Trên cơ sở phân tích lý thuyết và kết quả thực tiễn thu được về loại hình bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam bước đầu chúng ta có thể nhận xét rằng bảo hiểm nhân thọ đã trải qua những thời kỳ khó khăn nhất. Được sự quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ cả về vật chất lẫn chuyên môn từ phía nhà nước, bộ tài chính và tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, với sự cố gắng không nhỏ của các cán bộ công nhân viên Công ty Bảo Việt Nhân thọ, công ty đã thu được những kết quả xứng đáng, là nguồn động viên cổ vũ to lớn đối với mọi thành viên trong Công ty. Mặc dù còn không ít những khó khăn mới nảy sinh nhưng với những tiền đề kinh tế xã hội, kỹ thuật thuận lợi cùng với đà đi lên của cả nước bảo hiểm nhân thọ Việt Nam hứa hẹn sự tồn tại và phát triển vững vàng trong cơ chế thị trường góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu chiến lược của ngành và Nhà nước, tiết kiệm đầu tư cho sản xuất, ổn định nền kinh tế chống lạm phát, ổn định sản xuất kinh doanh, ổn định đời sống mỗi gia đình, chăm lo cho thế hệ tương lai, xây dựng xã hội Việt Nam ngày càng văn minh và hạnh phúc.
25 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1412 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tình hình triển khai bảo hiểm nhân thọ ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiêm khá gần gũi đối với người dân ở các nước trên thế giới. Nó tồn tại và phổ biến trong cuộc sống hàng ngày của họ giống như hoạt động đầu tư tài chính, gửi tiết kiệm lây lãi, hay thuê vệ sĩ bảo vệ... Nói chung việc tham gia bảo hiểm nhân thọ ở các nước đang trở thành phổ biến như việc chăm lo cho sức khoẻ, đời sống vật chất tinh thần hàng ngày của mỗi người dân với lịch sử tồn tại và phát triển hơn 400 năm (hợp đồng bảo hiểm đầu tiên là ở Anh năm 1583 được ký giữa một công ty bảo hiểm với ông Wiliam gybbon số tiền bảo hiểm là 400 bảng) loại hình bảo hiểm này không ngừng phát triển đa dạng về hình thức, mở rộng về qui mô hoạt động. Tạo ra một nguồn quĩ đủ lớn chi trả cho người tham gia khi gặp rủi ro chết người, thương tật vĩnh viễn hoặc khi họ nghỉ hưu giúp người tham gia và gia đình họ khắc phục những khó khăn ổn định cuộc sống trước mắt và lâu dài.
Tuy nhiên ở Việt Nam bảo hiểm nhân thọ còn là lĩnh vực khá mới mẻ, mặc dù trước đây ở miền nam Việt Nam đã có công ty bảo hiểm Hưng Việt triển khai một số loại hình bảo hiểm nhân thọ chính như: bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, bảo hiểm trợ cấp hưu trí, bảo hiểm trẻ em.
Phương châm đề ra của bộ tài chính là chúng ta vừa làm vừa đổi mới rút kinh nghiệm. Một mặt áp dụng cách làm của các nước tiên tiến, mặt khác khai thác và phát huy tính tự chủ năng động sáng tạo của đội ngũ cán bộ chuyên môn trong nước. Xét trên cơ sở điều kiện thực tế đất nước đây là một chủ trương phù hợp hứa hẹn nhiều triển vọng. Kết quả sau hơn hai năm triển khai nghiệp vụ này đã cho thấy tình hình hết sức khả quan, đó là sự tăng trưởng cao trong doanh thu và một số chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh khác. Mặc dù vẫn còn tồn tại nhưng về cơ bản đã dần dần được tháo gỡ giải quyết, tiếp tục tạo đà thuận lợi cho sự phát triển bảo hiểm nhân thọ ở trong tương lai.
Là một sinh viên chuyên nghành bảo hiểm có quan tâm nghiên cứu nghiêp vụ bảo này, trong giới hạn trình độ kiến thức và phạm vi của một đề án môn học em xin trình bày một số hiểu biết cơ bản và ý kiến của em về vấn đề: phát triển bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam thực trạng và triển vọng.
NộI DUNG
CHƯƠNG 1: những yêu cầu khách quan và sự ra đời của bảo hiểm nhân thọ
i. Những yêu cầu khách quan
Lịch sử phát triển của con người là quá trình đấu tranh lâu dài với thiên nhiên cải tạo, chiến đấu và chiến thắng thiên nhiên, để làm được viêc đó con người luôn luôn phải gắn bó với cộng đồng.
Từ xa xưa đã có một câu chuyện kể về thánh Joseph và quốc vương Ai cập chuyện kể rằng nhà vua có một giấc mơ thấy 7 con bò béo bị bảy con bò gầy ăn thịt. Hôm sau nhà vua yêu cầu thánh Joseph giải thích về giấc mơ đó. Joseph nói rằng nhà vua được báo mộng rằng 7 năm tới sẽ được mùa vì vậy nhà vua phải tích luỹ một kho thóc khổng lồ để ăn đủ cho 7 năm mất mùa sau đó. Lương thực dự trữ là hình thức bảo hiểm cho con người chống lại nạn đói khi mất mùa.
Khoảng 900 năm trước Công nguyên luật biển của ấn độ yêu cầu tất cả các đoàn tàu phải đóng một khoản tiền nhỏ vào quỹ chung để giúp đỡ những người không may bị mất tàu và hàng hoá khôi phục lại kinh doanh, hoặc nếu họ chết thì giúp đỡ một phần cho gia đình họ, khoảng năm 533 sau Công nguyên nó đã trở thành một bộ phận trong luật Roman.
Cũng dưới thời đó những người lính Roman còn có một hình thức bảo hiểm khác. Nếu họ thắng trận thì họ được một khoản tiền, nhưng chính phủ thu một phần số tiền đó để khi họ rời quân ngũ thì họ có một khoản tiền để bắt đầu cuộc sống mới còn nếu họ bị tử trận thì gia đình họ có một khoản tiền để sống.
Trong các nhà tù ở Roman cũng có quy định, mỗi người phải đóng một số tiền để chi phí mai táng cho những người bị chết, theo cứ liệu khảo cổ học thì mỗi người trong nhóm phải đóng 3, 5 $.
Ngày nay trong xã hội hiện đại nhịp độ cuộc sống ngày một khẩn trương thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ được áp dụng vào mọi lĩnh vực của cuộc sống, quy mô sản xuất kinh doanh tăng cao, các công trình xây dựng phương tiện, thiết bị ngày càng hiện đại và có giá trị lớn. Những rủi ro do nhiều nguyên nhân: hảo hoạn bão lũ, sóng thần, sự cố kỹ thuật hay do chính con người gây ra vẫn luôn luôn rình rập đe doạ tài sản vật chất cũng như sức khoẻ và tính mạng con người đòi hỏi phải đượchạn chế tổn thất bằng biện pháp bảo hiểm. Trong các đối tượng được bảo hiểm con người vẫn là nhân tố hàng đầu, các loại hình bảo hiểm con người phát triển rất mạnh với quy mô lớn trong đó bảo hiểm nhân thọ rất được coi trọng và luôn được đỏi mới phát triển cả về số lượng lẫn trình độ phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội loài người.
