I/ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA LỊCH SỬ TRIẾT HỌC.
1 - Triết học .
Theo quan niệm mác-xít thì “Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là khoa học nghiên cứu về những con đường chung nhất, những nguyên tắc chung nhất, những biện pháp chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới”.
Triết học là một trong các hình thái ý thức xã hội ra đời khoảng thế kỷ VI tcn, là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, xét đến cùng triết học bị quy định bởi đời sống vật chất của xã hội.
Sự phát triển của các tư tưởng triết học bị quy định bởi sự phát triển của nền sản xuất vật chất và phải phụ thuộc vào sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội. Triết học cũng chính là thế giới quan của những giai cấp hoặc tập đoàn xã hội nhất định.
Tuy vậy, triết học và sự phát triển của lịch sử triết học vẫn luôn có tính độc lập tương đối với đời sống vật chất của xã hội. Bởi lẽ, triết học luôn có nhiều mối liên hệ, sự giao lưu tư tưởng khác nhau.
Trong một phạm vi không gian, thời gian nhất định, sự giao lưu đó vượt ra khỏi sự ràng buộc trực tiếp của đời sống vật chất của xã hội như các vấn đề liên quan đến: Nguồn gốc nhận thức của triết học; Nguồn gốc xã hội của triết học; Lôgic nội tại của các khuynh hướng và hệ thống triết học (Duy vật, duy tâm, biện chứng, siêu hình); Mối quan hệ giữa triết học với các khoa học, với các tư tưởng khác.
Một tri thức được gọi là triết học phải bao gồm hai yếu tố: Nhận thức: Phải thể hiện được một sự hiểu biết nhất định (nếu không nói là sự hiểu biết uyên thâm) về thế giới. Nhận định: Phải tỏ rõ được thái độ, hành vi, cách cư xử, ứng xử, đối xử của con người với thế giới.
Đối tượng nghiên cứu của triết học là những con đường chúng nhất, những nguyên tắc chung nhất và những biện pháp chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới.
84 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2069 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tư tưởng triết học Việt Nam 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t tại tâm” ấy qua các dòng thiền tông, tịnh độ tông, kể cả mật tông Trung Quốc truyền vào Việt Nam đều có. Nhưng ở các phái của thiền tông “Phật tại tâm” đều có cách thức giống nhau là “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”, tức không nói cũng hiểu, không giảng cũng thông, không lời, không câu, không cảnh nào cả, tự tâm trong sáng ngộ về quốc độ”.
Đến thời Trần thì quan niệm “Phật tại tâm” được đưa lên ở mức cao hơn nữa là coi “trong con người vốn sẵn tính Phật”. Vốn sẵn tính Phật nên Tuệ Trung thượng sỹ trả lời băn khoăn của em gái mình về việc ông ăn mặn: “Phật là Phật, anh là anh, anh chẳng cần Phật, Phật chẳng cần anh. Cô chẳng nghe các Phật cổ đức nói Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát đó sao!”.
Vốn sẵn tính Phật nên ông cũng quan niệm: “ăn cỏ hay ăn thịt là các loài khác nhau của sinh vật. Điều đó cũng tự nhiên như mùa xuân đến thì cây cỏ mọc lên. Như vậy, sao coi là tội hay phúc trong việc ăn cỏ hay ăn thịt được”. Con người vốn sẵn tính Phật nên không cần chấp ở ăn chay, ăn mặn, không cần diệt dục, chỉ cần tiết dục làm cho tâm hồn vô tư thanh tịnh tức sẽ thành Phật. Cũng vốn sẵn tính Phật mà Trần Nhân Tông mới “cư trần lạc đạo”, cứ sống tự nhiên với đời, đói thì ăn, mệt thì ngủ, báu vật sẵn ở trong nhà là sẵn tính Phật, vô tâm thì còn hỏi chi thiền: “Bụt ở trong nhà chẳng phải tìm xa”:
“Ở đời vui đạo cứ tuỳ duyên
Hễ đói thì ăn mệt ngủ liền
Báu sẵn trong nhà đâu kiếm nữa
Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.”.
Như vậy, thời kỳ độc lập dân tộc cho đến thế kỷ XV, sự hưng thịnh nhưng lại pha tạp những yếu tố Mật giáo có sự nhấn mạnh và phát triển quan niệm “Phật tại tâm” của Phật giáo, một mặt là do bấy giờ các phái Phật giáo đều tích cực gây ảnh hưởng đến chính trị và xã hội để củng cố địa vị của Phật giáo trong đời sống xã hội; Mặt khác, nó là một phương diện phản ánh thời kỳ lịch sử Việt Nam với đặc điểm: Đất nước có chủ quyền; Phật giáo đã như là tín ngưỡng truyền thống của người Việt; Đất nước thanh bình nhờ những chiến thắng oanh liệt nhưng ngay sau đó triều đình lại suy thoái, hỗn chiến trên dưới giữa các thế lực Trung ương và địa phương sinh ra rối loạn, nhiễu nhương. Nhìn chung, ở giai đoạn này Phật giáo ở địa vị độc tôn trong sự tăng dần của ảnh hưởng Nho giáo. “Phật tại tâm” của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là sự phát triển đến hoàn thiện “Phật tại tâm” của Phật giáo.
Từ thế kỷ XIV trở đi Nho giáo và Phật giáo đều có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội nói chung, đối với sự tồn tại và phát triển của các vương triều nói riêng.
2.5. “DÂN LÀ GỐC NƯỚC” TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM
Từ cổ đại, với truyền thuyết Thánh Gióng, thì “dân là gốc” ở Việt Nam đã được hình thành với tư cách là truyền thống quý báu của dân tộc.
Tiếp thu văn hóa Trung Quốc, thì “dân là gốc” xuất hiện đầu tiên trong tư tưởng của Mạnh tử, theo Nho giáo truyền vào Việt Nam.
Các Nho sỹ Việt Nam, các lãnh tụ của Việt Nam đã tiếp thu và phát triển triết lý “dân là gốc” một cách xuất sắc trọng lịch sử Việt Nam.
Điểm nổi bật của Trần Quốc Tuấn về “dân là gốc” là tư tưởng “khoan thư sức dân để là kế sâu gốc bền rễ”. “Khoan thư sức dân” ở đây được hiểu là. Đoàn kết với dân, tổ chức dân, dưỡng dân.
