Qua việc phân tích thực trạng huy động, quản lý và sử dụng vốn ODA trong thời gian qua cho thấy rằng ODA có một vai trò quan trọng hỗ trợ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và trên thực tế những chương trình, dự án sử dụng vốn ODA được thực hiện tập trung vào những lĩnh vực, ngành mà Việt Nam đang cần được hỗ trợ như: đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường Đó là những lĩnh vực đầu tư có tính xúc tác vừa có tác dụng trước mắt đồng thời là cơ sở lâu dài cho sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Tính từ năm 1993 đến nay tổng số vốn ODA mà cộng đồng quốc tế đãcam kết dành cho Việt Nam lên tới 56,417.44 tỷ USD và có xu hướng tăng đều qua các năm. Tuy nhiên đây mới chỉ là số vốn cam kết còn trên thực tế tốc độ giải ngân của số vốn này mới đạt khoảng 45,6%. Nguyên nhân của thực trạng này do cả 2 phía Việt Nam và các nhà tài trợ nhưng chủ yếu từ phía chúng ta. Một số nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng kém hiệu quả trong việc sử dụng vốn ODA là: Nhận thức của chúng ta về nguồn vốn ODA còn thiếu đúng đắn, chưa có kinh nghiệm trong việc tiếp nhận ODA, công tác quản lý ODA còn nhiều chồng chéo, chưa rõ ràng Để tiếp tục thực hiện chính sách quản lý và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn ODA phục vụ chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong thời gian tới, cần lưu ý một số khía cạnh sau: ODA gắn liền với các điều kiện chính trị. Tuy nhiên bằng chính sách đối ngoại của mình chúng ta có thể đa phương hóa quan hệ hỗ trợ phát triển của mình, sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA phục vụ phát triển đất nước trong khi nắm vững độc lập, tự chủ của đất nước. Chúng ta cần phải thể hiện được tính chủ động của mình trong việc sử dụng ODA, đặc biệt trong việc xây dựng, hình thành dự án, thẩm định các văn kiện dự án, hình thành cơ chế về quản lý điều hành
42 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3447 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t của 10 nhà tài trợ hàng đầu giành cho Việt Nam
Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư
1.2.2. Một số nhà tài trợ tiêu biểu
Tổng số vốn ký kết theo các hiệp định, thỏa thuận tài trợ là 42,399 tỷ USD trong đó Nhật Bản, Ngân hàng thế giới và Ngân hàng phát triển Châu Á là 3 nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam, cụ thể là:
Nhật Bản là nước cung cấp viện trợ phát triển lớn nhất cho Việt Nam, chiếm trên 30% tổng cam kết viện trợ của các nước cho Việt Nam. Hiện nay, viện trợ của Nhật Bản dành cho các nước bị giảm sút do kinh tế Nhật Bản phải đối mặt với khó khăn kéo dài. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là nước ưu tiên nhận viện trợ của Nhật Bản.
Chính sách mới của phía Nhật Bản về cung cấp ODA cho Việt Nam trong các năm tới sẽ tập trung vào các lĩnh vực sau:
Thúc đẩy tăng trưởng bao gồm các lĩnh vực: Cải thiện môi trường đầu tư; Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và khu vực tư nhân; Giao thông; Năng lượng điện; Viễn thông; Phát triển nguồn nhân lực; Cải cách kinh tế bao gồm cả cải cách doanh nghiệp nhà nước.
Cải thiện mức sống và điều kiện xã hội bao gồm các lĩnh vực: Giáo dục; Y tế; Phát triển nông thôn; Phát triển đô thị; Môi trường; Cải thiện mức sống và điều kiện xã hội.
Tăng cường thể chế bao gồm các lĩnh vực: Cải thiện hệ thống Luật pháp và Cải cách hành chính.
Viện trợ không hoàn lại
Từ khi nối lại viện trợ phát triển năm 1992 đến nay, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện nhiều loại hình viện trợ không hoàn lại khác nhau cho Việt Nam như: Viện trợ không hoàn lại chung; Hợp tác kỹ thuật dạng dự án; Nghiên cứu phát triển; Cử chuyên gia; Đào tạo cán bộ Việt Nam tại Nhật Bản; Cung cấp trang thiết bị; Viện trợ phi dự án... với tổng trị giá khoảng hơn 1.4 tỷ USD.
Ngoài ra, thông qua chương trình hợp tác kỹ thuật, Chính phủ Nhật Bản hỗ trợ lập các qui hoạch tổng thể phát triển các ngành như điện, giao thông, nghiên cứu khả thi, lập thiết kế chi tiết, khảo sát về môi trường..., đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý tại Nhật Bản, cử chuyên gia tư vấn, người tình nguyện sang Việt Nam làm việc...
Tín dụng ưu đãi
Từ khi Chính phủ Nhật Bản chính thức nối lại việc cung cấp ODA cho Việt Nam tháng 11/1992 cho đến hết tài khoá 2006 (tháng 3/2007), hai Chính phủ đã ký tất cả 106 hiệp định vay tín dụng ưu đãi của Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản. Tổng số tín dụng, bao gồm cả tín dụng ưu đãi thường niên và tín dụng đặc biệt đồng Yên, tín dụng Miyazawa mà phía Nhật Bản đã cam kết cho đến nay là 1318.6 tỷ Yên (tương đương 12 tỷ USD) để triển khai thực hiện các công trình và chương trình phát triển kinh tế lớn của nước ta trong các lĩnh vực: năng lượng, giao thông vận tải, nông nghiệp và phát triển nông thôn, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước, hạ tầng đô thị, phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa...
Nhiều dự án nói trên đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, góp phần tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của ta như đường số 5, các cầu trên quốc lộ 1, hệ thống thông tin cứu hộ ven biển, nhiệt điện Phả Lại, Phú Mỹ, cầu Bãi Cháy, cầu Thanh Trì, đường 10, 18, cảng Cái Lân , Dự án đại lộ đông - tây TP.HCM và hầm Thủ Thiêm theo tiến độ sẽ hoàn thành vào quí 1-2010 với tổng mức đầu tư 9800 tỉ đồng bằng nguồn vốn vay ODA của Chính phủ Nhật Bản.
Thực hiện cam kết của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam và Thủ tướng Nhật Bản về việc Chính phủ Nhật Bản xem xét tài trợ cho 3 dự án ưu tiên của Việt Nam là dự án Phát triển Khu công nghệ cao Hòa Lạc, xây dựng đường bộ cao tốc Bắc - Nam và xây dựng đường sắt cao tốc Bắc - Nam, thời gian qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đó phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai một số công tác chuẩn bị như sau.
Dự án Phát triển khu công nghệ cao Hòa Lạc
Trên cơ sở đề nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, từ đầu tháng 3/2007 JICA đó cử đoàn vào thực hiện việc cập nhật Quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghệ cao Hòa Lạc. Báo cáo giữa kỳ đã hoàn thành và đến tháng 10/2007 sẽ đưa ra báo cáo cuối kỳ. Báo cáo giữa kỳ đó xác định một số dự án hạ tầng ưu tiên cần tiến hành đầu tư bằng nguồn vốn trong nước và ODA. Phía Nhật Bản đề nghị sớm xác định các dự án nào sẽ sử dụng ODA của Chính phủ Nhật Bản, trên cơ sở đó tiến hành lập báo cáo khả thi để Chính phủ Nhật Bản xem xét tài trợ vốn trong tài khóa 2008.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, phía Nhật Bản đó có đề xuất ý tưởng xây dựng Khu công nghệ cao Hoà Lạc trở thành trung tâm đặc biệt có sức lan toả trong phạm vi cả nước và bao gồm các chức năng đào tạo, nghiên cứu, sản xuất ứng dụng và tuyên truyền giáo dục. Phía Việt Nam hoan nghênh đề xuất của phía Nhật Bản đồng thời nhấn mạnh việc xác định chức năng của Khu công nghệ cao Hoà Lạc cần tham khảo thêm mô hình của các nước khác trên Thế giới.