Để khắc phục những thệt hại do tai nạn rủi ro gây ra một biện pháp tôi ưu là tham gia các phường hôị bảo hiểm nhân thọ hay bảo hiểm tại các công ty để cùng nhau san sẻ rủi ro ổn định cuộc sống cho tương lai.
II. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ
1. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ trên thế giới
Từ chỗ xây dựng những nhóm hội bảo hiểm sơ khai một cách tự phát dưới thời trung cổ, bảo hiểm nhân thọ đã trở thành tổ chức chuyên nghiệp lớn mạnh cả về quy mô lẫn trình độ quản lý.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đầu tiên được ra đời từ năm 1583 do một công dân người Luân đôn thực hiên đó là ông William gybbon (người được bảo hiểm). Ông chỉ phải đóng 32 bảng phí và khi ông chết (trong năm đó) người thừa kế của ông được hưởng số tiền 400 bảng hợp đồng dả kết thúc với lời cầu nguyện “Chúa hãy ban cho ông sức khoẻ và cuộc sống lâu dài”.
Lúc đầu trình độ quản lý còn non yếu việc tính phí còn chưa có cơ sở khoa học các công ty sẽ thu một mức phí nhất định đều nhau của những đối tượng dưới 45 tuổi sau đó cân đối lại số dư của quỹ rồi sẽ chia cho những người thừa kế của những người đã chết trong năm đó. Vào thế kỷ 18 thì các công ty bảo hiểm tương hỗ ở Anh đã bắt đầu nghiên cứu tỷ lệ chết thực tế cho từng lứa tuổi khác nhau để biết rủi ro của từng lứa tuổi, làm căn cứ tính phí có cơ sở khoa học hơn. Từ đó đến nay việc tính phí bảo hiểm đã được hoàn thiện hoá chi tiết hoá với sự trợ giúp của toán học và các thiết bị sử lý tự động.
Công ty bảo hiểm tương hỗ đầu tiên là hội bảo hiểm nhân thọ và hưu trí hội này do các nhà buôn bán vải lụa thành lập ngày 4 tháng 10 năm 1699 nhưng chỉ ít năm sau đó bị thất bại do vỡ nợ, 70 năm sau công ty bảo hiểm nhân thọ suốt cuộc đời đã hình thành. Nó chỉ giới hạn 200 thành viên và quyền lợi bảo hiểm theo một mức duy nhất và không định trước, phụ thuộc vào số người chết trong năm. Trên cơ sở số tiền để dành được họ chia đều cho những người thừa kế của những người đã chết trong năm đó.
Năm 1720 hai công ty bảo hiểm của Anh là công ty hối đoái hoàng gia và công ty góp vốn cổ phần chính ở Luân đôn cố gắng giành đọc quyền thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ cổ phần nhưng bị hiến trương của nhà vua huỷ bỏ.
ở Mỹ với tiền thân là hội giúp đỡ người nghèo các mục sư trưởng lão bị khốn cùng, những người goá chồng trẻ con của mục sư... (1759) các công ty bảo hiểm tương hỗ liên tiếp ra đời vào đầu thế kỷ 19, làm cho các cơ quan luật pháp phải ra quy định bắt các công ty phải nộp 100. 000 $ trước khi thành lập nhằm mục đích hạn chế bớt các công ty ra đời, nhất là các công ty có khả năng tài chính yếu
ở châu Âu cách mạng công nghiệp cộng với sự phát triển của toán học tạo điều kiện cho bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển. Năm 1787 công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ở Pháp ra đời, nhưng đến năm 1792 bị thất bại, mãi đến tháng 2/1819 công ty bảo hiểm nhân thọ khác của Pháp mới thành lập thay thế trên thị trường.
ở Đức năm 1828 công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời và phát hành bảo hiểm tồn tích (tích luỹ) cho đông đảo người dân.
ở Anh công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential được thành lập năm 1853 là công ty đi đầu trong công nghịêp bảo hiểm và bắt đầu khuếch trương sản phẩm của mình ra thị trường
ở Châu á công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên hoạt đọng dưới hình thức kinh doanh là công ty Mei ji, sau 7 năm độc quyền đến 1888-1889 hai công ty bảo hiểm lớn ra đời đó là công ty bảo hiểm nhân thọ Teikoku và công ty Nippon đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của bảo hiểm nhân thọ ở Nhật bản.
ở Triều tiên hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cũng được triển khai sớm và rộng khắp trước kia là do các công ty của Anh tiến hành sau năm 1905 là do các công ty bảo hiểm nhân thọ của Nhật độc quyền kinh doanh dến sau chiến tranh thế giới lần thứ 2.
Đánh giá kết quả triển khai bảo hiểm nhân thọ các số liệu thống kê cho thấy Hàn quốc là nước có tỷ lệ phí bảo hiểm tính trên GDP là cao nhất Mỹ là nước có doanh thu phí bảo hiểm cao nhất.
Tên nước
Tổng số phí (triệu $)
Tỷ lệ doanh thu phí bảo hiểm /GDP (%)
Tỷ lệ doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ /Tổng doanh thu phí bảo hiểm
Hàn quốc
8, 68
79, 0
Mỹ
522
3, 40
41, 4
Nhật bản
320
5, 60
73, 0
Anh
192
7, 10
64, 5
Các nước Nam Phi, Ai len, Canada, Niu di lân, cũng là những nước có bảo hiểm nhân thọ rất phát triển đứng hàng đầu thế giới.
2. Sự ra đời của bảo hiểm nhân thọ của Việt Nam.
ở Việt Nam sau những năm đổi mới đất nước đang trên đà phát triển thoát ra khỏi khủng hoảng, hoà nhịp với quá trình phát triển của các nước trên thế giới, công cụ pháp lý của Nhà nước đang trong quá trình hoàn thiện, công cụ tài khoá đã và sẽ được sử dụng kết hợp để điều tiết nền kinh tế thị trường theo định hướng của Đảng và nhà nước đề ra nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, dẹp bỏ những rào cản của cơ chế cũ, phương thức quản lý cũ, khơi gợi sức người, sức của cho sản xuất kinh doanh. Điều đó đã tạo những điều kiện kinh tế xã hội pháp lý, tâm lý cho sự phát triển của bảo hiểm trong đó có bảo hiểm nhân thọ.
Mở đầu là Nghị định 100 CP của Chính phủ quy định sự phát triển bảo hiểm thương mại của Việt nam đã tạo ra một thị trường quen dần với sản phẩm bảo hiểm. Tiếp theo đó ngày 22/3/96 Nghị định 281 TC/TCNHg đã thực sự cho ra đời Công ty bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam trực thuộc Bảo Việt. Đó mới chỉ là bước đầu tìm hiểu, làm quen với thị trường sản phẩm bảo hiểm nhân thọ (Bảo hiểm sinh mạng 5 năm, 10 năm và bảo hiểm an sinh giáo dục) và dọn đường cho sự phát triển và cạnh tranh quyết liệt trên thị trường sau khi có luật bảo hiểm Việt Nam ra đời. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là bảo hiểm nhân thọ mới ra đời ở Việt Nam năm 1996 mà ngay từ trước giải phóng ở miền Nam Việt Nam người dân cũng đã bước đầu được làm quen với các sản phẩm của bảo hiểm nhân thọ do Công ty bảo hiểm nhân thọ Hưng Việt chuyển sang. Nếu không phải do nguyên nhân chiến tranh, môi trường chính trị xã hội, chắc chắn nó sẽ phát triển lớn mạnh.