Tức là chủ trương dựa vào dân để đánh giặc, là cho mỗi người dân trở thành một chiến sĩ tham gia vào cuộc kháng chiến chông quân xâm lược. Khi đánh giặc phải dựa vào dân, được lòng dân, tổ chức tập hợp được dân, tin dân mà giữ nước, tin dân mà đánh giặc. Do vậy, chủ trương của ông khi thấy quân giặc đến nhà thì tất cả đều phải đánh giặc, quan lính lòng dạ phải như cha con.
Trong tất cả các tư tưởng của ông, thì ông cho là được lòng dân mới là tất cả, dân là gốc nước. Ông nói: “lòng dân mà không chịu, vua tôi mà không đồng lòng, anh em mà không hòa mục, cả nước mà không góp sức thì mất nước là việc ngày một ngày hai”.
Theo Trần Quốc Tuấn, dân là chính trị, đường lối chính trị phải lấy giữ nước là gốc. Mọi chiến lược của chiến thuật phải căn cứ ở lợi ích của dân, thắng hay thua, tiến lên hay lùi bước đều phỉa căn cứ vào lợi ích của dân. Chính sách này biểu thị sự quan tâm của nhà nước với đối với sản xuất và đời sống của nhân dân, do đó mà phải tranh thủ sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân.
Có thể nói dưới con mắt của Trần Quốc Tuấn, thì nhân dân chính là nơi chứa chất tiềm lực kinh tế và quốc phòng bảo đảm cho sự vững chắc của nền dộc lập và chủ quyền của đất nước.
Không những nhận thấy vai trò của quần chúng nhân dân đối với dất nước, Trần Quốc Tuấn còn thể hiện sự nhạy bén của mình khi nhận thấy vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đối với sự phát triển tài năng của những vị anh hùng xuất chúng. Ông ví. “Chim hồng hộc bay được cao là nhờ sáu cái lông cánh, nếu không có sáu cái lông cánh ấy thì cũng như chim thường thôi”. Theo ông những vị anh hùng xuất chúng sở dĩ làm nên nghiệp lớn là nhờ sự ủng hộ và giúp đỡ của quần chúng. Nếu thiếu sự giúp đỡ và ủng hộ ấy thì không có được những anh hùng xuất chúng như vậy.
Với Nguyễn Trãi, tư tưởng “lấy dân làm gốc” là sự vận dụng tài tình tư tưởng “Nhân nghĩa” vào trong lĩnh vực chính trị. “Dân là gốc” của Nguyễn Trãi, thể hiển lòng yêu nước thương dân sâu sắc, thiết tha của một anh hùng dân tộc. Ông đã tạo ra một sức mạnh khá đặc biệt trong lịch sử của các cuộc chiến tranh, đó là sử dụng tư tưởng “Nhân nghĩa” để đánh địch.
Tư tưởng “Dân vi quý” của Nguyễn Trãi: nhân dân là nỗi lòng thương xót, niềm tin yêu, là sức mạnh cuồn cuộn như nước triều dâng, nhân dân là định hướng cho toàn bộ tư tưởng của Nguyễn Trãi, đó phải là “An dân”,”Điếu dân”. Hai vế đầu tiên trong “Bình ngô đại cáo” viết.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân cứu nước trước lo trừ bạo”
đã nói lên tư tưởng vì nước, vì dân của ông. Hết lòng thương dân, Nguyễn Trãi đã thực sự “Dân vi bản”.
Quan niệm về “Dân” của Nguyễn Trãi rất rộng. Nó là toàn thể nhân dân lao động, bao gồm cả “Dân đen”, “Con đỏ”, “Manh lệ tứ phương”. Với lòng thương dân sâu sắc, trong bài “Bình Ngô đại cáo” ông đã thể hiển lòng căm phẫn giặc Minh, kể lên tội ác tày trời của giặc:
“Thui con đen trên ngọn đỏ hung tàn.
Hãm con đỏ dưới hồ tai ương”
Nguyễn Trãi luôn khẳng định sức mạnh của dân: “Dân là nước, nước có thể lật thuyền, nước có thể chở thuyền”. Vì thế, ông luôn thấy mình phải có trách nhiệm “Nuôi dân”, “Chăm dân”, “Huệ dân”.
Theo ông, thành hay bại, trị hay loạn, tất cả đều ở ý dân, lòng dân. Do vậy, mọi chủ trương, mọi đường lối của triều đình đều phải căn cứ vào lòng thương dân, đều phải căn cứ vào lòng người mà hoạch định.
Ở Nguyễn Trãi, “Nhân” không chỉ là lòng trắc ẩn mà còn vì độc lập của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì hòa bình của đất nước. Lòng nhân ái của Nguyễn Trãi không chỉ là để đối xử với người dân của nước mình, mà ngay cả đối với những kẻ lầm đường lạc lối, đối với kẻ thù chủ trương của ông không phải là trừng phạt mà là giáo hóa họ.
Theo Nguyễn Trãi “Nhân nghĩa” là tiêu chí để phân biệt kẻ nhân với tiểu nhân, người yêu nước với kẻ bán nước, người vì dân với kẻ không chăm lo lợi ích cho dân.
Nguyễn Trãi rất ghét chiến tranh, ông coi chiến tranh là việc ghê tởm, nguy hiểm, làm tổn hại đến sinh mạng của nhiều người. Với Nguyễn Trãi, yêu hòa bình là nét tiêu biểu. Nó thể hiện trong nhiều chiến lược, sách lược đánh giặc giữ nước của ông. Trong đường lối chính trị của Nguyễn Trãi mang đậm chủ nghĩa nhân đạo. Nếu như trong chiến tranh, ông lập luận đanh thép với giặc Minh rằng “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn. Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Thì đến thời bình, ông chủ trương “Đem dân mựa nước mất lòng dân” (trong coi dân đừng để mất lòng dân). - Quốc âm thi tập.
“Dân là gốc” trong tư tưởng Phan Bội Châu là sự khẳng định tầm quan trọng, vai trò của nhân dân trong một quốc gia. “Theo công pháp vạn quốc đã khẳng định, được gọi là một nước thì phải có nhân dân, đất đai, có chủ quyền, trong ba cái ấy thì nhân dân là quan trọng nhất. Không có nhân dân thì đất đai không thể còn, nhân dân mất thì nước mất”. – (Việt Nam quốc sử khảo).