Trên cơ sở đề nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, JBIC đó đồng ý xem xét tài trợ cho dự án xây dựng đường vành đai 3 (đoạn nối từ đầu đường cao tốc Láng - Hòa Lạc đến cầu Thanh Trì) nhằm mục đích phục vụ cho việc phát triển Khu cụng nghệ cao Hòa Lạc. Hiện nay phía JBIC đang tích cực phối hợp với các cơ quan phía Việt Nam hoàn tất các công tác chuẩn bị để cấp vốn cho dự án trong tài khóa 2007.
Hiện nay các công ty của Nhật Bản rất quan tâm đầu tư vào Khu công nghệ cao Hoà Lạc và đề nghị áp dụng quy chế Tối huệ khi đầu tư vào Khu công nghệ cao Hoà Lạc bao gồm ưu đãi về thuế, về lao động, đơn giản hóa các thủ tục...
Dự án xây dựng đường bộ cao tốc Bắc – Nam
Hiện nay cơ quan JICA của Nhật bản đang cung cấp hỗ trợ kỹ thuật để giúp xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông Việt Nam bao gồm cả việc xây dựng báo cáo tiền khả thi cho các đoạn có ưu tiên cao thuộc tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam.
Ngày 25/4/2007, JBIC và Bộ Giao thông vận tải đó ký Biên bản về việc JBIC cung cấp hỗ trợ kỹ thuật hình thành dự án (SAPROF) cho việc xây dựng thiết kế chi tiết cho việc xây dựng đoạn đường bộ cao tốc Bắc - Nam (đoạn T.P. Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây).
Dự án xây dựng đường sắt cao tốc Bắc – Nam
Hiện nay cơ quan JICA của Nhật Bản đang cung cấp hỗ trợ kỹ thuật để giúp xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông Việt Nam bao gồm cả việc xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Bắc - Nam. Dự kiến Báo cáo cuối kỳ sẽ được hoàn thành vào tháng 10/2009.
Việc nghiên cứu xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông Việt Nam sẽ tập trung xem xét quan hệ giữa các loại hình giao thông (đường bộ, đường sắt, đường hàng không), so sánh giữa kế hoạch hiện đại hóa hệ thống đường sắt hiện có với kế hoạch xây dựng tuyến đường mới.
Ngân hàng thế giới ( WB) : đã nối lại quan hệ với Việt Nam từ tháng 10 năm 1993. Hiện nay có 36 dự án vốn vay ODA với tổng trị giá 3850.6 triệu USD đang được thực hiện. Các dự án của WB chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực: năng lượng (25%), nông nghiệp (23%), nâng cấp đô thị (15%), giao thông (14%), quản lý kinh tế (8%), giáo dục (7%), y tế (6%), Công nghệ thông tin (2%)...
Về tiến độ giải ngân, mặc dù một số dự án đã có những cải thiện nhưng nhìn chung tỷ lệ giải ngân còn thấp so với với khu vực. Tính trong tổng số hơn 6 tỷ USD tổng cam kết tài trợ của WB từ trước tới nay, Việt Nam hiện mới chỉ giải ngân được hơn 3 tỷ USD.
Về hiệu quả thực hiện, theo đánh giá của WB, các dự án thực hiện nhìn chung có hiệu quả. Năm 2004 Việt Nam được đánh giá là 1/3 nước đứng đầu về hiệu quả thực hiện dự án, đặc biệt khi xét tới những tác động đem lại của dự án tới giảm nghèo, cải cách chính sách và thể chế. Sự hỗ trợ của WB cho Việt Nam đã mang lại những hiệu quả rất tích cực, một số dự án sử dụng vốn vay IDA sau khi hoàn thành đã bắt đầu phát huy hiệu quả như dự án Phục hồi và phát triển ngành điện, dự án phục hồi Quốc lộ 1 đoạn Hà Nội – Vinh và TP. HCM- Cần Thơ, Hiện đại hoá hệ thống thanh toán Ngân hàng, Chương trình tín dụng giảm nghèo (PRSC),...
Về hoạt động hỗ trợ của WB trong giai đoạn 2007 – 2010, Chiến lược hỗ trợ quốc gia (CAS) đã được chuyển thành Chiến lược đối tác quốc gia giai đoạn 2007-2011 (CPS 2007-2011) thể hiện sự hướng tới một tầm cao mới trong quan hệ hợp tác giữa WB và Việt Nam. Nội dung của Chiến lược nhìn chung gắn kết chặt chẽ với Kế hoạch phát triển Kinh tế – xã hội 2006-2010 với mục tiêu hỗ trợ Chính phủ thực hiện thành công các mục tiêu phát triển của mình, đưa Việt Nam trở thành nước có mức thu nhập trung bình vào năm 2010.
Ngân hàng thế giới đã xây dựng chiến lược hỗ trợ quốc gia cho Việt Nam. Trong quá trình thực hiện chiến lược đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan của chính phủ và cộng đồng tài trợ nhằm xây dựng chương trình hỗ trợ phù hợp với chiến lược phát triển, chính sách ưu tiên của Việt Nam và thế mạnh của nhà tài trợ. Mục tiêu hỗ trợ trong thời gian tới nhằm giúp Việt Nam thực hiện thành công chương trình xóa đói giảm nghèo, tăng trưởng công bằng, trong đó tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên cụ thể như ổn định kinh tế vĩ mô và tính cạnh tranh, tăng cường khu vực tài chính, cải cách doanh nghiệp nhà nứoc, tăng cường năng suất lao động thông qua cải thiện hạ tầng cơ sở, thúc đẩy phát triển nông thôn, đầu tư cho con người, cải cách nền hành chính nhà nước, tăng tính công khai và sự tham gia của cộng đồng. Mức tài trợ dự kiến mỗi năm dành cho Việt Nam khoảng từ 300 đến 800 triệu USD.
Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB): Mục tiêu hoạt động chính của ngân hàng là thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội của các nước thành viên đang phát triển nhằm nâng cao mức sống dân cư trong vùng. Các mục tiêu chiến lược chủ yếu là thúc đẩy phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, cải thiện tình hình xã hội và bảo vệ tài nguyên môi trường. Ngân sách hoạt động của ADB gồm 2 nguồn: nguồn vốn đặc biệt (quỹ phát triển Châu Á, Quỹ hỗ trợ kỹ thuật và Quỹ đặc biệt Nhật Bản) và nguồn vốn thông thường (do các thành viên đóng góp và huy động trên thị trường tài chính quốc tế).
Từ khi nối lại quan hệ tài trợ vào tháng 10/1993 đến nay, ADB đã cung cấp cho Việt Nam khoảng 50 khoản vay với tổng số vốn 9.88 tỷ USD và các khoản viện trợ không hoàn lại vợi trị giá khoảng 80 triệu USD để thực hiện hơn 100 dự án hỗ trợ kỹ thuật. Ngoài ra, cũng dành một khoản vay cho khu vực tư nhân trị giá 30 triệu USD. Các khoản vay ưu đãi từ Quỹ phát triển Châu Á có thời hạn 40 năm trong đó có 10 năm ân hạn, không lãi suất, chi phí quản lý 1%/năm.
Chiến lược hợp tác với Việt Nam là tập trung vốn hỗ trợ cho việc cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng xã hội, tăng cường thể chế và đào tạo nguồn nhân lực, coi trọng chương trình xóa đói giảm nghèo, hợp tác tiểu vùng và tiểu vùng Mê Kông mở rộng nhằm phối hợp sự nỗ lực chung của các nước trong tiểu vùng. Ngoài ra, ADB còn hỗ trợ vốn cho đầu tư tư nhân, cổ phần hóa và cải cách doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh doanh trong kinh tế.
1.3. Tình hình giải ngân ODA
Tổng số vốn ODA đã giải ngân tính đến cuối năm 2009 là 25,718 tỷ USD bằng 60.66% tổng giá trị các hiệp định đã ký và chiếm khoảng 45,6% so với tổng số vốn đã cam kết.
