Có thể nói, với xu thế hội nhập ngày nay và quá trình toàn cầu hoá hiện nay. Nhất là khi Việt Nam đã ra nhập WTO, với sự đầu tư ngày càng mạnh mẽ của các nước vào Việt Nam. Nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi ngày càng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, nó không chỉ thúc đẩy, mà kéo theo sự phát triển của nó còn là sự tồn tại của hệ thống ngân hàng. Do có có thể nói là sự phát triển của toàn nền kinh tế liên quan chặt chẽ đến việc phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm này.
Ngoài ra, với việc hoạt động có hiệu quả, bảo hiểm tiền gửi cũng giúp cho người gửi tiền cảm thấy an toàn hơn khi gửi tiền vào ngân hàng, tăng cường niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng quốc gia, do vậy tạo sự an toàn và phátt triển lành mạnh cho hệ thống ngân hàng, dẫn đến việc thu hút vốn của ngân hàng tốt hơn, thuận lợi cho việc đầu tư phát triển vào các lĩnh vực khác nhằm thu lợi nhuận, đẩy mạnh sự phát triển của mình
Tóm lại việc xây dựng, đầu tư, phát triển một nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi là rất quan trọng và cần thiết.
35 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1295 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Xây dựng, đầu tư, phát triển một nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h doanh của họ:Giảm lợi nhuận, thua lỗ hoặc mất khả năng chi trả
- Đối với khách hàng: Có thể mất vốn dẫn đến khó khăn trong sản xuất kinh doanh…
Do đó có thể thấy sự cần thiết của bảo hiểm tiền gửi ra đời như một sự đảm bảo an toàn tiền gửi cho những người gửi tiền tại các tổ chức tham gia tiền gửi,góp phần tạo sụ ổn định cho các tổ chức tín dụng, đảm bảo sự phát triển lành mạnh của ngân hàng va các tổ chức tín dụng
2. Giới thiệu chung về bảo hiểm tiền gửi
2.1 Khái niệm bảo hiểm tiền gửi
Bảo hiểm tiền gửi là cam kết công khai của tổ chức bảo hiểm tiền gửi đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi về việc trả tiền gửi (bao gồm phần gốc và lãi) cho người gửi tiền trong trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vì lí do nào đó bị chấm dứt hoạt động và không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Do đó sẽ hình thành hợp đồng bảo hiểm giữa ba đối tượng: tổ chức bảo hiểm tiền gửi, tổ chức tham gia bảo hiểm và người gửi tiền.
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức nhận đóng góp tài chính từ tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và trách nhiệm thực hiện việc chi trả tiền bảo hiểm tới người có tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi tổ chức đó ngừng hoạt động và mất khả năng thanh toán.
Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là các ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng có thực hiện huy động tiền gửi. Các tổ chức này khi tham gia bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm đóng góp tài chính cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi và được quyền yêu cầu tổ chức bảo hiểm tiền gửi chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại tổ chức đó trong trường hợp tổ chức này mất khả năng thanh toán . Hiện nay trên thế giới có 3 hình thức đóng góp tài chính :
Đóng góp một khoản tiền khi được chấp nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi
Đóng phí bảo hiểm tiền gửi
Khi có một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị đổ vỡ tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ yêu cầu các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đóng góp để hỗ trợ.
Tham gia bảo hiểm tiền gửi là quy định bắt buộc với các tổ chức tín dụng và các tổ chức không phải là tín dụng nhưng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của luật các tổ chức tín dụng có nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân.Công ty bảo hiểm nhận trách nhiệm của các tổ chức tín dụng đối với các khoản tiền gửi. Tổ chức tín dụng là doanh ngiệp được thành lập theo quy định của Luật tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, thực hiện các dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm là những người đã gửi tiền tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và khoản tiền đó thuộc đối tượng được bảo hiểm theo quy định. Những người gửi tiền này không phải tham gia đóng góp cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi nhưng sẽ được tổ chức bảo hiểm tiền gửi thanh toán tiền gửi kể cả tiền lãi tích luỹ trên tiền gửi đó trong hạn mức chi trả tiền bảo hiểm tiền gửi (nếu chi trả tiền bảo hiểm tiền gửi có xác định hạn mức), hoặc thanh toán toàn bộ tiền gửi (nếu chi trả tiền bảo hiểm tìn gửi không có xác định giới hạn) khi có sự kiện chấm dứt hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi.
2.2. Mục đích của bảo hiểm tiền gửi
Tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế- xã hội của mỗi nước mà hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở đó đáp ứng nhiều mục đích khác nhau, song nhìn chung lại những mục đích cơ bản cần hướng đến là:
- Bảo vệ quyền của người gửi tiền thông qua nhiều khía cạnh khác nhau như đảm bao hoạt động của ngân hàng, thực hiện chi trả cho người gửi tiền khi có sự cố xảy ra đối với các tổ chức nhận tiền gửi, đặc biệt bảo vệ quyền lợi cho những người gửi tiền ít có điều kiện tiếp cận thông tin về điều hành và tình hình hoạt động của tổ chức tín dụng.
- Giảm thiểu tình trạng đổ vỡ ngân hàng, từ đó xây dựng một hệ thống tài chính ổn định, góp phần ổn đinh xã hội.
- Tạo nên một thị trường cạnh tranh bình đẳng cho các tổ chức tài chính dù quy mô và trình độ phát triển khác nhau
- Tạo nên một cơ chế pháp lí trong đó quy định rõ rang trách nhiệm và quyền của các bên có liên quan nhằm giảm bớt gánh nặng tài chính cho người đóng thuế trong trường hợp ngân hàng đổ vỡ.
2.3. Vai trò của hoạt động bảo hiểm tiền gửi
Chúng ta xem xét vai trò của bảo hiểm tiền gửi dưới 3 góc độ:
2.3.1. Đối với người gửi tiền
Hoạt động bảo hiểm tiền gửi tạo sự an tâm, tin cậy cho người gửi tiền và đảm bảo quyền lợi cho họ. Điều này được lí giải bởi các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, tổ chức bảo hiểm tiền gửi cung cấp cho công chúng những thông tin về các ngân hàng ở một mức độ nào đó giúp họ nắm bắt được tình hình hoạt động của các ngân hàng. Khi đó họ chọn lựa được nơi gửi tiền mà họ cảm thấy yên tâm nhất
Thứ hai, những người gửi tiền tại các ngân hàng sẽ không bị thiẹt hại nếu như ngân hàng đó lâm vào tình trạng bị đóng cửa hay mất khả năng thanh toán. Với bản chất chuyển giao rủi ro của bảo hiểm thì các tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ chi trả cho người gửi tiền theo quy định, hơn nữa tổ chức bảo hiểm tiền gửi còn tham gia vào quá trình thanh lí tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi sau khi đổ vỡ để tiếp tục chi trả cho những người gửi tiền có số tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm lớn hơn hạn mức chi trả. Nhờ vậy, họ có thể tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh mà không bị ảnh hưởng đáng kể.
Đặc biệt, những người đã tích luỹ cả đời để có được số tiền ít ỏi lo tuổi già, đã gửi toàn bộ mồ hôi công sức của mình vào tổ chức tín dụng với một niềm tin tuyệt đối rằng tổ chức tín dụng là nơi cất giữ an toàn nhất cho mình. Vì thế nếu vì một nguyên nhân nào đó mà tổ chức này không thể trả lại số tiền đó thì niềm tin của họ sẽ bị đổ vỡ nghiêm trọng. Do đó vai trò của bảo hiểm tiền gửi không chỉ tính bằng tièn mà còn cả niềm tin của người gửi tiền.