Phan Bội Châu chủ trương xây dựng và thực hiện xã hội dân quyền, xóa bỏ hẳn quân quyền. Thực hiện việc quản lý xã hội theo đường lối đức trị, nhấn mạnh giáo dục là chủ yếu mà ít cần phải dùng đến pháp luật. Trong xã hội đó sẽ thực hiện bầu cử dân chủ để lập ra các nghị viện đại biểu cho ý chí của nhân dân. Các quyền tự do, bình đẳng sẽ được đảm bảo.
Phan Bội Châu tin rằng, trong một nước có quan hệ huyết thống với nhau, bởi vậy chức năng đối nội của Nhà nước tập trung vào việc giáo dục nhân dân, và do đó pháp luật chỉ giữ vai trò rất phụ, bổ sung cho giáo dục. Chính vì vậy, ông đã sáng tạo ra khái niệm “Viện cảm hóa” mà không dùng khái niệm “Tòa án”. Trong cái gọi là “Viện cảm hóa” ấy cũng sẽ có quan tòa, nhưng các quan tòa này lại do ngành giáo dục cử ra.
Phan Bội Châu nhấn mạnh đến các chuẩn mực đạo đức của xã hội, ông đưa ra các khái niệm “Tự do”, “Bình đẳng” nhưng được xác định là sự gắn bó với đạo đức và giáo dục chứ không phải gắn bó với pháp luật. Theo ông, bình đẳng có nghĩa là tôn trọng người khác và đặt mình lên trên người khác.
Con người lý tưởng mà Phan Bội Châu đưa ra đó là: Khi ở trong gia đình phải là một người con đúng Hiếu, để đối với đất nước thì vua tôi ai có chức phận của người nấy. Tất cả chỉ có một mục đích là cùng nhau gánh vác việc nước. Đối với xã hội phải có sự thành thật biết yêu người và kính trọng mọi người.
Phan Bội Châu khẳng định rằng: vua là do dân kén chọn lên. Vì vậy, vua là ngọn dân là gốc. Vua mà không ra gì thì dân có quyền gạt bỏ. Dân sẽ kén chọn những người hiền làm việc lớn và những người có năng lực, tài giỏi làm việc nhỏ. Chính trên cơ sở lý luận đó, Phan Bội Châu cho rằng “ Chính trị dân chủ cộng hòa, chính là ý trời, lòng dân”. Và theo ông, con người cần phải phấn đấu xây dựng một xã hội, mà trong đó người ta bàn nói với nhau chỉ là một mực tin thật, người làm lụng với nhau chỉ một cách hòa bình. Rằng trong xã hội đó bao nhiêu người già, tất thảy người làm cha, mẹ người mà chẳng ai có cha mẹ riêng bao nhiêu, người trẻ tất thảy là người làm con, mà chẳng ai có con riêng của mình. Bởi thời thế người già là cha mẹ chung, mà bản thân mình cũng là thân chung của xã hội. Vậy nên người già có xã hội nuôi chung, mà ai nấy đều có chốn nương cậy, sẽ đến ngày tuổi chết. Hễ người cường tráng tất thảy có công việc làm mà đóng góp một phần tử trong xã hội là những người thơ trẻ, tất thảy nhờ xã hội nuôi chung cho đến ngày khôn lớn....”.
Hồ Chí Minh, suốt cả cuộc đời vì “Độc lập, tự do, hạnh phúc” của nhân dân. Người đã nói “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Khát vọng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ khát vọng dân tộc, dân chủ của nhân dân ta trong mấy ngàn năm lịch sử. Có thể nói, Hồ Chí Minh là người đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, đã thống nhất hai phạm trù “độc lập” và “tự do”.
Phạm trù “Dân” của Hồ Chí Minh rất rộng. “Dân” ở đây được gọi hết sức thân thiết, trìu mến là “Đồng bào”. Người chỉ rõ “Muốn cách mạng thành công thì phải coi dân là gốc”, và nó trở thành tư tưởng cơ bản trong thời chiến cũng như thời bình của Đảng và Nhà nước ta.
Khẳng định “dân là gốc”, nên Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng Nhà nước ta thành “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”.
Ngay từ 1927, trong “Đường cách mệnh”, Người đã chỉ rõ: “Chúng ta đã hy sinh làm kách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cho cách mệnh rồi thì quyền giao cho quần chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc” Sđd, tập 2, trang 270.
.
Sau khi nước ta giành được độc lập, Người khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều của dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương đều do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” Sđd, tập 5, trang 698
.
Nhà nước của dân tức là tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân, những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia đều đưa nhân dân phúc quyết. Nhân dân bầu ra chính quyền, đồng thời nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, nếu họ tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Trong nhà nước của dân thì dân là chủ, cán bộ là công bộc của dân.
Nhà nước do dân, là nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mnh; nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động; nhà nước đó do dân phê bình, xây dựng và giúp đỡ. Tất cả các cơ quan nhà nước phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của dân.
Nhà nước vì dân, là một nhà nước thực sự của dân, do dân. Đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong nhà nước vì dân, tất cả cân bộ đều là công bộc của dân, việc gì lợi cho dân thì cố hết sức làm, việc gì hại cho dân thì hết sức tránh.
Để thực hiện “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”, Hồ Ch Minh luôn nhấn mạnh, là người phục vụ, cán bộ nhà nước đồng thời là người lãnh đạo, người hướng dẫn của nhân dân. Người nói: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường” Sđd, tập 4, trang 56.
. Trong Di chúc, Người căn dặn, mỗi cán bộ, đảng viên phải xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Là đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Là người lãnh đạo thì phải trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa, trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Người thay mặt dân phải đầy đủ cả đức lẫn tài.
Khi nói Nhà nước của ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân, không có nghĩa là nhà nước phi giai cấp, siêu giai cấp. Mà Nhà nước của ta phải dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta đước thể hiện:
- Do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đảng lãnh đạo bằng những chủ trương, đường lối, thông qua Quốc hội, Chính phủ và các cấp, các ngành của Nhà nước. Đảng không bao biện, làm thay Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra.