Tính chất của các khoản giải ngân ODA phản ánh sự gia tăng liên tục về mức độ thực hiện các chương trình, dự án. Tổng mức giải ngân ODA không kể các khoản cho vay giải ngân nhanh với mục tiêu chung, cũng không ngừng tăng từ 248 triệu USD năm 1993 lên 1155 triệu USD năm 1998 và 1500 triệu USD năm 2000, năm 2009 là 3600 triệu USD.Các khoản giải ngân nhanh để giải quyết vấn đề cán cân thanh toán và điều chỉnh cơ cấu đã góp phần tăng mức giải ngân, đặc biệt là các khoản vay bằng tiền từ quỹ điều chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF) của quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), chương trình tín dụng điều chỉnh cơ cấu (SAC) của Ngân hàng thế giới (WB), chương trình nông nghiệp của ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) và tín dụng hàng hóa từ quỹ Miyaza của Nhật Bản.
Các dự án đầu tư xây dựng thường có tốc độ giải ngân chậm hơn các dự án hỗ trợ kỹ thuật, do bị chi phối bởi một số nhân tố như thời gian chuẩn bị dự án dài, đặc tính phức tạp về kỹ thuật, địa bàn đầu tư trải rộng, vướng mắc ban đầu về giải phóng mặt bằng… Các dự án hỗ trợ kỹ thuật thường đạt và vượt mức kế hoạch đề ra. Tuy nhiên các dự án loại này thường có tỷ trọng chi phí chuyên gia rất lớn (tới 60 – 70% giá trị dự án), hơn nữa chi phí này thường phát sinh ở ngoài Việt Nam. Kết quả này cũng không có gì đáng ngạc nhiên vì xét theo mức độ tập trung và phân tán, các dự án rút vốn nhanh thường là các dự án tập trung ở một địa phương hoặc một cấp quản lý, ví dụ như dự án của mọt doanh nghiệp,thực hiện tại một địa bàn hoặc nhập thiết bị cả gói. Trong khi các dự án rút vốn chậm là các dự án có nhiều hoạt động, nhiều cấp, nhiều ngành vì vậy cơ chế tổ chức dự án thường nhiều ban bệ và thủ tục quản lý nội bộ của dự án cũng khá rườm rà.
Kết quả của quá trình huy động vốn thể hiện tại biểu đồ dưới đây:
Biểu 2: Tình hình huy động vốn ODA của Việt Nam từ 1993-2009
Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư
Nhìn vào biểu đồ trên ta có thể rút ra một số nhận xét sau:
Tổng số vốn cam kết, ký kết và giải ngân theo các Hiệp định vay nợ, viện trợ liên tục tăng lên hàng năm, thể hiện sự ủng hộ của các nhà tài trợ đối với những nỗ lực cải cách của Việt Nam cũng như những kỳ vọng của họ về những bước cải cách tiếp theo, công tác tiếp nhận và quản lý các chương trình dự án của Việt Nam ngày càng được nâng cao.
Điều kiện cung cấp ODA ngày càng đa dạng. Có thể nói mỗi nhà tài trợ khi cam kết cung cấp ODA cho Việt Nam đều đưa racác điều kiện tài trợ riêng của mình theo tình hình cụ thể các chương trình, dự án do phía Việt Nam đề xuất vàchính sách ưu tiên của các nhà tài trợ.
Phần lớn các Hiệp định vay ưu đãi đều có thời hạn vay dài (trên 30 năm) có thời hạn ân hạn (thời gian ân hạn dài nhất có thể lên tới 12 năm), mức lãi suất ưu đãi (dưới 1%/ năm), tập trung vào các nhà tài trợ lớn như Nhật Bản, ADB, WB.Còn lại là các khoản vay có thời hạn vay và thời gian ân hạn ngắn mức lãi suất bình quân từ 1,5-3,5%/năm. Điều đó có nghĩa là nghĩa vụ trả nợ gốc của các khoản vay này đã và đến hạn nhanh với khối lượng ngày càng tăng.
2. Tình hình sử dụng vốn ODA
Nhận thức được vai trò quan trọng của nguồn vốn nước ngoài, chính sách ưu tiên đầu tư với các chương trình dự án bằng nguồn vốn ODA của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua việc phân bổ sử dụng vốn ngày càng được chú trọng hơn, trong đó tập trung phần lớn vào việc khôi phục và phát triển cơ sở hạ tầng. Nguồn vốn ODA giải ngân được đầu tư cho rất nhiều chương trình, dự án trải rộng khắp cả nước. Theo quy định hiện hành, chính sách ưu tiên sử dụng vốn ODA được quy định như sau:
- Nguồn vốn ODA không hoàn lại được tập trung ưu tiên sử dụng cho các chương trình và dự án thuộc các lĩnh vực: Y tế, dân số và kế hoạch hóa gia đình; Giáo dục và đào tạo; Các vấn đề xã hội (xóa đói giảm nghèo, phát triển nông thôn và miền núi, cấp nước sinh hoạt…); Bảo vệ môi trường, môi sinh; Nghiên cứu các chương trình dự án phát triển (tổng quan, quy hoạch…); Hỗ trợ ngân sách; Hỗ trợ nghiên cứu khoa học và công nghệ; Nâng cao năng lực quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác.
- Nguồn vốn ODA cho vay ưu đãi được ưu tiên sử dụng cho các dự án và chương trình xây dựng hoặc cải tạo cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội thuộc các lĩnh vực: Năng lượng; Giao thông vận tải, thông tin liên lạc; Thủy lợi; Cơ sở hạ tầngkhu công nghiệp; Xã hội (các công trìnhphúc lợi công cộng, y tế, giáo dục và đào tạo, cấp thoát nước…) và một số lĩnh vực khác.
Để có thể tìm hiểu cụ thể hơn tác động của vốn ODA đối với sự nghiệp phát triển đất nước trong thời gian qua, chuyên đề tập trung vào việc phân tích một số tiêu thức có liên quan đến cơ cấu sử dụng vốn sau đây:
2.1 Cơ cấu sử dụng vốn ODA cho đầu tư phát triển
Trong thời gian qua, việc sử dụng vốn ODA đã được ưu tiên cao cho lĩnh vực đầu tư phát triển thông qua các dự án xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở quan trọng trong một số ngành của nền kinh tế - xã hội như: điện, giao thông, nông nghiệp và phát triển nông thôn, thủy sản, giáo dục và đào tạo, y tế… Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006- 2010 đã xác định nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 2200 nghìn tỷ đồng (theo giá năm 2005), tương đương 140 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư khoảng 18%/năm, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 7,5-8%/năm.
Trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội nói trên, dự kiến nguồn vốn nước ngoài chiếm khoảng 35%, trong đó vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA trong 5 năm 2006-2010 dự kiến đạt trên 19 tỷ USD vốn cam kết, giải ngân dự kiến tăng từ 1,7USD năm 2005 lên 2,3 tỷ USD năm 2010. Tính chung nguồn vốn ODA dự kiến giải ngân trong 5 năm 2006- 2010 sẽ khoảng trên 11 tỷ USD. ODA đã bổ sung một nguồn vốn quan trọng góp phần cân đối nguồn vốn đầu tư phát triển trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nguồn vốn ODA đã bổ sung 11,4% cho tổng vốn đầu tư toàn xã hội và trung bình khoảng 50% tổng đầu tư từ ngân sách. ODA đã thực sự trở thành kênh vốn bổ sung quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2.2. Vốn ODA phân bổ theo ngành
Căn cứ vào nhu cầu vốn đầu tư và định hướng phát triển theo ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ đề ra trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra định hướng chiến lược, chính sách và những lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA cho từng thời kỳ. Gần đây nhất, trên cơ sở tham vấn rộng rãi các nhà tài trợ, ngày 29 tháng 12 năm 2006 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 290/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006-2010. Năm lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời kỳ 5 năm 2006-2010 bao gồm:
- Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản kết hợp xóa đói, giảm nghèo).
- Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số và phát triển và một số lĩnh vực khác).
