiến lược đã đề ra thì phải coi việc chấn chỉnh, đổi mới hệ thống ngân hàng là vấn đề trọng yếu và cấp bách. Cơ sở của việc đổi mới này rõ ràng là phải dựa trên sự vận động của nền kinh tế thị trường, đặc điểm và kinh nghiệm riêng của nước ta mà không thể sao chép, áp đặt một cách cứng nhắc kinh nghiệm của nước khác. Mô hình kinh tế của nước ta trong đổi mới là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trên tất cả các vùng trong cả nước, huy động tối đa mọi nguồn lực trong xã hội. Trong đó hệ thóng NHTM là một trong những kênh huy động nguồn lực về vốn rất linh hoạt và có hiệu quả. Sự ra đời và phát triển của các NHTMCP là một tất yếu khách quan và ngày càng giữ vị trí quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Như những gì đã đề được nêu ra, phân tích, đánh giá trong khuôn khổ báo cáo thu hoạch thực tập tốt nghiệp này, có thể thấy rằng, từ khi thực hiện đường lối cải cách, mở của nền kinh tế hiện nay, hệ thống NHTM Việt Nam nói chùng và NHTMCP Quân đội nói riêng đã đạt được nhiều thành công to lớn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, đáp ứng được phần nào nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển của đất nước. Tuy nhiên, để hoạt động ngân hàng ngày càng có hiệu quả, phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp hoá-hiện đại hoá, các NHTM nói chung và NHTMCP Quân đội nói riêng cần nghiêm khắc đánh giá lại bản thân mình, từ đó đề ra, thực hiện đồng bộ các biện pháp phù hợp trong công tác huy động vốn - sử dụng vốn. Kết hợp với sự chỉ đạo đúng hướng, quản lý chặt chẽ hơn nữa từ phía NHNN. Quá trình này phải được thực hiện một cách liên tục, sát sao để có thể phát huy được những điểm mạnh, hạn chế được các tồn tại trong bản thân NHTMCP Quân đội. Có thể hy vọng rằng trong những năm tới của thế kỷ 21, NHTMCP Quân đội sẽ hoạt động tốt hơn, góp phần thúc đẩy công cuộc xây dựng đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình kinh tế học vĩ mô - Đại học KTQD Giáo trình kinh tế học tiền tệ Ngân hàng - Trịnh Thị Hoa Mai (chủ biên). Giáo trình quản trị học - Nguyễn Duy Luận. Luật Ngân hàng có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998. Báo cáo thường niên của NHTMCP Quân đội 1999 - 2000. Định hướng kế haọch năm 2000 -2004 của NHTMCP Quân đội. Tạp chí Ngân hàng Việt Nam. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ. MỤC LỤC Trang Mục lục Lời nói đầu 1 Chương 1 : HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG 2 1.1. Ngân hàng Thương mại (NHTM) 2 1.1.1. Khái niệm NHTM 2 1.1.2. Hoạt động cơ bản của NHTM 2 1.2. Hệ thống NHTM Việt Nam 5 1.2.1 Cơ cấu tổ chức 5 1.2.2 Quản trị điều hành 7 Chương 2 : THỰC TRẠNG VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ QUẢN TRỊ ĐIỀU HÀNH TẠI NHTM CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI 10 2.1. Vài nét về NHTM cổ phần quân đội 10 2.1.1 Sự ra đời của NHTM cổ phần quân đội 10 2.1.2 Cơ cấu tổ chức và quản trị điều hành của NHTM cổ phần quân đội 11 2.2. Kêt quả kinh doanh của ngân hàng trong những năm gần đây 16 2.2.1 Đánhgiá chung 16 2.2.2 Báo cáo kết quả kinh doanh của NHTMCP Quân Đôi. 17 Chương 3 : MỘT SỐ Ý KIẾN NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA NHTM CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI 22 3.1. Đánh giá chung hoạt động của ngân hàng 22 3.1.1 Những mặt mạnh 22 3.1.2 Hạn chế và nguyên nhân 23 3.2. Một số giải pháp 29 3.2.1 Giải pháp ở tầm vĩ mô 29 3.2.2 Giải pháp đối với NHTM cổ phần quân đội 31 Kết luận 35 Tài liệu tham khảo 35

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC1647.doc
Tài liệu liên quan