2.3.2. Đối với hệ thống ngân hàng
Vai trò của bảo hiểm tiền gửi rất quan trọng bởi hệ thống ngân hàng được ví như hệ thống thần kinh của một nền kinh tế, hệ thống này có hoạt động thông suốt, lành mạnh và hiệu quả thì các nguồn lực tài chính mới có thể được luân chuyển , phân bổ và sử dụng có hiệu quả, kích thích tăng trưởng kinh tế một cách bền vững.
Trước đây, hoạt động ngân hàng chưa có hệ thống đánh giá rủi ro đầy đủ, chưa được phép trích dự phòng rủi ro,và cũng không được hỗ trợ khi có rủi ro xảy ra. Từ khi có bảo hiểm tiền gửi tất cả các yếu tố trên đều được đảm bảo, hoạt động ngân hàng yên tâm hơn, tăng thêm uy tín với khách hàng. Cụ thể:
Hoạt động bảo hiểm tiền gửi đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn và hiệu quả, góp phần củng cố và tăng cường uy tín của các ngân hàng. Thông qua các quy định an toàn và cơ chế giám sát hoạt động ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi đã góp phần nâng cao khả năng quản trị rủi ro, khả năng điều hành ngân hang nói riêng và nghành tài chính nói chung. Nhờ có quỹ bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi đủ khả năng hỗ trợ tài chính cũng như chi trả tiền gửi kịp thời khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng khó khăn, qua đó ngăn chặn việc rút tiền hàng loạt và tránh dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng khi một vài tổ chức ngân hàng gặp rắc rối.
Hoạt động bảo hiểm tiền gửi tạo điều kiện thuạn lợi cho tất cả các ngân hàng cạnh tranh một cách bình đẳng, từ đó phát triển tốt hơn. Bởi thông thường trong nèn kinh tế thị trường các ngân hàng có ưu thế về quy mô hoạt động lớn, uy tín và bề dày phát triển sẽ tạo được niềm tin cho người gửi tiền, nhờ đó vốn huy động dễ dàng hơn. Như vậy các ngân hàng mới ra đời hoặc có quy mô nhỏ sẽ bị thiệt thòi do chưa tạo được vị thế. Tuy nhiên khi có hoạt động bảo hiểm tiền gửi với quy định bắt buộc mọi đối tượng tham gia thì người gửi tiền sẽ được bảo vệ cho dù họ gửi tiền ở bất cứ ngân hàng nào.
Tạo động lực để các ngân hàng giám sát lẫn nhau, thúc đẩy nhau nâng cao chất lượng hoạt động. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi hoạt động trên cơ chế hỗ trợ lẫn nhau trong cộng đồng các tổ chức huy động tiền gửi để giải quyết các khó khăn (đặc biệt là tình trạng khó khăn gây đóng cửa ngân hàng) của mỗi tổ chức trong cộng động các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bằng chíng nguồn lực huy động từ các thành viên của cộng đồng. Điều này làm cho các ngân hàng tham gia bảo hiểm tiền gửi có nhu cầu giám sát lẫn nhau trong hoạt động
2.3.3. Đối với xã hội
Nhờ có hoạt động bảo hiểm tiền gửi nguồn vốn cho đầu tư phát triển được huy động dễ dàng hơn. Các ngân hàng vốn là trung gian trong việc huy động tiền gửi của nhân dân và cho các cá nhân tổ chức vay vốn. Thông thường nhiều người dân thích lựa chọn việc gửi tiền vào ngân hàn hơn là việc đầu tư vào lĩnh vực khác vì đã xác định trước mức lãi suất, thu nhập từ đó sẽ ổn định hơn, ngoài ra viẹc gửi tiền vào ngân hàng không đòi hỏi kiến thức chuyên môn nhiều như các hình thức đầu thư khác, do đó việc huy động tiền gửi từ dân là khá dễ dàng. Khi có bảo hiểm tiền gửi tính rủi ro của việc gửi tiền càng thấp vì đã đươc bảo hiểm ở một phạm vi nhất định đối với tiền gửi của công chúng trong hệ thống ngân hàng, rất thích hợp với các nhà đầu tư không thích mạo hiểm. Nhờ vào công cụ này mà hệ thống ngân hàng đã thực hiện chức năng trung gian tài chính một cách tích cực. Hơn nữa, tiền gửi của dân cư có tính ổn định cao và thường gửi có kì hạn nên rất ưu việt để ngân hàng huy động cho đầu tư có kì hạn. Vì thế nếu ngân hàng có hoạt động hiệu quả, xá định mức lãi suất thoả đáng, thủ tục gửi tiền và rút tiền nhanh gọn, đảm bảo an toàn tiền gửi của người gửi tiền thì ngân hàng đó sẽ chiếm được ưu thế trong viẹc huy động tiền gửi của các cá nhân. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi với vai trò đối với hệ thống ngân hàng như đã nói trên sẽ tạo điều kiện để hệ thống ngân hàng huy động vốn có hiệu quả.
Mặt khác, trong trường hợp có sự đổ vỡ của các tổ chức nhận tiền gửi, do đã được sự bảo vệ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi nên sẽ không gây tâm lí hoang mang, lo lắng cho người gửi tièn, tránh sự hỗn loạn, gây mất trật tự xã hội.
2.4. Những rủi ro ảnh hưởng đến hoạt động bảo hiểm tiền gửi
Rủi ro là một yếu tố thường được nhắc đến đầu tiên trong các loại hình bảo hiểm. Rủi ro ám chỉ một số hình thức không chắc chắn về một hậu quả của một tình huống nhất định.
Có rất nhiều định nghĩa về rủi ro, chẳng hạn:
- Rủi ro là khả năng xảy ra một sự cố không may
- Rủi ro là sụ kết hợp các nguy cơ
- Rủi ro là sự không thể đoán trước một khuynh hướng dẫn đến kết quả thực khác với dự đoán,
- Rủi ro là sự không chắc chắn về tổn thất
- Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất
Trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi cũng tồn tại nhiều rủi ro nhưng người ta chia thành 3 loại chính: Rủi ro đạo đức, rủi ro thông tin không đối xứng, rủi ro của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
2.4.1. Rủi ro đạo đức
Rủi ro đạo đức được nói đến trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi là cách cư xử thiếu đạo đức khi tiếp cận và sử dụng các dịch vụ ngân hàng, gây ra những ảnh hưởng không tốt tới hoạt động bảo hiểm tiền gửi và sự thiếu an toàn của hệ thống ngân hàng.
Trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi có rất nhiều đối tượng thụ hưởng từ chính sách này nhưng được phân thành đối tượng thụ hưởng trực tiếp (là những người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm) và đối tượng thụ hưởng gián tiếp (gồm những người làm viẹc trong ngân hàng, người đi vay vốn trong ngân hàng và rộng hơn là toàn thể dân cư của quốc gia). Tất cả các đối tượng nói trên đều gây ra rủi ro đạo đức cho hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Chẳng hạn:
- Người gửi tiền được bảo hiểm không quan tâm đến việc thu thập thông tin của tổ chức mà họ gửi tiền. Nhờ thế, với việc ấn định mức lãi suất cao thì bất kì tổ chức nhận tiền gửi nào cũng dễ dang huy động được tiền gửi từ người dân
- Về phía các ngân hàng, do có sự hỗ trợ, đảm bảo từ tổ chức bảo hiểm tiền gửi họ có thể chấp nhận rủi ro cao hơn trong hoạt động, giảm vốn, dự trữ từ đó khó khăn hơn trong việc giải quyết các vấn đề về thanh khoản, đặc biệt là trong các tình huống có khủng hoảng xảy ra.
