LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế của nước ta đang có những chuyển biến rõ rệt, rất nhiều các doanh nghiệp mới thành lập, mở rộng trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Yếu tố đó làm xuất hiện một nhu cầu tất yếu về vốn. Vì lẽ đó, các ngân hàng thương mại, tổ chức hoạt động tài chính đứng trước một thực tế khách quan là có rất nhiều khách hàng đến yêu cầu được vay vốn. Trong đó cũng có những chi nhành của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Các doanh nghiệp, nhà đầu tư hiện nay có rất nhiều ý tưởng sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của đời sống xã hội. Và việc thể hiện những ý tưởng đó là rất hợp lý, khách quan. Việc chuẩn bị dự án trước khi tiến hành đầu tư đòi hỏi chủ đầu tư phải nghiên cứu, tìm hiểu kỹ và có những phân tích tài chính hợp lý. Nó sẽ giúp cho nhà đầu tư có thể tưởng tượng, hình dung ra diễn biến thực hiện của dự án trong tương lai.
Đi đôi với việc lập dự án của chủ đầu tư, đó chính là công tác thẩm định dự án. Đặc biệt với các dự án lớn, đòi hỏi lượng vốn cao trong thời gian dài; thường thì các doanh nghiệp sẽ tìm đến những nguồn vay khác nhau, trong đó các ngân hàng chính là một trong những “chủ nợ” hợp lý nhất.
Trong các ngân hàng thương mại, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam luôn có những chính sách tích cực nhất, luôn cho vay tín dụng với khối lượng vốn lớn và thời gian khá dài. Do đó, ở các chi nhánh đều phải thẩm định rất nhiều các dự án lớn, ở nhiều lĩnh vực nhằm lựa chọn những dự án khả thi nhất. Chính vì thế em đã thực tập và lựa chọn đề tài “Tình hình thẩm định tài chính các dự án đầu tư tại Chi nhánh Đông Đô – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”.
Chuyên đề thực tập của em gồm hai chương:
ChươngI: Tình hình thẩm định tài chính các dự án đầu tư tại Chi nhánh Đông Đô.
ChươngI: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại chi nhánh Đông Đô.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương I: TÌNH HÌNH THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ 2
I. TỔNG QUAN VỀ CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ – NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 2
1. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 2
2. Chi nhánh Đông Đô 4
2.1. Cơ cấu tổ chức tại Chi nhánh Đông Đô 4
2.2. Hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh 9
II. THỰC TRẠNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ VAY VỐN TẠI CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ 11
1. Quy trình thẩm định 11
2. Phương pháp thẩm định tài chính dự án 16
2.1. Phương pháp so sánh các chỉ tiêu 16
2.2. Phương pháp thẩm định theo trình tự 16
2.3. Phương pháp phân tích độ nhạy của dự án 17
2.4. Phương pháp phân tích rủi ro dự án 17
3. Nội dung thẩm định 19
3.1. Khái quát về những nội dung thẩm định 19
3.2. Nội dung thẩm định tài chính dự án 20
3.2.1. Tổng vốn đầu tư dự án 20
3.2.2. Xác định nhu cầu vốn đầu tư theo tiến độ thực hiện dự án 21
3.2.3. Nguồn vốn đầu tư 21
3.2.4. Thẩm định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính 21
4. Minh họa cụ thể về công tác thẩm định của chi nhánh Đông Đô 23
(DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG NHÀ MÁY CHẾ BIẾN ZIRCON SIÊU MỊN) 23
4.1. Sự cần thiết của dự án. 23
4.1.1. Tình hình khai thác quặng Ilmenite và tuyển Zircon, 23
4.1.2. Sự cần thiết của việc đầu tư sản xuất Zircon siêu mịn. 25
4.2. Thẩm định các chỉ tiêu tài chính của dự án 26
4.2.1. Bảng tổng hợp doanh thu: 26
4.2.2. Kế hoạch sử dụng vốn và lãi trong xây dung: 27
4.2.3. Kế hoạch trả nợ: 29
4.2.4. Tính toán giá trị khấu hao hàng năm: 30
4.2.5. Chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh: 33
4.2.6. Dự trù lỗ lãi năm: 38
4.2.7. Thời gian hoàn vốn có chiết khấu 41
4.2.8. Bảng tính tỷ suất thu hồi nội bộ IRR: 45
III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ 46
1. Những kết quả đã đạt được 46
1.1. Phân cấp thẩm định 46
1.1.1 Hội sở chính. 46
1.1.2 Thẩm định ở chi nhánh 47
1.2. Những kết quả đạt được 48
2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân 56
2.1. Những hạn chế còn tồn đọng 56
2.2. Một số nguyên nhân chủ yếu 59
2.2.1. Nguyên nhân khách quan 59
2.2.2. Nguyên nhân chủ quan 60
Chương II: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ 62
I. PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO DỰ ÁN TẠI CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ TRONG THỜI GIAN TỚI 62
1. Mục tiêu tổng quát 62
2. Các chỉ tiêu kinh doanh chủ yếu 63
2.1. Công tác huy động vốn 63
2.2. Hoạt động tín dụng đầu tư 64
2.3. Công tác dịch vụ khách hàng 65
2.4. Công tác tổ chức, công tác đào tạo cán bộ, quản trị điều hành, xây dựng phát triển mạng lưới và nguồn nhân lực 65
2.5. Các công tác khác 66
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHÀN HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ 66
1. Nâng cao tầm quan trọng của công tác thẩm định nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng 66
2. Cải tiến đi tới hoàn thiện quy trình, phương pháp thẩm định 67
3. Đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách. 70
4. Khắc phục tình trạng yếu kém về khả năng dự báo trong trạng thái tĩnh 72
5. Xây dựng mạng thông tin đa ngành, an toàn, ổn định. 73
KẾT LUẬN 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
MỤC LỤC 77
79 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1640 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tình hình thẩm định tài chính các dự án đầu tư tại Chi nhánh Đông Đô – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i nhánh.
1.1.2 Thẩm định ở chi nhánh
Tuỳ thuộc vào quy mô, phạm vi hoạt động của mỗi chi nhánh của Ngân hàng Đầu tư va Phát triển Việt Nam mà việc thẩm định của chi nhánh được phân cấp cho những dự án có quy mô khác nhau. Tại Chi nhánh Đông Đô, có hai Phòng tín dụng để thực hiện giao dịch với khách hàng nhưng chỉ có một Phòng Thẩm định và Quản lý tín dụng có trách nhiệm thẩm định đối với các dự án cho vay của Chi nhánh. Cán bộ thẩm định ngoài trách nhiệm thẩm định những dự án trong phạm vi được phân cấp, uỷ quyền còn phải thường xuyên kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ phát hiện và đưa ra hành động khắc phục kịp thời. Việc quyết định cho vay là do Giám đốc chi nhánh hay người được uỷ quyền hợp pháp theo quy định của ngân hàng.
Trong hệ thống ngân hàng đầu tư và phát triển VN thì phân quyền thẩm định ở chi nhánh được quy định như sau:
Bảng 3: Giám đốc được duyệt hạn mức tín dụng cao nhất với từng nghiệp vụ ngân hàng như sau:
Đơn vị: tỷ đồng
Tín dụng ngắn hạn
Tín dụng trung dài hạn <= 5 năm
Bảo lãnh
Quốc doanh
Ngoài Quốc doanh
Tư nhân cá thể
Quốc doanh
Ngoài Quốc doanh
Tư nhân cá thể
Quốc doanh
Ngoài Quốc doanh
15
3
0,3
3
1
0,3
15
3
(Nguồn: Công văn số 642 ngày 12-11-2001của ngân hàng đầu tư và phát triển VN)
Thời gian xem xét cho vay được quy định không quá 25 ngày làm việc đối với những dự án nhóm A, 18 ngày đối với những dự án nhóm B và 12 ngày đối với những dự án còn lại kể từ khi chi nhánh nhận được Hồ sơ vay vốn hợp lệ và thông tin cần thiết của khách hàng theo yêu cầu của chi nhánh, chi nhánh phải ra quyết định cho vay hay không.