- Nhà nước phải định hướng đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến.
- Nguyên tắc tổ chức cơ bản của Nhà nước là tập trung dân chủ. “Nhà nước có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội” Sđd, tập 9, trang 592.
.
Dân chủ luôn quan hệ với chuyên chính. Người nói: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại... Dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ” Sđd, tập 8, trang 279-280.
.
Bản chất giai cấp công nhân không làm triệt tiêu tính nhân dân, tính dân tộc, mà thống nhất, hài hòa trong Nhà nước đại đoàn kết dân tộc.
Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc là ở chỗ:
- Nhà nước ta là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ với sự hy sinh xương máu của bao thế hệ cách mạng.
- Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng.
- Nhà nước ta phải đảm nhiệm nhiệm vụ lịch sử tổ chức cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc để bảo vệ thành quả của cách mạng.
“Nhà nước của dân, do dân, vì dân”, phải là một Nhà nước hợp hiến. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ (3/9/1945), một trong sáu nhiệm vụ cấp bách do Hồ Chí Minh đề ra là “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu” Sđd, tập 4, trang 8.
để sớm có một nhà nước hợp hiến do dân bầu ra.
Mặc dù khó khăn dồn dập do thù trong giặc ngoài gây ra, cuộc Tổng tuyển cử dân chủ đầu tiên trong lịch sử dân tộc đã thành công tốt đẹp. Đây là chính phủ hợp hiến đầu tiên do đại biểu của nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong giải quyết mọi công việc của Việt Nam.
Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật luôn đi đôi với nhau. Không thể có dân chủ ngoài pháp luật, pháp luật là bà đỡ của dân chủ. Mọi quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp và pháp luật phải đảm bảo quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế.
“Nhà nước của dân, do dân, vì dân” phải là nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh mẽ. Xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Trong Yêu sách 8 điểm, Người đòi thực dân Pháp phải bải bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh và thay thế bằng đạo luật. Trong Việt Nam yêu cầu ca, Người khẳng định vai trò của pháp luật: Trăm điều phải có thần linh pháp quyền.
- Hồ Chí Minh là người có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp của Nhà nước ta. Ở cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, đã ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác.
- Vừa chăm lo hoàn thiện Hiến pháp và Pháp luật nước ta, Người vừa hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó.
Theo Người, công bố luật chưa đủ, cần phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt. Người coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức lăm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực công dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào các công việc của Nhà nước, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức.
- Hồ Ch Minh luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của Chính phủ, đồng thời không ngừng nhắc nhở mọi cán bộ phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật.
Để “Nhà nước của dân, do dân, vì dân” có một Nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, có hiệu lực, phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
- Từ người nô lệ thành người làm chủ, ta thiếu nhiều nhân tài quản lý. Do đó, Người quyết định đẩy mạnh việc đào tạo nhân tài quản lý. Người vừa mạnh dạn sử dụng những viên chức, quan lại đã được đào tạo về nghiệp vụ và kỹ thuật hành chính dưới chế độ cũ; Người vừa đăng báo tìm người tài đức, kêu gọi người tài ra giúp nước.
Trong việc dùng cán bộ, Người nhắc nhở phải tẩy rửa óc bè phái.
Để đảm bảo công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ nhà nước, Người ban hành Quy chế công chức xác định: Công chức Việt Nam là những công dân Việt Nam giữ một nhiệm vụ trong bộ máy nhà nước của chính quyền nhân dân dưới sự lãnh đạo tối cao của Chính phủ. Công chức phải qua một kỳ thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính.
Nội dung thi tuyển trong điều kiện lúc ấy là một yêu cầu cao đối với công chức. Nhưng nó thể hiện tầm nhìn xa, tính chính quy, hiện đại, tinh thần công bằng, dân chủ của Hồ Chí Minh trong xây dựng nền móng cho pháp quyền Việt Nam.
- Trong vấn đề cán bộ, điều quan tâm thường xuyên của Hồ Chí Minh là phẩm chất đạo đức và tinh thần phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Người luôn nhắc nhở cán bộ nhà nước phải thân dân, gần dân, trọng dân, không được lên mặt quan cách mạng với dân, phải lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của dân. Chỉ có trí tuệ và lòng dân mới có thể làm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ và sáng suốt. Những yêu cầu Người nêu ra với xây dựng đội ngũ cán bộ là: Tuyệt đối trung thành với cách mạng; Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn nghiệp vụ; Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân; Dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”.
“Nhà nước của dân, do dân, vì dân” phải là Nhà nước trong sạch vững mạnh. Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả là mối quan tâm thường xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ những ngày đầu mới có chính quyền. Người thường nhấn mạnh hai nội dung cơ bản sau đây:
- Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức.
Là một nhà chính trị lão luyện và sáng suốt, kế thừa được những kinh nghiệm lịch sử quý báu trong văn hóa trị nước của loài người, Hồ Chí Minh là một mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật.
Trước hết, chính trị Hồ Chí Minh là một nền chính trị đạo đức, và là đạo đức cao nhất: “Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc” Sđd, tập 9, trang 285.
. Người thường nhắc nhở: “Nước lấy dân làm gốc”.
Giữa đạo đức và pháp luật vốn có mối quan hệ khăng khít với nhau. Pháp luật bao giờ cũng là những biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức nào đó. Vì thế, Hồ Chí Minh nêu khẩu hiệu Cần, Kiệm đi liền với Liêm, Chính.
Đi đôi với giáo dục đạo đức, Người kịp thời ban hành pháp luật. Nhưng ban hành sắc lệnh là chuyện dễ, tổ chức đưa nó vào cuộc sống, làm cho nó có hiệu lực trong thực tế mới là chuyện khó hơn nhiều.
Người kêu gọi nhân dân tham gia giám sát công việc của Chính phủ. Chính phủ phải làm gương để chống tệ tham ô, quan liêu, ăn hối lộ... Nếu làm gương không xong thì dùng pháp luật mà trị. Trong thi hành pháp luật, Người luôn chú ý đảm bảo tính vô tư, khách quan, công bằng, bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật.
