Chuyên đề Tình hình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam

Sự quyết định về viẹc thành lập và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam quyết định đúng đắn phù hợp với nhu cầu và trình độ phát triển kinh tế xã hội. Để đảm bảo sự thành công của nó cần phải có sự phối hợp hài hoà với các chính sách kinh tế vĩ mô, vi mô khác và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, các ngành các cấp. Tuy nhiên vấn đề quan trọng là việc chuẩn bị tốt về mọi mặt trong đó sự đa dạng hóa các loại chứng khoán và các vấn đề liên quan khác để thị trương chứng khoán thực sự là một sản phẩm mới hữu ích của nền kinh tế thị trường Việt Nam.

doc34 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1310 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tình hình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khoán như vậy, nhưng chỉ có một số sở giao dịch chứng khoán như New York, Tokyo, London, Frankfurt, Zurich và Paris. . . chiếm vị trí quan trọng nhất, đặc biệt là sở giao dịch chứng khoán New York . Khi một quốc gia bàn đến việc thiết lập thị trường chứng khoán , chúng ta hiểu đó là việc thiết lập một thị trường chứng khoán có tổ chức (sở giao dịch chứng khoán). Đó là ly do để người ta đồng nghĩa thị trường chứng khoán với Sở Giao dịch chứng khoán. Nhiều người nghĩ rằng Sở Giao dịc chứng khoán là nơi mua vào và bán ra các loại chứng khoán. Sở Giao dịch chứng khoán không phải là cơ quan sở hữu chứng khoán, do đó nó không mua vào hoặc bán ra bất cứ một loại chứng khoán nào cả. Sở Giao dịch chứng khoán là nơi gặp gỡ các nhà môi giới chứng khoán, để thương lượng đấu giá mua bán chứng khoán, và là cơ quan phục vụ cho hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán. Như vậy sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán đã chứng tỏ sự cần thiết của nó cho đời sống kính tế xã hội của các nước. 2) Chức năng của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán có chức năng cơ bản sau đây : - Thứ nhất : TTCK được xem như các cầu vô hình nối liền giữa người thừa vốn và người thiếu vốn, để họ giúp đỡ nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu, hay nói cách khác, thị trường chứng khoán sinh ra để huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, bỏ vào phát triển sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp, góp phần ổn định đời sống dân cư, ổn định xã hội. - Thứ hai : TTCK đóng vai trò tự động điều hoà vốn giữa nơi thừa sang nơi thiếu vốn. Vì vậy, nó góp phần giao lưu và phát triển kinh tế. Mức độ điều hoà này phụ thuộc vào quy mô hoạt động của thị trường chứng khoán. Chẳng hạn, những thị trường chứng khoán lớn như London, New York, Paris, Tokyo v.v . . . thì phạm vi ảnh hưởng của nó vượt ra ngoài khuôn khổ quốc gia vì đây là những thị trường chứng khoán từ lâu được xếp vào loại hoạt động có tâm cỡ quốc tế. Cho nên biến động của thị trường này không những tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế của bản thân nước sở tại mà còn ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán nước khác. - Thứ ba : TTCK bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời (cho các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán) về tình hình cung - cầu, thị giá của từng loại chứng khoán trên thị trường mình và trên các thị trường chứng khoán hữu quan. - Thứ tư : TTCK bảo đảm cho các loại chứng khoán được phép lưu hành có nơi mua bán thuận tiện theo quy luật cung - cầu, như mọi hàng hoá khác. Tuy nhiên, giá cả trên thị trường chứng khoán không còn do cung cầu trên thị trường quyết định nữa mà do sự bùng nổ của cuộc cách mạng thông tin và viễn thông nên giá cả của các loại chứng khoán do cung cầu trên nhiều thị trường chứng khoán hữu quan quyết định. Vì vậy thị giá của cùng một loại chứng khoán trên các thị trường khác nhau không chênh lệch nhau nhiều lắm, do đó làm giảm sự di chuyển chứng khoán giữa các thị trường. Tóm lại, thị trường chứng khoán hoạt động lấp đi hố ngăn cách giữa cung và cầu về vốn, giữa người mua và bán chứng khoán. Đặc biệt thị trường chứng khoán đã đáp ứng được nhu cầu vay vốn dài hạn trong nền kinh tế vì các chứng khoán dài hạn vẫn được các nhà đầu tư ngắn hạn mua, khi cần tiền họ có thể bán các chứng khoán đó trên thị trường chứng khoán. Như vậy thị trường chứng khoán đã đáp ứng được đồng thời nhiều yêu cầu tồn tại trong nền kimh tế. II. VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Sự tạo lập và phát triển thị trường chứng khoán có ý nghĩa rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế phát triển. Nó là kênh bổ sung các nguồn vốn trung và dài hàn cho Nhà nước và doanh nghiệp. Nó là yêu tố hạ tầng quan trọng nhất, một công cụ có rất nhiều lợi thể. Chính vì vậy, ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường đều tồn tại một thị trường chứng khoán với các vai trò chủ yếu sau đây : 1). Tạo vốn cho sự phát triển kinh tế Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, không có khái niệm về giao lưu vốn và cũng không tạo ra nhu cầu về tiền và vốn để đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Nền kinh tế của cơ chế này là nền kinh tế gần như đơn nhất, chỉ tồn tại chủ yếu kinh tế quốc doanh hoạt động theo sự chỉ đạo tập trung thống nhất của nhà nưóc. Nhà nước giao chỉ tiêu cho các xí nghiệp quốc doanh , xí nghiệp này làm ra sản phẩm giao cho thương nghiệp quốc doanh là hoàn toàn kế hoạch. Bên cạnh đó, cơ chế phân phối bình quân theo giá cả bao cấp cho cả sản xuất và tiêu dùng đã làm tê liệt các chức năng của đồng tiền, phá vỡ mối quan hệ cung cầu và quy luật giá trị. Trên thực tế, đồng tiền trong kế hoạch hoá tập trung không phản ánh được bản chất của sự vận động kinh tế xã hội. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, xí nghiệp quốc doanh chủ động trong sản xuất kinh doanh, mọi vấn đề về vốn được thay đổi sự phát triển các thành phần kinh tế cùng với tự chủ tài chính trong khu vực kinh tế quốc doanh đã thực sự tạo ra môi trường cạnh tranh cho tất cả các doanh nghiệp. Ở đây, nhu cầu giao lưu vốn đã xuất hiện, phản ánh quan hệ cung cầu và quy luật giá trị. Nhu cầu này bắt nguồn từ hai phía: phía những người cần vốn và phía những người có vốn. Trong cơ chế thị trường, không chỉ bao gồm mối quan hệ cung cầu hàng hóa, mà đã xuất hiện và ngay càng phát triển quan hệ về tiền và vốn. Quan hệ này tất yếu sẽ dẫn đến nhu cầu vận động vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu. Sự vận động này phụ thuộc vào nhịp độ tăng trưởng sản xuất và sự phát triển của nhu cầu đầu tư, bao trùm toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, yêu cầu vận động của tiền vốn là hết sức phức tạp, đa dạng và phong phú. Để thoả mãn nhu cầu này, phải có một hệ thống các tổ chức tài chính ứng với các công cụ thuận lợi nhất để thực hiện giao lưu vốn nói trên, đó là các loại chứng khoán. Thị trường vốn đỉnh cao là thị trường chứng khoán là nơi tạo ra môi trường thuận lợi để dung hoà các lợi ích kính tế khác nhau của các thành viên các nhau trên thị trường thông qua một cơ chế hoạt động hợp pháp nhằm hạn chế những rủi ro. Thị trường chứng khoán, như một trung tâm thu gom nguồn vốn tiết tiệm lớn nhỏ của từng hộ dân cư, như một nam châm cực mạnh thu hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài, thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính , chính phủ tạo thành một nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế, mà các phương thức khác không thể làm được. Nó tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và thu được lợi nhuận nhiều hơn, đồng thời nó góp phần quan trọng trong việc kích thích các doanh nghiệp làm ăn ngày càng có hiệu quả hơn bằng cách vừa sản xuất kinh doanh hàng hóa vừa mua bán chứng khoán tạo thêm lợi nhuận. Nó giúp nhà nước giải quyết vấn đề thiếu hụt ngân sách trên thị trường trái phiếu, có thêm vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng. Nó cũng trực tiếp cái thiện mức sống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm của họ tốt hơn. 2) Công cụ để thúc đẩy sự phát triển và ổn định nền kinh tế Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính cực kỳ mạnh trong sự phát triển và ổn định nền kinh tế, bởi vì nó có những vai trò sau đây : _ Giúp nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế : Bất kỳ một nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phat triển kinh tế. Nguồn kinh phí để thực hiện các nhiệm vụ này được lấy từ ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước càng lớn thì các chương trình phát triển kinh tế càng có điều kiện thuận lợi để đạt được thành công. Nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước là thuế. Nhưng thông thường, thuế không đủ để cho chính phủ chi tiêu vì vậy cần thêm các khoản thu phụ khác đó là từ các kỳ phiếu, tín phiếu kho bạc. Xét về phương diện kinh tế, đó là biện pháp tích cực. Nhà nước không phải thông qua Ngân hàng trung ương để phát hành thêm tiền mặt mà phát hành kỳ phiếu vay vốn trong dân cư cho nên lượng tiền mặt trong dân cư không tăng lên và không gây nên lạm phát. Hiện nay ở hầu hết các nước, nhà nước phát hành kỳ phiếu thông qua thị trường chứng khoán. Không có thị trường chứng khoán thì nhà nước vẫn phát hành được kỳ phiếu. Nhưng có thị trường chứng khoán thì nhà nước bán được một cách dễ dàng. Vì kỳ phiếu của nhà nước cũng là một loại chứng khoán chuyển nhượng được và có thể mua bán trên thị trường chứng khoán. Vì vậy thị trường chứng khoán là một công cụ hữu hiện giúp nhà nước trong việc huy động vốn cho việc thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội. _ Điều tiết vốn đầu tư : + TTCK là công cụ thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài : thị trường chứng khoán là công cụ cho phép vừa thu hút, vừa kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài một cách tốt nhất, vì nó hoạt động theo nguyên tắc công khai. Nghĩa là mọi đối tượng tham gia mua bán chứng khoán phải công khai hóa và cập nhật hóa toàn bộ những thông tin liên quan đến giá trị chứng khoán, và công khai khả năng tài chính trong các giao dịch mua bán chứng khoán. Như vậy, có thị trường chứng khoán sẽ khắc phục được tình trạng thiếu thông tin hoặc thông tin không trung thực, thiếu chính xác. Đầu tư qua thị trường chứng khoán, tức là đầu tư mua bán chứng khoán tại một thị trường chứng khoán có tổ chức. Trong mỗi loại chứng khoán theo luật định sẽ có một phần bán cho người nước ngoài. Đó là sự khống chế ở các mức tương tự cho từng ngành kinh tế, quyền kiểm soát công ty có vốn đầu tư nước ngoài luôn luôn thuộc về nước sở tại. Đó là ưu điểm cơ bản của phương thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với nhà nước trong việc ổn định nền kinh tế tránh sự lệ thuộc về kinh tế vào các nhà tư bản nước ngoài. + TTCK lưu động hóa mọi nguồn vốn trong nước : các cổ phiếu, trái phiếu tương trưng cho một số vốn đầu tư được mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán như một thứ hàng hóa. Người có vốn (có cổ phiếu, trái phiếu) không sợ vốn mình bị chôn vì bất cư khi nào cần họ có thể bán lại các cổ phiếu, trái phiếu này trên thị trường chứng khoán, để mua lại cổ phiếu, trái phiếu khác, nhờ vậy sinh hoạt kinh tế thêm sôi động. Với một thị trường chứng khoán hoạt động tốt, các nhà doanh nghiệp sẵn sàng bỏ vốn đầu tư phát triển kỹ nghệ, làm cho mọi nguồn vốn được lưu động hóa. Đối với những người có vốn tiết kiệm nhỏ cũng có thể mua được chứng khoán trên thị trường chứng khoán, mà không sợ bị kẹt tiền, vì ngay khi cần họ có thể bán số chứng khoán đó ngay. Một khi việc đầu tư vào các doanh nghiệp có lợi đối với các tầng lớp đân chúng, thì qua thị trường chứng khoán các món tiền tiết kiệm lớn nhỏ đều sẵn sàng từ bỏ sự bất động hóa, chấp nhận vào quá trình đầu tư. _ Khắc phục chu kỳ kinh doanh : + Thị trường chứng khoán làm giảm áp lực lạm phát : Lạm phát luôn là nguy cơ đe doạ sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế.Thị trường chứng khoán hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng đặc biệt là Nhân hàng trung ương trong việc giảm áp lực lạm phát. Khi xuất hiện hiện tượng lạm phát, Ngân hàng trung ương sẽ đưa ra bán các loại kỳ phiếu trên thị trường chứng khoán với lãi suất cao để thu hút bớt số tiền đang lưu thông về và làm giảm áp lực lạm phát. Thị trường chứng khoán cũng ngăn chặn việc chuyển hoá vốn quá mức trong nền kinh tế. Đó là khi các ngân hàng thương mại cho các công ty vay nhưng không thu hồi được do một số công ty làm ăn thu alỗ, số tiền này nằm lại trong lưu thông làm tăng lượng vốn lưu hành. Do đó hệ thông ngân hàng thương mại sẽ hạn chế cho vay đối với những dự án có khả năng sinh lời thấp. Trong khi đó, thị trường chứng khoán sẽ bù vào khoản thiếu hụt này và gây áp lực để các dự án đầu tư đạt hiệu quả cao. Như vậy, thị trường chứng khoán cũng giúp làm giảm nguy cơ lạm phát. + Khắc phục tính trạng suy thoái của nền kinh tế : Như chúng ta đã biết khi nền kinh tế đang trong tính trạng suy thoái , đó là tổng sản phẩm sản xuất ra trong nền kinh tế giảm đi. Nó ảnh hưởng một cách mạnh mẽ và trực