- Bảo vệ môi truờng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai.
Cơ cấu vốn ODA theo các điều ước quốc tế về ODA đã được ký trong thời kỳ 1993-2009 phù hợp với những định hướng ưu tiên sử dụng vốn ODA nêu trên.
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo có các chương trình và dự án ODA ký kết trong thời kỳ 1993-2008 đạt tổng trị giá khoảng 5,5 tỷ USD, trong đó có nhiều dự án quy mô lớn như Dự án giảm nghèo các tỉnh vùng núi phía Bắc, Dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn dựa vào cộng đồng, Dự án phát triển sinh kế miền Trung, Chương trình cấp nước nông thôn, giao thông nông thôn và điện khí hóa nông thôn, Chương trình thủy lợi Đồng bằng sông Cửu Long và nhiều dự án phát triển nông thôn tổng hợp kết hợp xóa đói, giảm nghèo khác,.... đã góp phần hỗ trợ phát triển nông nghiệp và cải thiện một bước quan trọng đời sống người dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là trong việc tiếp cận tới các dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo dục.
Năng lượng và Công nghiệp là lĩnh vực sử dụng nguồn vốn ODA lớn với các dự án đã ký trong thời gian qua đạt trên 7,6 tỷ USD nhằm cải tạo, nâng cấp, phát triển mới nhiều nhà máy nhiệt điện và thủy điện với công suất lớn cải tạo và phát triển mạng truyền tải và phân phối điện quốc gia đáp ứng nhu cầu điện gia tăng hàng năm cho sản xuất và đời sống ở các thành phố, thị trấn, thị xã, khu công nghiệp và khu vực nông thôn trên cả nước. Đây là nguồn vốn lớn và có ý nghĩa trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư từ ngân sách còn hạn hẹp, khu vực tư nhân trong và ngoài nước trong giai đoạn phát triển ban đầu còn chưa mặn mà với đầu tư phát triển nguồn và lưới điện vì yêu cầu vốn lớn và thời gian thu hồi vốn chậm trong đó phải kể đến các dự án như Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ II công suất 288 MW; nhà máy nhiệt điện Phả Lại II công suất 600 MW; nhà máy thuỷ điện Hàm Thuận - Đa Mi công suất 475 MW; nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ I công suất 1.090 MW; nhà máy nhiệt điện Ô Môn công suất 600 MW; nhà máy thuỷ điện Đại Ninh công suất 360 MW…
Giao thông Vận tải và Bưu chính viễn thông là ngành tiếp nhận vốn ODA lớn nhất với tổng giá trị hiệp định ký kết đạt khoảng 9,88 tỷ USD thời kỳ 1993-2008. Nhờ nguồn vốn này, Việt Nam đã khôi phục và bước đầu phát triển các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển và đường thủy nội địa như Hệ thống đường bộ ở phía Bắc (Quốc lộ 5, 10, 18), Quốc lộ 1A, đường xuyên Á Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài, hầm đường bộ đèo Hải Vân, cảng biển nước sâu Cái Lân, cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), cảng Sài Gòn, nhà ga quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất, các cầu lớn như cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ, cầu Thanh Trì, cầu Bãi Cháy.Hệ thống thông tin liên lạc ven biển, điện thoại nông thôn và internet cộng đồng... Đây là những cơ sở hạ tầng kinh tế hết sức quan trọng để thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực và địa phương, kể cả thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Hầu hết các thành phố lớn, các thành phố trực thuộc tỉnh, các thị xã và một số thị trấn đều có các hệ thống cấp nước sinh hoạt được tài trợ bằng nguồn vốn ODA. Các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng,... hiện đang triển khai thực hiện nhiều dự án ODA phát triển cơ sở hạ tầng đô thị quan trọng, quy mô lớn như đường sắt nội đô, thoát nước và xử lý nước thải, chất thải rắn,…
Y tế, giáo dục đào tạo, môi trường, khoa học kỹ thuật là những lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua với các chương trình, dự án đã ký đạt tổng số vốn khoảng 4,3 tỷ USD.
Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, ODA hỗ trợ cho việc thực hiện cải cách giáo dục ở tất cả các cấp học (giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề), đào tạo giáo viên, tăng cường năng lực công tác kế hoạch và quản lý giáo dục, cung cấp học bổng đào tạo đại học và sau đại học ở nước ngoài, cử cán bộ, công chức đào tạo và đào tạo lại tại nước ngoài về các lĩnh vực kinh tế, khoa học, công nghệ và quản lý.
Trong lĩnh vực y tế, vốn ODA không hoàn lại chiếm tỷ trọng cao, khoảng 58% trong tổng vốn ODA (khoảng 0,9 tỷ USD) đã được sử dụng để tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật cho công tác khám và chữa bệnh (xây dựng bệnh viện và tăng cường trang thiết bị y tế cho một số bệnh viện tuyến tỉnh và thành phố, các bệnh viện huyện và các trạm y tế xã, xây dựng cơ sở sản xuất kháng sinh, trung tâm truyền máu quốc gia,..., tăng cường công tác kế hoạch hóa gia đình, phòng chống HIV/AIDS và bệnh truyền nhiễm như lao, sốt rét; đào tạo cán bộ y tế, hỗ trợ xây dựng chính sách và nâng cao năng lực quản lý ngành.
Nhiều chương trình và dự án ODA hỗ trợ Việt Nam bảo vệ môi trường và phát triển bền vững như các chương trình trồng rừng và phủ xanh đất trống, đồi núi trọc; các chương trình và dự án xây dựng và bảo vệ các khu sinh quyển, rừng quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên,...
Ngoài ra, hơn 1 tỷ USD vốn ODA còn được sử dụng để hỗ trợ cho ngân sách thông qua các khoản vay và viện trợ không hoàn lại gắn với chính sách của WB, ADB, IMF và một số nhà tài trợ song phương như hỗ trợ thực hiện các chính sách kinh tế trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, ngân hàng, phát triển khu vực tư nhân, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước,..
Biểu 3: Cơ cấu ODA theo ngành và lĩnh vực thời kỳ 1993-2009
Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư
2.3 Vốn ODA phân bổ theo vùng lãnh thổ.
Cho tới nay, tất cả các vùng trong nước đều được hưởng lợi từ nguồn vốn ODA đã được giải ngân. Nhiều chương trình , lĩnh vực thuộc nguồn vốn này đã được trải đều trên cả nước như: chương trình y tế cơ sở, chương trình tiêm chủng mở rộng; chương trình sinh đẻ có kế hoạch; chương trình phòng chống HIV; chương trình đường giao thông nông thôn; chương trình cấp nước sạch cho các thành phố thị xã các tỉnh….
Thời gian qua, chênh lệch về lượng vốn ODA giữa các vùng ngày càng được cải thiện (các địa phương đều có ODA). Sự đa dạng, phong phú về vốn ODA thực hiện theo lĩnh vực, theo tính chất nguồn vốn trên các vùng trong những năm gần đây tăng rõ rệt. Tuy vậy sự chênh lệch về vốn ODA giữa các vùng vẫn còn khá lớn, sự chênh lệch này được thể hiện ở bảng dưới đây. Như vậy, sự chênh lệch về thu hút và giải ngân giữa các vùng là rất lớn. Do đó, mục tiêu của chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ là phải ưu tiên đầu tư nhiều hơn nữa cho các vùng còn gặp nhiều khó khăn theo hướng tập trung vào cơ sở hạ tầng (điện, đường, thủy lợi, khuyến nông…) và hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục, văn hóa…). Cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế cũng có sự nhất trí cao về tập trung nguồn lực và tăng cường giải ngân cho các chương trình xóa đói giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa.