Hồ Chí Minh rất đề cao phép nước: “Nhân trị” đi đôi với “pháp trị”. Người hết lòng yêu thương, dạy bảo cán bộ. Nhưng kẻ nào lạm dụng tình thương của Người, làm hại đến tính mệnh và tài sản của nhân dân, làm mất thanh danh, uy tín của Đảng và Nhà nước, thì dù họ có là cán bộ cách mạng kỳ cựu đi nữa vẫn phải được đem ra xét xử theo đúng pháp luật (Vụ án Bộ trưởng Kinh tế Chu Bá Phượng, vụ án Đại tá Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu).
- Kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Người nói: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến... Nó làm hỏng tinh thần trong sạch, và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiêm, liêm, chính... Tội ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám” Sđd, tập 6, trang 490.
. Người cũng nói: “Nếu chiến sỹ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm mà quên chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình” Sđd, tập 6, trang 495.
.
Về nguyên nhân của nạn nội xâm, Người chỉ ra, một phần do sơ hở của cơ chế quản lý kinh tế, do thiếu nghiêm minh trong xét xử và thi hành án, do công tác quản lý, giáo dục còn yếu kém, do nạn phe phái, bao che cho nhau, v.v. Nhưng có một nguyên nhân quan trọng không thể bỏ qua là bệnh quan liêu. Người nói: “Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy tờ, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn... thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững... Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham nhũng, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham nhũng, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu” Sđd, trang 489-490.
.
Đặc quyền, đặc lợi: Đó là sa vào chủ nghĩa cá nhân. Phải tẩy trừ những thói cậy mình là người cơ quan chính quyền để vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá nhân mình.
Tham nhũng, lãng phí, quan liêu: là ba thứ giặc nội xâm còn nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm, là đồng minh của thực dân, phong kiến. Tội ấy cũng nặng như tội Việt gian, mật thám. Chính thế, ngày 27/11/1945, Người ký sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ với mức từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai và phải nộp gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Ngày 26/1/1946, Người ký sắc lệnh nói rõ tội tham nhũng, trộm cắp của công là tội tử hnh.
Lãng phí được Người xác định là lãng phí sức lao động, thời giờ và tiền của.
Bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham nhũng, lãng phí. Muốn quét sạch tham nhũng, lãng phí trước hết phải tẩy sạch bệnh quan liêu.
Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo: gây mất đoàn kết, gây rối cho công tác. Người kịch liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu của mình không tài năng vào chức này chức nọ. Trong chính quyền, còn chia rẽ, không biết làm cho mọi người hoà thuận với nhau. Ngoài cậy thế, có người còn kiêu ngạo tưởng mình là thần thánh, vác mặt quan cách mạng làm mất uy tín của Chính phủ.
2.6. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.6.1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1 Bối cảnh lịch sử của sự ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trên thế giới chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, chủ nghĩa đế quốc. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa phương Tây, lúc này mâu thuẫn diễn ra gay gắt và quyết liệt nhất là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đề quốc với các dân tộc thuộc địa…
Ở phương Đông, tư tưởng Minh Trị, với cuộc cách mạng Duy Tân tại Nhật Bản (1868); tư tưởng Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, với “Tân Tân và Tân Văn”, Tôn Trung Sơn với chủ nghĩa “Tam dân” ở Trung Quốc,.. đã chứng minh thời đại đế quốc chủ nghĩa, phương Đông đang đi theo con đường mà phương Tây đã đi cách đây hàng trăm năm.
Tất cả diễn biến tình hình xã hội trên của thế giới, báo hiệu một thời kỳ cách mạng đã tới. Mác và Ăngghen là những người tiên phong soi đường bằng lý luận cho cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn cầu.
Sau khi Mác và Ăngghen qua đời, Lênin là người kế tục sự nghiệp của hai ông và phát triển nó trong điều kiện lịch sử mới của mình.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược, thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành hai cuộc khai thác thuộc địa ở Việt Nam. Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến tình hình xã hội Việt Nam, làm cho sự phân hóa giai cấp diễn ra sâu sắc, mạnh mẽ. Bên cạnh những tầng lớp, giai cấp cũ như địa chủ phong kiến, nông dân,.. đã xuất hiện thêm các tầng lớp, giai cấp mới như tư sản, tiểu tư sản, vô sản, trí thức... và trong từng giai cấp lại có sự phân hóa thành nhóm giai cấp.
Trong thời kỳ này, ở Việt Nam nhiều con đường cứu nước, cứu dân nối tiếp nhau ra đời với nhiều khuynh hướng khác nhau: Tư sản, vô sản, tiểu tư sản và phong kiến…
Những điều kiện đó đã tác động trực tiếp tới thanh niên Nguyễn Tất Thành, thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, đến được với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, đến được với chủ nghĩa Mác-Lênnin, tìm thấy con đường cứu nước của cách mạng Việt Nam và cũng từ đó hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá lên CNXH ở Việt Nam.
2 Những cơ sở lý luận chủ yếu hình thành tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước truyền thống là chuẩn mực cao nhất, đứng đầu những giá trị văn hoá, tinh thần của dân tộc Việt Nam, đó là hành trang giá trị nhất của Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống này có các đặc trưng tiêu biểu:
Thứ nhất, Việt Nam là một dân tộc yêu hòa bình, ghét chiến tranh, luôn có quan hệ tốt với các dân tộc.
Thứ hai, Việt Nam là một dân tộc giàu lòng nhân ái cao cả.
Thứ ba, Việt Nam là một dân tộc bất khuất chống giặc ngoại xâm, quyết giữ gìn độc lập dân tộc.
Thứ tư, Việt Nam là một dân tộc có sự cố kết cộng đồng dân tộc cao.
Thứ năm, Việt Nam là một dân tộc cần cù, thông minh, sáng tạo trong sản xuất, và học tập.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người con ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng của Người trước hết bắt nguồn từ các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời Người là minh chứng tuyệt vời cho những nét truyền thống tiêu biểu ấy của dân tộc Việt Nam. Triết lý xã hội chủ nghĩa của Người trước hết bắt nguồn từ tinh hoa truyền thống ấy của dân tộc.
b. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa của nhân loại.