- Người vay tiền có thể quyết định vay ở ngân hàng yếu kém với thủ tục có thể được châm chước và lãi suát mềm hơn la vay ở ngân hàng tốt với thủ tục đầy đủ và lãi suất hợp lí. Bởi vì, khi có hoạt động bảo hiểm tiền gửi họ không còn lo sợ xảy ra trường hợp ngân hàng yếu có thể bị đóng cửa và tiền vay của họ có thể bị đòi hoàn trả đột ngột trước hạn làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.
* Tác hại của cư xử thiếu đạo đức có thể được xem xét dưới 2 góc độ:
Thứ nhất, ảnh hưởng tới quy luật cung cầu về tiền gửi. Lãi suất mà ngân hàng ấn định khi huy động tiền gửi là giá cả của việc sử dụng vốn, các ngân hàng sẽ trả cho người gửi tiền ngoài phần gốc còn them một khoản tính theo mức lãi suất này.Khi ngân hàng có nhu cầu vốn lớn họ thường tăng lãi suất để kích thích người gửi tiền vào ngân hàng.Hơn nữa, nếu đầu tư vào ngân hàng mà độ rủi ro không đáng kể so với đầu tư ở lĩnh vực khác thì sự lựa chọn để gửi tiền là tối ưu với họ.
Hoạt động bảo hiểm tiền gửi chỉ nhằm hạn chế rủi ro thông qua các biện pháp kiểm tra, giám sát của tổ chức bảo hiểm tiền gửi và thông qua việc chia sẻ rủi ro chứ không thể xoá bỏ được hoàn toàn rủi ro. Song trên thực tế những người thụ hưởng chính sách bảo hiểm tiền gửi cho rằng những rủi ro này được chuyển hoàn toàn cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi nên họ chỉ quan tâm đến tiện lợi khi gửi tiền và mức lãi suất hấp dẫn. Các ngân hàng muốn huy động nhiều tiền gửi chỉ việc tạo điều kiện thuận lợi và lãi suất hấp dẫn là có thể thu hút được nhiều vốn . Điều này đã ảnh hưởng khách quan đến sự vận động của quy luật cung cầu tiền gửi.
Thứ hai, ảnh hưởng tới tính ổn định trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Việc tăng lãi suất một cách tuỳ tiện cao hơn cho phép như trên đã nói khiến các ngân hàng phải cho vay vào các lĩnh vực có lãi suất cao để có thể có lãi . Trong những lĩnh vực đó rủi ro la rất cao, dẫn đến đổ vỡ là vấn đề không thể tránh khỏi.
2.4.2. Rủi ro thông tin không đối xứng
Bất cứ hoạt động nào cũng chịu ảnh hưởng của thông tin không đối xứng, song với hoạt động bảo hiểm thì rủi ro này gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi, thông tin không đối xứng là việc tổ chức bảo hiểm và tổ chức tham gia bảo hiểm hiểu rõ về hoạt động của chính mình nhưng khó khăn trong viẹc thu thập thông tin và điều chỉnh hành vi của đối tác. Điều này gây rủi ro rất lớn cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi, dễ dẫn đến trường hợp phải chi trả tiền bảo hiểm. Do đó để ngăn chặn tình trạng này, các tổ chức bảo hiểm tiền gửi đưa ra nhiều biện pháp ngăn chặn tình trạng này, trong đó hữu hiệu nhất là tăng cường công tác kiểm tra giám sát tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
Những tổn thất gây ra:
Thứ nhất, gây áp lực tài chính lớn đối với tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi chỉ là ngân hàng yếu kém, quy mô nhỏ, độ rủi ro cao thì khả năng đổ vỡ của ngân hang tham gia bảo hiểm tiền gửi ở hệ thống này là lớn hơn và như vậy việc tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải chi trả là không thể tránh khỏi.
Thứ hai, phá vỡ cơ chế cộng đồng tương trợ - cơ chế đảm bảo sự bền vững của hoạt động bảo hiểm tièn gửi. Do việc tham gia bảo hiểm tiền gửi chủ yếu là các ngân hàng yếu kém chỉ có một số ít ngân hàng hoạt động tốt, do đó nguồn đóng quỹ bảo hiểm tiền gửi không đảm bảo quy luật số đông bù số ít.
2.4.3. Rủi ro của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
Tổ chức bảo hiểm tiền luôn hướng tới những mục tiêu cơ bản đã đề ra, vì vậy cần quan tâm đến 3 khía cạnh sau :
Nguồn lực tài chính
Quy định về vai trò và trách nhiệm của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
- Mô hình tổ chức
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi cần đảm bảo có được nguồn vốn hoạt động hiệu quả và không ngừng tăng cường nguồn lực tài chính dưới nhièu hình thức để có thể duy trì bộ máy hoạt động có hiệu quả, thực hiện hỗ trợ kịp thời đối với khách hàng tham gia bảo hiểm tiền gửi cũng như chi trả kịp thời cho người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm khi có ngân hàng bị đóng cửa và mất khả năng thanh toán, từ đó tránh sự đổ vỡ hàng loạt của ngân hàng.
Có nhiều nguyên nhân gây ra việc thiếu hụt vốn hoạt động cho tổ chức bảo hiểm tiền gửinhư xác định không đủ quy mô vốn nhằm triển khai có hiệu qủa hoạt động bảo hiểm tiền gửi, xác định tỉ lệ phí quá thấp hoặc thu không đầy đủ, công tác quản lí hành chính kém hiệu quả, khách hàng tham gia hoạt động có rủi ro lớn hơn mức cho phép, trống tránh nghĩa vụ đóng góp tài chính cho tổ chức bảo hiểm hoặc gặp rủi ro khách quan mang tính thảm hoạ, hệ thống.
Ở một khía cạnh khác, quy định về trách nhiệm, vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi là nhân tố chủ quan song cũng có thể dẫn đến rủi ro khi quy định không đầy đủ hoặc thiếu tính hiệu lực làm cho tổ chức ấy không đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Rủi ro về mô hình tổ chức thực ra là nguyên nhân của khía cạnh thứ hai. Rủi ro này của tổ chức bảo hiểm tiiền gửi phản ánh tình trạng xây dựng mô hình tổ chức không phù hợp va gây khó khăc, cản trở họ thực hiện có hiệu quả vai trò và chức năng đã đề ra. Vì thế tổ chức bảo hiểm tiền gửi đòi hỏi phải có tính độc lập cao trong hoạt động, có nguồn lực tài chính đủ mạnh, có cơ sở pháp lí đầy đủ và mang tính hiệu quả cao. Các vấn đề đó chỉ có thể đạt được khi có một mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi được thành lập phù hợp với đặc điểm, lịch sử và trình độ phát triển của quốc gia đó
II. HOẠT ĐỘNG TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
1. Giới thiệu về tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (Deposit Inusurance of Vietnam - DIV) là tổ chức tài chính Nhà nước được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ và chính thức hoạt động từ ngày 07/7/2000.
Hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không vì mục tiêu lợi nhuận mà nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội và 6 chi nhánh tại các khu vực kinh tế trọng điểm của đất nước: Chi nhánh khu vực Hà Nội trụ sở tại thành phố Hà Nội, Chi nhánh khu vực thành phố Hồ Chí Minh trụ sở tại thành phố Hồ Chí Minh, Chi nhánh khu vực Đông Bắc Bộ trụ sở tại thành phố Hải Phòng, Chi nhánh khu vực Bắc Trung Bộ trụ sở tại thành phố Vinh- Nghệ An, Chi nhánh khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long trụ sở tại thành phố Cần thơ, Chi nhánh khu vực Nam Trung bộ và Tây Nguyên trụ sở tại thành phố Nha Trang – Khánh Hòa.