Bảng 4:Cơ cấu sử dụng ODA theo vùng lãnh thổ thời kỳ 1993-2008 (triệu USD)
Ngành, lĩnh vực
Hiệp định ODA ký kết 1993-2008
1. Vùng Đồng bằng Sông Hồng
6.548,38
18,88%
2. Vùng Trung du miền núi Bắc Bộ
1.579,07
4,55%
3. Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Miền Trung
4.374,34
12,61%
4. Vùng Tây Nguyên
2.344,77
6,76%
5. Vùng Đông Nam Bộ
3.689,02
10,64%
6. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long
2.900,12
8,36%
7.Liên vùng
13.241,31
38,18%
Tổng số
34.677,01
100%
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Vùng trung du miền núi phía bắc: Trong những năm qua, cùng với sự hỗ trợ của Chính phủ, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ còn nhận được sự giúp đỡ tích cực của cộng đồng quốc tế với tổng mức cam kết ODA từ năm 1993 đến 2008 đạt hơn 1579,07 triệu USD chiếm 4,55% tổng nguồn vốn ODA của cả nước.
Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ gồm 14 tỉnh là Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình…
Mặc dù cơ cấu kinh tế vùng đang chuyển dịch theo hướng tích cực với tốc độ tăng trưởng năm 2007 đạt 12,8%, song khó khăn lớn nhất mà vùng này phải đối mặt là tỉ lệ hộ nghèo lên đến gần 27% - tỷ lệ cao nhất so với các vùng miền trên toàn quốc, trong khi GDP bình quân đầu người chỉ đạt xấp xỉ 50% mức bình quân cả nước. Trước thực tế này, Chính phủ đã dành phần lớn nguồn hỗ trợ trên để đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo, nhằm phấn đấu giảm tỉ lệ hộ nghèo xuống khoảng gần 23,4% trong năm nay. Tổng vốn ODA dành cho lĩnh vực này đạt gần 460 triệu USD, chiếm gần 34% tổng vốn cam kết cho toàn vùng.
Sau nông nghiệp, năng lượng và công nghiệp cũng là lĩnh vực được ưu tiên đầu tư nhằm khai thác lợi thế của vùng, nhất là về thủy điện và khai thác khoáng sản, chủ yếu ở một số tỉnh như Thái Nguyên, Lào Cai, Hòa Bình. Tổng vốn ODA dành cho lĩnh vực này hiện đạt trên 325 triệu USD, chiếm trên 24% tổng mức cam kết.
Một số lĩnh vực khác như giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, y tế, giáo dục đào tạo, cấp nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường cũng nhận được sự hỗ trợ tích cực của các nhà tài trợ quốc tế với tỷ trọng chiếm từ 9-22% tổng mức cam kết. Những nhà tài trợ lớn cho khu vực này là Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, Nhật Bản, Pháp, Đức, Thụy Điển, Đan Mạch, Cộng đồng châu Âu. Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, việc có nhiều dự án ODA được triển khai ở trung du và miền núi Bắc Bộ là bằng chứng thể hiện sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với chủ trương, chính sách của Việt Nam là ưu tiên phát triển các vùng nghèo, miền núi, để thu hẹp khoảng cách phát triển. Các dự án này đã góp phần xóa đói giảm nghèo và cải thiện đáng kể đời sống của người dân địa phương, trong bối cảnh ngân sách địa phương và trung ương còn hạn chế.
Khu vực Tây Nguyên: Theo số liệu của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội của khu vực Tây Nguyên giai đoạn 1991 - 2005 là 128.568 tỷ đồng và giai đoạn 2006 - 2010 dự kiến sẽ là 65.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, riêng tổng số vốn đầu tư cho Tây Nguyên trong năm 2008 đã lên đến 24.450 tỷ đồng. Những nguồn vốn trên tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế xã hội của cả khu vực. Từ chỗ cơ sở vật chất sơ sài, đến nay, cả khu vực Tây Nguyên đã có 1.500 công trình hồ chứa nước, đập dâng, trạm bơm... đáp ứng khoảng 60% nhu cầu về tưới tiêu cho nông nghiệp.Toàn khu vực có 3 sân bay, 14 tuyến quốc lộ, 57 tuyến tỉnh lộ với chiều dài hơn 3.000km được nâng cấp và nhựa hóa và hàng trăm tuyến huyện lộ và một hệ thống đường liên xã đã được đầu tư xây dựng. Tính đến nay, toàn khu vực đã có 99,2% số xã có đường ôtô đến trung tâm và 98% số xã có điện lưới quốc gia.
Theo Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, trong thời gian qua, những tiềm năng và lợi thế của khu vực mới chỉ được đầu tư khai thác theo chiều rộng chứ chưa theo chiều sâu. Nguyên nhân là Tây Nguyên còn hạn chế ở nhiều mặt so với các khu vực khác như kết cấu hạ tầng, mức sống của người dân và chất lượng của nguồn nhân lực. Theo số liệu thống kê của 5 tỉnh Tây Nguyên, từ năm 2001 đến nay, toàn khu vực đã thu hút được 110 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, với tổng số vốn 1.200 tỷ đồng và 280 triệu USD. Riêng thu hút đầu tư từ nguồn vốn ODA đạt 2344,77 triệu USD, chủ yếu là từ Chính phủ Nhật Bản, ngân hàng thế giới và ngân hàng châu Á, chiếm khoảng 6,76% tổng nguồn vốn ODA của cả nước.
Tại các cuộc gặp mặt doanh nghiệp và nhà đầu tư vừa được tổ chức tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh giới thiệu về Diễn đàn xúc tiến đầu tư Tây Nguyên, nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư đã nêu ra những khó khăn khi đầu tư vào Tây Nguyên như: hạ tầng giao thông còn khá bất cập dẫn đến khó khăn trong việc vận chuyển hàng hóa, nguyên liệu xuống các nhà máy chế biến hoặc các cảng biển; nguồn nhân lực còn yếu và thiếu, cơ chế ưu đãi vẫn không có gì khác so với các vùng khác và đặc biệt là thủ tục hành chính trong thu hút đầu tư tuy đã được quan tâm cải cách nhưng vẫn còn nhiều bất cập, gây khó khăn trong hoạt động xúc tiến đầu tư.
Để giải quyết hết những yêu cầu và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư vào làm ăn ở Tây Nguyên thì cũng cần có thời gian và phải tháo gỡ từng phần. Tuy nhiên, tại Diễn đàn xúc tiến đầu tư Tây Nguyên lần này, chính quyền 5 tỉnh đã đưa ra những giải pháp tối ưu, những cải cách mới nhất về thủ tục hành chính, những dự án ưu tiên kêu gọi đầu tư để các nhà đầu tư nghiên cứu, tham khảo và tiến tới xúc tiến đầu tư.
Vùng đồng bằng Sông cửu long: Vùng đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) cho đến nay vẫn là khu vực nghèo ở Việt Nam. Trong giai đoạn 1993 – 1995, khi cộng đồng quốc tế mới nối lại hỗ trợ phát triển cho Việt Nam, nguồn vốn ODA dành cho khu vực ĐBSCL còn thấp, chỉ đạt xấp xỉ 105 triệu USD chiếm 3% tổng vốn ODA ký kết cho các vùng trên toàn quốc, chỉ cao hơn vùng trung du miền núi phía Bắc. Tuy nhiên tới giai đoạn 1996-2000 và 2001-2005, nguồn vốn ODA đầu tư vào vùng đã tăng đáng kể lên 1023 triệu USD. Tổng giai đoạn 1993-2008 nguồn vốn ODA cho vùng ĐBSCL (chưa kể liên vùng) vẫn ở mức thấp đạt 2900 triệu USD chỉ chiếm 8,36% trong tổng số vốn ODA ký kết cho các vùng trong cả nước.