Với tinh thần tiếp thu có chọn lọc, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những hạn chế của Nho giáo, Phật giáo và tiếp thu, học tập những điểm tích cực về bình đẳng, hằng sản, triết lý tu thân của Nho giáo, tinh thần bình đẳng, dân chủ chất phác, chống lại mọi phân biệt đẳng cấp trong “từ bi hỷ xả, vô ngã vị tha, lợi lạc quần sinh” và đề cao lao động, chống lười biếng của Phật giáo.
Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa những tích cực của tư tưởng “xã hội chủ nghĩa không tưởng” trong triết lý Nho giáo, triết lý Phật giáo, mà Người còn tìm thấy ở chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn có những điều phù hợp với yêu cầu lịch sử của nước ta.
Hấp dẫn bởi “tự do, bình đẳng, bác ái” của giai cấp tư sản, bằng bộ óc phân tích tinh tế của mình, Hồ Chí Minh không tìm đường cứu nước ở phương Đông, mà đã tìm đường cứu nước ở phương Tây. Sau khi thực thi dân chủ tư sản trên đất nước Pháp, với chiêm nghiệm của mười năm bôn ba bốn biển tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã từ bỏ lập trường dân chủ tư sản để đến với dân chủ vô sản.
Cội nguồn cốt lõi của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là chủ nghĩa Mác-Lênin. Ở đó Hồ Chí Minh đã tìm thấy lý tưởng về một xã hội nhân đạo, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện tất yếu tự do cho tất cả mọi người. Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đến với con đường thực hiện ước mơ giải phóng các dân tộc bị áp bức, nô lệ, đặc biệt là đến với chính sách kinh tế mới của Lênin, mà đưa cách mạng Việt Nam lên CNXH.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội, xét ở góc độ triết học: Về kinh tế, CNXH là xã hội có nền đại công nghiệp phát triển cao hơn đại công nghiệp của CNTB phát triển và phát triển dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; Về tinh thần, CNXH là xã hội có chủ nghĩa nhân đạo phát triển cao hơn nhân đạo chủ nghĩa của CNTB về giải phóng con người.
Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Mác, Ăngghen đưa ra quan niệm quá độ trực tiếp từ nước tư bản phát triển ở trình độ cao phát triển lên CNXH. Đây là thời kỳ chuyển biến cách mạng gay go quyết liệt từ CNTB lên CNXH.
CNXH đích thực và con đường quá độ trực tiếp đi lên CNXH như trên của Mác và Ăngghen là khoa học, nhưng cho đến nay chưa có điều kiện trở thành hiện thực
Lênin, trong điều kiện lịch sử mới đã đưa ra quan niệm quá độ gián tiếp với hai hình thức: Quá độ từ nước tư bản phát triển ở trình độ trung bình lên CNXH, hoặc quá độ từ nước tiền tư bản, lạc hậu lên CNXH. Tính chất của thời kỳ này theo Lênin là “cơn đau đẻ kéo dài”.
Tiếp thu những tinh hoa ấy của dân tộc và nhân loại, với tri thức uyên thâm về nhiều lĩnh vực, với sự từng trãi của thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã có quan niệm riêng của mình về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
3. Tư tưởng triết học cơ bản của Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam
a. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thứ nhất: Bằng việc đặt ra câu hỏi và trả lời câu hỏi “chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là gì?”, trên cơ sở tiếp cận chủ nghĩa Mác-Lênin từ các phương diện đạo đức, văn hóa, xã hội,.. tùy vào các đối tượng người Việt Nam khác nhau, các góc độ xem xét và mục đích của mỗi Hội nghị khác nhau, mà Hồ Chí Minh đưa ra nhiều định nghĩa về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Từ những quan điểm cụ thể khác nhau ấy của Người về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, có thể khái quát những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vào những năm 60 của thế kỷ XX theo tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là:
Một: Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một chế độ chính trị mà ở đó mọi quyền làm chủ đều thuộc về nhân dân.
Hai: Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao, với lực lượng sản xuất tiên tiến hiện đại và khoa học kĩ thuật tiên tiến hiện đại, dần xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất để thực hiện chế độ công hữu đối với tư liệu sản xuất.
Ba: Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là giai đoạn xã hội phát triển cao hơn CNTB về văn hóa, đạo đức.
Bốn: Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mới chỉ là một xã hội thực hiện công bằng hợp lý.
Năm: Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ấy chứa đựng trong đó một hệ thống các giá trị đặc thù, mà giá trị trung tâm là con người với các nhu cầu lợi ích của nó. Con người là mục tiêu phát triển. Chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là xã hội của con người, vì con người, chế độ xã hội đó mang bản chất dân chủ, nhân đạo trong tiến trình vận động xã hội loài người.
Thứ hai, khi trả lời cho câu hỏi “Làm gì để có chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?”, Hồ Chí Minh đã xác định những mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là:
Một: phải xây dựng cho được Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Hai: phải xây dựng một nền kinh tế công - nông nghiệp tiên tiến hiện đại, khoa học và kĩ thuật tiên tiến hiện đại, trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được xóa bỏ dần, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ngày càng được cải thiện
Ba: phải xây dựng ngay lập tức và đi trước một bước là nền văn hóa mới XHCN ở Việt Nam.
Bốn: phải thực hiện ngay nguyên tắc “làm tùy sức hưởng theo lao động”, đồng thời thiết lập quỹ phúc lợi công cộng để điều tiết thu nhập cho toàn dân.
Năm: phải lấy của dân, tài dân, sức dân mà làm lợi cho dân.
Thứ ba, khi trả lời cho câu hỏi “Làm gì để có chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Hồ Chí Minh đồng thời đã chỉ ra các động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là:
Một: Động lực hiểu theo nghĩa rộng trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sử dụng đồng bộ các đòn bẩy về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,.. kích thích tính tích cực của người lao động. Ở nghĩa rộng, Người nhấn mạnh hai nội dung: Tính đồng bộ trong sử dụng các đòn bẩy và trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý trong sử dụng đòn bẩy.
Hai: Động lực hiểu theo nghĩa hẹp trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề con người. Động lực con người với tư cách là con người cộng đồng, Người nhấn mạnh đó là Đại đoàn kết toàn dân tộc. Động lực con người với tư cách là con người cá nhân, Người khẳng định đó là con người mới XHCN.
b. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thứ nhât: Nếu điễn đạt như Mác, Ăngghen và Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH, thì Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa và phong kiến tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua phát triển tư bản chủ nghĩa. Người khẳng định tính chất của nó là cuộc đấu tranh một mất một còn giữa CNXH và CNTB ở Việt Nam.