tiếp đến đời sống kinh tế, đặc biệt là tất cả chúng ta như khi sản phẩm sụt giảm thì để tìm được một việc làm tốt là rất khó khăn. Để khôi phục vấn đề này một trong những biện pháp hữu hiện là mở rộng đầu tư sản xuất(cung tạo ra câu). Nói đến đầu tư mở rộng sản xuất phải nái đến vốn mà trong đó thị trường chứng khoán là mọt tổ chức tài chính huy động vốn có hiệu quả nhất. Thông qua thị trường chứng khoán các doanh nghiệp có thể huy động được vốn bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu bán ra để mở rộng quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời chính phủ có thể mua các loại cổ phiếu, trái phiếu để tạo vốn cho việc đẩy mạnh mở rộng sản xuất tăng sản phẩm cho nền kinh tế. Khi đó nền kinh tế sẽ được khôi phục lại. _ Thúc đẩy hiệu quả kinh tế : Thị trường chứng khoán là một công cụ tuyệt vời cho các nhà kinh doanh có thể vay vốn để đầu tư vào sản xuất nhưng cũng đòi hỏi rất cao ở họ. Ban quản trị thị trường chứng khoán chỉ cho phép cổ phiếu, trái phiếu của các công ty có đủ điều kiện như : kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, có doanh lợi . . . được lưu hành trên thị trưòng và công chúng chỉ mua cổ phiếu của những công ty thành đạt. Thêm vào đó, luật lễ thị trường chứng khoán bắt buộc các doanh nghiệp có chứng khoán lưu hành trên thị trường chứng khoán phải công bố công khai các báo cáo tài chính, kết quả kinh doanh qua đó công chúng có cơ hội đánh giá kết quả hoạt động của công ty. Nếu một công ty làm ăn có lãi, thị giá chứng khoán của nó sẽ tăng trên thị trường chứng khoán và công ty có thể dễ dàng vay thêm vốn để mở rộng kinh doanh. Nếu một công ty làm ăn thua lỗ, giá chứng khoán của nó trên thị trường sẽ giảm vì tất cả những người sở hữu chứng khoán của công ty này sẽ đồng loạt bán chứng khoán ra thị trường chứng khoán. Việc này làm cho tổng số vốn của công ty giảm sút, công ty không có khả năng thành toán các khoán nợ đến hạn và dẫn tới phá sản. Do đó, thị trường chứng khoán gây áp lực rất lớn buộc các công ty có chứng khoán lưu hành trên thị trường chứng khoán phải làm ăn có lãi. Vì có như vậy các công ty mới có cơ hội để tồn tại và phát triển mà nhờ đó toàn bộ nền kinh tế xã hội sẽ tốt hơn. Tóm lại, chúng ta thấy thị trường chứng khoán đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Nó là một công cụ kinh tế nhờ đó người ta có thể huy động được những nguồn vốn khác nhau cho đầu tư, là một công cụ để phát triển và ổn đinh nền kinh tế mà trong đó bao gồm nhiều vai trò rất đa dạng. Vì vậy cần phải sớm hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam để khai thác những ưu việt của nó phục vụ cho sự phát triển kinh tế đát nước. PHẦN B : TÌNH HÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TTCK Ở VIỆT NAM I. TÌNH TẤT YẾU CỦA VIỆC HÌNH THÀNH TTCK Ở VIỆT NAM 1) Do yêu cầu của nền kinh tế Thực tế ở tất cả các nước có thị trường chứng khoán, khi nền kinh tế thị trường ra đời thì chưa có thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán chỉ ra đời khi nền kinh tế đã phát triển ở mức độ nhất định và đòi hỏi phải hình thành một tổ chức nào đó có khả năng tiếp thêm sức mạnh cho thị trương - đó là thị trường chứng khoán với việc cung cấp vốn cho nền kinh tế. Có thể nói nền kinh tế hàng hóa phát triển làm nảy sinh thị trương chứng khoán và thị trường chứng khoán đến lượt nó lại tiếp thêm nguồn lực (vốn) để thục đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển . Sự phát triển kinh tế ngày càng tăng của phân công lao động theo hướng chuyên môn hóa theo ngành, nghề trong cơ cấu sản xuất của nền kinh tế. Quá trình chuyên môn hoá theo ngành càng cao thì tất yếu sẽ đòi hỏi sự giao lưu, sự luân chuyển các yếu tố của lực lượng sản xuất, trong đó có sự luân chuyển các nguồn vốn tài chính giữa các doanh nghiệp và công cụ thuận lợi nhất để thực hiện sự giao lưu nói trên là các cổ phiếu và trái phiếu mà chủ yếu hoạt động mua bán các công cụ này thường diễn ra thông qua thị trường chứng khoán và thị trường "ngầm". Trong mục tiêu phát triển kinh tế, Việt Nam hiện nay cần rất nhiều vốn. Theo các chuyên gia kinh tế, để duy trì nhịp độ tăng trưởng hang năm từ 9-10% trong giai đoạn 1996-2000, cần đảm bảo mức đầu tư hàng năm ít nhất là 27-30% GDP. Với tỉ lệ đầu tư nói trên, khối lượng cần cho đầu tư trong 5 năm tới sẽ là 40-50 tỷ USD, nghĩa là mỗi năm Việt Nam phải huy động được hơn 8 tỷ USD cho đầu tư phát triển. Thị trường ra đời sẽ giúp giải quyết một phần đáng kể số vốn này . Thông qua thị trường chứng khoán , nhiều nước một số nước đã huy động một khối lượng vốn khổng lồ. Ví dụ ở thị trường chứng khoán New York năm 1995 tổng giá trị chứng khoán được niêm yết là 6.013 tỷ USD, ở thị treoèng chứng khoán London là 1.344,425 tỷ USD. Xem xét tổng nguồn vốn được huy động tại các nước trong khu vực ta thấy (số liệu năm 1993);: tổng giá trị chứng khoán trên Sở giao dịch chứng khoán Kualalumpur là 220,328 tỷ USD, trên Sở giao dịch chứng khoán Thailand là 130,953 tỷ USD, trên Sở giao dịch chứng khoán Jakarta là 32,953 tỷ USD. Thị trường chứng khoán ra đời sẽ thu hút được các món tiền còn đang nằm không trong dân cư, trong các quĩ bảo hiểm, quĩ phục lợi xã hội. Qua các đợt thu đổi tiền tệ đã cho thấy nguồn vốn bằng tiền nằm trong dân cư chiếm từ 65-70% tổng tiền tệ trong lưu thông. Theo ước đoán số đôla nằm trong dân cư là khoảng 2 tỷ USD, số lượng vàng bạc đá quý có giá trị từ 7-10tỷ USD. Đây là nguồn vốn không nhỏ để đầu tư phát triển. Thị trường chứng khoán cũng sẽ thu hút người nước ngoài đầu tư vào trong nước. Trong 45 tỷ USD mà Việt Nam cần tới năm 2000, vốn đầu tư nước ngoài sẽ chiếm khoảng 13 tỷ USD. Đầu tư trên thị trường chứng khoán đêm lại cho các nhà đầu tư nước ngoài nhiều thuận lợi do họ có thông tin và giảm bớt được các thủ tục hành chính. Như vậy, thị trường chứng khoán ra đời tại Việt Nam sẽ huy động được nguồn vốn đáng kể để đáp ứng nhu cầu bức thiết về vốn cho nền kinh tế phát triển trong giai đoạn sắp tới. 2) Do yêu cầu của Nhà nước Để hoàn thiện nhiệm vụ của mình nhà nước luôn phải chi tiêu mà nguồn thu chủ yếu của nhà nước từ thuế thường không trang trải hết các hoạt động của nhà nước. Nhà nước buộc phải vay vốn trong dân cư và các tổ chức tín dụng bằng cách phát hành kỳ phiếu. Thị trường chứng khoán ra đời sẽ giúp cho quá trình phát hành này được thuận lợi hơn. Như em đã trình bày ở phần trên, thị trường chứng khoán cũng có tác động tích cực trong việc giảm áp lực lạm phát. Đặc biệt từ năm 1993, nhà nước Việt Nam đã có chủ trường cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tức là chuyển các doanh nghiệp quốc doanh sang hình thức cổ phần. Quá trình này diễn ra còn chậm nếu thị trường chứng khoán hình thành thì sẽ thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước diễn ra nhanh hơn. Những ly do cơ bản trên nói trên sự hình thành của thị trường chứng khoán ở Viẹt Nam là một tính tất yếu và chắc chắn trong tương lai gần Việt Nam sẽ có một thị trường chứng khoán theo đúng ý nghĩa của nó để đáp ứng các nhu câu của nền kinh tế. II. CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ THÀNH LẬP TTCK Ở VIỆT NAM Xây dựng một thị trường chứng khoán là một vấn đề không mấy khó khăn nhưng tổ chức nó hoạt động một cách có hiệu quả và đêm lại những tác động tích cực cho nền kinh tế thì lại là một vấn đề hết sức khó khăn. Để có được một thị trường hoạt động lành mạnh và hạn chế được những tiêu cực mkà nó có thể gây ra cho nền kinh tế, Việt Nam cần phải chuẩn bị môi trường kinh tế, pháp lý chặt chẽ và phù hợp với các quy luật của nền kinh tế thị trường. Như vậy cần phải chuẩn bị tốt các yếu tố về kinh tế, pháp lý, kỹ thuật và để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của thị trường chứng khoán. 1) Yếu tố kinh tế : Đây là yếu tố rất quan trọng làm nền tảng để đảm bảo cho khả năng có các loại chứng khoán lưu thông trên thị trường. Yếu tố này được quyết định bởi các chính sách phát triển kinh tế và các định chế tài chính của nhà nước. Việc thông qua các Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Doanh nghiệp và Công ty . . . là cơ sở để các thành phần kinh tế tư nhân, các công ty liên doanh, công ty cổ phần ngày càng phát triển cùng với các đơn vị kinh tế quốc doanh. Đây là các đơn vị kinh tế có thể phát hành các loại cổ phiếu, trái phiếu là hàng hoá để giao dịch trên thị trường chứng khoán. Việt Nam cũng đang tiến hành các doanh nghiệp nhà nước , điều này cũng là yếu tố để tạo ra hàng hóa cho thị trường chứng khoán . Như vậy xét về yếu tố kinh tế, Việt Nam hiện nay có thể nói là đã thoả mãn yếu cầu của thị trường chứng khoán. Nhà nước đã cho phép các công ty cổ phần hoạt động, cho phép các loại chứng khoán được lưu hành hợp pháp tức là tạo ra hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Điều này cho phép thị trường chứng khoán có thể ra đời. 2 . Yếu tố pháp lý : Nếu yếu tố kinh tế là nền tảng để hình thành thị trường chứng khoán thì yêu tố pháp lý là công cụ duy trì cho thị trương chứng khoán hoạt động đều đặn, lành mạnh, có hiệu quả và ngày càng phát triển . Có hai điểm khó khăn trong việc nghiên cứu và đề suất khung pháp lý cho thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. Trước hết đó là vì các hoạt động của thị trường chứng khoán tinh vi và phức tạp hơn nhiều các loại thị trường khác. Thứ hai;, Việt Nam chưa có lý luận thực tiễn về nghề nghiệp chứng khoán. Trong quá trình xây dựng khung pháp lý cho thị trường chứng khoán, một nguyên tắc cần phải thực hiện triệt để là : luật pháp về chứng khoán phải thể hiện chức năng và quyền hạn quản lý nhà nước cao nhất về chứng khoán làm nhiệm vụ phát triển và giám sát các hoạt động có liên quan tới chứng khoán, kinh doanh chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán, các thị trường phi tập trung (OTC), phát hành và đấu thầu chứng khoán mới, các luật về thôn tính và sát nhâp, ngăn ngừa các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp. Cũng như các nước khác, Việt Nam sẽ phải xây dựng và ban hành luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán. Trong luật này, các vấn đề sẽ được luật hoá là : các quy định về các tổ chức phát hành chứng khoán, các phương pháp phát hành chứng khoán mới, quy chế đấu thấu chứng khoán mới. Ngoài ra quy chế về tổ chức và hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán cũng cần phải được luật quy định chặt chẽ. Luật pháp về chứng khoán cũng phải có những quy định để điều chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán. Cần có những quy định chặt chẽ về các loại chứng khoán được đưa ra thị trường, nguyên tắc định giá chứng khoán, cách thức chuyển lệnh, đặt giá, đăng ký giao dịch, quy định về kế toán, kiểm toán, các yêu cầu về thông tin, xử lý tranh chấp, xử phạt vi phạm, các quy định về thanh tra, kiểm tra . . . Quy chế đầu tư cá nhân đặc biệt là quy chế cho các nhà đầu tư thể chế như các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính, các quỹ đầu tư cũng là bộ phận mà luật chứng khoán cần phải đề cấp tới. Hiện nay ở Việt Nam, một số điều khoản liên quan đến quyền huy động vốn của các công ty cổ phần và các doanh nghiệp nhà nước được quy định trong luật công ty và luật doanh nghiệp nhà nước. Còn bộ phận lớn các quy định cần thiết khác mà chưa được xác định đầy đủ. Do vậy cần phải làm nhiều việc để xây dựng khung pháp lý chuẩn bị cho thị trương chứng khoán ra đời ở Việt Nam. 3) Yếu tố kiểm soát và yếu tố kỹ thuật : Hoạt động của thị trường chứng khoán phải đặt dưới sự kiểm soát của nhà nước nhằm bảo vệ quyền lợi của những người kinh doanh chứng khoán và hạn chế các yếu tố tiêu cực của thị trường chứng khoán. Nhà nước cần thành lập Uỷ ban chứng khoán quốc gia để thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường chứng khoán. Vào ngày 28 tháng 11 năm 1996 Uỷ ban chứng khoán quốc gia Việt Nam đã được chính phủ thành lập . Uỷ ban này có nhiệm vụ xây dựng hoàn chỉnh hệ thống pháp lý cho thị trường chứng khoán đồng thơì xây dựng một hoặc một số Sở giao dịch chứng khoán, quỹ đầu tư, trung tâm quản lý lưu giữ chứng khoán và thành toán bù trừ. Yếu tố kỹ thuật của thị trường chứng khoán bao gồm cơ sở vật chất kỹ thuật thuần tuý và con người. Cơ sở vật chất thuần tuý là các máy móc thiết bị, phương tiện thông tin tính toán, văn phòng giao dịch. Đây không phải là khó khăn khi xây dưng thị trường chứng khoán. Vấn đề khó chính là con người . Việt Nam cần có các nhà môi giới chứng khoán, các chuyên gia chứng khoán, các nhà tổ chức và điều hành thị trường chứng khoán. Trước mặt cần phải có chương trình đào tạo khẩn cấp các cán bộ trong ngành ngân hàng tài chính sau đó sẽ đào tạo với quy mô dài hơn. Đồng thời cần phải đưa môn học về thị trường chứng khoán vào các trường đại học trung học kinh tế nhất là trong các chuyên ngành nhân hàng tài chính . Ngoài các yếu tố nêu trên, cần có sự tuyên truyền sâu rộng trong dân cư về tính hấp dẫn khi đầu tư vào thị trường chưng khoán cũng như đưa ra những đảm bảo cho quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư. Đã có những cơ sở để hình thành và phát triển thị