Những năm qua, được sự quan tâm của Chính phủ, sự phối hợp và giúp đỡ có hiệu quả của các bộ, ban, ngành chức năng, sự quan tâm tạo điều kiện của cấp ủy, chính quyền các cấp, sự nỗ lực cố gắng của tập thể cán bộ, viên chức trong toàn hệ thống, hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã thực sự góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới đất nước, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, duy trì sự ổn định, phát triển an toàn lành mạnh của hệ thống các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, là nhân tố quan trọng trong việc phát huy nguồn vốn nội lực để phát triển kinh tế, giữ vững ổn định, an ninh kinh tế, chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Chính sách về bảo hiểm tiền gửi được kiểm nghiệm bằng thực tế hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hơn 7 năm qua đã thực sự đi vào cuộc sống, được cuộc sống chấp nhận. Đó là minh chứng khẳng định vị trí, vai trò, sự cần thiết của một định chế tài chính quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và mạng an toàn tài chính quốc gia nói riêng.
Để hoạt động bảo hiểm tiền gửi ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển và hội nhập của nền kinh tế khi mà đất nước đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã xây dựng và triển khai thực hiện Chiến lược phát triển giai đoạn 2007 – 2010, định hướng đến năm 2020 với mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát được xác định là: Xây dựng Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trở thành một định chế tài chính lớn mạnh; hội nhập và phát triển bền vững; bảo vệ tốt nhất quyền lợi người gửi tiền, nâng cao niềm tin công chúng và sự ổn định của hệ thống tài chính quốc gia bằng các công cụ bảo hiểm tiền gửi theo mô hình của tổ chức giảm thiểu rủi ro và được triển khai thực hiện đồng bộ trên cơ sở của Luật bảo hiểm tiền gửi (đang xúc tiến xây dựng).
Nhiệm vụ, mục tiêu tổng quát trên đây đã, đang và sẽ được Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam triển khai thực hiện bằng sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đảm bảo các tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, có khả năng làm việc năng động, sáng tạo, hiệu quả trên tinh thần hợp tác và gắn bó với tổ chức. Vì vậy, chắc chắn Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sẽ hoàn thành được, nhiệm vụ, mục tiêu đề ra.
2. Cơ cấu tổ chức
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là một tổ chức tài chính Nhà nước , hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, hoạch toán độc lập, đảm bảo an toàn về vốn, tự bù đắp chi phí và được mở chi nhánh tại các địa bàn trong cả nước, nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của tổ chức tín dụng, đảm bảo sự an toàn, lành mạnh cho hoạt động ngân hàng.
DIV có cơ cấu tổ chức bộ máy gồm Hội đồng quản trị, ban điều hành, phòng, ban, bộ phận ở hội sở chính và 6 chi nhánh khu vực. Trong đó, cơ quan trung ương của DIV là hội sở chính, có trụ sở tại Hà nội. Hoạt động của hội sở chính la hoạch định các chính sách, chiến lược phát triển và các quy định để triển khai các hoạt động của DIV và giám sát kiểm tra việc thực hiện các chính sách và quy định được ban hành.
Trong những năm qua, cùng với việc ổn định bộ máy và triển khi đầy đủ các hoạt động nghiệp vụ về bảo hiểm tiền gửi, DIV đã mở rộng mạng lưới hoạt động của mình tới các khu vực thuộc phạm vi cả nước, đó là thành lập 6 chi nhánh bảo hiểm tiền gửi khu vực gồm: chi nhánh tại TPHCM, chi nhánh khu vực Hà nội, chi nhánh khu vực đồng bằng sông Cửu Long (tại Cần Thơ), chi nhánh khu vực Nam trung bộ và Tây nguyên (tại Nha Trang), chi nhánh khu vực Đông bắc bộ (tại Hải Phòng), và chi nhánh khu vực Bắc trung bộ (tại Nghệ An). Đây là những địa bàn kinh tế trọng điểm của cả nước, đồng thời là nơi tập trung nhiều tổ chức tài chính và tổ chức tín dụng.
Các chi nhánh của DIV khu vực trên từng địa bàn chịu trách nhiệm uản lí khách hàng tham gia bảo hiểm tiền gửi ở địa bàn đó. Ngoài ra Hội sở chính quản lí trực tiếp các khách hàng ở một số địa bàn chưa có chi nhánh khu vực. Các tổ chức thuộc đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm tiền gửi phải làm thủ tục đăng kí tham gia tại các chi nhánh DIV trên địa bàn hay Hội sở chính theo phân vùng đảm nhận.
Khi được chấp nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức này sẽ thực hiện trách nhiệm của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, chi nhánh DIV khu vực sẽ thực hiện các nghiệp vụ của mình đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên địa bàn.
Hệ thống các ngân hàng thương mại nhà nước có 4 ngân hàng lớn, đó là ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng công thương Việt Nam, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Việt Nam thuộc diện khách hàng trực tiếp tại hội sở chính của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam nhưng từ tháng 1/2004, 4 ngân hàng này được chuyển giao cho chi nhánh DIV khu vực Hà Nội quản lí.
3. Hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam
3.1. Quy định hoạt động ở Việt Nam
Ngay từ khi ra đời hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam đã được điều chỉnh bởi Nghị định 89/NĐ-CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi, từ đó đến nay đã có nhiều Quyết định, Nghị định ,Thông tư ra đời để ngày càng hoàn thiện hơn chính sách về bảo hiểm tiền gửi cũng như để đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền. Và gần đây nhất là sự ra đời của Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 về viẹc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-Cp. Hiện nay hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam được quy định như sau:
3.1.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi
Theo quy định tại khoản 1 điều 2 Nghị định 89/1999/NĐ-CP : “Các tổ chức tín dụng và tổ chức không phải là tổ chức tín dụng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng có nhận tiền gửi của cá nhân phải bắt buộc tham gia bảo hiểm tiền gửi”.
Mặt khác, theo quy định tại điều 3 của nghị định này : “ Tiền gửi được bảo hiểm là đồng tiền Việt Nam của cá nhân gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi”. Hiện nay, theo khoản 2 điều 1 Nghị địng số 109 thì ngoài cá nhân đối tượng người gửi tiền đã mở rộng thêm gồm : hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp doanh.
Có thể thấy viẹc tham gia bảo hiểm tiền gửi là bắt buộc với các tổ chức có nhận tiền gửi bằng đồng tiền Việt Nam của các cá nhân , hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiẹp tư nhân và công ty hợp doanh.
3.1.2. Đối tượng được bảo hiểm
Các tổ chức tín dụng nhận tiền gửi từ dân cư sau đó đem những khoản tiền gửi này cho vay hoặc đầu tư vào nền kinh tế, quá trình này tiềm ẩn nhiều rủi ro có thẻ dẫn đến thua lỗ hoặc các cá nhân tổ chức đi vay không trả được nợ hoặc trả không đúng hạn . Khi đó việc trả tiền vốn và lãi cho người gửi tiền sẽ gặp khó khăn thậm chí tổ chức nhận tiền gửi không thể thanh toán được và dẫn đến đổ vỡ. Các tổ chức tín dụng này tham gia bảo hiểm tiền gửi nhằm tránh nguy cơ nói trên . Như vậy, về thực chất đối tượng được bảo hiểm chính là phần trách nhiệm của tổ chức tín dụng đối với các khoản tiền gửi của dân chúng . Nhưng bảo hiểm tiền gửi cũng chỉ quy định bảo hiểm phần trách nhiệm này đối với một số loại tiền gửi nhất định.