1.2. Những kết quả đạt được
Chi nhánh Đông Đô Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ra đời và phát triển phản ánh một tất yếu khách quan trong quá trình lớn mạnh và trưởng thành của hệ thống Ngân hàng thương mại nói chung và của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói riêng. Sau hơn mười năm hoạt động, Chi nhánh Đông Đô đã ghi dấu những thành công đáng kể của mình trên những trang vàng lịch sử của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Với một mô hình kinh doanh gọn nhẹ hoạt động như một chi nhánh, đội ngũ cán bộ có trình độ, tâm huyết, Chi nhánh đã thực sự trở thành cánh tay đắc lực của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, cung cấp đầy đủ, đa dạng các loại hình sản phẩm Ngân hàng như cho vay ngắn hạn, trung dài hạn, kinh doanh tiền tệ, đầu tư thuê mua bảo lãnh, tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán và các dịch vụ Ngân hàng khác. Thể hiện rõ nhất thành công của Chi nhánh là khối lượng vốn huy động và tín dụng đạt doanh số rất cao và luôn vượt mức kế hoạch đề ra cụ thể:
Bảng 4: Doanh số cho vay tại Chinh nhánh Đông Đô
Đơn vị: tỉ đồng
Năm
Cho vay ngắn hạn
Cho vay trung và dài hạn
Tài trợ và uỷ thác
Kế hoạch Nhà nước
Tổng cộng
1998
499
355
190.4
1506
2550.4
1999
647
402
396.53
2990.5
4436.12
2000
700.4
520
402.7
3060
4683
2001
799.4
538
564.5
4200.4
6102.3
2002
826
775
667.7
4092.7
6361.3
2003
1005.6
894
600.8
3216.6
5717
2004
1681.5
915.4
816.4
2250
5663.3
2005
1536.8
2353.162
733.75
1140.553
5764.265
Qua bảng ta thấy doanh số cho vay tại Chi nhánh đối với từng loại hình cho vay tăng liên tục qua các năm (trừ cho vay theo kế hoạch nhà nước).
- Về tín dụng ngắn hạn: Dư nợ ngắn hạn đến cuối năm 2005 là 1536.8 tỉ đồng (kể cả ngoại tệ quy đổi) nhưng chỉ bằng 93% dư nợ ngắn hạn đến cuối năm 2004. Nguyên nhân giảm dư nợ là do các đơn vị thi công xây lắp trúng thầu các công trình lớn được chủ đầu tư ứng vốn nên tập trung trả nợ vốn lưu động. Trong thời gian qua, Chi nhánh đã thực hiện cho vay khép kín với hầu hết các doanh nghiệp vay đầu tư tại Chi nhánh, xét duyệt cho vay theo đúng quy trình thẩm định, xét và nâng hạn mức tín dụng ngắn hạn kịp thời cho các doanh nghiệp theo nhu cầu thực tế của doanh nghiệp.
- Về tín dụng trung và dài hạn thương mại: đây là loại hình cho vay mà Chi nhánh có tiềm năng lớn về vốn trung và dài hạn và nhất là có một đội ngũ cán bộ am hiểu và đầy kinh nghiệm về công tác thẩm định. Qua bảng số liệu ta thấy rõ doanh số cho vay trung và dài hạn thương mại tăng đều qua các năm. Ở đây, vốn đầu tư chủ yếu tập trung vào các ngành kinh tế trọng điểm như dầu khí, xăng dầu, sản xuất vật liệu xây dựng và đầu tư vào các thiết bị thi công của các tổng công ty, các đơn vị thi công các công trình trọng điểm của Nhà nước như dự án khai thác mỏ khí Nam Côn Sơn, thuỷ điện Cần Đơn, thi công đường Hồ Chí Minh, các nhà máy xi măng, các nhà máy lọc dầu khu công nghiệp Dung Quất... Các dự án nói trên đều là các dự án lớn, đòi hỏi quy trình thẩm định kỹ càng với sự phối hợp của nhiều cán bộ tham gia, đặc biệt đòi hỏi một sự nỗ lực rất lớn của các cán bộ làm công tác thẩm định tại Chi nhánh.
- Đối với dự án cho vay theo kế hoạch nhà nước: nguồn vốn này tăng chậm từ năm 1998 – 2001 và liên tục giảm từ năm 2001 tới nay. Điều này là do năm 2002 Quỹ hỗ trợ phát triển quốc gia ra đời, điều này tất yếu kéo theo sự suy giảm về Quỹ đầu tư phát triển của Ngân hàng đầu tư và phát triển nói chung và Chi nhánh nói riêng trong thời gian tới. Do đó sẽ không phát sinh nhiều dự án mới.
- Tài trợ và uỷ thác: đây là vốn mà Bộ tài chính nhận được từ các tổ chức như IMF, WB, ADB... trong đó, Chi nhánh thông qua Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được chỉ định là ngân hàng đại lý, ngân hàng phục vụ hoặc cho vay lại với các dự án có tầm quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Công việc thẩm định là do phía uỷ thác đảm nhiệm, Chi nhánh chỉ có việc thực thi mà thôi. Nhưng thông qua đó, Chi nhánh có thể học hỏi kinh nghiệm trong thẩm định dự án của các tổ chức quốc tế có uy tín trên.
Bảng 5: Kết quả thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Chi nhánh Đông Đô
Đơn vị:Tỉ đồng
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
Số dự án tiếp nhận
29
33
35
40
Số dự án để lại năm sau
0
4
1
2
Số dự án đã thẩm định:
_ KHNN
_ TDTM
31
20
11
29
15
14
38
18
20
39
14
25
Số dư án duyệt
_ KHNN
_ TDTM
30
20
10
27
14
13
37
18
19
38
8
30
Số tiền cho vay
(Doanh số cho vay)
2714.2
3187.7
3384
3451.6
Số tiền giải ngân
2155.6
2776.5
2931.2
2845.7
Bảng trên cho thấy khối lượng dự án mà công tác thẩm định tiếp nhận tại Chi nhánh liên tục tăng qua các năm. Điều này đem đến trách nhiệm ngày càng to lớn cho các cán bộ đang thực hiện công tác thẩm định. Như đã nói ở trên, do nguồn vốn kế hoạch nhà nước liên tục giảm từ năm 2001 do sự ra đời của Quỹ hỗ trợ phát triển quốc gia nên số lượng dự án tiếp nhận, số lượng dự án đã duyệt thuộc kế hoạch nhà nước phải tiến hành thẩm định cũng vì thế mà liên tục giảm qua các năm. Trong khi đó, số lượng các dự án cho vay tín dụng thương mại, do chiến lược của ngân hàng Đầu tư và Phát triển trung ương thay đổi nên đã liên tục tăng qua các năm.
Bảng 6: Cơ cấu nợ quá hạn tại Chi nhánh Đông Đô
Đơn vị: tỉ đồng
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
1.Tổng cho vay
(Tổng dư nợ)
6102.3
6361.4
5717
5663.34
5764.267
2. Nợ quá hạn
85.43
66.16
42.9
37.4
25.32
(2)/(1) %
1.4
1.04
0.75
0.66
0.44
Nợ quá hạn là một chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng thẩm định nói riêng. Tuy nhiên, khi tỷ lệ nợ quá hạn cao thì chưa chắc chất lượng của công tác thẩm định đã kém. Bởi lẽ, ngoài những nguyên nhân chủ quan thuộc về công tác thẩm đjnh của Chi nhánh thì vấn đề nợ qúa hạn phát sinh còn do những nguyên nhân khách quan như thiên tai, khủng hoảng, biến động chính trị, do thay đổi cơ cấu doanh nghiệp... Bên cạnh đó tỉ lệ nợ quá hạn cao hay thấp là do chính sách của Hội sở chính, của Chi nhánh là tăng lượng vốn cho vay hay là tối thiểu hóa nợ quá hạn. Do đó, có thể khẳng định là tỉ lệ nợ quá hạn cũng như quy mô của nợ quá hạn ở đây chỉ được coi là một chỉ tiêu đánh giá về công tác thẩm định một cách tương đối. Qua bảng trên ta thấy: tỉ lệ nợ quá hạn giảm qua các năm, điều này dễ dàng nhận thấy là do dư nợ tín dụng tăng cùng lúc với sự giảm của giá trị của nợ quá hạn. Nhưng xét về tổng thể, tình hình nợ quá hạn của Chi nhánh còn tương đối khả quan hơn so với nhiều ngân hàng bạn (tỉ lệ nợ qúa hạn theo thống kê chung cho toàn ngành là vào khoảng 8%).
Trong những năm qua, Chi nhánh đã quan tâm, chú trọng phân tích tình hình hoạt động của doanh nghiệp, nghiên cứu, nâng cao chất lượng thẩm định đối với các khoản vay, các dự án đầu tư, chú ý phân tích tới các yếu tố tác động tới dự án để thấy rõ những rủi ro có thể phát sinh từ khoản vay của dự án. Ngoài ra, Chi nhánh còn thực hiện tốt việc kiểm tra quản lý tín dụng, có sự phối hợp với kiểm soát nội bộ trong việc kiểm tra chéo công tác tín dụng nói chung và công tác thẩm định nói riêng.