Chương II: NHữNG NộI DUNG CƠ BảN CủA bảo hiểm NHÂN THọ
I. Bảo hiểm nhân thọ tử kỳ (bảo hiểm sinh mạng có thời hạn)
Loại hoạt động bảo hiểm này được ký kết bảo hiểm cho rủi ro chết xảy ra, như đã qui định trong hợp đồng, nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì việc thanh toán không được thực hiện và người tham gia không được hưởng bất kỳ một khoản hoàn phí nào từ phí bảo hiểm đã đóng.
Như vậy đặc trưng của loại hình bảo hiểm này là:
-Số tiền bảo hiểm được trả một lần khi người được bảo hiểm chết trong thời hạn hợp đồng
-Phí bảo hiểm không thay đổi trong suốt thời gian bảo hiểm
-Thời hạn hợp đồng được xác định theo thoả thuận giữa hai bên
-Phí bảo hiểm đóng định kỳ theo tháng, quý, năm tuỳ theo yêu cầu của người tham gia
Ưu điểm chính của loại hình bảo hiểm này là mức phí có thể giữ được ở mức thấp nhất do không phảI hoàn phí khi hết hợp đồng mà rủi ro không xảy ra.
Có nhiều loại biến thể của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tử kỳ:
-Bảo hiểm tử kỳ cố định
-Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục
-Bảo hiểm tử kỳ giảm dần
-Bảo hiểm tử kỳ tăng dần
-Các loại hợp đồng bảo hiểm thu nhập gia đình
-Các loại hợp đồng bảo hiểm thu nhập gia tăng
II. Bảo hiểm nhân thọ trường sinh (bảo hiểm nhân thọ trọn đời)
Đặc điểm của loại hình bảo hiểm nhân thọ trường sinh là:
-Số tiền bảo hiểm trả một lần khi người được bảo hiểm chết
-Thời hạn không xác định
-Phí bảo hiểm đóng định kỳ theo tháng, quý, năm
-Phí bảo hiểm không thay đổi suốt thời hạn hợp đồng
-Phí bảo hiểm nhân thọ trường sinh cao hơn phí bảo hiểm nhân thọ tử kỳ vì khiếu nại chắc chắn xảy ra
Có các loại bảo hiểm nhân thọ trường sinh như sau:
-Bảo hiểm nhân thọ trường sinh phi lơI nhuận: ở loạI hình bảo hiểm này người tham gia không được trả một khoản lợi nhuận nào.
-Bảo hiểm nhân thọ trường sinh có lợi nhuận: người tham gia được trả một khoản lợi nhuận đầu tư của công ty bảo hiểm cùng số tiền bồi thường khi chết.
-Hợp đồng bảo hiểm trường sinh chi phí thấp: số phí đóng tăng dần và kết thúc trước hạn.
III. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thời hạn
Đây là loại hình bảo hiểm kết hợp cả hai loại trên theo đó người được bảo hiểm sẽ được bồi thường một khoản tiền sau khi có sự kiện như thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm xảy ra: người được bảo hiểm chết hoặc hết hạn hợp đồng. Với loại hình bảo hiểm này người tham gia bảo hiểm có thể yên tâm về một khoản tiền sẽ nhận được trong tương lai để chi dùng cho các việc lớn: mua nhà, con cái lập nghiệp, cưới xin...
Đặc đIểm của loại hình bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thời hạn là:
-Số tiền bảo hiểm được trả một lần khi người được bảo hiểm chết hoặc hết hạn hợp đồng
-Phí bảo hiểm không đổi và đóng định kỳ suốt thời hạn hợp đồng.
-Mức phí có cao hơn các loại hình ở trên tuy nhiên người tham gia có thể nhận được một khoản lãi đầu tư do kinh doanh đem lại.
-Mức phí cao hay thấp phụ thuộc vào số tiền bảo hiểm, thời gian tham gia bảo hiểm, tuổi của người tham gia.
Ngoài các loại hợp đồng như trên các công ty có thể mở rộng áp dụng cho các loạI hợp đồng bảo hiểm khác.
IV. Hợp đồng bảo hiểm tuỳ thuộc
Có nghĩa là hợp đồng có hiệu lực nếu người được bảo hiểm chết và một điều kiện tuỳ thuộc nào đó cũng phảI đồng thời xảy ra. Ví dụ: người chồng chết nhưng người vợ phải còn sống
Tuỳ theo yêu cầu của người được bảo hiểm điều kiện bảo hiểm tuỳ thuộc sẽ được thoả thuận và nhân viên công ty bảo hiểm sẽ căn cứ vào đó để tính phí một cách hợp lý. Nhiều công ty bảo hiểm nhân thọ vì uy tín với khách hàng có thể đưa ra một loạt các lựa chọn bổ sung thêm vào các hợp đồng tiêu chuẩn của họ. Nhưng thường chỉ với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trường sinh và bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp mà thôi, thêm nữa người tham gia cũng phải chấp nhận mức phí cao hơn đôi chút.
Các khả năng lựa chọn chủ yếu là:
-Không phải nộp phí bảo hiểm: có thể không phảI nộp phí bảo hiểm nữa nếu người được bảo hiểm không thể tiếp tục công việc bình thường do thương tật hoặc ốm yếu.
-Trợ cấp mất khả năng làm việc: số tiền bảo hiểm được thanh toán trong trường hợp không có khả năng làm việc thường xuyên cũng như trường hợp tử vong
-Trợ cấp tai nạn trùng: một khoản thanh toán trả thêm bằng số tiền bảo hiểm, trả trong trường hợp chết nếu người được bảo hiểm bị tử vong do tai nạn
-Lựa chọn bảo hiểm gia tăng cho phép người có hợp đồng bảo hiểm tăng số tiền bảo hiểm trong hợp đồng tạI những thời đIểm nhất định với những số tiền nhất định
-Bảo hiểm bệnh tật hiểm nghèo: hợp đồng thanh toán số tiền bảo hiểm trong trường hợp có sự chuẩn đoán một vàI bệnh hoặc tình trạng sức khoẻ cụ thể.
V. Bảo hiểm hưu trí:
Đây là loại hình bảo hiểm bổ trợ cho bảo hiểm hưu trí thuộc bảo hiểm xã hội, nó đáp ứng nguyện vọng của những người làm việc ngoài khối cơ quan nhà nước muốn có được trợ cấp hưu trí lúc tuổi già.
Đặc điểm của loại hình bảo hiểm này là:
-Tiền trợ cấp định kỳ trả cho người được bảo hiểm từ khi người đó về hưu.
-Thời hạn hợp đồng không xác định
-Khi người tham gia bảo hiểm bị chết hợp đồng bảo hiểm tiền trợ cấp hưu trí đương nhiên kết thúc
-Phí bảo hiểm đóng một lần
Đây là nghiệp vụ có tiềm năng nhưng do điều kiện về pháp lý, tâm lý, kinh tế xã hội chưa hoàn chỉnh nên vẫn chưa được triển khai ở nước ta.
VI. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là một bản hợp đồng giữa các bên trong đó công ty bảo hiểm cam kết bồi thường cho người tham gia một khoản tiền khi có những sự kiện định trước xảy ra. Còn người tham gia có nghĩa vụ thực hiện các đIều khoản trong hợp đồng và đóng phí đầy đủ.
Trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường có ba bên:
1. Người được bảo hiểm: là người mà sức khoẻ và tính mạng của họ được bảo hiểm hay nói cách khác là sức khoẻ và tính mạng của họ là điều kiện để xét bồi thường theo hợp đồng (là người có tên trong giấy yêu cầu được bảo hiểm)
2. Người tham gia bảo hiểm: là người đứng ra ký kết hợp đồng và nộp phí bảo hiểm cho công ty bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm thường là cha mẹ, con cái, người thân của người được bảo hiểm hoặc có thể chính là người được bảo hiểm. Người được bảo hiểm và người tham gia chỉ khác nhau khi người được bảo hiểm chưa đến tuổi vị thành niên.
3. Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm: là người được hưởng quyền lợi hợp pháp phát sinh theo các điều khoản bồi thường trong hợp đồng người được hưởng quyền lợi bảo hiểm là những người thân, người thừa kế hoặc những người ăn theo của người được bảo hiểm.
Đối tượng tham gia của bảo hiểm nhân thọ là những người từ 1 đến 60 tuổi (độ tuổi này không cố định có thể có giao động tuỳ theo quy định của các công ty tuy nhiên nó liên quan đến mức phí bảo hiểm (nếu có nguyện vọng tham gia bảo hiểm thì viết giấy yêu cầu bảo hiểm (theo mẫu có sẵn) kê khai đầy đủ nghề nghiệp, giới tính, tuổi tác, tình trạng sức khoẻ. Công ty bảo hiểm xem xét giấy yêu cầu, kiểm tra tính trung thực sau đó quyết định có nhận bảo hiểm hay không.
Quyền lợi và trách nhiệm của các bên
a. Người tham gia có quyền:
-Lựa chọn số tiền bảo hiểm và phương thức thanh toán
-Khiếu nại đòi bồi thường khi có tai nạn rủi ro gây thương tật xảy ra hoặc chuyển quyền khiếu nại, đòi bồi thường cho người thừa kế
-Có quyền yêu cầu công ty huỷ bỏ hợp đồng hoặc tham gia ở số tiền bảo hiểm thấp hơn do thiếu khả năng tài chính
b. Người tham gia có nghĩa vụ:
-Có thái độ trung thực chấp hành các quy định đã thoả thuận với công ty bảo hiểm.
-Duy trì mối quan hệ ràng buộc trên cơ sở luật pháp với các công ty bảo hiểm trong thời hạn hợp đồng.
-Nộp phí bảo hiểm đầy đủ theo định kỳ, tháng, quý, năm hoặc một lần với bảo hiểm hưu trí. Nếu sau một thời gian quá hạn được công ty bảo hiểm thông báo mà người tham gia vẫn không nộp phí, công ty bảo hiểm sẽ tự động tính giảm số tiền bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm có quyền:
-Từ chối bồi thường những trường hợp không thuộc phạm vi bảo hiểm
+Tai nạn do cố ý của người tham gia hoặc người được hưởng quyền lợi bảo hiểm
+Ngộ độc thức ăn
+Cảm gió
+Viêm nhiễm
+ảnh hưởng của rượu bia ma tuý
+Hành vi phạm tội
+Chiến tranh, nội chiến, bạo động
-Tính giảm số tiền bảo hiểm trong các trường hợp
+Tuổi kê khai có sự sai lệch nhất định, nếu tuổi kê khai cao hơn tuổi khai sinh thì phải giảm số tiền bảo hiểm hoặc tăng phí bảo hiểm
+Không đủ khả năng tài chính duy trì mức phí như cũ hoặc không có khả năng nộp sau một thời gian nhất định
Hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực kể từ ngày nộp phí đầu tiên cũng có thể là ngày yêu cầu bảo hiểm được chấp nhận (nếu công ty bảo hiểm có quy định)
VII. Phí bảo hiểm nhân thọ
Phí bảo hiểm nhân thọ: là những khoản đóng góp của người tham gia bảo hiểm tạo lập quĩ cần thiết để thanh toán khi khiếu nạI xảy ra. Ngoài ra quĩ còn phải trích lập một khoản quĩ dự phòng, chi phí quản lý và lợi nhuận công ty. Phí bảo hiểm nhân thọ được tính toán dựa trên cơ sở khoa học căn cứ vào số liệu thống kê tỷ lệ chết ở các độ tuổi, tình hình đầu tư tài chính, các khoản chi phí cần thiết mà quỹ bảo hiểm sẽ phải thanh toán. Có rất nhiều loại hợp đồng khác nhau tuỳ theo số tiền bảo hiểm, độ tuổi của người tham gia và thời hạn hợp đồng mà các chuyên viên bảo hiểm đưa ra công thức để đạt được hiệu quả trong việc tính toán các mức phí phù hợp đối với từng loại hợp đồng sao cho cả ngươì tham gia và công ty bảo hiểm đều dễ dàng chấp nhận được.
Mỗi loại hợp đồng có một loại đặc thù riêng gây khó khăn cho việc tính toán ví như một hợp đồng bảo hiểm hỗn hợp 10 năm việc tính phí đòi hỏi nghiên cứu bảng tỷ lệ tử vong trong một số năm, đánh giá tỷ lệ trong thời hạn hợp đồng có hiệu lực, tỷ lệ hoàn phí bảo hiểm cho những người hết hạn hợp đồng, những khoản thu từ đầu tư ngắn hạn và trung hạn, những khoản chi bồi thường, quản lý, chi khác..
Bảng tỷ lệ tử vong
Tuổi đạt được
Tỷ lệ những người đã chết
trong năm trước
25
0, 00235
30
0, 00241
35
0, 00286
40
0, 00388
45
0, 00527
50
0, 00764
55
0, 00190
Sử dụng bản trên chúng ta có thể tính phí bảo hiểm cho một người trong độ tuổi từ 25 đến 55 muốn tham gia bảo hiểm nhân thọ với thời gian và số tiền bảo hiểm lựa chọn. Tuy nhiên về nguyên tắc số tiền bảo hiểm được công ty quy định và không ở mức quá cao để đảm dẩm nguyên tắc lấy số đông bù số ít.
Giả sử một người ở độ tuổi 50 muốn mua bảo hiểm sinh mạng có thời hạn (bảo hiểm tử kỳ) thời gian một năm với số tiền bảo hiểm 10. 000 $ thì phí bảo hiểm gốc sẽ được tính F = 10000 x 0, 00764 =76, 4 $
Nhưng nếu một người ở độ tuổi 45 muốn mua bảo hiểm tử kỳ 10 năm thì ta lạI phảI tính tỷ lệ người chết trong độ tuổi 45- 55
(0, 00527 +0, 00764 +0, 01190)
Tỷ lệ chết(45-55)= 2 2
2
Hoặc bằng số liệu thống kê ban đầu
Tỷ lệ chết (45-55) = Số người chết trong độ tuổi 45-55 những năm trước
Tổng số người trong độ tuổi 45-55
Sau đó phí tiếp tục được tính như trên = (số tiền bảo hiểm) x ( Xác suất rủi ro).
Một cách khác nữa để tính phí bảo hiểm là việc tính phí bảo hiểm riêng cho từng năm ứng với mỗi mức tuổi, phí năm sau sẽ cao hơn năm trước chút ít.
F1<F2<F3<... <Fn (n thường bằng 10, 15 hoặc 20). Nhưng để đơn giản cho việc đóng phí bảo hiểm các công ty bảo hiểm thường quy định mức phí (F) không thay đổi trong cả thời gian hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực.