Tư tưởng này với thực tiễn đưa miền Bắc lên CNXH, Hồ Chí Minh không chỉ trung thành, mà đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện Việt Nam, làm cho lý luận quá độ gián tiếp lên CNXH theo hình thức thứ hai của Lênin đầu tiên trở thành hiện thực.
Thứ hai: Trong điều kiện giáo điều, người ta đã quên lời dạy của Lênin “Không có CNXH giống nhau cho mọi dân tộc, chỉ có CNXH phù hợp với từng dân tộc”, bắt cả thế giới phải tuân thủ một “mô hình CNXH”, Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội có mục tiêu, nguyên lý chung giống nhau, nhưng mỗi nước có đặc điểm lịch sử cụ thể khác nhau nên phương thức, biện pháp, bước đi cách làm khác nhau. Người nhắc nhở, việc học tập những kinh nghiệm nước ngoài là rất cần thiết. Nhưng Người cũng nhấn mạnh: “Ta không thể không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác” Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, trang 227.
. Làm khác, thậm chí làm trái với Liên Xô, ta vẫn là mac-xit.
Tư tưởng này và thực tiễn cách mạng Việt Nam của Người, chứng minh sự đúng đắn, khoa học của tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo và đổi mới của Người.
Thứ ba: Hồ Chí Minh là người đầu tiên ở phương Đông chủ trương xây dựng CNXH với nền kinh tế nhiều thành phần.
Thứ tư: Hồ Chí Minh là người đầu tiên trên thế giới chủ trương chia nhỏ thời kỳ quá độ lên CNXH thành nhiều bước đi. Theo Người, quy mô, trình độ, tốc độ của mỗi bước đi phải tùy thuộc vào thành tựu của quá trình CNH, HĐH đất nước ở mỗi thời kỳ.
Thứ năm: Xuất phát từ trình độ rất thấp của Việt Nam, mà Người đã chỉ ra tầm quan trọng to lớn của quyết tâm dân tộc khi thực hiện mục tiêu CNXH. Người từng dạy, làm CNXH ở Việt Nam thì “mục tiêu là một, biện pháp phải mười và quyết tâm phải hai mươi”.
Thứ sáu: Theo Hồ chí Minh muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải đảm bảo 4 nguyên tắc:
Một: Phải đảm bảo một cách tuyệt đối sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hai: Phải nâng cao trình độ, năng lực quản lý nhà nước đối với toàn xã hội.
Ba: Phải mở rộng và tăng cường hoạt động chủ động và tích cực có hiệu quả của các tổ chức chính trị quần chúng.
Bốn: Phải đào tạo đủ đội ngũ cán bộ có đủ đức, đủ tài đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của lịch sử.
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam trên đây, là sản phẩm của sự kết tinh những giá trị truyền thống tốt đẹp của Việt Nam với tinh hoa văn hóa của nhân loại trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin, là sự phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin bằng trí tuệ uyên thâm về nhiều lĩnh vực của Hồ Chí Minh trong điều kiện mới.
2.6.2. KIÊN ĐỊNH MỤC TIÊU CNXH VÀ THỰC HIỆN CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HỒ CHÍ MINH LÀ SỰ LỰA CHỌN DUY NHẤT ĐÚNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG ĐỔI MỚI HIỆN NAY.
Trong quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay ở Việt Nam, Việt Nam đang đương đầu với hàng loạt những thách thức quốc tế và trong nước:
CNXH đã tan rã ở Liên Xô, sụp đổ ở Đông Âu từ 1991. Sự khủng hoảng nghiêm trọng, to lớn của CNXH thế giới đã làm cho Việt Nam mất hẳn chỗ dựa to lớn cả vật chất và tinh thần; Kẻ thù quốc tế lợi dụng sự khủng hoảng này mà tấn công mạnh, tích cực có hiệu quả hơn đối với sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Từ sau 1991, “Âm mưu diễn biến hòa bình”, “Bạo loạn và lật đổ” do đế quốc Mỹ đứng đầu đã và đang tấn công có hiệu quả ở Việt Nam trên cả năm lĩnh vực: Lợi dụng chiêu bài dân chủ và nhân quyền, chúng luôn tố cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, cản trở có hiệu quả sự hội nhập quốc tế của Việt Nam; Lợi dụng vấn đề dân tộc, chia rẽ có hiệu quả đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam; Lợi dụng tôn giáo làm mất trật tự trị an, vi phạm an ninh chủ quyền của Việt Nam một cách có hệ thống; Truyền bá văn hóa phẩm độc hại bằng nhiều hình thức và rất mạnh, làm băng hoại lối sống truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; Bằng chiêu bài kinh tế, chúng chống phá một cách thâm độc, nham hiểm đời sống kinh tế của nhân dân và dân tộc Việt Nam.
Trong nước, sau hơn hai mươi năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được (Mức sống của nhân dân đã tăng gấp hai mươi lần so với trước đổi mới; Việt Nam đã trở thành một nước đang phát triển, tuy ở tốp cuối nhưng là nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất), thì những thách thức to lớn là không thể phủ nhận: Vấn đề xa dân; Chệch hướng XHCN; Tham nhũng; Thoái hóa biến chất về đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên;.. đều là những nguy cơ mất nước.
Trong bối cảnh ấy, kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hội và thực hiện con đường quá dộ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư tưởng triết học Hồ Chí Minh đã và đang được Đảng, Nhà nước ta đẩy mạnh, là sự lựa chọn duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam:
Thứ nhất: Sự tan rã của CNXH ở Liên Xô, sụp đổ của CNXH ở Đông Âu năm 1991, chỉ là sự tan rã và sụp đổ của một mô hình CNXH hiện thực với nhiều khuyết tật (Buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; Giáo điều, rập khuôn theo một mô hình cứng nhắc; Tả khuynh, nóng vội, đốt cháy giai đoạn dẫn đến hành động phiêu lưu, mạo hiểm).