Đối với nợ quá hạn trung hạn thương mại và kế hoạch nhà nước trong những năm qua tăng do chênh lệch tỷ giá ngoại tệ chứ không hoàn toàn do khâu thẩm định. Nhưng nên chăng trong quá trình thẩm định dự án, cán bộ thẩm định nên đoán trước được xu hướng của tỷ giá để điều chỉnh các tham số trong quá trình phân tích cho phù hợp. Đây là một yêu cầu khá cần thiết nhưng để dự đoán được tỷ giá tương lai đòi hỏi sự quan tâm rất nhiều từ mọi phía cũng như nhận xét đánh giá một cách khoa học từ nhiều vấn đề của nền kinh tế. Đó là một công việc hết sức khó khăn và phức tạp.
Ở đây cần phải lưu ý là phương pháp thẩm định tài chính dự án tại Chi nhánh chỉ chú trọng nhiều tới việc đánh giá khả năng hoàn trả vốn và lãi của dự án cho Ngân hàng. Số liệu được nghiên cứu cụ thể trong một năm hoạt động bình thường sau đó được áp dụng cho các năm thu hồi vốn theo hợp đồng tín dụng đã ký kết. Có tới 95% dự án được thẩm định có sửa đổi bổ sung so với hồ sơ gốc. 100% báo cáo thẩm định có đề cập tới rủi ro của doanh nghiệp và dự án, song vì nhiều lý do khác nhau mà chỉ có 5% trong số đó được thể hiện bằng những con số tính toán cụ thể.
Thẩm định tài chính dự án tại Chi nhánh nhìn chung là khá chính xác và thực tiễn. Trong quá trình thẩm định, Chi nhánh đã tuân theo các bước của quy trình thẩm định và thực hiện đầy đủ các yêu cầu của phương pháp, nội dung thẩm định. Hơn thế, cách áp dụng quy trình thẩm định của Chi nhánh được đánh giá là khá linh hoạt trong từng trường hợp cụ thể. Đối với những khách hàng lớn, truyền thống thì Chi nhánh luôn có chính sách hạn chế tối thiểu rườm rà, vướng mắc trong quá trình ra quyết định. Chi nhánh tập chung vào cho vay tín chấp thay bằng cầm cố tài sản, bỏ qua nhiều bước đánh giá dự án. Đối với các dự án có hiệu quả kinh tế xã hội, tính khả thi cao Chi nhánh có thể tham gia tài trợ, tư vấn đầu tư, cho vay ưu đãi... theo chính sách của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Tuy nhiên, một khó khăn lớn trong quá trình thẩm định tại Chi nhánh là việc thu thập và xử lý thông tin, xác minh tính hợp lý các số liệu các dự báo, thẩm tra báo cáo chủ đầu tư đề xuất (báo cáo tài chính, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh..). Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sai lệch trong báo cáo của chủ đầu tư: hoặc do doanh nghiệp muốn Ngân hàng thấy hoạt động của mình là rất tốt hoặc do doanh nghiệp không muốn công khai tình hình tài chính, kết quả hoạt động sản xuất kinh thực tế của mình. Do thiếu hoặc có sự sai sót những thông tin này cho nên trong công tác thẩm định, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vẫn chưa được đánh giá đúng với khả năng.
Một khó khăn nữa trong quá trình thẩm định dự án tại Chi nhánh là vẫn có nhiều dự án chưa được lập, nghiên cứu một cách hoàn thiện theo đúng yêu cầu. Số liệu đưa ra trong các báo cáo mới chỉ dừng lại ở mặt tích cực, mang nặng tính chủ quan, thời điểm, không mang tính khách quan hệ thống cũng như chưa phân tích, tính toán cụ thể toàn bộ quá trình thực hiện dự án. Trước thực trạng đó, Chi nhánh luôn chủ động tìm tòi sáng tạo một cách linh hoạt các phương thức thẩm định, sao cho vừa đảm bảo hiệu quả cho vay vừa an toàn vốn. Với những nỗ lực đó, Chi nhánh Đông Đô Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được coi là một trong những đơn vị có mức hiệu quả sử dụng vốn cao, đảm bảo an toàn vốn, công tác quản lý thanh toán nợ hiệu quả trong hệ thống các Ngân hàng thương mại.
Tóm lại, công tác thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án đầu tư nói riêng tại Chi nhánh Đông Đô nhìn một cách tổng quát đã đạt được những thành tựu khả quan. Song để có thể đánh giá được một cách chi tiết có hiệu quả hơn cần có những biện pháp về cơ chế thẩm định, quy trình linh hoạt, hiệu quả hơn.
Qua hơn 10 năm hoạt động, Chi nhánh Đông Đô đã không ngừng đổi mới và ngày một lớn mạnh trên các mặt công tác. Góp phần vào sự phát triển chung của Chi nhánh Đông Đô, công tác thẩm định cũng ngày được hoàn thiện. Với mục tiêu tăng trưởng tín dụng an toàn, đảm bảo chất lượng tín dụng công tác thẩm định đã ngày càng được quan tâm đúng mức và thành lập phòng thẩm định quản lý tín dụng vào tháng 9/2003, Chi nhánh Đông Đô đã nghiên cứu thẩm định các dự án đầu tư của khách hàng, góp phần tăng trưởng tín dụng và mang lại hiệu quả trong kinh doanh ngân hàng, giảm thiểu rủi ro tín dụng, đạt được một số kết quả khả quan trong năm 2006:
Tổng số dự án thẩm định là 40 dự án, tăng 21,37% so với năm 2005.
Tổng dư nợ cho vay theo dự án: 5924170 triệu đồng, tăng 107,95 % so với năm 2005.
Từ tháng 9/2001 tổng giám đốc đã ra quyết định quy định về “Quy trình thẩm định dự án đầu tư’’. Quy trình này đã liên tục được bổ sung cập nhập, hoàn thiện liên tục nhằm đáp ứng với tình hình chung, giúp cán bộ thẩm định hoàn thành nhiệm vụ một cách dễ dàng nhất. Quy trình thẩm định được tiến hành theo một trình tự logic, đã đề cập được đầy đủ các nội dung của công tác thẩm định, đặc biệt trong thẩm định tài chính dự án các chỉ tiêu được đưa ra để thẩm định khá đầy đủ và chi tiết đảm bảo cho việc thẩm định được chính xác, nhất là việc đánh giá khả năng hoàn vốn và thời gian trả nợ.
Quy trình này có sự phối hợp giữa phòng tín dụng, phòng nguồn vốn và phòng thẩm định đã giúp ngân hàng phát hiện sai sót một cách dễ dàng hơn và đưa ra kết quả đánh giá chính xác về dự án, có được sự thống nhất trước khi lập tờ trình ban lãnh đạo.
Các thiết bị máy móc tiên tiến, hiện đại, phương tiện làm việc cho cán bộ thẩm định đã được Chi nhánh Đông Đô quan tâm một cách đầy đủ. Những công việc tính toán, soạn thảo, lưu trữ ngày càng nhanh chóng, chính xác và khoa học. Các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại, điện thoại, fax, mạng nội bộ, mạng Internet… giúp cán bộ thẩm định thu thập thông tin, khai thác thông tin kịp thời, hiệu quả và chính xác hơn.
Bên cạnh đó, Chi nhánh Đông Đô cũng quan tâm chú trọng công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác thẩm định, thường xuyên tham gia, tổ chức cũng như tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng tham gia các lớp đào tạo nâng cao trình độ, nghiệp vụ do hệ thống Ngân hàng đầu tư và phát triển tổ chức giúp cho các cán bộ thẩm định có trình độ chuyên môn ngày càng cao, đạo đức nghề nghiệp ngày một vững vàng, đáp ứng yêu cầu công việc đòi hỏi.
2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân
2.1. Những hạn chế còn tồn đọng
Bên cạnh những kết quả đạt được rất đáng khả quan, công tác thẩm định tài chính tại Chi nhánh Đông Đô còn mắc phải không ít những thiếu sót, hạn chế:
1/ Việc xem xét, đánh giá từng nội dung trong quy trình thẩm định còn sơ sài, mang nặng tính hình thức và có nhiều điểm chưa hợp lý, nhiều khi chịu ảnh hưởng bởi mối quan hệ giữa Chi nhánh Đông Đô và khách hàng, hay do chỉ định theo kế hoạch từ hội sở chính. Kết quả là đến nay vẫn còn nhiều khoản nợ khó đòi, buộc ngân hàng phải có biện pháp tháo gỡ như gia hạn nợ, giảm lãi suất cho vay, thu gốc trước thu lãi sau,… Một số dự án khác trở thành khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi và là gánh nặng đối với ngân hàng.