trương chứng khoán, Việt Nam cần phải có những cơ sở lý luận và biện pháp để khuyên khích việc tạo ra các loại chứng khoán mà là hàng hóa cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán mới mẻ này. PHẦN C: TẠO RA HÀNG HÓA CHO TTCK VIỆT NAM I . PHÂN LOẠI CHỨNG KHOÁN-HÀNG HOÁ CỦA TTCK Hàng hóa của thị trường chứng khoán là yếu tố quan trọng để duy trì và phát triển hoạt động của nó. Trong hệ thống thị trường, mỗi loại thị trường có một loại đối tượng giao dịch riêng của nó. Trên thị trương chứng khoán đối tượng giao dịch của nó là chứng khoán. Chứng khoán là một thuật ngữ dùng để chỉ các giấy tờ có giá, tức là giấy tờ ghi nhận khoản tiền tệ mà người sở hữu chúng bỏ ra sẽ được quyền hưởng những khoanr lợi tức nhất định theo kỳ hạn. Hay nói cách khác,là các loại công cụ tài chính dài hạn, bao gồm các loại cổ phiếu và trái phiếu. Ngoài ra, trên thị trường chứng khoán còn giao dịch các loại giấy tờ có giá liên quan đến chứng khoán, được gọi là các công cụ có nguồn gốc chứng khoán, gồm có : các giấy đảm bảo quyền mua, các quyền chọn và các hợp đồng tương lai . . . Tuỳ thuộc vào tiêu thức mà ta lựa chọn, sẽ có một cách phân loại chứng khoán tương ứng, chẳng han như : 1. Căn cứ vào đặc điểm của chứng khoán Chia chứng khoán thành 2 loại : _ Chứng khoán vốn : là giấy chứng nhận sự hùn vốn vào công ty cổ phần, tức là các loại cổ phiếu. _ Chứng khoán nợ : là giấy chứng nhận nợ có kỳ hạn, tức là nói đến các loại trái phiếu. 2. Căn cứ vào chỉ tiêu pháp lý chứng khoán được chia thành 2 loại : _ Chứng khoán vô danh : là loại chứng khoán không ghi rõ họ tên sở hữu chủ. Việc chuyển nhượng loại này rất đơn giản, dễ dàng, không cần phải có thủ tục pháp lý rườm ra. _ chứng khoán ký danh : là loại chứmg khoán có ghi rõ họ tên sở hữu chủ. Việc chuyển nhượng loại chứng khoán này được thực hiện bằng thủtục đăng ký tại cơ quan phát hành, đôi khi phải có sự chấp nhận trước. 3. Căn cứ vào tính chất tài chính chứng khoán có 2 loại : _ Chứng khoán có lợi tức ổn định : là loại chứng khoán được xác định tỷ lệ lãi cụ thể phải trả cho người sở hữu khi đến hạn. Thông thường, loại vốn và lãi được hoàn trả khi đáo hạn, chẳng hạn như : các loại trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi . . . _ Chứng khoán có lợi tức không ổn định : là loại chứng khoán không xác định trước tỷ lệ lãi được hưởng. Loại này tỷ lệ lãi phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của công ty, chẳng hạn như : cổ phiếu thông thường. A. CỔ PHIẾU 1. Khái niệm : Cổ phiếu là loại chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một doanh nghiệp cổ phần. Hay nói cách khác, cổ phiếu là giấy chứng nhận việc đầu tư vốn vào công ty cổ phần. Cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu. Cổ phần là phần vốn đóng góp để cùng làm sở hữu chủ công ty. Loại cổ phiếu ra đời đầu tiên là loại cổ phiếu có ghi tên người sở hữu, được gọi là cổ phiếu ký danh. Hình thức này có nhược điểm là khi muốn chuyển nhượng cho người khác phải được hội đồng quản trị cho phép. Điều đó đã làm trở ngại cho việc lưu thông cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Đến thế kỳ 18 cổ phiếu vô danh ra đời và sang thế kỷ 19 cổ phiếu vô danh gần như hoàn toàn thay thế cho cổ phiếu ký danh. Có phiếu có những đặc điểm sau : _ Cổ phiếu là giấy chứng nhận sự hùn vốn vào công ty cổ phần _ Cổ phiếu không kỳ hạn, nó tồn tại cùng với sự tồn tại của công ty phát hành ra nó. _ Cổ phiếu có thể được phát hành lúc vận động thành lập công ty hoặc lúc công ty cần gọi thêm vốn để mở rộng hiện đại hoá sản xuất. _ Người mua cổ phiếu được quyền nhận lợi tức cổ phiếu (hay còn gọi là cổ tức) hàng năm có thể cố định hay biến động tuỳ theo loại cổ phiếu phát hành. _ Nhười mua cổ phiếu sẽ là người sở hữu một phần công ty, do đó phải chịu trách nhiệm hữu hạn về sự lỗ lã, phá sản của công ty và được quyền đầu phiếu cũng như biểu quyết các vấn đề của công ty. _ Người mua cổ phiếu được quyền chuyển nhượng quyền sở hữu cho người khác. _ Người mua cổ phiếu có quyền tham gia kiểm soát sổ sách của công ty khi có ly do chính đáng. _ Người mua cổ phiếu còn có chia phần tài sản còn lại khi công ty giải tán. 2. Các loại cổ phiểu _ Cổ phiếu thường : là lôại cổ phiếu mà người mua có quyền tham gia đại hội cổ đồng của công ty phát hành nó và được hưởng lợi tức theo nguyên tắc "lời được hưởng, lỗ phải chịu" vì lợi tức của cổ phần này phụ thuộc rất nhiều vào lợi nhuận của công ty cổ phần trong năm đố. Người mua cổ phiếu thường phải chấp nhận tính mạo hiểm rủi ro, cho nên cần suy nghĩ kỹ, xem xét thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh mà phát triển của công ty cổ phần mà mình có ý định mua cổ phần. _ Cổ phiếu ưu đãi : là loại cổ phiếu mà người mua được hưởng một số quyền lợi đặc biệt về quyền lực hoạec về kinh tế. Cổ phiếu ưu đãi về quyền lực đã giành cho người mua nhiều quyền lực hơn trong việc bàn bạc và quyết định mọi hoạt động của công ty. Cổ phiếu ưu đãi về kinh tế thường bán cho những người có nhiều cống hiến và làm việc lâu năm ở công ty đã nghỉ hưu. B. TRÁI PHIẾU 1. Khái niệm : Trái phiếu là một loại chứng khoán có giá, là giấy chứng nhận nợ do người vay (chính phủ, công ty hoặc ngân hàng) muốn thu góp vốn mà trong đó người vay phát hành một chứng chỉ thường là với một lãi suất xác định và đảm bảo cho người mua vào một thời gian nhất định trong tương lai. 2. Các loại trái phiếu _ Trái phiếu chính phủ : là chứng chỉ vay nợ của Chính phủ do Bộ tài chính phát hành để thu hút vốn , chủ yếu giải qyuết nhu cầu tài chính cho đàu tư phát triển kinh tế và có trách nhiệm trả nợi. Loại trái phiếu này có tín nhiệm cao, người có trái phiếu, sau một thời gian thu lại vốn theo mệnh giá ghi trên phiếu và nhận được tiền lãi nhất định. Cũng như cổ phiếu, trái phiếu chính phủ bao gồm các loại ký danh và vô danh được phat hành dưới hình thức sau đây : + Trái phiếu ngắn hạn hay còn gọi là tin phiếu kho bạc : là loại trái phiếu có thời hạn là một năm, được phát hành nhằm bù đắp sự thiếu hụt ngân sách nhà nước trong thời gian ngắn, đặc biệt để góp phần thực hiện tài chính quốc gia, khắc phục tình trạng lạm phát, đảm bảo được khối lượng tiền tệ trong lưu thông một cách hợp lý. + Trái phiếu trung hạn : là loại trái phiếu có thời hạn từ 1 năm đến 9 năm . Loại này thường tạo nguồn thu ngân sách ổn định cho chính phủ và dùng để đầu tư vào các dự án mà có thể hoàn trả được vốn vay. + Trái phiếu dài hạn : là loại trái phiếu có thời hạn từ 10 trở lên được dùng để huy động vốn đầu tư cho các công trình hạ tầng cơ sở lớn có nguồn thu hoàn trả vốn vay, nên giảm bớt gánh nặng chi tiêu ngân sách. _ Trái phiếu công ty : là trái phiếu do các công ty phát hành với mục đích huy động vốn cho đầu tư phát triển. Công ty phát hành trái phiếu thì công ty là người đi vay và người mua trái phiếu công ty là chủ nợ của công ty, công ty phải cam kết thanh toán nợ cả gốc và lãi cho người mua trái phiếu theo những quy định trong hợp đồng phát hành công ty. Trá phiếu công ty được chia thành như sau : + Trái phiếu tín chấp : là loại trái phiếu chỉ dựa vào uy tin của công ty để phát hàn, công ty không đưa một tài sản gì để làm bảo đảm. + trái phiếu thế chấp ; là loại trái phiếu khi phát hành đòi hỏi phải có một lượng tài sản tương ứng ký thác tại cơ quan uỷ thác đẻ đảm bảo chắc chắn khả năng hoàn trả của trái phiếu. + Trái phiếu cầm cố ưu tiên : là loại trái phiếu khi phát hành phải được cầm cố toàn bộ tài sản công ty . Đây là loại trái phiếu an toàn nhất vì chủ sở hữu trái phiếu được ưu tiên nhất so với người mua loại trái phiếu khác. + Trái phiếu thu nhập : là loại trái phiếu mà lợi tức được trả tuỳ thuộc vào lợi nhuận của công ty và không cao hơn lãi suất ghi trên trái phiếu. + Trái phiếu có khả năng chuyển đổi thành cổ phiểu thường : là loại trái phiếu cho phép người sở hữu nó được quyền đổi sang cổ phiếu thường. + Tái phiếu lãi suất chiết khấu : là loại trái phiếu được trả lãi ngay khgi phát hành, được khấu trừ vào vốn mua trái phiếu. + Trái phiếu lãi suất thả nổi : là loại trái phiếu có lãi suất được điều chỉnh theo từng thời kỳ cho phù hợp với lãi suất trên thị trường. Ngoài cổ phiếu và trái phiếu, còn có các công cụ tài chính khác như các hợp đồng mua bán có kỳ hạn, các hợp đồng quyền lựa chọn . . . cũng trở thành hàng hoá và được mua bán trên thị trường chứng khoán. C. CÁC LOẠI HÀNG HOÁ KHÁC : 1. Giấy đảm bảo mua cổ phiếu : Trên thương trường có nhiều công ty hoạt động mang lại hiệu quả cao, xu hưởng phát triển ngày càng mở rộng, Hội đồng quản trị đưa ra quyết định tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu bổ sung. Việc phát hành cổ phiếu mới có thể đưa đến tình trạng một số cổ đông ban đầu không đủ vốn để mua thêm cổ phần mới theo tỷ lệ ban đầu, từ đó họ mất quyền kiểm soát công ty, trong khi họ là những người có công, cần được ưu đãi. Để khắc phục tình trạng trên, người đã áp dụng nhiều phương thức phát hành cổ phiếu mới đảm bảo quyền kiểm soát công ty vẫn thuộc số cổ đồng ban đầu, bằng sự ưu tiên cho cổ đồng cũ vẫn nắm quyền kiểm soát công ty nhưng như vậy cổ đông mới sẽ không mua cổ phiếu. Do đó vào những năm 1950 người ta đã ưu tiên khuyến khích các cổ đồng cũ được quyền một số cổ phiếu mới tương ứng với tỷ lệ góp vốn ban đầu theo giá thấp hơn giá thị trường. Quyền này được thể hiện bằng giấy đảm bảo quyền mua cổ phiếu. Nừu cổ đông cũ không thực hiện quyền mua thì họ có thể đưa ra bán ở thị trường để nhận một khoảng lãi do chênh lệch giá ưu tiên. Sau khi ưu tiên cho cổ đông cũ số còn lại mới bán rộng rãi trên thi trường. 2. Hợp đồng mua bán tương lai : Hợp đồng tương lai là một bản hợp đồng được soạn giữa hai người, hợp đồng này xác định cho người mua "quyền mua" được một loại chứng khoán với số lượng và giá cả đã được ấn định trong một thời gian nhất định với người bán, hoặc người mua "quyền bán" được bán một loại chứng khoán với số lượng, giá cả và thời gian đã ấn định cho người bán. Người mua phải trả một khoản tiền mua "quyền mua hay quyền bán", nhưng có đặc điểm là người mua không phải cps nghĩa vụ thực hiện quyền mua hay bán của mình trong tưong lai mà có thể huỷ bỏ được; lúc này chỉ mất số tiền mua"quyền mua hay quyền bán"mà thôi, còn người bán thì luôn luôn phải thực hiện nghĩa vụ "mua hay bán" của mình theo yêu cầu của người mua. Các giao dịch này là một loại trò chơi mang tính "cờ bạc" trong thị trường chứng khoán. Nhưng đây là trò cờ bạc có tinh toán, có phân tích và nhận định chứ không phải hoàn toàn may rủi. Các giao dịch này trên thị trường chứng khoán rất tấp nập, người cũng có thể làm giàu nhanh chóng và cũng bị phá sản tức thời. Hợp đồng tương lai chỉ là chuyện mua bán giữa hai người, nó không phaỉ là một loại cổ phiếu nào của công ty phát hành, tuy đã trở thành một bộ phận của thị trường chứng khoán trong nhiều năm nhưng cho đến năm 1970 nó mới trở thành quan trọng và mới được giao dịch một cách có tổ chức, nhưng nhưng hình thức này vẫn còn ít người hiểu biết và tham gia. II. GIẢI PHÁP ĐỂ TẠO RA HÀNG HÓA CHO TTCK VIỆT NAM Cũng như các thị trương khác, muốn có thị trường chứng khoán trước phải có hang hóa là chứng khoán, chuẩn bị hàng hóa cho thị trường chứng khoán là một nội dung cơ bản có tính quyết định. Sau đây là một số gải pháp để tạo ra hàng hóa cho thị trường chứng khoán Việt Nam : 1. Đẩy mạnh cổ phần hóa doand nghiệp : Các doanh nghiệp tham gia thị trương chứng khoán với tư cách là người tạo ra hàng hoá cho thị trường chứng khoán tại thị trường sơ cấp và với tư cách là người mua bán chứng khoán tại thị trường thứ cấp. Trong nền kinh tế thị trường, có ba hình thức tổ chức doanh nghiệp cơ bản: doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp theo chế độ hùn vốn và doanh nghiệp tổ chức theo hình thức công ty cổ phân. Ở các nước xã hội chủ nghĩa chuyển sang cơ chế thị trường như Việt Nam còn có thêm hai loại doanh nghiệp nữa đó là doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã. Trong các loại hình thức tổ chức doanh nghiệp đã nêu trên, công ty cổ phần là chủ thể quan trọng nhất hoạt động trên thị trường chứng khoán, nó tạo ra một khối lượng hàng hoá lớn qua việc phát hành cổ phiếu để bán đầu tiên trên thị trường sơ cấp, để tạo vốn cho một công ty cổ phần mới thành lập hoặc phát hành cổ phiếu, hoặc trái phiếu để tăng vốn bổ sung cho quá trình sản xuất kinh doanh của các công ty cổ phần đang hoạt động. Các doanh nghiệp khác cũng có thể phát hành trái phiếu để bổ sung thêm vốn dùng cho việc mở rông quy mô sản xuất kinh doanh của mình. Công ty cổ phần không chỉ là chủ thể bán chứng khoán mà nó cũng là người mua chứng khoán do các công ty khác phát hành với mùc đích sáp nhập, thu tiêu đối thủ cạnh tranh hoặc khống chế, thao túng nhằm nắm quyền kiểm soát các công ty khác hoặc chỉ với mục đích đơn giản là tìm kiểm lợi nhuận, các doanh nghiệp khác cũng vậy đều là những chủ thể mua bán các chứng khoán hoặc tìm kiểm thanh khoản. Sự ra đời của các công ty cổ phần là một tiền đề quan trọng cho việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thúc đẩy lẫn nhau. Sự có mặt càng nhiều của các