Nhận thức được tầm quan trong của vùng, những năm gần đây khu vưc ĐBSCL đã nhận được nhiều sự quan tâm từ chính phủ. Điều này thể hiện qua việc giải ngân trên 6300 tỷ đồng bằng nguồn vốn ODA để phát triển hạ tầng giao thông của khu vực. Chính từ sự hỗ trợ này, nhiều công trình huyết mạch và trọng điểm từ giao thông đường bộ, đường thủy cho đến hàng hải và hang không đang được triển khai như cầu Mỹ Thuận, cầu Rạch Miễu, cầu Cần Thơ, cảng Cần Thơ, sân bay Trà Nóc, sân bay Phú Quốc…
Bên cạnh những công trình trọng điểm trên, sẽ có hàng loạt những công trình không kém phần quan trọng đang được hoàn thành như tuyến đường N1, N2 làm vệ tinh cho quốc lộ 1A, tuyến đường Nam song Hậu góp phần vực dậy khu vực ven biển, đường cao tốc TP HCM – Trung Lương hiện đại…
Vùng bắc trung bộ và duyên hải miền trung: Trong giai đoạn 1993 – 2008, tổng số vốn ODA vào vùng đạt trên 4374,34 triệu USD chiếm 12,61 % so với tổng số vốn được phân bổ. Nguồn vốn này chủ yếu được tập trung xây dựng các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của các địa phương. Hỗ trợ trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn để giảm lũ, giữ nước, bảo đảm an toàn cho các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện trong vùng. Trồng rừng ven biển để chắn cát, ngăn mặn; nâng độ che phủ của rừng lên 44 – 45%. Xây dựng các hệ thống thuỷ lợi, hồ chứa nước vừa bảo đảm ổn định nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt cho nhân dân trong vùng thường bị hạn hán, cũng như giảm nhẹ hậu quả thiên tai, lũ lụt. Phát triển giao thông nông thôn, nhất là các tuyến đường tiếp cận đến các trung tâm xã, huyện, các đô thị để giúp cho người nghèo tiếp cận thị trường tiêu thụ nông sản, thuỷ sản và thụ hưởng các dịch vụ công.
Vùng đồng bằng bắc bộ: là địa bàn thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI và ODA) lớn nhất nước. Trong giai đoạn 1993-2008, nguồn vốn ODA tập trung vào khu vực này trên 6.548,38 triệu USD chiếm hơn 18,88% tổng số vốn ODA đã được ký kết. Tuy nhiên, nguồn vốn ODA được phân bổ cho các tỉnh trong vùng chưa được đồng đều, chủ yếu tập trung vào tam giác kinh tế gồm 3 tỉnh Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh. Chương trình, dự án sử dụng vốn ODA được tập trung chủ yếu vào nâng cấp và cải tạo cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng, cấp thoát nước và vệ sinh môi trường…
Vùng Đông Nam Bộ: Trong những năm qua đã thu hút một khối lượng vốn ODA trị giá 3.689,02 triệu USD chiếm 10,64% tổng nguồn vốn ODA phân bổ cho các vùng trong cả nước. Các chương trình, dự án các tỉnh trong vùng được thụ hưởng trực tiếp chiếm 34% tổng số vốn ODA cho toàn vùng, phần còn lại thông qua các bộ, ngành quản lý. Nguồn vốn này được tập trung chủ yếu vào cơ sở hạ tầng như giao thông, năng lượng, bảo vệ rừng, an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo…Một số dự án của các nhà tài trợ ở bảng sau:
Như vậy, có thể đánh giá chung là nguồn vốn ODA đã góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trên các khu vực, thực hiện xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ sản xuất, bảo vệ môi trường.
Liên vùng: Lượng vốn ODA giải ngân liên vùng trong những năm qua chiếm 13241,31 triệu USD chiếm khoảng 38,18%.
Dự báo thu hút ODA các giai đoạn 2011-2015 và 2016-2020
Tổng dự báo ODA ký kết mới cho toàn quốc 5 năm 2006-2010 là khoảng từ 12,35 tỷ USD tới 15,75 tỷ USD. Nếu tiếp tục xu thế trong thời gian 1993 đến nay, dự báo ODA ký kết sẽ tăng.
Sau năm 2010 Việt Nam trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình (trên 1000 USD/người). Theo thông lệ quốc tế đối với các nước có thu nhập trung bình, Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục nhận được các khoản ODA của cộng đồng tài trợ quốc tế song với các điều kiện vốn vay kém ưu đãi hơn. Thay vào đó, Việt Nam sẽ được tiếp cận nhiều hơn với các nguồn vay có tính thương mại.
Như vậy có thể dự đoán về lượng vốn ODA đổ vào Việt Nam trong thời kỳ sau năm 2010 sẽ không giảm. Các căn cứ cho lập luận trên là:
- Việt Nam tiếp tục có nhu cầu lớn về thu hút và sử dụng các nguồn lực từ bên ngoài, trong đó có ODA để phát triển nhằm mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
- Việt Nam tiếp tục công cuộc đổi mới với chính sách phát triển kinh tế, xã hội đúng đắn hợp long dân nên Việt Nam tiếp tục giành được sự đồng tình và hỗ trợ của các nước và tổ chức quốc tế tài trợ.
- Chính trị, xã hội ổn định và kinh tế tiếp tục tăng trưởng bền vững. Vai trò vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được tăng cường và củng cố.
Tuy nhiên, về tính chất của ODA sẽ có sự thay đổi đáng kể, theo đó các khoản vay ODA ưu đãi sẽ giảm dần và thay vào đó là các khoản vay kém ưu đãi hơn sẽ tăng lên.
Nguồn vốn ODA dành cho Việt Nam thời kỳ 2011-2020 được dự báo như sau:
- Duy trì mức cam kết ODA của các nhà tài trợ dành cho Việt Nam thời kỳ 2011-2020 ở mức bình quân năm của 5 năm 2006-2010 là 4tỷ USD/năm.
- Do tính chất ODA vốn vay thay đổi, lĩnh vực (kể cả các lĩnh vực sản xuất) và đối tượng đối tượng được sử dụng vốn ODA (kể cả khu vực tư nhân) sẽ mở rộng, do vậy tiến trình chuẩn bị và hợp thức hóa cam kết ODA thành vốn ODA ký kết sẽ cao hơn 5 năm 2006-2010, dự báo sẽ đạt 80% vốn ODA cam kết.
- Quy trình và thủ tục ODA được cải thiện mạnh mẽ (hài hòa và tinh giản hóa quy trình và thủ tục ODA) áp dụng các mô hình viện trợ mới như hỗ trợ mới như ngân sách có mục tiêu, tiếp cận các chương trình, ngành sẽ thúc đẩy giải ngân vốn ODA, dự báo đạt khoảng 80% vốn ODA cam kết thời kỳ 2011-2020. Với các điều kiện trên, dự báo nguồn vốn ODA thời kỳ 2011-2020 theo vốn cam kết được thể hiên qua bảng sau:
Bảng 5 : Dự báo nguồn vốn ODA thời kỳ 2011-2020
Đơn vị: Tỷ USD
Nguồn vốn ODA
Thời kỳ 2006-2010
Thời kỳ 2011-2020
1. Vốn ODA cam kết
19-21
40
2. Vốn ODA ký kết
20-23
42*
3. Vốn ODA thực hiện
11
33
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(*) Trong đó có khoảng 10tỷ USD vốn ODA đã ký kết song chưa giả ngân trong thời kỳ 2006-2010 chuyển sang thời kỳ 2011-2020.
Dựa vào 3 phương án nghiên cứu về tốc độ tăng trưởng thời kỳ 2011-2020 gồm 8%, 10% và 12%, dự báo vốn ODA thực hiện theo 3 kịch bản tăng trưởng nêu trên với giả định tỷ trọng vốn ODA trong tổng đầu tư toàn xã hội có xu hướng giảm dần với mức giảm 1% ứng với kịch bản tăng trưởng (do tích lũy vốn trong nước tăng)
Bảng 6:Dự báo vốn ODA thực hiện theo 3 Phương án tăng trưởng thời kỳ 2011-2015 và 2016- 2020
Thời kỳ 2006-2010
Các phương án phát triển 2011-2015
Các phương án phát triển 2016-2020
Ghi chú
1.Tổng đầu tư toàn xã hội(Tỷ USD)
140
173
200
277
256
309
455
1USD= 16000VNĐ
2.Tỉ trọng vốn ODAtrong tổng đầu tư toàn xã hội (%)
8
8
7
6
6
5
4
3.VốnODA thực hiện (Tỷ USD)
11
13
14
16,6
15,3
15,4
18
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Vốn ODA thực hiện theo 3 phương án tăng trưởng trong thời kỳ 2011-2020 trong bảng sau:
Kịch bản tăng trưởng
Dự báo ODA thực hiện
1.Tăng trưởng kinh tế 8%
28,3 tỷ USD
2.Tăng trưởng kinh tế 10%
29,4 tỷ USD
3.Tăng trưởng kinh tế 12%
34,6 tỷ USD
Nếu tính phương án tăng trưởng kinh tế trung bình 10% thì vốn ODA thực hiện sẽ đạt khoảng 30tỷ USD. Dự báo này nằm trong khuôn khổ vốn ODA thực hiện đã dự báo ở trên (33 tỷ USD) với nhiều giả định có khả thi.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA
Trong giai đoạn phát triển sắp tới Việt Nam tiếp tục huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, trong đó có nguồn vốn ODA.
Thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 Việt Nam sẽ trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình (MIC) và theo tập quán tài trợ quốc tế Việt Nam sẽ nhận được ít hơn các nguồn vốn vay ODA ưu đãi như hiện nay. Đồng thời, các khoản viện trợ không hoàn lại và hỗ trợ kỹ thuật có khuynh hướng giảm.
Trong bối cảnh đó, định hướng chính sách sử dụng nguồn vốn ODA cần có những thay đổi phù hợp. ODA vốn vay kém ưu đãi sẽ tập trung đầu tư cho các chương trình, dự án tầm cỡ quốc gia, có nguồn thu và khả năng trả nợ chắc chắn như xây dựng các nhà máy điện, kể cả các nhà máy điện nguyên tử; phát triển các tuyến đường cao tốc thu phí, kể cả trong các thành phố lớn; phát triển hệ thống vận tải bánh sắt quy mô vận tải lớn như tầu điện ngầm, đường sắt trên cao ở các thành phố lớn…; các cảng hàng không; cảng biển; các hệ thống thông tin liên lạc viễn thông...; các công trình sản xuất có hàm lượng công nghệ và kỹ thật cao, có sức lan tỏa thúc đẩy phát triển một ngành, một địa bàn lãnh thổ,...
Trong thời gian tới việc thu hút và sử dụng ODA cần tập trung vào một số nhiệm vụ cụ thể như:
- Các Bộ, ngành và địa phương cần nỗ lực chuẩn bị các chương trình và dự án đã được cam kết vốn để ký kết hiệp định, đẩy mạnh việc thực hiện và giải ngân các chương trình, dự án ODA để đảm bảo đạt mục tiêu thực hiện 11,9 tỷ USD vốn ODA trong thời kỳ 2006-2010 và tạo ra các công trình gối đầu cho giai đoạn sau năm 2010.
- Sau năm 2010 ưu tiên sử dụng ODA, nhất là ODA vốn vay kém ưu đãi cho các chương trình, dự án có khả năng hoàn vốn cao, tạo được nguồn thu.
- Mở rộng thành phần được tiếp cận và sử dụng nguồn vốn ODA, kể cả khu vực tư nhân trong nước trên cơ sở quan hệ đối tác công –tư kết hợp trong đầu tư phát triển.
- Giảm bớt các khâu trung gian trong quản lý nguồn vốn ODA theo hướng chuyển trực tiếp nguồn vốn này cho chủ sở hữu vốn với cơ chế theo dõi và giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng để bảo đảm hiệu quả sử dụng và thực hiện trả nợ vốn vay cho các nhà tài trợ.
Nâng cao hiệu quả viện trợ là mối quan tâm chung
Trong những năm gần đây, trên bình diện quốc tế, khu vực và ở từng quốc gia đang phát triển đã có những nỗ lực to lớn giữa các nước nhận viện trợ và các nhà tài trợ trong việc nâng cao hiệu quả viện trợ. Từ năm 2003 đến nay một loạt các sự kiện quốc tế đã diễn ra, tập trung vào việc nâng cao hiệu quả viện trợ. Đó là Diễn đàn cấp cao lần thứ nhất về hài hòa hóa quy trình và thủ tục ODA tổ chức tại Rome, I-ta-lia năm 2003 với Tuyên bố Rome về Hài hòa thủ tục, Diễn đàn cấp cao lần thứ hai về hiệu quả viện trợ tổ chức tại Pa-ri, Pháp năm 2005 với việc thông qua Tuyên bố Pa-ri về Hiệu quả viện trợ và gần đây nhất là Diễn đàn cấp cao lần thứ ba về hiệu quả viện trợ diễn ra tại Accra, Ghana vào tháng 9 năm 2008 với việc thống nhất Chương trình Hành động Accra (AAA). Ngoài ra, rất nhiều các cuộc hội thảo quốc tế và khu vực khác đã được tổ chức tập trung vào việc làm gì và làm thế nào để nâng cao hiệu quả viện trợ.
Nâng cao hiệu quả sử dụng ODA và bảo đảm khả năng trả nợ là yêu cầu trong chính sách thu hút và sử dụng nguồn vốn này của Chính phủ Việt Nam. Thực hiện chính sách này, trong thời gian qua, Việt Nam đã được cộng đồng tài trợ quốc tế đánh giá là quốc gia đi tiên phong trong việc nâng cao hiệu quả viện trợ.
Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Tuyên bố Pa-ri về hiệu quả viện trợ và Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ “quốc gia hóa” Tuyên bố này thành Cam kết Hà Nội về hiệu quả viện trợ để phù hợp với hoàn cảnh và các điều kiện phát triển cụ thể của Việt Nam.
Hiện nay nên ưu tiên đầu tư chủ yếu vào một số ngành, lĩnh vực sau:
- Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản kết hợp xóa đói, giảm nghèo).
- Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số và phát triển và một số lĩnh vực khác).
- Bảo vệ môi truờng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai.
1. Các chính sách và giải pháp thu hút ODA:
Chính phủ Việt Nam bày tỏ mong muốn cộng đồng tài trợ tăng cường sự hỗ trợ của mình giúp Việt Nam tăng trưởng, giảm nghèo và đạt các Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs). Các chính sách và biện pháp về thu hút ODA dưới đây nhằm tạo thuận lợi cho việc thu hút ODA và tối đa hoá tác động tích cực của các chương trình, dự án ODA
(1) Tiếp tục thực hiện công cuộc “đổi mới” bao gồm các chính sách nhằm:
- Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh, công bằng và bền vững;
- Xóa đói giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách phát triển;
- Hoàn thiện môi trường đầu tư và kinh doanh;
- Tăng tính minh bạch, trách nhiệm giải trình trong sử dụng nguồn lực công;
- Thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế và giảm nhẹ các tác động xã hội từ bên ngoài trong quá trình hội nhập;
- Củng cố nỗ lực chống tham nhũng của chính phủ;
- Các chính sách bảo đảm dân chủ và quyền con người.
(2) Chính phủ và các nhà tài trợ sẽ phối hợp cùng nhau theo tinh thần quan hệ đối tác nhằm đảm bảo có sự hiểu biết và trách nhiệm chung và nhằm tối đa hoá lợi ích của ODA bao gồm:
- Nâng cao chất lượng đối thoại giữa Chính phủ và các nhà tài trợ thông qua việc thiết lập các cơ chế, chẳng hạn tăng cường các cuộc họp Tư vấn các nhà tài trợ (CG) và các nhóm quan hệ đối tác theo ngành;
- Công bố hệ thống các tiêu chí làm cơ sở vận động ODA cho các tỉnh và thành phố nhằm đảm bảo tính minh bạch và công bằng;
- Thúc đẩy sự tham gia của nhân dân trong quá trình vận động ODA ở cấp địa phương;
- Nâng cao năng lực điều phối các yếu tố đầu vào của nhà tài trợ thông qua sự gắn kết hơn nữa với các kế hoạch của chính phủ và trao đổi thông tin;
- Tạo điều kiện phối hợp giữa các nhà tài trợ có mối quan tâm chung để hợp lý hoá và nâng cao hiệu quả hỗ trợ.