2/ Nội dung, phương pháp thẩm định tài chính dự án, việc sử dụng các chỉ tiêu tài chính chưa thực sự hiệu quả.
Trong thẩm định tổng vốn đầu tư cũng như cơ cấu tốc độ bỏ vốn đầu tư ngân hàng thường chấp nhận những dự toán của chủ đầu tư đưa ra trong dự án mà chưa cân nhắc đánh giá một cách kỹ lưỡng. Vì thế nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả tính toán của khách hàng, rất thiếu tính khách quan.
Việc thẩm định doanh thu của dự án thông thường cán bộ thẩm định chỉ phân tích sản phẩm có được chấp nhận hay không và cho công suất tăng dần theo cảm tính hoặc thụ động theo kế hoạch của doanh nghiệp. Giả thiết về giá bán sản phẩm chủ yếu dựa vào phương pháp đơn đặt hàng, chưa phân tích dựa vào yếu tố cung cầu trên thị trường.
Việc xác định chi phí, nhiều khoản mục chi phí ngân hàng bỏ qua hoặc mặc nhiên chấp nhận định mức chi phí do doanh nghiệp đưa ra.
Một số chỉ tiêu làm cơ sở đánh giá, xếp hạng dự án, doanh nghiệp vay vốn như: NPV, IRR,… tuy đã được đề cập nhưng không được sử dụng thường xuyên, nếu có thì chỉ dừng lại ở giai đoạn tính toán mà chưa đi sâu vào phân tích mối quan hệ giữa các chỉ tiêu và chưa so sánh với các chỉ tiêu trung bình ngành. Hơn nữa giá trị thời gian của tiền không được đề cập đến trong nhiều dự án, Chi nhánh Đông Đô chỉ chú trọng đến việc tính toán thời gian thu hồi vốn và nguồn trả nợ mà chưa quan tâm đến đời dự án.
3/ Sau khi có những hướng dẫn về các nội dung, các chỉ tiêu thẩm định phương pháp thẩm định hiện tại chưa có những hướng dẫn về cách đánh giá, kết luận cuối cùng trên cơ sở tổng hợp những tiêu chuẩn chỉ tiêu đã phân tích, chưa có sự phân biệt nào đó về thứ tự quan trọng của những tiêu chuẩn, căn cứ đánh giá đã qua phân tích.
4/ Việc thẩm định, đánh giá các dự án đầu tư mới chỉ ở trạng thái “tĩnh’’ là chủ yếu, mà không thẩm định ở trạng thái “động’’ như chính sự phát sinh các dòng tiền tệ theo diễn biến của các giai đoạn dự án dưới tác động của các yếu tố môi trường bên ngoài như giá cả, môi trường kinh doanh….
5/ Nguồn thông tin sử dụng để thẩm định tài chính dự án còn hạn chế, độ tin cậy chưa cao. Nguồn thông tin sử dụng trong thẩm định chủ yếu do doanh nghiệp cung cấp. Các nguồn thông tin này không được các cơ quan độc lập chứng nhận, do đó dễ gây ra tình trạng gian lận từ phía khách hàng để có thể vay được tiền từ ngân hàng. Do vậy dễ gây ra sự sai lệch trong đánh giá hiệu quả tài chính dự án và nhầm lẫn trong quyết định cho vay.
6/ Tiến độ thẩm định dự án vẫn còn chậm và sự kết hợp giữa các phòng tín dụng, phòng nguồn vốn, phòng thẩm định trong quá trình thẩm định dự án còn chưa chặt chẽ nên chưa thực sự phát huy được hiệu quả. Một số dự án phòng tín dụng chuyển toàn bộ hồ sơ dự án cho phòng thẩm định sau khi thực hiện tiếp xúc, tìm hiểu doanh nghiệp, thẩm định và lập tờ trình cho vay nên thời gian thẩm định một dự án bị kéo dài và gây phiền phức cho doanh nghiệp nếu phòng thẩm định muốn tìm hiểu bổ xung thêm các thông tin.
7/ Công tác tái thẩm định sau khi cho vay chưa được quan tâm đúng mức. Một số dự án thực sự không phát huy được hiệu quả nhưng chưa được Chi nhánh Đông Đô nhìn nhận một cách độc lập do vậy chưa đánh giá đúng mức hiệu quả của vốn đầu tư. Vì vậy mà không rút ra được kinh nghiệm có nên tiếp tục đầu tư vào những dự án tương tự hay không.
8/ Chưa có sự phân biệt trong quy trình, nội dung, phương pháp phân tích hiệu quả tài chính dự án đối với các dự án thuộc các ng3ành, lĩnh vực khác nhau. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác thẩm định tài chính.
Một trong những biểu hiện cụ thể về hạn chế của công tác thẩm định tài chính dự án tại Chi nhánh Đông Đô là tỷ lệ nợ quá hạn cho vay theo dự án. Điều này được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 7: Tổng dư nợ tại chi nhánh ĐôngĐô
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Tổng dư nợ cho vay theo dự án
3.303.042
3.710.383
3.924.170
Nợ quá hạn cho vay theo dự án
26.868
52.425
54.000
Tỷ lệ nợ quá hạn
0,81%
1,41%
1,38%
(Nguồn: phòng tín dụng I – Chi nhánh Đông Đô).
Theo số liệu trên tỷ lệ nợ quá hạn cho vay theo dự án tại Chi nhánh Đông Đô ở mức thấp hơn 1,5% nhưng số tuyệt đối nợ qua hạn cho vay theo dự án có chiều hướng gia tăng dần qua các năm. Nguyên nhân của tình trạng trên một phần là do ngân hàng thực hiện chuyển nợ quá hạn theo đúng các quy định của ngân hàng nhà nước (Quyết định số 1627 của ngân hàng nhà nước Việt Nam), một phần là do quá trình từ khâu thẩm định tài chính dự án đến khi dự án thực sự đi vào hoạt động trải qua rất nhiều công đoạn phức tạp gây rủi ro trong quá trình hoạt động của dự án. Tuy nhiên có thể nói nguyên nhân chính của tình trạng trên là do công tác thẩm định tài chính dự án tại Chi nhánh Đông Đô chưa có hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu hoạt động cho vay theo dự án. Vì thế không tránh khỏi những dự án đã được thẩm định đánh giá trên mức hiệu quả.
Trên đây là một số hạn chế, thiếu sót trong công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Chi nhánh Đông Đô. Để có thể khắc phục triệt để những hạn chế đó, chúng ta cần nghiên cứu tìm hiểu một số nguyên nhân gây ra những hạn chế đó.
2.2. Một số nguyên nhân chủ yếu
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới những hạn chế, thiếu sót trong quá trình thẩm định. Đó có thể là những thiếu sót do nguyên nhân khách quan của quy trình, nội dung thẩm định tài chính dự án hay là những nguyên nhân chủ quan từ phía Chi nhánh, cán bộ tín dụng, thẩm định.
2.2.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, hệ thống quy phạm pháp luật liên quan chưa cụ thể, thống nhất các mức quy định cuả nhà nước về khấu hao, kiểm toán kế toán..chưa hoàn thiện, một số lĩnh vực không có tiêu chuẩn đánh giá xem xét, các chỉ tiêu thống kê không thống nhất...
Thứ hai, trình độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam đang ở trong giai đoạn đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường, do vậy nhiều hoạt động gắn liền với nó còn chưa định hình rõ ràng, thậm trí còn chưa đựng nhiều rủi ro, bất ổn, công tác quản lý nhiều mặt còn chưa có nề nếp, kinh nghiệm. Có thể nói đây là cội nguồn của các nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại các ngân hàng thương mại.
Thứ ba, tình hình thị trường giá cả nói chung, thị trường giá cả tiền tệ nói riêng tuy đã tương đối ổn định nhưng vẫn còn không ít những bất ổn, thêm vào đó các hình thức của thị trường tài chính chưa được phát triển mạnh ở Việt Nam, tâm lý và thói quen đầu tư chưa hình thành rõ nét, giá cả của đồng tiền, vốn vay chưa được quan tâm đúng mức. Do vậy việc tính các dòng tiền được chiết khấu chưa được chú ý áp dụng một cách đúng mức
Thứ tư, phân cấp quyết định, quản lý dự án của Nhà nước chưa rõ ràng các Chi nhánh, Chi nhánh nhiều khi không xác định được chính xác thẩm quyền quyết định các dự án. Quản lý dự án đôi khi chồng chéo giữa địa phương và các bộ nghành liên quan...