công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán sẽ làm phong phú hàng hóa cho thị trường chứng khoán và nhờ đó sẽ làm cho hoạt động của thị trường chứng khoán càng ngày càng trôi chảy hơn. Thực tế ở Việt Nam cho thấy, nhà nước đã có chủ trương cho thành lập các công ty cổ phần và được thể chế hóa bằng luật công ty. Nhưng những bước đi cụ thể, những biện pháp tích cực (kích thích, thúc đẩy cho các công ty cổ phần đó) chưa được thực hiện. Ngay trong việc thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp quốc doanh cũng đi vào cuộc sống rất chậm trễ. Hơn nữa, một yêu cầu của một thị trường chứng khoán đúng chuẩn mực quốc tế phải có các công ty đại chúng với quy mô lớn, phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng, hiệu quả cao và ổn định, sẵn sàng chấp nhận công khai hóa thông tin về tình hình hoạt động của công ty. Nhưng hầu hết các công ty cổ phần thành lập ở Việt Nam vẫn chưa hội đủ những điều kiện này. Như vậy, Việt Nam cần phải xây dựng những công ty đạt chuẩn chất của một công ty đại chúng. Những chuẩn chất này sẽ tạo cho công chúng nắm giữ nhiều cổ phiếu, từ đó họ mới có nhu cầu mua đi bán lại , đồng thời giúp cho công chúng hiểu rõ, hiểu đúng về công ty để họ có điều kiện thuận lợi đánh giá thẩm định giá trị công ty và giá cổ phiếu, quyết định giá mua, giá bán các cổ phiếu đó. Điều này vừa đảm bảo được khả năng tạo ra hàng hóa vừa gây ra sự hấp dẫn của nó trên thị trường chứng khoán. Như vậy nhà nước cần phải xem xét vai trò của bộ phận kinh tế ngoài quốc doanh trong sự nghiệp phát triển kinh tế, đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa công ty đặc biệt cổ phần hóa một số doanh nghiệp nhà nước để đáp ứng nhu cầu về sự tham gia và hàng hóa cho thị trương chứng khoán của mình. 2. Phát hành các loại trái phiếu chính phủ với mức lãi suất hấp dẫn : Việc phát hành trái phiếu chính phủ vừa tạo nguồn thu cho ngân sách, vừa tạo ra hàng hoá cho thị trường. Nhưng thực tế ở Việt Nam cho thấy, do việc phát hành trái phiếu chính phủ ở mức lãi suất chưa hấp dẫn và việc áp dụng lãi suất thả nổi nền chưa thực sự thu hút các nhà đầu tư, vì họ nghĩ rằng nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, mức độ tăng trưởng kinh tế ngày càng gia tăng, lạm phát đang bị kiềm chế, do đó mức lãi suất các năm sau sẽ thấp hơn . . . việc mua trái phiếu sẽ không có lợi. Ở thành phố Hồ Chí Minh khi phát hành trái ohiếu đô thị mở rộng đường Nguyễn Tất Thành huy động 30 tỷ VND với lãi suất 15% cho năm đầu và được trả thêm 8% giá trị trái phiếu khi đáo hạn, nhưng thực tế chỉ có 3 người dân mua với số tiền 5 triệu đồng (báo"tuổi trẻ" ngay 23-5-1995). Số còn lại do các ngân hàng và các doanh nghiệp mua là chính. Nguyên nhân chánh là lãi suất trái phiếu kho bạc lúc đó là 21%/năm, lãi suất tiền gửi ngân hàng là 16,89%/năm có sức hấp dẫn hơn. Đợt phát hành trái phiếu ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam năm 1994 với lãi suất 21%/năm (trả trước) hay 26% (trả sau) lại quá hấp dẫn với các nhà đầu tư, vì nó có lãi suất cao hơn rất nhiều so với trái phiếu kho bạc và tiền gửi tiết kiệm. Sau một thời gian ngắn đã huy động đủ số tiền cần thiết, nhưng các nhà đầu tư chủ yếu cũng mua loại 1năm là chính, còn loại 3 năm và 5 năm rất ít người mua. Vì vậy việc phát hành trái phiếu chính phủ phải đảm bảo tính hấp dẫn của nó, tức là phải xác định hợp lý mức lãi suất, kỳ hạn của từng loại trái phiéu tuỳ theo mục vay vốn của chính phủ. Trên đây là một số giải pháp để tạo ra hàng hóa cho thị trường chứng khoán ở Việt Nam, kèm theo đó cần phải xem xét điều kiện và cách thức phát hành chứng khoán để đảm bảo được sự tin cậy của nhà đầu tư (người mua chứng khoán) tránh sự lứa đảo và đảm bảo được tính pháp lý để nó được lưu thông trên thị trường chứng khoán. 3. Cách thức và điều kiện để phát hành chứng khoán _ Cách thức phát hành chứng khán : Vai trò của khâu phát hành chứng khoán rất quan trọng, đó là nơi cung ứng chứng khoán vào lưu thông - đáp ứng nhu cầu vốn cho chủ đề phát hành. Nó là nơi đầu tiên và duy nhất các chứng khoán được định giá (mệnh giá) để nhảy vào thị trường. Có thể nói khâu phát hành chứng khoán giúp cho cỗ máy giao dịch chứng khoán bắt đầu vận hành, cũng từ đây hình thành thị trường chứng khoán sơ cấp tương lai. Xuất phát từ vai trò của khâu phát hành chứng khoán và mục đích bảo vệ các nhà đầu tư, nền ngay từ khâu đầu tiên là phát hành chứng khoán cần phải được quản lý chặt chẽ. Hiện nay ở Việt Nam việc phát hành chứng khoán bị chi chi phối bởi Đạo luật công ty năm 1990, trong các điều khoản 32, 35, 36 quy định những điều kiện cơ bản cho một công ty phát hành cổ phiếu ban đầu, phát hành bổ sung, phát hành trái phiếu, nhưng cần phải có các văn bản hương dẫn thi hành chi tiết hóa, cụ thể hóa cho việc phát hành chứng khoán. Một trong các điều kiện đặc biệt quan trọng là công bố công khai những nội dung đảm bảo cho các nhà đầu tư hiểu rõ , hiểu đúng mục đích và triển vọng của công ty, nhưng việc công khai thông tin trên các phương tiện đại chúng lại chưa làm thương xuyên, còn chế độ kiểm toán tính chính xác của số liệu thì chưa được quy định trong luật công ty, pháp lệnh kế toán. Do đó, để bảo vệ các nhà đầu tư, các điểm còn tồn tại trên cần phải bổ sung vào các luật cho hoàn chỉnh. Tuy nhiên việc phán đoán và đánh giá loại chứng khoán vẫn thuộc về các nhà đầu tư. Trong giai đoạn phát hành, tức là đưa chứng khoán ra bán ở thị trường là một trong những giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình gọi vốn của công ty, hiện tượng các nhà đầu tư mua chứng khoán có ý nghĩa tán thành hay bác bỏ sự ra đời, tồn tại hay phát triển của công ty. Các công ty cổ phần không chỉ cạnh tranh trên thị trường hàng hóa, dịch vụ mà còn cạnh tranh trên thị trường vốn đẻ giành được các nhà đầu tư sẵn sàng cung ứng vốn cho công ty. Việc phát hành có thể chọn những cách sau : + Bán riêng cho các nhà đầu tư lớn : hình thức này các nước phát triển đã áp dụng vì hệ thống các định chế tài chính trung gian phát triển mạnh, đa dạng nhưng ở Việt Nam lại quá ít, chủ yếu tập trung vào ngành ngân hàng là chính, các công ty tài chính thì quá nhỏ bé, quỹ bảo hiểm chỉ kinh doanh đơn thuần, quỹ đầu tư, quỹ hữu trí chưa hình thành. Hình thức phát hành này vừa có lợi cho doanh nghiệp vì huy động được nguồn vốn nhanh, tập trung, giảm được chí phí phát hành, còn với các nhà đầu tư thì chỉ cần đầu tư mua cổ phiếu của các tổ chức tài chính trung gian mà không cần phai quan tam đến người phát hành. + Bán trực tiếp cho các nhà