Theo Điều 3 Nghị định 89 , khoản 2 điều 1 Nghị định 109 và mục II Thông tư 03/2000/TT-NHNH5 ngày 16/03/2000 về hướng dẫn thi hành Nghị định 89 quy định tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của các cá nhân ( bao gồm người cư trú và người không cư trú ), hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiẹp tư nhân và công ty hợp doanh tham gia bảo hiểm tiền gửi gồm :
- Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn , có kì hạn.
- Tiền gửi không kì hạn , có kì hạn bao gồm cả tiền gửi trên tài khoản cá nhân hay người đại diện theo pháp luật
- Tiền mua các chứng chỉ tiền gửi và các trái phiếu ghi danh do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phát hành.
DIV không bảo hiểm đối với các loại chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu vô danh do tổ chức tham gia baỏ hiểm tiền gửi phát hành, không bảo hiẻm cho các loại tiền gửi bằng ngoại tệ để góp phần thực hiện cơ chế quản lí ngoại hối của Nhà nước. Tuy nhiên trong điều kiện đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng nhiều cũng như nhu cầu trao đổi , dự trữ ngoại tệ của người dân và các tổ chức ngày càng lớn thì việc không bảo hiểm cho các loại tiền này là rất đáng tiếc .
Theo khoản 2 Điều 1 Nghị định 109 quy định không bảo hiểm tiền gửi cho những người trực tiếp hoặc gián tiếp có quyền quyết định sự tồn tại của tổ chức nhận tiền gửi, gồm :
- Tìền gửi của người là cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lj hoặc nắm giữ trên 10% cốn cổ phần có quyền bỏ phiếu của tổ chức tham gia bảo hiẻm tiền gửi đó
- Tiền gửi của thành viên hội đồng quản trị , Ban kiểm soát , Tổng giám đốc (giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc) của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó
Việc không bảo hiểm tièn gửi cho những người trực tiếp tham gia vào việc quản trị, điều hành của chính tổ chức tiín dụng mà mình gửi tiền là đúng mục tiêu của chính sách bảo hiểm tiền gửi, tránh sự lạm dụng , có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào những quyết sách dẫn đến sự phá ssản của ngân hàng.
3.1.3. Các rủi ro được bảo hiểm
Sự phá sản của tổ chức tín dụng
Phá sản là trường hợp các tổ chức tín dụng không thể trả nợ một cách đày đủ hoặc quỹ tín dụng không thể trực tiếp kinh doanh vì thiếu vốn.Trong trường hợp này ,các công việc của tổ chức kinh doanh phải được giao cho ban thanh lí tài sản xử lí các tài sản còn lại theo quy định pháp lí về phá sản của nhà nước.
Sự giải thể bắt buộc của tổ chức tín dụng
Giải thể bắt buộc là do không tuân thủ các quy tắc, luật lệ của nhà nước hoặc có thể do chủ nợ đề nghị toà án ra lệnh tuyên bố giải thể vì tổ chức tín dụng từ chối thanh toán và chỉ có cách này mới hi vọng thu hồi được tiền.
Phải chấp hành lệnh thanh lí vì một lí do khác với việc phá sản hay mất khả năng thanh toán của tổ chức tín dụng
Trường hợp này xảy ra khi cơ quan có thẩm quyền xét thấy quỹ mặc dù vẫn có khả năng thanh toán nhưng không đúng mục đích đã đề ra, không muốn toà án can thiệp mà quyết định thanh lí quỹ không cho hoạt động tiếp .Trong trường hợp này, bảo hiểm sẽ giải quyết bồi thường cho những người gửi tiền nhưng sẽ được thế quyền để được hưởng số tiền thanh lí tài sản hay đòi nợ.
Giải thể tự nguyện do bị đặt trong tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản của tổ chức tín dụng
Tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản của tổ chức tín dụng là tình trạng tổ chức tín dụng bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh hoặc gặp khó khăn khi áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tuy nhiên .không muốn toà án can thiệp ,các cổ đông của tổ chức tín dụng chấp nhận tuyên bố giải thể. Trong trường hợp này, bảo hiểm cũng có trách nhiêm bồi thường đói với các khoản tiền gửi có kì hạn mà tổ chức tín dụng không thanh toán hết sau khi có quyết định giải thể.
Không thể thực hiện việc thanh toán cho những người gửi tiền vì một mệnh lệnh của toà án tối cao đối với tổ chức tín dụng
Xảy ra trong trường hợp tổ chức tín dụng cố ý không thanh toán nợ và chủ nợ đệ đơn lên toà án để có lệnh bắt buộc quỹ phải tuyên bố phá sản hay thanh lí để trả nợ, các chủ nợ cho rằng chỉ có cách này họ mới thu được các khoản nợ.Lệnh của toà án được áp dụng khi:
- Tổ chức tín dụng không có phương án hoà giải và có giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng theo yêu cầu của toà án
- Tổ chức tín dụng không tham gia hội nghị chủ nợ để trình bày các phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng
- Trong thời hạn tổ chức lại kinh doanh, tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng những thoả thuạn tại hội nghị của chủ nợ và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản.
- Hết thời hạn tổ chức lại hoạt động kinh doanh mà tổ chức tín dụngvẫn kinh doanh không hiệu quả và các chủ nợ yêu cầu toà án phải có tuyên bố phá sản tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên trong bảo hiểm tiền gửi cũng có những rủi ro loại trừ. Những rủi ro loại trừ (không thuộc phạm vi bảo hiểm) là những rủi ro gây ra sự phá sản, thanh lý hay giải thể một tổ chức tín dụng trong các trường hợp:
- Vi phạm nghiêm trọng các quy định về tiền tệ tín dụng, thanh toán đã nêu trong pháp lệnh ngân hàng của các tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng có điều lệ và quy chế hoạt động riêng nhưng cũng tuân thủ các quy định hiện hành khác của nhà nước. Nếu tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng các quy định tiền tệ, tín dụng ,thanh toán của ngân hàng dẫn đến phá sản thì bảo hiểm không bồi thường
- Giải thể tự nguyện vì nguyên nhân:
+ Do cổ đông nhận thấy mục tiêu khi thành lập tổ chức tín dụng không đạt được.
+ Do cổ đông muốn thu hồi vốn hoặc có nhu cầu cải tổ lại cơ cấu của tổ chức tín dụng.
- Ngừng hoạt động do những nguyên nhân:
Tổ chức tín dụng ngừng hoạt động do chiến tranh, đình công , bạo loạn dân sự, nội chiến. Dây là những rủi ro loại trừ thông thường không liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ. Khi tổ chức tín dụng bị phá sản, thanh lí ,giải thể do các rủi ro này bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm bồi thường cho người gửi tiền.
3.1.4. Công tác bồi thường
Khi xảy ra tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm, tổ chức tín dụng phải báo ngay cho công ty bảo hiểm biết kèm theo các giấy tờ:
- Giấy yêu cầu bồi thường
- Giấy chứng nhận tham gia bảo hiểm
- Báo cáo thực trạng đến ngày xảy ra rủi ro
- Lệnh của toà án,tuyên bố phá sản, quyết định giải thể hay thanh lí.