Bất chấp những lời bôi nhọ, những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, chủ nghĩa xã hội hiện thực dù có những thăng trầm, thành bại ở nơi này hay nơi khác, nhưng CNXH đã tạc dấu ấn đậm nét, đóng vai trò to lớn không thể phủ nhận trong sự phát triển, tiến bộ không ngừng của lịch sử nhân loại trong thế kỷ XX.
CNXH đích thực theo tư tưởng của Mác, Ăngghen và Lênin như đã nêu ở trên là không thể sụp đổ, mà vẫn là khát vọng vươn tới của nhân loại. Dù muốn hay không, tiến lên chủ nghĩa xã hội vẫn là xu thế vận động tất yếu khách quan của lịch sử nhân loại hiện nay.
Thứ hai: Sau khi giành được độc lập dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã hội, con đường cách mạng đó của Việt Nam là phù hợp quy trình tiến hóa trong sự phát triển của xã hội loài người và đặc biệt là của Việt Nam. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được khát vọng của dân tộc ta là độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, cơm no áo ấm cho đồng bào.
Thứ ba: Để kiên đinh mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, những việc cần làm ngay và bền vững của Việt Nam là:
Một: Việt Nam cho đến nay vẫn có trình độ xuất phát rất thấp. CNXH không chỉ là quan hệ tốt đẹp giữa người với người, giữa dân tộc với dân tộc, mà cốt lõi phải có nền đại công nghiệp phát triển cao hơn đại công nghiệp của CNTB phát triển. Chính vì thế, Việt Nam phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Về điều này, mục tiêu đường lối kinh tế của Đại hội Đại biểu Toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX và khóa X đã xác định đến năm 2020 về cơ bản Việt Nam là một nước đại công nghiệp.
Hy vọng toàn Đảng, toàn dân tập trung thực hiện thắng lợi mục tiêu này, tạo tiền đề tốt cho Việt Nam thực hiện quá độ lên CNXH trong tương lai.
Hai: Phải chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam thật sự trong sạch, vững mạnh. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã và đang chứng minh: Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo, tổ chức và thực hiện mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thời kỳ mới của lịch sử dân tộc càng rất cần sự thật sự trong sạch, vững mạnh của Đảng không chỉ để giữ vững uy tín của Đảng, mà còn để Đảng đảm đương được vai trò cầm lái đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi cuối cùng trong điều kiện mới.
Ba: Phải nâng cao trình độ, năng lực quản lý Nhà nước tốt hơn nữa đối với các quá trình xã hội. Nhà nước Việt Nam phải thật sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh đúng nghĩa trên các phương diện: Dân là chủ, dân làm chủ; Cán bộ Nhà nước là công bộc và đầy tớ trung thành của nhân dân; Nhà nước là cơ quan công quyền của dân.
Bốn: Phải thực sự mở rộng, phát huy tính chủ động, hoạt động tích cực có hiệu quả của các tổ chức chính trị quần chúng. Chỉ như thế mới phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là là các nguồn lực nội sinh để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì một nước Việt Nam XHCN.
Năm: Phải tranh thủ tối đa, có hiệu quả hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tiếp tục con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn
2.6.3. KẾT LUẬN
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là sản phẩm của sự kết tinh những giá trị truyền thống Việt Nam với tinh hoa tư tuởng xã hội chủ nghĩa của nhân loại. Là sự gặp gỡ của thiên tài Hồ Chí Minh với những phát kiến của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin về CNXH.
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đã vạch ra cho chúng ta một cách khái quát nhất, cơ bản nhất những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cũng như xác định những mục tiêu cụ thể mà chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hướng tới, đồng thời cũng đã chỉ ra con đường, cách thức, biện pháp, bước đi trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cho thấy Người vừa trung thành với chủ nghĩa Mác Lênin, vừa có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo và đổi mới. Tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là chủ nghĩa Mác-Lênin đã được Hồ Chí Minh hóa dựa trên những điều kiện của Việt Nam và bối cảnh mới của quốc tế.
Lý luận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Viêt Nam là sản phẩm của cả cuộc đời và sự nghiệp của Bác, là tấm lòng của Người đối với nhân dân, với Tổ Quốc. Trong tư tưởng, lý luận đó có hơi thở sống động của thực tiễn, có cái tinh túy của chủ nghĩa Mác-Lênin, có cốt lõi tinh hoa truyền thống của dân tộc, có điểm tương đồng của văn hóa Đông-Tây… Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ mãi mãi sống với dân tộc, với nhân loại.
Từ sau Đai hội VI (1986), trên quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang khắc phục được những sai lầm nóng vội, chủ quan duy ý chí,.. trung thành với Hồ Chí Minh, ngày càng nhận thức đúng đắn hơn về sự nghiệp xây dựng CNXH và làm cho CNXH dần trở thành hiện thực ở Việt Nam.
Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đều khẳng định: “Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở nền tảng của tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động của cách mạng Việt Nam”. Trong triết lý Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam: Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những nhân tố quyết định hàng đầu thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực to lớn, xuyên suốt, quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Đất nước đại công nghiệp là động lực trực tiếp đưa Việt Nam trở thành nước XHCN đích thực; Các thế hệ thanh niên Việt Nam trở con người mới XHCN vừa là động lực, vừa là nhân tố quyết định thành công mục tiêu CNXH ở Việt Nam.
Tinh hoa của dân tộc Việt Nam và trí tuệ của thời đại đã tạo ra Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người anh hùng dân tộc vĩ đại, mà chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc và nhân dân Việt Nam. Công lao to lớn và sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa Người lên địa vị anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa lớn của nhân loại.
Toàn bộ những hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, là một kho tàng tri thức quý báu, vô giá không gì có thể sánh nổi. Và một trong những cống hiến đặc sắc nhất của Người cho dân tộc Việt Nam là tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Với những thành tựu đã đạt được của hơn 20 năm đổi mới, chúng ta hoàn toàn có cơ sở tin tưởng chắc chắn rằng, Việt Nam sẽ vượt qua mọi thử thách để đạt được mục tiêu chủ nghĩa xã hội trong tương lai, trước hết là đáp ứng nguyện ước cuối cùng trong “Di chúc” của Bác Hồ vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân: “Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước VIệt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, trang 500.
.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cdthvnnam_2010_6084.doc