Thứ năm, công tác thẩm định tài chính dự án cần có sự trao đổi thông tin giữa các ngân hàng, giữa ngân hàng và doanh nghiệp … nhưng hiện nay sự phối hợp, trao đổi thông tin giữa chi nhánh Đông Đô với các bên liên quan còn nhiều hạn hẹp
2.2.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, trong quá trình thẩm định cán bộ thẩm định ít được tiếp xúc với các kênh thông tin chuẩn, hệ thống lưu trữ số liệu của Chi nhánh Đông Đô không hiện đại. Hồ sơ dự án và kết quả thẩm định không được lưu trữ. Sự phối kết hợp trao đổi thông tin, tư vấn của Chi nhánh Đông Đô với các đơn vị khác trong nghành hầu như không có. Năng lực sử dụng thành thạo vi tính của một bộ phận cán bộ thẩm định còn chưa ổn.
Thứ hai, phần mềm thẩm định còn chưa hỗ trợ được nhiều cho công viêc. Xu hướng ngày nay yêu cầu việc thẩm định cần được tiêu chuẩn hoá thông qua việc áp dụng hệ thống phần mềm trong phân tích chuyên nghành, trong quản lý và dự báo. Chi nhánh Đông Đô trong tương lai cần cáp dụng hơn nữa những ứng dụng khoa học vào công tác thẩm định.
Thứ ba, ngân hàng khi tiến hành thẩm định dự án đã quá coi trọng vào thẩm định tài sản thế chấp, cầm cố, thời gian trả vốn vay mà không thẩm định kỹ các nội dung tài chính dự án cũng như hiệu quả tài chính của dự án. Nhiều trường hợp ngân hàng không căn cứ vào hiệu quả tài chính của dự án mà căn cứ vào thời gian trả nợ, mối quan hệ của doanh nghiệp với ngân hàng cũng như thế mạnh của người bảo lãnh. Đây cũng chính là lý do khiến cho khách hàng trong cho vay trung, dài hạn của Chi nhánh Đông Đô chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước, khách hàng truyền thống khu vực kinh tế tư nhân chưa được coi trọng.
Thứ tư, hệ thống tổ chức, quản lý điều hành thẩm định tài chính dự án còn nhiều yếu kém. Mặc dù Chi nhánh Đông Đô đã thành lập phòng thẩm định riêng nhưng do mới thành lập số lượng cán bộ còn ít nên chưa thực sự phát huy được hiệu quả. Hơn nữa dù quá trình thẩm định được tiến hành thông qua sự kết hợp giữa nhiều phòng chức năng nhưng sự phối hợp giữa các phòng đôi khi còn chưa đồng bộ, thống nhất nên chưa phát huy được hiệu quả.
Thứ năm, Cần phải nâng cao hơn nữa trình độ của cán bộ phòng để có thể theo kịp được yêu cầu của công việc.
Nói tóm lại, để công tác thẩm định tại Chi nhánh Đông Đô được trở lên có hiệu quả hơn thì phải có những biện pháp kịp thời để khắc phục những hạn chế và tồn đọng ở trên.
Chương II: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ
I. PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO DỰ ÁN TẠI CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Mục tiêu tổng quát
Xuất phát từ tôn chỉ mục đích xây dựng Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam thành ngân hàng đa sở hữu, kinh doanh đa lĩnh vực, hoạt động theo thông lệ quốc tế, chất lượng ngang tầm với các Ngân hàng tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á.
Trên cơ sở tổng kết, đánh giá đầy đủ, toàn diện hoạt động kinh doanh năm 2006 về những kết quả đạt được, những tồn tại thách thức đối với chi nhánh năm 2006 và dự báo tình hình phát triển kinh tế- xã hội đất nước năm 2007- năm đầu tiên Việt Nam thực hiện các cam kết WTO. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Đông Đô, xác định phương hướng nhiệm vụ năm 2007 như sau:
- Tăng tốc vươn lên khẳng định ưu thế cạnh tranh, nắm bắt thời cơ thực hiện hội nhập để tạo nền tảng cho chi nhánh phát triển bền vững, mở rộng mạng lưới hoạt động.
- Thực hiện chủ trương kế hoạch cổ phần hóa chủ động và tích cực. Tiếp tục duy trì quy mô, chất lượng, hiệu quả tăng trưởng theo mục tiêu kế hoạch.
- Mở rộng khách hàng ngoài quốc doanh, các công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn có năng lực tài chính lành mạnh.
- Tăng cường cho vay ngắn hạn, tập trung vào các ngành nghề có khả năng cạnh tranh cao khi Việt Nam gia nhập WTO. Mở rộng đối với nhóm khách hàng hoạt động thương mại và sản xuất hàng xuất khẩu.
- Phát triển những sản phẩm tín dụng mới nhằm đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng.
- Hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng hỗ trợ cho công tác tín dụng.
- Tập trung khai thác nguồn lực, tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo lại, đào tạo mới để tạo bước chuyển đổi về chất lượng trong quy hoạch, đào tạo và bổ nhiệm cán bộ của chi nhánh. Quyết tâm đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên gia theo chương trình đào tạo quốc tế.
- Tập trung chỉ đạo các hoạt động đồng bộ, thiết thực, hiệu quả có ý nghĩa để kỷ niệm 50 năm thành lập ngành, tạo động lực và bước phát triển cao trong giai đoạn mới sau cổ phần hóa.
2. Các chỉ tiêu kinh doanh chủ yếu
Bảng 8: Các chỉ tiêu kinh doanh chủ yếu năm 2007
Đơn vị: tỷ đồng
STT
Chỉ tiêu
Thực hiện 2006
Kế hoạch 2007
Tăng trưởng so với 2006
1
Tổng tài sản
2.183
2.619
20%
2
Huy động vốn cuối kỳ
2.107
2.591
23%
3
Dư nợ tín dụng cuối kỳ
1.387
2.081
50%
4
Thu dịch vụ ròng
8,1
14
70%
5
Lợi nhuận trước thuế
26
28
7%
Cạnh tranh, hội nhập để tồn tại và phát triển là vấn đề tất yếu không phải của riêng Chi nhánh Đông Đô. Để theo kịp với sự phát triển của các ngân hàng thương mại Chi nhánh Đông Đô cũng đã đề ra phương hướng, mục tiêu cho mình trong những năm tới.
Để thực hiện mục tiêu chung đó, trên cơ sở căn cứ vào các nguồn lực và thế mạnh hiện có cũng như các tiền đề đã được chuẩn bị, Chi nhánh Đông Đô đã đặt ra mục tiêu cụ thể của mình trong các năm tới như sau:
2.1. Công tác huy động vốn
Tập trung đẩy mạnh huy động vốn, nâng cao tỷ trọng huy động trung dàI hạn đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư phát triển.
Đa dạng hoá sản phẩm huy động, đáp ứng cao nhất nhu cầu gửi tiền của khách hàng.
Chuyển dịch cơ cấu nguồn đảm bảo tự chủ về nguồn vốn, đảm bảo khả năng thanh toán và đáp ứng hoàn toàn nhu cầu cho vay và đầu tư.
Nâng cao tỷ trọng tiền gửi thanh toán trên mọi nguồn vốn huy động góp phần giảm chi phí huy động vào.
Điều hành lãi suất theo sát biến động thị trường, đảm bảo giữ vững và tăng trưởng nguồn vốn.
2.2. Hoạt động tín dụng đầu tư
Phấn đấu tổng dư nợ cho vay đạt 5.824 tỷ đồng một năm trong đó:
Dư nợ ngấn hạn đạt:1.222 tỷ /năm
Dư nợ trung dài hạn thương mại đạt:4.105 tỷ/năm.
Nâng cao chất lượng công tác tín dụng, thẩm định dự án và tư vấn khách hàng nhằm tăng trưởng dư nợ cho vay.
Chú trọng kiểm tra, giảm sát sau giải ngân, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích vay, hạn rủi ro có thể xảy ra với khoản vay.
Tiếp tục đẩy mạnh xử lý dứt điểm nợ xấu, nợ tồn đọng, cơ cấu lại dư nợ cho vay.
Trích lập dự phòng rủi ro tín dụng theo đúng thực tế hoạt động tín dụng, quyết định của ngân hàng nhà nước và hướng dẫn của hội sở chính.
Tăng cường công tác tiếp thị để mở rộng và đa dạng hoá khách hàng. Tập trung vào đối tượng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động có hiệu quả, sản phẩm có thương hiệu và có sức cạnh tranh lớn, có tài sản đảm bảo, các doanh nghiệp nhà nước thuộc khối sản xuất kinh doanh có hiệu quả
Kiên quyết thu hẹp dần tín dụng đối với các doanh nghiệp xây lắp hoạt động kém hiệu quả. Không mở rộng cho vay đối với khối xây lắp.