F1<F<Fn
Điều này không có nghĩa là người mua bảo hiểm bị thiệt mà nó chỉ đơn thuần là việc tính theo giá trị thơì gian của những khoản tiền phải nộp đều đặn này tương đương với tổng các mức phí thay đổi của các năm
nF = F1+F2+..+Fn
Để đảm bảo tính chính xác sát thực trong việc tính phí bảo hiểm thì số liệu thống kê phảI đảm bảo nguyên tắc số lớn. Tức là việc tính toán phải được thực hiện dựa trên càng nhiều người có cùng độ tuổi giống nhau càng tốt. Ví dụ: nếu chúng ta sử dụng các con số thống kê lấy từ báo cáo tuổi của 2 triệu người thì con số này sẽ chính xác hơn, những con số thống kê dựa trên độ tuổi của 200000 người bởi vì nó đã loại bớt tính ngẫu nhiên trong thống kê.
Phí bảo hiểm như đã tính ở trên mới chỉ là cách tính đơn giản cho quỹ bồi thường thiệt hạI công việc còn lại cuả người tính phí bảo hiểm là phải tính toán chi phí quản lý, chi quỹ dự phòng, hạn chế tổn thất, chi khác và các khoản thu do đầu tư mang lại. Những khoản thu chi này khó xác định chính xác, có khi với mức phí thấp không đủ bù đắp cho chi phí bồi thường, quản lý, dự phòng nhưng do số hợp đồng ký kết được lớn nên thu đầu tư lớn thừa khả năng bù đắp chi phí, do đó đòi hỏi các chuyên gia tính phí phảI rất linh động nhạy cảm, đIều chỉnh mức phí trong từng trường hợp để đảm tính cạnh tranh trong kinh doanh. Tất nhiên không phảI là để cạnh tranh bằng mọi giá bất chấp rủi ro.
Phương thức nộp phí cũng có ảnh hưởng tới mức phí phải nộp. Công ty bảo hiểm thường ưu tiên giảm phí cho những người nộp phí theo năm, quý, nộp phí một lần bằng cách lấy số phí phải nộp nhân với một hệ số h<1.
Fnăm = Fth x 12 x 0, 94
F6 th = Fth x 6 x 0, 96
F quý = Fth x 3 x 0, 98
Bởi vì nộp theo quý, năm, nộp một lần công ty bảo hiểm được lợi là số tiền phí được nộp trước có thể dưa vào đầu tư lấy lãi.
VIII. Thủ tục giải quyết bồi thường
Khi có những sự kiện đã định trước trong nội dung hợp đồng bảo hiểm (người được bảo hiểm bị chết hoặc thương tật, hết hạn hợp đồng) người được hưởng quyền lợi bảo hiểm phải thông báo cho công ty bảo hiểm về tình trạng nạn nhân và địa chỉ của họ để công ty bảo hiểm xem xét giải quyết bồi thường.
-Khi người tham gia bảo hiểm (hay người được bảo hiểm) bị chết phải có giấy yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm, giấy này có thể do người thân hoặc luật sư của người được bảo hiểm lập, giấy chứng tử và hợp đồng bảo hiểm gốc. Có một số trường hợp nảy sinh nghi ngờ:
+Hợp đồng mới được cấp
+Người được bảo hiểm bị mất tích
+Nghi ngờ người được bảo hiểm và người chết không phải là một
+Người được bảo hiểm chết ở nước ngoài
+Người được bảo hiểm chết không phải do nguyên nhân tai nạn
+Tuổi của người chết
Do đó công ty bảo hiểm sẽ đòi hỏi một số giấy tờ chứng nhận có liên quan, hoặc tự đi xác minh tính chân thực của các thông tin rồi ra quyết định bồi thường hoặc không bồi thường tuy nhiên việc chọn thời điểm và biện pháp phải thích hợp và tế nhị.
- Trường hợp người tham gia bảo hiểm hai người được bảo hiểm bị tai nạn gây thương tật toàn bộ vĩnh viễn thì luật sư hoặc người thân của bảo hiểm phải hoàn tất hồ sơ, gửi cho công ty bảo hiểm với các giấy tờ sau:
+ Giấy yêu cầu giải quyết
+ Hợp đồng bảo hiểm gốc
+ Biên bản xác nhận của công an hoặc chính quyền địa phương nơi xảy ra tai nạn
+ Giấy xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền về tình trạng sức khoẻ thương tật.
Với những quyết định trên cả hai bên, người được bảo hiểm và công ty bảo hiểm luôn phải hiểu như nhau về cá khái niệm.
- Tai nạn: là bất kỳ thiệt hại thân thân thể nào do hậu quả duy nhất và trực tiếp của một lực mạnh bất ngờ tù bên ngoài tác động lên thân thể của người được bảo hiểm, loại trừ ốm đau hoặc bệnh tật hoặc bất kỳ vấn đề gì có liên quan đến quá trình thoái hoá tự nhiên.
-Thương tật toàn bộ vĩnh viễn: là khi người được bảo hiểm bị mất hoàn toàn và không phục hồi được chức năng của:
+Hai tay
+Hai chân
+Hai mắt
+Một tay một mắt
+Một chân một mắt
- Trường hợp người tham gia yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng phải có các giấy tờ sau
+Giấy yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng
+Hợp đồng bảo hiểm gốc
- Trường hợp người tham gia bảo hiểm yêu cầu ngừng đóng phí bảo hiểm trong một thời gian xác định bảo hiểm vẫn cho phép nhưng người tham gia phải có các giấy yêu cầu ngừng đóng phí trong một thời gian nhất định bằng văn bản gửi cho đạI lí hoặc văn phòng công ty.
- Trường hợp đơn giản nhất đối với cả công ty và người được bảo hiểm là hết hạn hợp đồng không có tai nạn rủi ro xảy ra, người được bảo hiểm còn sống thì người tham gia chỉ cần nộp hợp đồng bảo hiểm gốc cho công ty bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ thah toán toàn bộ số tiền bảo hiểm cho người tham gia.
chương III: Tình hình triển khai bảo hiểm nhân thọ ở nước ta
I. Tình hình kinh tế xã hội những thuận lợi và khó khăn
ở nước ta trong những năm vừa qua việc chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế đã đem lại những thay đổi cơ bản trong mức sống dân cư, thói quen tiêu dùng của dân cư thậm chí cả những yếu tố tâm lí xã hội khác. Điều này đã tạo ra những thuận lợi và khó khăn nhất định cho việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ của các công ty bảo hiểm. Cơ bản trên một số khía cạnh sau: kinh tế xã hội, dân số, tâm lý dân cư.
a. Điều kiện kinh tế
Sau hơn mười năm đổi mới bộ mặt nền kinh tế có nhiều thay đổi lớn. Kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước đã thay thế nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp cũ, mọi người thuộc các thành phần kinh tế tự do tham gia thị trường sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ với mục tiêu lợi nhuận chịu sự chi phối của các qui luật thị trường và sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Vì thế sức sản xuất được giải phóng, hàng hoá và các nguồn lực được lưu thông tự do trên thị trường theo qui luật giá trị, cung cầu và giá cả. Năng lực sản xuất của quốc gia tăng lên rõ rệt biểu hiện ở mức tăng trưỏng GDP cao trong nhièu năm liền kéo theo GDP tính trên đầu người cũng tăng đáng kể.