- Bản kê danh sách những người gửi tiền chưa được thanh toán tính đến ngày xảy ra rủi ro
- Bản kê khai chi tiết dư nợ cho vay tính đén ngày xảy ra rủi ro
Sau khi xem xét các chứng từ có liên quan tới việc trả tiền bồi thường cho quỹ tín dụng và người gửi tiền đến và nếu thuộc phạm vi bảo hểm thì bảo hiểm sẽ trả tiền bồi thường cho người gửi tiền
Số tiền bồi thường cao nhất của bảo hiểm là số dư tiền gửi thực tế (chỉ tính gốc không tính lãi) vào thời điểm quỹ tín dụng xảy ra rủi ro nhưng không vượt quá số tiền ghi trong hợp đồng bảo hiểm.
3.1.5. Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là số tiền mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ chi trả cho người gửi tièn trong trường hợp tổ chưc tham gia bảo hiểm tièn gửi bị mất khả năng thanh toán và nằm trong phạm vi bảo hiểm. Số tiền này chính là số dư của các loại tiền gửi có kì hạn và không có kì hạn thuộc đối tượng bảo hiểm trong báo cáo số dư tiền gửi của mỗi quý gửi tổ chức tín dụng
3.2. Các hoạt động nghiệp vụ chính của DIV
3.2.1. Nghiệp vụ kiểm tra tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
Nghiệp vụ này đóng vai trò quan trọng trong công tác kiểm soát hoạt động của các tổ chức tín dụng. Hoạt động kiểm tra tại chỗ gồm kiểm tra thường xuyên theo kế hoạch và kiểm tra theo chỉ định. Công tác kiểm tra tiến hành theo 2 phương diện: kiểm tra việc thực hiện các quy định vè bảo hiểm tiền gửi và quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. Trong công tác kiểm tra chấp hành các quy định về bảo hiểm tiền gửi, DIV chủ yếu kiểm tra hồ sơ pháp lí khi tham gia bảo hiểm tiền gửi, việc niêm yết chứng nhận bảo hiểm tiền gửi, tính đầy đủ trong nộp phí,chấp hành thời hạn nộp phí và nộp phạt (nếu có) và kiểm tra việc cung cấp thông tin cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Công tác kiểm tra của DIV có sự phối hợp chặt chẽ với thanh tra ngân hàng nhà nước để tránh trùng lặp, giảm lãng phí về thời gian cũng như tiền bạc. Ngoài ra, việc kiểm tra các tổ chức tín dụng thực hiện các quy chế an toàn trong hoạt động ngân hàng được đặc biệt quan tâm để phát hiện sớm những vi phạm các quy định có thể ảnh hưởng tới quyền lợi của người gửi tiền, từ đó đưa ra biện pháp ngăn chặn kịp thời
3.2.2. Nghiệp vụ giám sát tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
Bên cạnh hoạt động kiểm tra, DIV còn thực hiện nghiệp vụ giám sát từ xa đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tăng cường hạn chế rủi roc ho các tổ chức tín dụng,DIV đã xây dựng một hệ thống các chi tiêu giám sát đánh giá chung về hoạt động của tổ chức tín dụng.Trên cơ sở bảng cân đối kế toán , báo cáo thống kê của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đồng thời kết hợp với biên bản kiểm tra và dữ liệu do cục công nghệ thông tin ngân hàng cung cấp, DIV phân tích đánh giá tình hình hoạt động, việc tuân thủ các quy định pháp luật về bảo hiểm tiền gửi, xác định chính sách rủi ro tiềm ẩn có thể gây tổn hại đến hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Kết quả của công tác giám sát phản ánh tình hình nộp phí bảo hiểm, tình hình tuân thủ quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng, sau đó đưa ra các thông báo, cảnh báo cần thiết cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Nghiệp vụ kiểm tra giám sát của DIV luôn có sự phối hợp, thúc đẩy, bổ sung cho nhau nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức tín dụng và tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
3.2.3. Nghiệp vụ chi trả tiền bảo hiểm và theo dõi chi trả
Trong trường hợp tổ chưc tham gia bảo hiểm tiền gửi bị mất khả năng thanh toán, bị phá sản hoặc bị chấm dứt hoạt động, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải làm thủ tục trình DIV xem xét để được chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm tại tổ chức đó. Hộ sở chính hoặc chi nhánh khu vực theo địa bàn phụ trách của DIV sẽ tiến hành tổ chức chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tièn ngay tại địa bàn của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó theo một cách nhanh gọn và thuận lợi. Người được chi trả có thể nhận trực tiếp tiền mặt tại địa bàn hoặc có thể đè nghị chuyển tiền ua ngânh hàng họăc qua bưu điện để đến một địa điểm khác. Hiện nay, theo khoản 8 và khoản 10 điều 1 nghị định 109 quy định DIV có thể trực tiếp chi trả cho người gửi tiền được bảo hiểm hoặc thông qua tổ chức tín dụng để thực hiện việc này. Quy điịnh trên làm cho DIV chủ động hơn trong việc tổ chức thực hiện chức năng của mình. Theo quy định mới thì người được chi trả có them một chọn lựa là có thể nhận tiền ở các chi nhánh của DIV nơi mà tổ chức nhận tiền gửi đó tham gia bảo hiểm
Sau khi tiến hành chi trả, tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ theo dõi việc thanh lí tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi để đôn đốc việc thu hồi thanh lí tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi được chi trả, giám sát việc thanh toán cho các chủ nợ để đảm bảo trả nốt phần tiền gửi mà người gửi tiền trên hạn mức chi trả đã được DIV thực hiện và hoàn DIV tiền đã chi trả. Chỉ thị số 06/2003/CT-NHNN ngày 21/10/2003 quy định DIV được quyền tham gia vào hội đồng thanh lí tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi được chi trả tiền bảo hiểm, nhờ đó bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tốt hơn.
3.2.4. Nghiệp vụ tuyên truyền quảng cáo
Do bảo hiểm tiền gửi là một hoạt động khá mới mẻ đối với người dân Việt Nam nên công tác tuyên truyền, quảng cáo đã được tiến hành dưới nhiều hình thức nhằm cung cấp thông tin về hoạt động bảo hiểm tiền gửi tới mọi người và giúp họ có cái nhìn toàn diện và đúng đắn về quyền lợi , trách nhiệm của người gửi tiền, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi và quan trọng hơn là mục đích cũng như vai trò của hoạt động này. DIV đã tổ chức hội thảo với sự góp mặt của đại diện các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, các cơ quan chính quyền điah phương liên quan, các cơ quan thông tấn báo chí và chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh và thành phố tại tất cả các tỉnh và thành phố. Không những thế, các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi cũng bắt đầu niêm yết giấy chứng nhận bảo hiểm và quảng cáo về hoạt động bảo hiẻm tiền gửi tới công chúng. DIV đã có trang Wed chính thức trên mạng Internet để theo dõi thông tin về hoạt động này có hiệu quả hơn
3.2.5. Nghiệp vụ hỗ trợ khách hàng
Đây là nghiệp vụ mới của DIV, công tác này nhằm đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền và dã được triển khai một cách tích cực dưới nhiều hình thức như:
- Hỗ trợ tài chính đối với tổ cức tham gia bảo hiểm tiền gửi
- Giúp cho nhiều đơn vị tham gia bảo hiểm tiền gửi nhìn nhận một cách khách quan nguyên nhân những sai sót và bất cập trong công tác quản trị, điều hành hoạt động, hướng dẫn nghiệp vụ, tư vấn các biện pháp cụ thể nhằm khắc phục yếu kém về quản lí tín dụng, phòng ngừa rủi ro…..