đầu tư cuối cùng : đây là hình thức đang áp dụng phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay, các công ty cổ phần mới thành lập phát hành cổ phiếu lần đầu hoặc phát hành bổ sung đều thực hiênj bằng cách thông báo trực tiếp đến các nhà đầu tư, để họ đăng ký mua cổ phiếu, sau khi số lượng đẫ dăng ký đủ thì tổ chức đại hội cổ đông và tiến hành các bước chuẩn bị cho phát hành cổ phiểu, với hình thức này công ty phát hành sẽ giảm được chi phí qua trung gian. Nhưng thực tế việc huy động vốn chậm, kéo dài và có khi không huy động đủ số vốn cần huy động nhất với các công ty mới thành lập sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc huy đông vốn từ các nhà đâu tư. Với các nhà đầu tư thì phải chịu nhiều rủi ro vì trình độ có hạn, lại không thể tự nhờ cậy một trung gian nào giúp đỡ trong việc quyết định đàu tư. + Phát hành thông qua sở giao dịch chứng khoán : tức là có các định chế tài chính trung gian tham gia bảo lãnh phát hành, đây là hình thức áp dụng phổ biến nhất hiện nay ở các nước vì các công ty cổ phần lớn muốn huy động vốn trong thời gian ngắn đủ số vốn cần thiết, việc làm này chỉ có thể thực hiện đươc thông qua thông qua các định chế tài chính trung gian bảo lãnh phát hành, tuy chi phí phát hành tăng thêm nhưng lại thu được hiệu quả lớn. Hình thức này ở Việt Nam chưa áp dụng bởi vì hầu hết các công ty cổ phần tổ chức dưới dạng công ty cổ phần nội bộ, chưa đạt được là công ty côphần đại chúng. Hình thức này được tiến hành như sau : Khi công ty làm xong các thủ tục thành lập công ty thì phải tìm kiếm được các nhà bảo lãnh, bảo đảm bao tiêu toàn bộ số chứng khoán phát hành , sau đó bán lại cho các nhà đầu tư cuối cùng để hưởng phí hoa hồng hay lệ phí phát hành, nó thương được tính từ 3% đến 10% so với giá bán trực tiếp cho các nhà đầu tư. Trên đây là hình thức phát hành chứng khoán của công ty cổ phần, sau đây là đièu kiện cụ thể trong việc phát hành qua sở giao dịch chứng khoán. _ Điều khiện để phát hành chứng khoán : Về nguyên tắc các loại hình doanh nghiệp hoạt đông trên lãnh thổ và tuân theo Việt Nam đều có thể phát hành chứng khoán ra công chúng nếu được Uỷ ban chứng khoán nhà nước chấp nhận khi đã hội đủ tiêu chuẩn sau : + Số năm hoạt động của công ty tối thiểu từ hai năm và ít nhất có hai năm kế tiếp trước đó làm ăn có lãi. + Có thị trường tương đối ổn định (thị trường cung ứng tài nguyên và thị trường tiêu thụ hàng hóa). + Có nhu cầu tăng vốn thực sự. Uỷ ban chứng khoán nhà nước là cơ quan duy nhất chấp nhận đề nghị phát hành chứng khoán dựa trên đơn xin đăng ký phát hành kèm theo một bản "cáo bạch thị trường". Bản cáo bạch thị trường là sự công khai cao bạch toàn bộ tình hình liên quan đến chứng khoán của đơn vị, nội dung bao gồm : * Giới thiệu khái quát về công ty: - Lịch sử hình thành công ty - Tài sản của công ty - Hệ thống tổ chức - Những người quản trị - Những hoạt đông kinh doanh của công ty * Tình hình tài chính của công ty - Báo cáo quyết toán hai năm kế tiếp trước đó - Báo cáo nhận xét của cơ quan kiểm toán độc lập * Thông tin liên lạc đến đợt phát hành - Dự án đầu tư - Phương án sử dụng vốn phát hành - Số vốn cần huy động - Thời gian phát hành - Đơn vị bảo lãnh phát hành - Phương thức bảo lãnh - Loại chứng khoán dự định phát hành - Phương án phát hành - Tỷ lệ chứng khoán bán cho người nước ngoài - Tình hình chứng khoán hiện hữu của đơn vị - Những người nằm giữ cổ phiếu cao nhất - Rủi ro có thể có trong đợt phát hành * Các tài liệu khác - Điều lệ công ty và các văn bản khác - Các hợp đồng quan trọng trong thực hiện - Những vụ tranh chấp tố tụng đang diễn ra - Biên bản thanh tra của các tổ chức thanh tra nhà nước thực hiện gần nhất. Bản cáo bạch do công ty phát hành cùng với công ty bảo lãnh phối hợp soạn thảo và phải có chữ ký đại diện có thẩm quyền của hai cơ quan. Trong thời gian Uỷ ban chứng khoán nhà nước xem xét thì công ty phát hành cần phải công khai bản cáo bạch thị trường, nhưng phải ghi rõ là "dự thảo", đến khi được chấp thuận thì phát hành rộng rãi và ghi "bản cáo bạch chính thức", sau một thời gian khoảng 15 ngày, công ty được phép phát hành chứng khoán theo đúng nội dung của bản cáo bạch được chấp thuận. Cùng lúc bản cáo bạch được gửi đến Uỷ ban chứng khoán nhà nước thì cũng được gửi đến sở giao dịch chứng khoán kèm theo đơn xin đăng ký yết giá ở sở giao dịch đó. Sau khi được Uỷ ban chứng khoán nhà nước chấp thuận cho phép phát hành chứng khoán thì Hội đồng quản trị sẽ quyết định cho phép loại chứng khoán đó được yết giá trên sở chứng khoán. Sau thời hạn tối đa 2 tháng kể từ ngày Uỷ ban chứng khoán nhà nước chấp thuận cho phát hành mà loại chứng khoán đó không phát hành được thì sẽ bị hủy bỏ và được thông báo công khai, cũng có thể có sự gia hạn thêm một thời gian nhất định khoảng từ 1 đến 2 tháng nếu đơn vị phát hành có lý do chính đáng. Hiện nay ở Việt Nam số lượng công ty cổ phần chưa nhiều , để khuyên khích các công ty đưa chứng khoán đăng ký giao dịch trên thị trường , có thể xem xét công nhận các loại chứng khoán mà họ đã phát hành được phép đăng ký yết giá giao dịch trên sở giao dịch chưng khoán. Trên đây là một số giải pháp mà bài viết của đề án này đã đề cập để tạo ra các loại chứng khoán đặc biêt.là các cổ phiếu và trái phiếu - là hàng hóa rất thích hợp để chuẩn bị cho sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam hoạt động có hiệu quả và ngày càng phát triển. KẾT LUẬN Sự quyết định về viẹc thành lập và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam quyết định đúng đắn phù hợp với nhu cầu và trình độ phát triển kinh tế xã hội. Để đảm bảo sự thành công của nó cần phải có sự phối hợp hài hoà với các chính sách kinh tế vĩ mô, vi mô khác và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, các ngành các cấp. Tuy nhiên vấn đề quan trọng là việc chuẩn bị tốt về mọi mặt trong đó sự đa dạng hóa các loại chứng khoán và các vấn đề liên quan khác để thị trương chứng khoán thực sự là một sản phẩm mới hữu ích của nền kinh tế thị trường Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Việt Nam với thị trường chưng khoán - Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 1995 2. Thị trường chứng khoán - Nhà xuất bản thống kê năm 1997 3. Thị trường chứng khoán ở Việt Nam - Nhà xuất bản thống kê năm 1995 4. công ty cổ phần và thị trường tài chính - Nhà xuất bản lao động năm 1996 5. Các tạp chí Ngân hàng, Thị trường tài chính - tiền tệ tháng 6, 7, 9, 10, 11 năm 1997

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0584.doc
Tài liệu liên quan