Năm
1994
1995
1996
1997
Tốc độ tăng trưởng GDP (%)
8, 8
9, 5
9, 3
9, 0
Công cụ tài chính tiền tệ thực sự có hiệu lực trong điều tiết nền kinh tế. Tạo ra sự ổn định trong nền kinh tế, lạm phát được kiểm soát ở mức độ vừa phải đảm bảo chức năng thước đo giá trị của đồng tiền, tình trạng trượt giá nhanh của đồng tiền phân phối lại thu nhập đựơc hạn chế đáng kể. Thu nhập của đại bộ phận dân cư tăng lên đủ đảm bảo cho chi dùng hàng ngày người dân bắt đầu nghĩ đến tương lai của họ và con cái. Điều này càng trở lên cần thiết bởi vì trong nền kinh tế trường luôn tồn tại một số rủi do ảnh hưởng đến thu nhập và sức khoẻ của người lao động do đó cũng ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động và cả gia đình họ, ví dụ như: mất viêc làm, tai nạn gây thương tật làm mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn. Người chủ gia đình, chủ doanh nghịêp bị chết bất ngờ làm mất đi khoản thu nhập chính cho gia đình họ, thiệt hại kinh tế lớn cho cơ quan họ như vậy cuộc sống người lao động có vẻ rất bấp bênh phát sinh nhu cầu bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ. Hoạt động can thiệp có hiệu quả của nhà nước vào viêc kiềm chế lạm phát ổn định tỉ giá hối đoái đã tạo tam lí tin tưởng khi đàu tư tiền của vào sản xuất kinh doanh, gửi tiết kiệm hoặc mua bảo hiểm (hình thức bảo hiểm có thời hạn được huởng lợi nhuận từ hoạt động đầu tư). Đó là thuận lợi rất lớn góp phần vào việc nâng cao khả năng triển khai và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ.
Một thuân lợi lớn nữa phải kể đến đó là vị trí đia lí của nước ta, nước ta là nước nằm trong khu vực kinh tế năng động có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Theo số liệu của ngân hàng thế giới thì năm 1995 tốc độ tăng trưởng của một số nước như sau:
Tên nước Tốc độ tăng trưởng GDP (%)
Việt Nam 9, 5
Trung Quốc 9, 0
Thái Lan 8, 8
Singapo 8, 5
Malayxia 8, 3
Hàn Quốc 7, 3
Inđônêxia 7, 0
ĐàI loan 6, 5
Philippin 5, 4
Hồngkông 5, 0
Austraylia 3, 9
Nhật Bản 1, 1
Kể từ cuối năm 97 sang năm 98 nền kinh tế các nước trong khu vực Đông Nam á gặp rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ. Tình trạng lạm phát cao, giảm tỷ lệ đầu tư, sức sản xuất giảm cũng như tiêu dùng chững lại, các công tư tài chính ngân hàng đổ bể hàng loạt đưa nền kinh tế các nước đến bên bờ vực thẳm của sự suy thoái khó có thể gượng dậy đươc.
Do công cụ tiền tệ của ta chưa nhạy bén, khả năng chuyển đổi của đồng tiền chưa cầu tư tài chính của nước ngoài vào Việt Nam còn ít, chủ yếu là đầu tư trực tiếp cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà hàng khách sạn. Nền kinh tế nước ta cũng bị một số ảnh hưởng mặc dù không nhiều. Cụ thể ở mức đầu tư giảm, lạm phát có xu hướng tăng cao, đồng tiền Việt Nam mất giá ở mức kỷ lục, mức tăng trưởng sản phẩm quốc nội không đạt mục tiêu đề ra từ 9 % đến 10% chúng ta đang hy vọng đạt được ở mức điều chỉnh 6 %- 7%. Thu nhập dân cư có xu hướng giảm trong khi giá lương thực và các mặt hàng tiêu dùng khác có xu hướng tăng, đây là những dấu hiệu đầu tiên cho thấy sự suy giảm khả năng tiêu dùng, các hàng hoá dịch vụ, trong đó có dịch vụ bảo hiểm trong tương lai:
b. Điều kiện dân số:
Dân số là một điều kiện quan trọng khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, mỗi yếu tố như qui mô dân số, cơ cấu dân số theo độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp... có ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ người tham gia các loại hình bảo hiểm nhân thọ, hơn thế nữa nó còn ảnh hưởng đến số tiền bảo hiểm và mức phí bởi vì phí bảo hiểm nhân thọ được tính trên cơ sở độ tuổi của người tham gia, tỉ lệ chết (căn cứ vào bảng chết).
Việt Nam là một nước có điều kiện dân số tốt cho việc phát triển ngành bảo hiểm nhân thọ, với dân số khoảng trên 76 triệu người đứng thứ tư ở khu vực Châu á sau Trung Quốc, Nhật Bản, Inđonêxia, trong đó gần 80 % ở độ tuổi dưới 40 (độ tuổi lao động và xây dựng gia đình) độ tuổi mà nhu cầu tiết kiệm và đầu tư cho tương lai rất lớn. Vì vậy bảo hiểm nhân thọ là một giải pháp tốt cho mọi người dân có nhu cầu tiết kiệm, đầu tư, đề phòng khắc phục rủi ro trong tương lai.
Mặt khác theo các số liệu thống kê cho thấy độ tuổi trung bình của người dân Việt Nam đang tăng cao thuận lợi cho việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, vì khi tuổi thọ trung bình của dân cư tăng cao tỉ lệ chết ít thì số tiền phải bồi thưòng của công ty bảo hiểm ở các nghiệp vụ này giảm đặc biệt là nghệp vụ bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5-10 năm. Tuổi thọ cao cũng có nghĩa là sẽ lâu phải bồi thường cho người được bảo hiểm, có điều kiện đầu tư trung và dài hạn thu lãi cao.
c. Điều kiện tâm lí:
Việt Nam là một nước chịu ảnh hưởng lớn của văn hoá truyền thống phương Đông, mô hình gia đình ba thế hệ còn tồn tại khá phổ biến, quan niệm về đạo đức, hiếu nghĩa rất quan trọng. Đi đôi với nó là sự quan tâm của các thành viên trong gia đình đến tương lai cuộc sống của người thân. Thường thì trong gia đình cha mẹ rất lo lắng cho sự học hành, an sinh lập nghiệp của con cái lúc trưởng thành thêm vào đó tâm lí của người Việt Nam là không muốn trở thành gánh nặng đối với con cái lúc tuổi già đau yếu và khi qua đời nên mọi người tuỳ theo điều kiện của mình thường dự trữ một khoản tiền hoặc bất động sản nhất định để lo liệu cho các việc hệ trọng trong tuơng lai.
Những điều kiện tâm lí như vậy rất thuận lợi cho việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ vì mục đích tác dụng của nó rất phù hợp nguyện vọn của mọi người và giải toả sự lo lắng của họ. Tuy nhiên còn có một vấn đề khó khăn đối với việc mở rộng qui mô phát triển bảo hiểm nhân thọ đó là tâm lí e ngại, mê tín về sự xúi quẩy khi nói đến cụm từ “tai nạn” “rủi ro “, ”chết người” trong hợp đồng. Nếu khắc phục được những khó khăn, tìm ra mô hình triển khai phù hợp với các điều kiện chủ quan, khách quan thì sự phát triển của bảo hiểm nhânthọ chỉ còn là vấn đề thời gian.
d. Điều kiện tâm lý và trình độ quản lí
Với môi trường pháp lí đang được hoàn thiện với mạng lưới chi nhánh khắp các tỉnh thành phố trong cả nứơc với đội ngũ cán bộ trẻ năng động có trình độ có kinh nghiệm qua triển khai các ngiệp vụ bảo hiểm trước đó. Với mối quan hệ rộng khắp với các tỉnh thành, ngành và đội ngũ cộng tác viên có chuyên môn chuyên sâu thuộc các ngành, lĩnh vực. Bảo việt đang có thế mạnh to lớn trong triển khai bảo hiểm nhân thọ vì đây là một thị trường tiềm năng, được nhà nước cho độc quyền kinh doanh, miễn thuế VAT và thực tế cũng đã hứa hẹn những kết quả rực rỡ.