- Hỗ trợ việc củng cố, chấn chỉnh và hoạt động có hiệu quả
Hoạt động này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động tiền gửi của hệ thống ngân hàng và thúc đẩy hoạt động tài chính ở Việt Nam.
3.3. Đánh giá hoạt động của DIV.
3.3.1. Những kết quả đạt được
Kể từ khi thành lập và đi vào hoạt động đến nay, thời gian là chưa nhiều với một tổ chức, nhưng bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã có nhiều cố gắng để đạt được những kết quả khả quan, ban đầu phải kể đến:
- Về tài chính, DIV đã có được một nguồn lực nhất định để có thể xử lí ngay các vấn đề khó khăn. Vốn điều lệ của DIV được nhà nước cấp là 1000 tỉ đồng. Kết hợp với nguồn thu phí, DIV đã đầu tư dưới nhiều hình thức như trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc, tiền gửi có kì hạn của các tổ chức tin dụng nhà nước theo đúng quy định, đảm bảo an toàn, bảo toàn vốn và bù đắp chi phí.Sau 5 năm hoạt động, ngoài việc chi trả người gửi tiền và chi phí hoạt động, BHTGVN đã tích luỹ và phát triển từ số vốn ban đầu lên trên 1.600 tỷ đồng, đảm bảo được các mục tiêu do Chính phủ giao phó, đồng thời bảo vệ và tối ưu hoá đồng vốn của ngân sách.
- Về công nghệ, đã bước đầu áp dụng nhiều công nghệ mới để thu thập được thông tin về các cơ quan liên quan, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi giúp thực hiện giám sát và quản lí tài chính
- Về cơ cấu đã thành lập 14 phòng ban tại trụ sở chính tham mưu cho hội đồng quản trị và tổng giám đốc, thành lập 6 chi nhánh khu vực mở rộng phạm vi mạng lưới đồng thời triển khai được chức năng, nhiệm vụ của DIV đến từng khu vực, xây dựng bộ máy hoạt động tương đối hoàn chỉnh, về cơ bản đã đáp ứng được nhu càu hiện tại.
- Về hoạt động nghiệp vụ đã triển khai có hiệu quả chính sách của nhà nước về bảo hiểm tiền gửi, cấp và thu hồi giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi, thu phí, kiểm tra và giám sát tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, chi tiền bảo hiểm, xử lí nợ, đầu tư tài chính, góp phần thu hút nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư. Với mạng lưới rộng khắp, BHTGVN đã cấp chứng nhận BHTG cho trên 1000 tổ chức nhận tiền gửi; triển khai tốt các nghiệp vụ giám sát từ xa, cảnh báo sớm, thực hiện gần 1.500 cuộc kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi và an toàn trong hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Tiếp sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, trong 5 năm qua, BHTGVN đã xử lý 33 quỹ tín dụng bị đổ bể, chi trả trên 16 tỷ đồng cho người gửi tiền mà không sử dụng đến vốn do Nhà nước cấp, đảm bảo sự ổn định hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, nâng cao niềm tin công chúng vào hệ thống tài chính quốc gia.
3.3.2. Một số vấn đề tồn tại
Hoạt động của BHTGVN đang được điều chỉnh bởi Nghị định 89 và Nghị định 109 (sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 89). Mặc dù đã được sửa đổi nhưng vẫn còn nhiều bất cập về pháp lý trong triển khai dịch vụ mới do hầu hết các lĩnh vực liên quan tới hoạt động của BHTG đều đã có luật điều chỉnh. Phạm vi bảo vệ quyền lợi người gửi tiền còn hạn chế ở quỹ tín dụng, ngân hàngthương mại và công ty tài chính, chưa mở rộng tới các tổ chức nhận tiền gửi khác nhu ngân hàng chính sách xã hội, tiết kiệm bưu điện. Như vậy một bộ phận lớn người gửi tiền chưa được bảo vệ lợi ích và Nhà nước chưa tạo môi trường kinh doanh tiền tệ - tín dụng một cách bình đẳng.Cơchế thu phí bảo hiểm đồng hạng cố định không phân biệt theo rủi ro đi ngược lại nguyên tắc bảo hiểm và không tạo ra sự công bằng giữa các tổ chức nhận tiền gửi lành mạnh và các tổ chức có vấn đề. Năng lực tài chính thể hiện qua vốn điều lệ và các quỹ nghiệp vụ(1.600 tỷ VNĐ) thấp, vì vậy BHTGVN gặp rất nhiều khó khăn trong việc triển khai các nghiệp vụ như hỗ trợ tài chính và nâng cao quyền lợi người gửi tiền.
3.4. Định hướng phát triển trong thời gian 2006-2015
3.4.1. Sự cần thiết của việc xây dựng chiến lược phát triển 2006-2015
- Chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế vĩ mô Việt nam đến 2015 đặt ra xu hướng chuyển mạnh sang nền kinh tế được điều tiết bởi thị trường. Các tổ chức kinh tế, tài chính Nhà nước trong đó có BHTGVN vì vậy cần xây dựng một kế hoạch chiến lược dài hạn nhằm chuyển dịch từng bước cơcấu tổ chức, hoạt động phù hợp với môi trường kinh tế mới.
- Xu hướng toàn cầu hoá và các cam kết mạnh mẽ của Chính phủ Việt nam về tham gia WTO, khối ASEAN, khu vực mậu dịch tự do AFTA, các hiệp định hợp tác thương mại song phương BTA đặt ra các điều kiện tuân thủ và chuẩn mực mới cho khu vực tài chính ngân hàngmà BHTGVN sẽ phải tái cấu trúc và mở rộng hoạt động theo một lộ trình dài hạn mới có thể đáp ứng được đòi hỏi của hội nhập.
- Tốc độ phát triển của ngành tài chính ngân hàng trong môi trường ngày càng hàm chứa các yếu tố bất ổn, rủi ro cao đặt ra yêu cầu BHTGVN cần đưa ra chính sách phát triển mới mang tính liên tục và dài hạn nhằm đảm bảo sự an toàn, ổn định của hệ thống tài chính quốc gia, quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền và phát triển nguồn tài chính của Nhà nước giao cho BHTGVN quản lý.
- Cuộc cách mạng về Công nghệ Thông tin đặt ra yêu cầu về chuyển đổi mô hình quản lý, quy trình tác nghiệp và tưduy kinh doanh cho bất cứ định chế tài chính nào. BHTGVN cần xây dựng một chiến lược ứng dụng CNTT nhằm tối ưu hoá hoạt động, đáp ứng được yêu cầu về sản phẩm dịch vụ đối với các tổ chức nhận tiền gửi.
3.4.2. Định hướng chiến lược phát triển giai đoạn 2006-2015
Chiến lược phát triển của BHTGVN giai đoạn 2006 – 2015 nhằm xây dựng và củng cố vị thế của BHTGVN trong hệ thống tài chính quốc gia với hai chức năng chính là :
- Kiểm soát hợp nhất liên quan tới rủi ro quốc gia, bảovệ người gửi tiền. Chức năng này được mởrộng tới hệ thống và năng lực kiểm soát bao gồm hệ thống giám sát, cảnh báo sớm và kiểm tra tại chỗ dựa trên hệ thống quản lý thông tin của BHTGVN và sự phối hợp chia sẻ thông tin với NHNN, BTC, các ban ngành liên quan của Chính phủ, chính quyền địa phương.
- Hoạt động đầu tưtrên thị trường tài chính bao gồm nhưng không giới hạn ở thị trường vốn, thị trường ngoại hối, thị trường chứng khoán dựa trên một cơchế quản lý định mức thanh khoản và mức độ rủi ro cho phép BHTGVN đưa ra quyết định đầu tưcác phần vượt định mức thanh khoản và trong khoản rủi ro cho phép nhằm tối ưu hoá khả năng thu hồi và nâng cao tiềm lực tài chính của BHTGVN.