Tăng cường thu nợ trung dài hạn, giảm bớt cho vay trung dài hạn đối với các dự án mới, chỉ cho vay các dự án có hiệu quả, thời gian thu hồi nhanh.
Nâng cao vai trò công tác thẩm định, đảm bảo an toàn trong công tác tín dụng bảo lãnh.
2.3. Công tác dịch vụ khách hàng
Từng bước đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, thực hiện phong cách giao dịch văn minh, đa dạng hoá các dịch vụ thanh toán đảm bảo nhất, an toàn,thuận tiện nâng cao uy tín và phát triển nâng cao sức cạnh tranh của Chi nhánh Đông Đô
Phát huy thế mạnh của Chi nhánh Đông Đô trong các lĩnh vực bảo lãnh, thanh toán trong nước và quốc tế và kinh doanh tiền tệ.
Phát triển các hoạt động dịch vụ, tập trung vào các sản phẩm dịch vụ đầu tư dự án trên nền công nghệ hiện đại.
Mở rộng dịch vụ trên cơ sở phát triển các phần mềm như Homebankin, Internetbanking….
Nghiên cứu, triển khai các ứng dụng mới hỗ trợ các phòng ban trong công tác quản lý điều hành.
2.4. Công tác tổ chức, công tác đào tạo cán bộ, quản trị điều hành, xây dựng phát triển mạng lưới và nguồn nhân lực
Tuyển dụng cán bộ theo đúng quy định của HSC, phối hợp với các cơ sở đào tạo có uy tín để tổ chức các khoá đào tạo để đáp ứng tốt hơn yêu cầu công tác xây dựng chu trình đào tạo, từng bước tiêu chuẩn hoá công tác đào tạo, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn và nhận thức mới để nâng cao chất lượng.
Xây dựng kế hoạch, quy hoạch trách nhiệm cán bộ.
Lựa chọn và bổ xung cán bộ chủ chốt theo đúng năng lực, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có năng lực chuyên môn, có phẩm chất đạo đức chính trị và có trách nhiệm trong công việc để đáp ứng nhu cầu phát triển mạng lưới.
Bố trí cán bộ đúng vị trí, đúng người, đúng việc.
Phát triển mở rộng mạng lưới trên địa bàn Hà Nội theo kế hoạch.
Tính toán hiệu quả mở thêm phòng giao dịch, mở rộng cung ứng dịch vụ ngân hàng, góp phần nâng cao vị thế của Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam .
2.5. Các công tác khác
Công tác tài chính kế toán:
- Tăng cường công tác tài chính kế toán, đảm bảo hạch toán chính xác, kịp thời mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh, cung cấp kịp thời thông tin quản trị điều hành.
- Thường xuyên kiểm tra việc chấp hành chế độ kế toán và kế hoạch chỉ tiêu nội bộ.
- Tập hợp, kiểm tra, đối chiếu chứng từ của các phân hệ và các báo cáo kế toán, phát hiện sai sót để sửa chữa kịp thời.
- Tham mưu cho ban giám đốc về công tác kế toán và quản lý tài chính
- Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ không ngừng tăng cường, phát huy vai trò kiểm tra tại chỗ, đảm báo các quy trình nghiệp vụ đều được tuân thủ.
Công tác kho quỹ: đảm bảo cung ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu giao dịch hàng ngày và nhu cầu đột xuất, đảm bảo tuân thủ đầy đủ các quy định về an toàn kho quỹ, công tác giao nhận, vận chuyển tiền và xuất nhập khẩu tiền mặt, thành lập các tổ tiền lưu động nhằm đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu thu chi tiền mặt tại đơn vị cho khách hàng.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHÀN HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ
1. Nâng cao tầm quan trọng của công tác thẩm định nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng
Khi xã hội ngày càng phát triển thì các công cuộc đầu tư càng trở lên lớn hơn khi đó công cuộc thẩm định nói chung và thẩm định tài chính dự án đầu tư nói riêng cũng lớn theo do khối lượng vốn lớn mà chúng ta không thể coi nhẹ thẩm định được. Nó chính là cơ sở để đảm bảo cho các công cuộc đầu tư có thể gặt hái được những hiệu quả tích cực trong tương lai.
Để có thể đánh giá đúng tầm quan trọng của thẩm định tài chính dự án đầu tư, phải có những chính sách, hệ thống luật cụ thể định hướng cho công tác thẩm định tại các ngân hàng. Việc đầu tiên sẽ là nâng cao, cải thiện khung pháp lý cho hoạt động phân tích đánh giá, thẩm đinh tình hình tài chính của các doanh nghiệp, các dự án, yêu cầu các doanh nghiệp phải có báo cáo tài chính thực tế, tránh những sổ sách ảo như hiện nay.
Tuy đã có nhiều tiến bộ, đổi mới nhưng hệ thống pháp lý ở Việt Nam nhìn chung vẫn chưa được hoàn thiện. Vấn đề tạo hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt đọng của các Ngân hàng và các doanh nghiệp trong ngoài nước còn nhiều hạn chế. Hoàn thiện hệ thống pháp luật cho hoạt động ngân hàng nói chung và quy chế thẩm định dự án nói riêng là yêu cầu cấp bách đúng đắn của Ngân hàng. Ngoài ra cần tiến hành hoàn thiện, bổ sung các điều lệ quy định về mức thuế, lãi suất, công nghệ, thuế...
Cần tiến hành sửa đổi pháp lệnh hợp đồng kinh tế, điều chỉnh một số vấn đề liên quan tới hoạt động tín dụng Ngân hàng và các vấn đề phát sinh chưa giải quyết được do chưa có quy định cụ thể.
Tiến hành hoàn thiện chính sách kế toán, kiểm toán đối với tất cả các đơn vị trong mọi thành phần kinh tế từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định. Kiến nghị Nhà nước ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê thống nhất chính xác nhất.
Thường xuyên tiến hành thanh tra giám sát các hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế, quy định rõ ràng lĩnh vực hoạt đọng trong đăng ký kinh doanh tránh tình trạng mập mờ trong phạm vi hoạt động của doanh nghiệp.
Trên đây là một số giải pháp và kiến nghị giúp cônag tác thẩm định tại Chi nhánh được có chất lượng cao hơn.
2. Cải tiến đi tới hoàn thiện quy trình, phương pháp thẩm định
Quy trình thẩm định là kim chỉ nam cho công tác thẩm định chính vì vậy phải ngày càng hoàn thiện, đổi mới cho phù hợp với hiện thời. Để làm tốt điều này Chi nhánh cần thực hiện một số nội dung sau:
* Thẩm định sự biến động của các yếu tố đầu vào của dự án:
Ngân hàng cần nắm bắt được những thông tin giá cả trên thị trường để đánh giá được chi phí nguyên vật liệu đầu vào. Hơn nữa ngân hàng cần phải tham khảo các quy định của bộ tài chính, các cơ quan chủ quan của doanh nghiệp … để thẩm định lại các loại chi phí như chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí thuê đất đai, chi phí lương nhân công, bảo hiểm xã hội …. Đối với các dự án mở rộng, đầu tư thêm trang thiết bị cán bộ thẩm định có thể lấy chỉ tiêu cũ hoặc tham khảo từ các doanh nghiệp cùng hành nghề với doanh nghiệp đầu tư. Riêng đối với chi phí KHCB, ngân hàng cần thường xuyên kiểm tra, đối chiếu với các văn bản quản lý tài chính mới nhất của bộ tài chính để thẩm định chi phí KHCB của doanh nghiệp, tránh tình trạng doanh nghiệp khấu hao quá nhanh để giảm nghiã vụ nộp thuế. Việc thẩm định được chính xác chi phí KHCB sẽ liên quan đến kết quả thẩm định nguồn trả nợ, thời gian trả nợ của doanh nghiệp. Do vậy đòi hỏi ngân hàng phải hết sức quan tâm.
* Thẩm định sự biến động của yếu tố đầu ra của dự án:
Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, dịch vụ thì nguồn thu của doanh nghiệp có được hay không tuỳ thuộc vào việc sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp có tiêu thụ được hay không, có được thị trường chấp nhận hay không. Để thẩm định được doanh thu của doanh nghiệp từ dự án, ngoài những thông tin do khách hàng cung cấp ngân hàng cần tìm hiểu đến yếu tố cung cầu trên thị trường, sức mạnh cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp … Muốn làm được điều này đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có đầy đủ những kiến thức về thị trường, có kỹ thuật phân tích diễn biến kinh tế.
Một yếu tố nữa cũng cần phải thẩm định đó là thuế thu nhập doanh nghiệp. Cán bộ thẩm định cần nắm vững các văn bản thuế hiện hành để tính toán lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp từ đó dự tính nguồn tham gia trả nợ cho dự án.
* Thẩm định một cách kỹ lưỡng vốn đầu tư của dự án:
Trong thẩm định tổng vốn đầu tư, Chi nhánh Đông Đô cần phân tích chi tiết về nhu cầu VCĐ,VLĐ của dự án. Đồng thời cần dự tính các chi phí có thể phát sinh thêm trong quá trình vận chuyển, lắp đặt, chạy thử … làm tăng vốn đầu tư của dự án.
Đối với những dự án mua sắm máy móc thiết bị, trang bị thêm cơ sở sản xuất cán bộ thẩm định phải nắm bắt được thông tin về thị trường giá cả, xu hướng biến động giá cả trên thị trường …. Đối với các dự án xây dựng, dự án đầu tư sản xuất kinh doanh có thời hạn kéo dài thường quan tâm đến yếu tố lạm phát, tỷ giá (nếu mua thiết bị từ nước ngoài).
Xác định được đúng mức vốn đầu tư của dự án sẽ giúp ngân hàng có kế hoạch tài trợ đúng mức đảm bảo tiến độ thi công vận hành của dự án, tạo cơ sở cho dự án hoạt động có hiệu quả và hoạt động tín dụng cũng được an toàn hiệu quả. Vì vậy khi tiến hành thẩm định vốn đầu tư của dự án, cán bộ thẩm định không chỉ dựa vào những thông tin do chủ đầu tư cung cấp mà cần phải tích cực tìm thiểu thị trường, tham khảo từ những dự án tương tự để làm cơ sở kiểm tra, đánh giá tính toán hiệu quả của dự án đầu tư.
* Ngân hàng cũng cần chú trọng đến phân tích độ nhạy của dự án:
Như trong phần lý thuyết đã nêu, việc phân tích độ nhạy của dự án có ý nghĩa vô cùng quan trọng giúp ngân hàng giảm thiểu được rủi ro. Trong quá trình thực hiện dự án thường xảy ra rất nhiều biến động ảnh hưởng đến các biến số trong tính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính tiền tệ, cung – cầu sản phẩm … Mỗi sự biến đổi này đều gây tác động đến dòng tiền của dự án và do vậy ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của dự án. Do vậy ngân hàng cần xem xét như đây là nội dung cần thiết trong thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Đối với phương pháp phân tích độ nhạy, ngân hàng cần đánh giá sự thay đổi của những chỉ tiêu hiệu quả tài chính khi công suất, giá bán sản phẩm, chi phí … thay đổi. Quá trình phân tích độ nhạy có thể tiến hành theo các bước sau:
Chọn các biến số không an toàn.
Cho các biến số này thay đổi 5 % - 20%.
Tính lại các chỉ tiêu hiệu quả tài chính
* Quan tâm hơn nữa đến thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp
Một doanh nghiệp với tình hình tài chính lành mạnh, có vị thế trên thị trường sẽ có được những dự án tôt và khả năng gặp phải rủi ro trong kinh doanh thường thấp. Nguồn trả nợ từ hoạt động ngoài dự án tuy là nguồn trả nợ phụ nhưng nó đặc biệt quan trong khi dự án gặp khó khăn. Do vậy để đánh giá được doanh nghiệp, cán bộ thẩm định cần phân tích kỹ các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính doanh nghiệp: hệ số khả năng thanh toán, hệ số kết cấu tài chính, hệ số sử dụng các nguồn lực, hệ số sinh lời,… so sánh với các chỉ số trung bình ngành, với một số doanh nghiệp tương tự,… để đánh giá xếp hạng doanh nghiệp, từ đó xác định được thị phần của doanh nghiệp trên thị trường.
3. Đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách.
Trước hết điều này bắt nguồn từ yêu cầu thực tế về kiến thức liên ngành tổng hợp như kế toán, luật kinh tế, luật đầu tư, lập và quản lý dự án, tài chính doanh nghiệp... được sử dụng trong quá trình thẩm định tài chính doanh nghiệp, cũng như có một thực trạng là phần lớn các cán bộ thẩm định là đều xuất phát từ những cán bộ tín dụng, do vậy mặc dù đã được tham gia ít nhiều trong các hội nghị tập huấn nghiệp vụ, các khoá đào tạo..., nhưng mọi thứ mới chỉ dừng lại ở sự đào tạo không bài bản, ngắn hạn và chớp nhoáng. Do vậy, ban lãnh đạo Chi nhánh cần phải có chính sách cụ thể và thiết thực hơn nữa trong việc quan tâm đầu tư chất xám, vì trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ thẩm định nói riêng và vì sự phát triển lâu dài của toàn Chi nhánh nói chung. Để làm được điều này, Chi nhánh cần:
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng thẩm định dự án cho đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định, đặc biệt là thẩm định tài chính dự án (đây là công việc mang nặng tính chủ quan, quyết định của cán bộ thẩm định là cơ sở ra quyết định tín dụng của Chi nhánh, cho nên đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ thẩm định là hết sức cần thiết nó giúp công cán bộ thẩm định vững vàng, tự chủ, sáng suốt trong quá trình ra quyết định).
- Việc tiến hành đào tạo, nâng cấp hay đào tạo lại một cách bài bản và hệ thống phải được tiến hành đều đặn hàng năm. Ngoài ra có thể trực tiếp tổ chức hoặc tham gia các cuộc thi liên quan đến nghiệp vụ thẩm định. Thường xuyên thực hiện công tác bổ xung, tuyển mới một cách nghiêm túc nhằm tuyển dụng được những người có năng lực thực sự vào làm việc, bố trí dàn xếp đầy đủ cán bộ cho những công đoạn còn thiếu và yếu.
- Ngoài việc tích cực đưa ra một bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính, mức độ lành mạnh trong tài chính doanh nghiệp qua hệ thống các chỉ tiêu phân tích như hiện nay, điều quan trọng hơn (đương nhiên là khó hơn và đòi hỏi nhiều kinh nghiệm và trình độ hơn) đó là phải biết cùng một lúc phải phối kết hợp nhiều chỉ tiêu để đưa ra đánh giá của mình, biết quan tâm tìm tòi các số liệu liên quan đến những dự án khác tương tự đã và đang hoạt động cũng như có được các số liệu liên quan đến các định mức chuẩn của toàn ngành mà doanh nghiệp đang hoạt động trong đó (đây là một thiếu sót nghiêm trọng mà các cán bộ mắc phải trong quá trình thẩm định đòi hỏi phải khắc phục trong thời gian tới).
- Nâng cao hơn nữa khả năng đọc và hiểu các báo cáo tài chính, bảng cân đối kế toán..., tích cực nâng cao hơn nữa chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp bằng việc không chỉ sử dụng phương pháp phân tích tỉ lệ mà còn kết hợp sử dụng các phương pháp phân tích khác như phương pháp phân tích tài chính Dupont..., bổ xung thêm phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian (chẳng hạn như tổng lãi kinh doanh, giá trị gia tăng, kết quả kinh doanh, chênh lệch thương mại và tổng sản phẩm của niên độ...).
- Lưu ý tích cưc đào tạo trình độ sử dụng công nghệ thông tin, công nghệ tin học, mặt khác đẩy nhanh tốc độ ứng dụng tin học cho đội ngũ cán bộ thẩm định trong quá trình phân tích, tránh tình trạng thủ công như hiện nay bằng các biện pháp như tăng cường hơn nữa việc đầu tư tài liệu, trang thiết bị vi tính, giảng dạy các phần mềm tiện ích hữu dụng...
Một điều cũng đáng bàn ở đây đó là vì những lý do khác nhau (chẳng hạn như thiên vị, nể nang doanh nghiệp... như đã nói ở trên) mà các cán bộ thẩm định nhiều khi đã bỏ qua rất nhiều khía cạnh tài chính doanh nghiệp đáng quan tâm, đáng phân tích. Do vậy, trong thời gian tới phải từng bước loại bỏ thực trạng này, bởi lẽ sự thành công hay thất bại từ món vay một phần lớn là do việc cán bộ thẩm định thẩm định như thế nào. Sở cũng cần xây dựng cơ chế kiểm tra giám sát một cách chặt chẽ và có hình thức thưởng phạt hợp lý trong những sai phạm hay thành tích trong thẩm định. Các chính sách đãi ngộ cần phải được cụ thể hoá theo hướng tăng cường và khuyến khích vật chất, kèm theo đó là các cơ hội thăng tiến để thúc đẩy ý thức trách nhiệm và tinh thần tự vươn lên của các cá nhân, đồng thời có chính sách thu hút đội ngũ chuyên gia giỏi về hợp tác tư vấn.