2. Các chính sách và biện pháp về sử dụng và quản lý ODA:
Các chính sách và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng và quản lý ODA đã được xây dựng phù hợp với các nguyên tắc và cam kết trong Cam kết Hà Nội, bao gồm:
- Kiện toàn môi trường pháp lý về quản lý thu hút và sử dụng ODA nhằm đảm bảo quy trình đơn giản, rõ ràng và nhất quán.
- Hoàn thiện chính sách tài chính trong nước đối với ODA bao gồm quản lý nợ, các điều kiện cho vay đối với các dự án có nguồn thu; hoàn thiện chính sách thuế đối với các dự án ODA…
- Nâng cao chất lượng ODA thông qua việc khuyến khích tính tự chủ của các cơ quan thụ hưởng trong việc chuẩn bị nội dung các chương trình, dự án và sử dụng nhiều hơn đội ngũ tư vấn trong nước.
- Tăng cường năng lực chuẩn bị và thẩm định các dự án, xây dựng hướng dẫn lập các nghiên cứu khả thi, đánh giá tác động về kinh tế, xã hội và môi trường.
- Hoàn thiện các hệ thống của chính phủ về mua sắm công, quản lý tài chính công, bảo vệ môi trường và an sinh xã hội để các nhà tài trợ sử dụng nhiều hơn các hệ thống của chính phủ.
- Nâng cao nhận thức và hiểu biết về chính sách, quy trình thủ tục ODA.
- Khuyến khích sự tham gia của nhân dân trong quá trình thiết kế, thực hiện, giám sát dự án, đặc biệt ở cấp địa phương và trong các đối tượng hưởng lợi.
- Thúc đẩy hài hoà thủ tục ODA giữa chính phủ và các nhà tài trợ phù hợp với các hoạt động được đưa vào kế hoạch hành động về Hài hoà thủ tục của Việt Nam.
- Thúc đẩy các cách tiếp cận theo chương trình ở những nơi mà các nguồn lực của Chính phủ và nhà tài trợ có thể phối hợp cùng nhau nhằm hỗ trợ đạt các kết quả phát triển trong toàn bộ một ngành hay một lĩnh vực.
- Phát triển năng lực và xây dựng thể chế nhằm đảm bảo quản lý ODA theo hướng chuyên nghiệp hoá.
3. Phổ biến thông tin về ODA
Việc phổ biến thông tin ODA cho quảng đại quần chúng nhân dân có ý nghĩa rất quan trọng. Các cơ quan quản lý và thụ hưởng ODA chịu trách nhiệm cung cấp các thông tin chính xác cho công chúng về ODA. Một loạt các công cụ sẽ hỗ trợ công tác này bao gồm trang Web, các bản tin và các cơ sở dữ liệu như Cơ sở dữ liệu về Hỗ trợ phát triển (DAD) đặt tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Việc phổ biến thông tin sử dụng ODA ở Việt Nam cho các nước tài trợ cũng quan trọng để tranh thủ sự ủng hộ của những người đóng thuế của nước tài trợ ODA. Cần đưa ra các hình thức như khen thưởng, tặng bằng khen… để ghi nhận sự đóng góp của các cá nhân và tổ chức đối với sự nghiệp hợp tác phát triển của Việt Nam.
4. Theo dõi và đánh giá
Cải tiến công tác theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA là rất cần thiết để sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực này. Chính phủ quyết tâm hướng tới quản lý theo kết quả và gắn kết sự hỗ trợ của các nhà tài trợ vào các nhu cầu của Kế hoạch 5 năm mà các chương trình và dự án ODA được xem một phần không tách rời quá trình thực hiện Kế hoạch 5 năm cấp quốc gia, cấp ngành và cấp tỉnh. Do đó, sự hỗ trợ của nhà tài trợ về công tác theo dõi và đánh giá sẽ tập trung vào việc tăng cường các hệ thống theo dõi và đánh giá của Chính phủ. Cần chú trọng đến việc thu thập và phân tích các dữ liệu về kết quả phát triển phục vụ công tác theo dõi, đánh giá tác động và lập kế hoạch. Chính phủ sẽ phối hợp với các nhà tài trợ xây dựng các chỉ số đo kết quả cụ thể và các quy trình theo dõi. Các cơ chế đảm bảo sự tham gia của cộng đồng trong việc theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA sẽ được xây dựng và tập trung vào vai trò của các đối tượng thụ hưởng như một phương tiện nâng cao hiệu quả và tác động ODA.
KẾT LUẬN
Qua việc phân tích thực trạng huy động, quản lý và sử dụng vốn ODA trong thời gian qua cho thấy rằng ODA có một vai trò quan trọng hỗ trợ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và trên thực tế những chương trình, dự án sử dụng vốn ODA được thực hiện tập trung vào những lĩnh vực, ngành mà Việt Nam đang cần được hỗ trợ như: đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường…Đó là những lĩnh vực đầu tư có tính xúc tác vừa có tác dụng trước mắt đồng thời là cơ sở lâu dài cho sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Tính từ năm 1993 đến nay tổng số vốn ODA mà cộng đồng quốc tế đãcam kết dành cho Việt Nam lên tới 56,417.44 tỷ USD và có xu hướng tăng đều qua các năm. Tuy nhiên đây mới chỉ là số vốn cam kết còn trên thực tế tốc độ giải ngân của số vốn này mới đạt khoảng 45,6%. Nguyên nhân của thực trạng này do cả 2 phía Việt Nam và các nhà tài trợ nhưng chủ yếu từ phía chúng ta. Một số nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng kém hiệu quả trong việc sử dụng vốn ODA là: Nhận thức của chúng ta về nguồn vốn ODA còn thiếu đúng đắn, chưa có kinh nghiệm trong việc tiếp nhận ODA, công tác quản lý ODA còn nhiều chồng chéo, chưa rõ ràng…Để tiếp tục thực hiện chính sách quản lý và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn ODA phục vụ chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong thời gian tới, cần lưu ý một số khía cạnh sau: ODA gắn liền với các điều kiện chính trị. Tuy nhiên bằng chính sách đối ngoại của mình chúng ta có thể đa phương hóa quan hệ hỗ trợ phát triển của mình, sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA phục vụ phát triển đất nước trong khi nắm vững độc lập, tự chủ của đất nước. Chúng ta cần phải thể hiện được tính chủ động của mình trong việc sử dụng ODA, đặc biệt trong việc xây dựng, hình thành dự án, thẩm định các văn kiện dự án, hình thành cơ chế về quản lý điều hành…
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách, báo tạp chí
1.Hà Thị Ngọc Danh, Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), Những hiểu biết căn bản và thực tiễn ở Việt Nam, Nhà xuất bản giáo dục, 1998.
2. Ủy Ban Khoa Học Nhà Nước, Hướng dẫn thực hiện quy chế quản lý và sử dụng ODA.
3. TS. Từ Quang Phương và TS. Nguyễn Bạch Nguyệt, Giáo trình Kinh tế đầu tư, Nhà xuất bản ĐHKTQD, 2006
4. Sáng nữa lên nguồn vốn ODA, tạp chí Tài chính số 1, 2010, tr 16-19.
5. Thu hút và sử dụng vốn ODA năm 2009, Con số và sự kiện, số 3, 2010, tr 2
6. Tình hình sử dụng vốn ODA năm 2009 và định hướng thời gian tới, báo Thương mại, số 1-2, 2010, tr 56-59,63.
7. Bản tin ODA, Bộ kế hoạch và Đầu tư, số 32, số 33, năm 2010.
8. Báo cáo tình hình ODA 15 năm ở Việt Nam, Tổ công tác ODA- Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
9. Dự báo nguồn vốn ODA trong nước thời gian tới, Tổ công tác ODA- Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Các trang web
1. Trang web của Tổng cục thống kê: www.gso.gov.vn.
2. Trang web của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: www.mpi.gov.vn
3. Trang web của Bộ tài chính: www.mof.gov.vn
4. Trang web của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25860.doc