II. Thực tiễn triển khai bảo hiểm nhân thọ ở việt nam hơn hai năm qua:
Ngày 22/6/96bộ tài chính ban hành nghị định 281/TC/TCNHg về việc triển khai bảo hiểm nhân thọ. Bảo Việt là công ty bảo hiểm đầu tiên được triển khai nghiệp vụ này với hai sản phẩm bảo hiểm chính là:
+Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn 5 năm, 10 năm
+Chương trình bảo hiểm trẻ em (chương trình an sinh giáo dục)
1. Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn.
Về cơ bản nội dung và tính chất của bảo hiểm sinh mạng có thời hạn giống như đã trình bày ở trên, ở phần này bổ sung thêm một số qui định trên thưc tế như sau:
-Đối tượng của bảo hiểm sinh mạng có thời hạn là những người ở độ tuổi 18-60
-Số tiền bảo hiểm do người mua lựa chon trong khoảng từ 5-30 triệu
-Phí bảo hiểm phụ thuộc vào: số tiền bảo hiểm, thời hạn hợp đồng, tuổi của người tham gia.
Trường hợp người tham gia (người được bảo hiểm)bị chết trong thời hạn hợp đồng thì người thừa kế hợp pháp hoặc người được chỉ định trong hợp đồng sẽ nhận được một khoản tiền bảo hiểm từ phía công ty bảo hiểm nhân thọ.
-Nếu hết hạn hợp đồng mà người được bảo hiểm còn sống thì người tham gia đuợc hoàn trả toàn bộ số tiền.
-Nếu người được bảo hiểm bị chết không phải do nguyên nhân tai nạn mà hợp đồng chưa được một năm thì công ty bảo hiểm sẽ trả 80 % số phí đã đóng.
-Trường hợp người bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn trong thời hạn hợp đồng thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường số tiền theo hợp đồng sau đó người được bảo hiểm sẽ không phải đóng phí và hợp đồng vẫn được tiếp tục duy trì đến hết hạn hợp đồng.
2. Chương trình BH trẻ em (bảo đảm cho trẻ em đến tuổi trưởng thành)
-Đối tượng bảo hiểm là trẻ em từ 1-13 tuổi
-Người tham gia là bố mẹ ông bà hoặc ngườ đỡ đầu từ 18-60 tuổi
-Số tiền bảo hiểm do người mua lựa chọn từ 3-50 triệu
-Phí BH phụ thuộc vào: số tiền bảo hiểm, tuổi của người tham gia bảo hiểm, tuổi của trẻ em.
-Phí bảo hiểm không đổi và được nộp định kỳ theo tháng, quí, năm.
- Quyền lợi của người tham gia bảo hiểm
+Khi trẻ em đến tuổi trưởng thành (18) bảo hiểm nhân thọ sẽ trả số tiền cam kết trong hợp đồng.
+Nếu trẻ em bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, bảo hiểm nhân thọ sẽ ngừng thu phí và trả trợ cấp mỗi năm bằng 1/4 số tiền bảo hiểm đến năm trẻ em tròn 18 tuổi.
+Nếu trẻ em không may bị chết, bảo việt nhân thọ sẽ hoàn lại 80 % số phí đã nộp.
+Nếu người tham gia bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn Bảo Việt sẽ ngừng thu phí bảo hiểm và hợp đồng vẫn có hiêụ lực
+Ngoài tiền bảo hiểm người tham gia còn được hưởng lãi từ hoạt động đầu tư..
+Trong thời hạn bảo hiểm khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực từ 2 năm trở lên do điều kiện tài chính ngừng đóng phí (huỷ hợp đồng) hoặc tính giảm số tiền bảo hiểm.
3. Kết quả triển khai của BVNT
Nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ được triển khai từ ngày 22/6/1996 chỉ với hai loại hình bảo hiểm trên sau nửa năm đến cuối năm 96 tổng số hoạt động ký kết đã đạt 1265 hoạt động với số phí gần 1 tỷ trong đó có 579 hoạt động bảo hiểm trẻ em chiếm 48%. Cơ cấu hoạt động theo số tiền bảo hiểm là:
Số tiền bảo hiểm (triệu)
Tỉ lệ hoạt động trong tổng số hoạt động
50
5%
30
2%
20
17%
15
9%
10
36%
Dưới 5 triệu
31%
Đến cuối tháng 5/97 xét riêng loại hình bảo hiểm sinh mạng có thời hạn 5, 10 năm. Tổng số hoạt động ký kết được đã là 1297 hoạt động tăng 611 hoạt động trong vòng 11 tháng trong đó hoạt động thời hạn 5 năm là 993 hợp đồng, hoạt động thời hạn 10 năm là 304 hoạt động = 1/3 số hoạt động TH 5 năm. Thực tế này chứng tỏ rằng phần đông khách hàng còn do dự, dao động chưa thực sụ tin tưởng vào nhiệm vụ bảo hiểm mới này nên họ mới chỉ tham gia ở thời hạn ngắn (5 năm) để xem xét.
Chính vì thực tế đó đòi hỏi Công ty phải tiếp tục củng cố công tác tuyên truyền quảng cáo khai thác bán sản phẩm và giải quyết khiếu nại nâng cao uy tín của Công ty cũng như của sản phẩm.
Song song với việc số lượng hoạt động tăng lên là doanh thu phí bảo hiểm cũng tăng. Trong ba tháng: tháng 3, tháng 4, tháng 5 doanh thu đã tăng đáng kể thể hiện trong bảng sau:
Đơn vị: Đồng
Tháng
Dthu đối với HĐ 5năm
Dthu đối với HĐ 10 năm
Tổng dthu 2 loại HĐ
Tốc độ phát triển doanh thu (lần)
3
54. 127. 398
11. 799. 970
65. 867. 368
4
153. 996. 730
21. 727. 858
175. 724. 588
2. 66
5
171. 215. 871
25. 980. 660
197. 196. 531
1. 12
Kết quả trên bước đầu là rất đáng khích lệ đối với Công ty, nó thể hiện triển vọng của loại hình bảo hiểm mới này rất lớn, việc khai thác mới chỉ thoả mãn một phần rất nhỏ nhu cầu thị trường bảo hiểm trong cả nước. Hơn nữa nếu triển khai rộng ra nhiều địa bàn với đa dạng các loại sản phẩm bảo hiểm nhân thọ thì nhất định kết quả sẽ còn khả quan hơn nữa.
Trên thực tế cho thấy sự năng động, tài ngoại giao thuyết phục nắm vững tâm lý khách hàng của người khai thác là yếu tố quan trọng cho việc ký kết hợp đồng.