Ngoài việc đào tạo nghiệp vụ và kỹ năng chuyên môn, cần giáo dục đạo đức, tư tưởng cho cho cán bộ thẩm định. Điều này bắt nguồn từ đặc điểm của hoạt động thẩm định: đó là một lĩnh vực phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro. Vì vậy cần xác định đạo đức, kỷ luật nghề nghiệp, nghiêm túc tuân thủ các quy trình, văn bản của cấp trên. Đã có không ít trường hợp cán bộ thẩm định cố tình làm sai, tiếp tay cho kẻ xấu lợi dụng moi tiền Ngân hàng. Cán bộ tín dụng có trình độ yếu kém đưa ra các kết luận tài chính không đúng có thể gây ảnh hưởng rất lớn đối với dự án và Ngân hàng. Các kết luận tài chính dự án có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh, trong khi kết quả đó dựa vào năng lực nhà thẩm định. Hiện nay tại Chi nhánh các dự án quan trọng thường thiếu nhân lực có trình độ tham gia thẩm định. Trong một số trường hợp, khi khách hàng đề nghị Chi nhánh tham gia tư vấn dự án, Chi nhánh gần như chưa đáp ứng ứng được với điều kiện như hiện nay.
4. Khắc phục tình trạng yếu kém về khả năng dự báo trong trạng thái tĩnh
Yêu cầu về một môi trường độn đòi hỏi mọi tính toán phải được đặt trong một giả định có căn cứ đó là trong đó thì các yếu tố như cung, cầu, giá cả, chính trị, chính sách nhà nước... đều có thể thay đổi trong tương lai. Chẳng hạn như trong quá trình tính toán việc đảm bảo cung cấp các yếu tố đầu vào và tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ đầu ra thì không chỉ doanh nghiệp đầu tư mà bản thân các cán bộ thẩm định của Sở cũng cần phải vạch ra các yếu tố có thể ảnh hưởng đến các hoạt động này.
Nhằm nâng cao tính thuyết phục và độ chính xác của các tính toán thẩm định, nhất thiết đòi hỏi mọi tính toán đều phải được đặt trong một môi trường động, trong đó mọi con số đều phải phản ánh đúng giá trị thực của kết quả thông qua việc đưa các ảnh hưởng như giá trị thời gian của tiền, lãi suất, lạm phát vào tính toán. Điều này bắt nguồn từ việc trong thực tế thì nếu thoạt nhìn thì một dự án hay một món cho vay nào đó là khả thi (đối với chủ đầu tư, đối với Chi nhánh) nhưng khi quy mọi tính toán đều có xét đến giá trị thời gian của tiền, trượt giá, lạm phát thì cũng không loại trừ khả năng có thể đem lại kết qủa ngược lại hoàn toàn so với tính toán ban đầu.
Khắc phục các nhược điểm liên quan đến vấn đề này đang tồn tại hiện nay trong quá trình thẩm định, các cán bộ thẩm định cần nâng cao khả năng dự đoán, dự báo, phân tích diễn biến tình hình, phát huy kinh nghiệm xử lý bản thân, tăng cường sử dụng các công cụ hiện có vào phân tích dự đoán, dự báo như các phần mềm Kinh tế lượng, các phương pháp thống kê dự báo, toán xác suất, mô hình toán... Ngoài ra cần chú trọng hơn tới việc phân tích độ nhạy của dự án trên cơ sở xem xét sự thay đổi các chỉ tiêu hiệu quả tài chính liên quan đến dự án khi các yếu tố ảnh hưởng tới chúng thay đổi. Việc phân tích độ nhạy của dự án sẽ cho ta thấy rõ mức độ dao động của dự án đối với biến động của các yếu tố ảnh hưởng. Có được các kết quả phân tích này sẽ giúp cho bản thân doanh nghiệp cũng như Chi nhánh có các biện pháp phòng ngừa và đối phó hữu hiệu, giảm thiểu rủi ro hoặc điều chỉnh theo hướng có lợi nhất.
5. Xây dựng mạng thông tin đa ngành, an toàn, ổn định.
Ngoài các thông tin có từ nội bộ Chi nhánh do chủ đầu tư cung cấp có thể thu thập thông tin cần thiết từ các nguồn khác, có thể là từ các ngân hàng khác, các cơ quan hữu quan, các chuyên gia chuyên nghành thông tin sách báo và các văn bản có liên quan. Phối hợp chặt chễ hơn nữa với trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (viết tắt TPR), thu thập tư liệu đối chiếu với nguồn số liệu đã có..
Thông tin sau khi thu thập cần được sử lý và phân tích nột cách chính xác trước khi lưu trữ. Hệ thống thông tin nội bộ Chi nhánh cần được bảo mật, song cũng phải được cập nhật cho cán bộ Sở và trao đổi với các kênh thông tin dữ liệu khác, đó chính là cơ sở thiết lập hệ thống thông tin phối hợp liên nghành.
Yêu cầu chủ đầu tư có phân tích cụ thể hơn nữa về các thông tin có trong báo cáo tài chính, để làm cơ sở kiểm tra đối chứng và lưu trữ. Các thông tin đó có thể là dự kiến về sản suất kinh doanh, cung cầu sản phẩm....
Yêu cầu chủ đầu tư tiến hành kiểm toán các báo cáo tài chính một cách đầy đủ trước khi giao cho cán bộ thẩm định Chi nhánh xem xét.
KẾT LUẬN
Sau quá trình nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực tế tại Chi nhánh Đông Đô – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, với nguồn kiến thức thực tế phong phú bổ sung cho những mặt lý thuyết mà mình đã được học tập nghiên cứu, em đã tiếp thu được rất nhiều bài học bổ ích. Đặc biệt là về công tác lập và thẩm định dự án mà chi nhánh đã thẩm định.
Trước hết, phải khẳng định rằng công thẩm định dự án của Chi nhánh Đông Đô đã có sự linh hoạt và đổi mới liên tục cho phù hợp với tình hình chung. Điều đó đã được khẳng định bằng những luận chứng cụ thể và thuyết phục. Các dự án được vay vốn và phát huy hiệu quả ngày một tăng. Công việc thẩm định đã mở ra rất nhiều lĩnh vực mới, từ nhiều ngành, nhiều địa phương.
Tuy nhiên, trong đó cũng không thể không nói tới những vấn đề còn tồn tại trong công tác thẩm định tài chính dự án tại chi nhánh Đông Đô. Nhưng đó chủ yếu là những hạn chế khách quan, do sự tăng trưởng phát triển vượt bậc của nền kinh tế, nên không tránh khỏi có lúc sự điều chỉnh của chi nhánh là chưa kịp thời và đạt hiệu quả ngay. Vì thế em cũng đã có đóng góp những ý kiến, đề xuất, giải pháp. Trong chừng mực nào đó, những kiến nghị này được lưu tâm và sẽ góp phần hoàn thiện hơn công tác thẩm định tài chính dự án tại chi nhánh Đông Đô – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn tới sự giúp đỡ, dạy bảo của các thày cô trong Bộ môn Kinh tế Đầu tư - Trường ĐH Kinh tế Quốc dân và các cán bộ tại Chi nhánh Đông Đô – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, đặc biệt là PGS. TS Nguyễn Bạch Nguyệt đã giúp đỡ em hoàn thành tốt kế hoạch thực tập của mình cũng như viết Chuyên đề tốt nghiệp này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Lập Dự án đầu tư.
Giáo trình Kinh tế đầu tư .
Giáo trình Quản lý dự án đầu tư.
Nghiệp vụ ngân hàng thương mại Peter . S .Rose .
Giáo trình tài chính doanh nghiệp.
Phân tích kinh tế các dự án. SQUIRE. L.
Tạp chí Ngân hàng, tạp chí Tài chính.
Quyết định dự toán vốn đầu tư - Harold Bierman, JR. Seymour Smidt
Báo cáo kinh nghiệm tại Hội nghị thẩm định dự án của các Chi nhánh, Sở giao dịch của Hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Báo cáo hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Đông Đô – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (1998 -2006)
Các hồ sơ thẩm định tại phòng Tín dụng 1,2 và Phòng Thẩm định và Quản lý tín dụng.
Tài liệu tập huấn thẩm định dự án đầu tư - ThS. Lê Kim Thạch.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DT32.docx