Theo báo cáo kết quả tổng kết tình hình kinh doanh của bảo hiểm năm 1997 thì:
Tổng doanh thu toàn tổng Công ty là 972 tỷ đồng bao gồm thu từ KDBH và KDTC
Trong đó:
BHNT
Kế hoạch HĐQT giao đvị: triệu đ
Doanh thu thực hiện (triệu đồng)
Tỉ lệ (%)
Phí bảo hiểm
5000
10. 977
219, 54
Thu hoạt động tài chính
2. 050
2. 077
101, 32
Tổng doanh thu bảo hiểm nhân thọ đạt 13. 044. 000. 000 đồng trên tổng số 37. 550 hợp đồng.
Mục tiêu năm 98 của Công ty là đạt mức tăng gấp 5 đ 6 lần so với năm 97 tuy nhiên do hậu quả khủng hoảng tài chính trong khu vực nên mục tiêu này khó có thể đạt được, mặc dù chưa có con số báo cáo cuối năm nhưng những kết quả của 6 tháng đầu năm và quý 3 năm 98 cho thấy số hoạt động và đi liền với nó là doanh thu vẫn tăng ở mức cao. So sánh với tốc độ tăng của các loại hình bảo hiểm truyền thống của Công ty thì bảo hiểm nhân thọ là loại hình có tốc độ tăng trưởng cao nhất và có triển vọng rực rỡ, hứa hẹn vị trí xứng đáng trong hệ thống các nghiệp vụ bảo hiểm ở nước ta trong tương lai.
III. Một số ý kiến nhằm thúc đẩy sự phát triển của bảo hiểm nhân thọ.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, để tồn tại, đứng vững và phát triển, bất kỳ một cơ sở sản xuất kinh doanh nào cũng phải luôn luôn tự hoàn thiện mình, tự tìm ra những điểm yếu kém để có biện pháp khắc phục, phát huy thế mạnh đang có để thích ứng với cạnh tranh nâng cao ưu thế của mình trên thương trường.
Qua thực tế triển khai loại hình bảo hiểm nhân thọ của Bảo Việt đã bộc lộ một số yếu điểm, bên cạnh đó cũng mở ra không ít những vận hội mới. Với nhận thức đứng đắn và tinh thần chịu đổi mới tương lai phát triển của bảo hiểm nhân thọ Việt Nam chắc chắn sẽ rất khả quan, góp phần làm vững mạnh ngành bảo hiểm nước nhà.
Để đẩy mạnh sự phát triển của bảo hiểm nhân thọ trong thời gian tới, theo em cần phải có sự kết hợp hoạt động của nhà nước, Bộ tài chính và Công ty bảo hiểm nhất là các cán bộ công nhân viên Công ty bảo hiểm nhân thọ một cách chặt chẽ, nhịp nhàng, và giải quyết một số vấn đề:
- Đa dạng hoá các loại hình sản phẩm bảo hiểm nhân thọ.
Với điều kiện thị trường tiềm năng còn chưa được khai thác, chưa có sự cạnh tranh từ phía các Công ty bảo hiểm nước ngoài, được sự nâng đỡ tạo điều kiện của Nhà nước và Bộ tài chính Công ty bảo hiểm nhân thọ phải nhanh chóng mở rộng thị trường bảo hiểm tăng doanh thu bằng cách đưa thêm một số sản phẩm khác của bảo hiểm nhân thọ như: Bảo hiểm trường sinh, bảo hiểm trợ cấp hưu trí, bảo hiểm tuỳ thuộc và triển khai. Lam được như vậy sẽ tăng khả năng lựa chọn của khách hàng bảo hiểm, giảm chi phí khai thác trung bình cho một hợp đồng.
Bên cạnh đưa thêm sản phẩm mới vào triển khai, Công ty còn phải liên tục đổi mới nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ của mình, đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của khách hàng, khuếch trương uy tín của mình. Chẳng hạn như việc mở rộng phạm vi quy định chế độ được hưởng thương tật toàn bộ vĩnh viễn, ngoài 6 trường hợp: cụt hai tay, mù hai mắt, cụt một tay một chân, cụt hai chân, cụt một tay mù một mắt, nên quy định thêm các trường hợp: chấn thương cột sống, chấn thương sọ não nặng.
- Tích cực đẩy mạnh thâm nhập thị trường, giúp cho mọi người dân hiểu rõ được lợi ích của bảo hiểm nhân thọ và tham gia mua bảo hiểm bằng các chiến lược.
+ Tuyên truyền quảng cáo bằng nhiều hình thức trên các phương tiện truyền thông sách báo, panô áp phích, tờ rơi...
+ Triển khai bán sản phẩm bằng các hình thức từ trực tiếp đến gián tiếp theo từng gia đình và tổ chức xã hội...
+ Thực hiện tốt các khâu giám định bồi thường xử lý khiếu nại nâng cao uy tín.
- Xây dựng một cơ cấu tổ chức toàn diện có trình độ, năng lực chuyên môn, đội ngũ cán bộ công nhân viên và các đại lý, cộng tác viên năng động sáng tạo có sức trẻ, có nhiệt tình công tác. Mở rộng mối quan hệ hợp tác trong hoạt động kinh doanh theo nhiều chiều, lấy hiệu quả kinh doanh làm thước đo đánh giá.
- áp dụng các phương tiện thông tin hiện đại: điện thoại, Fax, Internet, thư tín... vào trao đổi thông tin, tìm hiểu thị trường để ký kết hợp đồng, ứng dụng tin học vào quản lý và hỗ trợ kinh doanh.
- Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh của Công ty, tăng cường công tác dự báo và hoạch định chiến lược kinh doanh của Công ty.
- Sử dụng chế độ khen thưởng, khuyến khích vật chất tạo động lực làm việc trong đội ngũ cán bộ công nhân viên, cộng tác viên của Công ty. Gắn quyền lợi và trách nhiệm của mọi người với công việc mà mình đảm đương, duy trì bầu không khí hoà thuận, thi đua công tác giữa mọi thành viên Công ty. Tạo lập và giữ vững những mối quan hệ đối với khách hàng truyền thống, khách hàng lớn, làm tốt công tác khai thác, giám định bồi thường, đề phòng hạn chế tổn thất nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Kết luận
Trên cơ sở phân tích lý thuyết và kết quả thực tiễn thu được về loại hình bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam bước đầu chúng ta có thể nhận xét rằng bảo hiểm nhân thọ đã trải qua những thời kỳ khó khăn nhất. Được sự quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ cả về vật chất lẫn chuyên môn từ phía nhà nước, bộ tài chính và tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, với sự cố gắng không nhỏ của các cán bộ công nhân viên Công ty Bảo Việt Nhân thọ, công ty đã thu được những kết quả xứng đáng, là nguồn động viên cổ vũ to lớn đối với mọi thành viên trong Công ty. Mặc dù còn không ít những khó khăn mới nảy sinh nhưng với những tiền đề kinh tế xã hội, kỹ thuật thuận lợi cùng với đà đi lên của cả nước bảo hiểm nhân thọ Việt Nam hứa hẹn sự tồn tại và phát triển vững vàng trong cơ chế thị trường góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu chiến lược của ngành và Nhà nước, tiết kiệm đầu tư cho sản xuất, ổn định nền kinh tế chống lạm phát, ổn định sản xuất kinh doanh, ổn định đời sống mỗi gia đình, chăm lo cho thế hệ tương lai, xây dựng xã hội Việt Nam ngày càng văn minh và hạnh phúc.
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0133.doc