Để thực hiện tốt hai chức năng trên, chiến lược phát triển bền vững của BHTGVN dựa trên 5 trụ cột sau đây:
Trụ cột 1: Xây dựng, củng cố cơ sở hạ tầng pháp lý
Xây dựng Luật Bảo hiểm Tiền gửi;
Trụ cột 2: Củng cố tăng cường năng lực tài chính và đảm bảo tính minh bạch hệ thống
Sử dụng nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn tự tích luỹ, vốn vay ưu đãi từ các tổ chức tài chính quốc tếđể tăng vốn Điều lệ/các quỹ đến 5.000 tỷ đồng vào 2006, 10.000 tỷ đồng vào 2010 và 30.000 tỷ đồng vào năm 2015; Thay thế phương thức thu phí đồng hạng bằng mức phí bảo hiểm trên cơsởrủi ro;
Ứng dụng các tiêu chuẩn BIS, BASEL I, BASLE II và xây dựng quy trình hoạt động theo tiêu chuẩn ISO.
Trụ cột 3: Phát triển đa dạng hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm – dịch vụ và hội nhập quốc tế
Mở rộng phạm vi loại tiền gửi được bảo hiểm bao gồm tiền đồng Việt nam và ngoại tệ. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi; Chuyển dần một số hoạt động có đủ điều kiện, đặc biệt các nghiệp vụ đầu tư hạch toán kinh tế; Thành lập một số công ty trực thuộc thực hiện nghiệp vụ mua bán nợ, đầu tư, quản lý vốn, các trung tâm đào tạo, trung tâm CNTT.
Trụ cột 4: Tái cấu trúc bộ máy, Phát triển nguồn nhân lực và nâng cao năng lực quản lý
Tái cấu trúc bộ máy theo hướng lấy khách hàng làm tâm điểm. Quản lý hoạt động theo các khối khách hàng; Phát triển nguồn nhân lực và đào tạo theo hướng chuyên nghiệp, đảm bảo năng lực chuyên môn, kỹ năng quản lý và đạo đức nghề nghiệp; Hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo chuyên nghiệp cho cán bộ nhân viên BHTGVN.
Trụ cột 5: Xây dựng và phát triển cơsở hạ tầng công nghệ thông tin
Xây dựng hệ thống CNTT theo hướng quản lý tập trung, kết nối trực tuyến với các khách hàng lớn, xử lý theo thời gian thực; Xây dựng các hệ thống quản lý quan hệ khách hàng, quản lý thông tin.
Dựa trên 5 trụ cột phát triển bền vững, BHTGVN xác định nhiệm vụ, tầm nhìn và giá trị tổ chức trong giai đoạn 2006 – 2015 như sau:
* Nhiệm vụ của BHTGVN:
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là một tổ chức tài chính Nhà nước đặc biệt, đóng góp vào việc nâng cao niềm tin của công chúng và sự ổn định của hệ thống tài chính quốc gia bằng các công cụ bảo hiểm tiền gửi, giám sát và kiểm tra, các hoạt động tiếp nhận và xử lý.
* Tầm nhìn của BHTGVN
Xây dựng BHTGVN trở thành một định chế tài chính lớn mạnh, phát triển bền vững và hoạt động hiệu quả phù hợp với các thông lệ quốc tế, bảo vệ tốt nhất quyền lợi người gửi tiền, nâng cao niềm tin công chúng và sự ổn định của hệ thống tài chính quốc gia.
* Giá trị về mặt tổ chức của BHTGVN
BHTGVN xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp đảm bảo các tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, có khả năng làm việc nhạy bén, sáng tạo và hiệu quả trên tinh thần hợp tác, bình đẳng, thận trọng, trung thực và gắn bó với tổ chức
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC TRIỂN KHAI BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
1. Nhóm giải pháp xây dựng, củng cố cơ sở hạ tầng pháp lý
Trình các cấp có thẩm quyền trong năm 2006 bổ sung chương trình xây dựng Luật Bảo hiểm Tiền gửi. Mục tiêu là Luật Bảo hiểm Tiền gửi được Quốc hội thông qua và ban hành vào năm 2008-2010.
2. Nhóm giải pháp tăng cường năng lực tài chính, minh bạch hệ thống
Đảm bảo vốn điều lệ tối thiểu 5.000 tỷ từ các nguồn Ngân sách, tự bổ sung và vay ưu đãi từ các tổ chức quốc tế vào năm 2006. Phấn đấu đến 2008, đảm bảo mức vốn điều lệ/các quỹtừ 3,5% đến 6% trên tổng giá trị tiền gửi được bảo hiểm;
3. Nhóm giải pháp đa dạng hoá, nâng cao chất lượng sản phẩn dịch vụ
Chuyển dần một số hoạt động nghiệp vụ đủ điều kiện sang hạch toán kinh doanh từ 2006 đến 2015;
Từng bước mở rộng phạm vi bảo hiểm tiền gửi nhằm đảm bảo công bằng cho người gửi tiền tại Tiết kiệm Bưu điện, ngân hàng chính sách bắt đầu từ 2006; Mở rộng loại tiền tệ được bảo hiểm để nâng cao quyền lợi người gửi tiền và thu hút ngoại tệ vào các kênh huy động vốn chính thức từ 2006.
4. Nhóm giải pháp tái cấu trúc bộ máy, phát triển nguồn nhân lực
Từng bước tái cấu trúc cơ cấu tổ chức theo nhóm khách hàng từ 2006 – 2010;Thành lập công ty mua bán nợ vào 2007; Thành lập các trung tâm đào tạo, trung tâm CNTT khi đủ điều kiện; Xây dựng chương trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực theo hướng chuyên nghiệp từ 2005.
5. Nhóm giải pháp xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng CNTT
Xây dựng các ứng dụng cơ bản cho từng loại hình nghiệp vụ BHTG từ 2006; Triển khai các ứng dụng phần mềm quản lý và kiểm soát trên toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân dân trong 2006-2007; Xây dựng và triển khai dự án hiện đại hoá BHTGVN từ 2006-2007. Thành lập trung tâm CNTT vào năm 2007.
KẾT LUẬN
Có thể nói, với xu thế hội nhập ngày nay và quá trình toàn cầu hoá hiện nay. Nhất là khi Việt Nam đã ra nhập WTO, với sự đầu tư ngày càng mạnh mẽ của các nước vào Việt Nam. Nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi ngày càng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, nó không chỉ thúc đẩy, mà kéo theo sự phát triển của nó còn là sự tồn tại của hệ thống ngân hàng. Do có có thể nói là sự phát triển của toàn nền kinh tế liên quan chặt chẽ đến việc phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm này.
Ngoài ra, với việc hoạt động có hiệu quả, bảo hiểm tiền gửi cũng giúp cho người gửi tiền cảm thấy an toàn hơn khi gửi tiền vào ngân hàng, tăng cường niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng quốc gia, do vậy tạo sự an toàn và phátt triển lành mạnh cho hệ thống ngân hàng, dẫn đến việc thu hút vốn của ngân hàng tốt hơn, thuận lợi cho việc đầu tư phát triển vào các lĩnh vực khác nhằm thu lợi nhuận, đẩy mạnh sự phát triển của mình…
Tóm lại việc xây dựng, đầu tư, phát triển một nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi là rất quan trọng và cần thiết.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế Bảo hiểm- Bộ môn Bảo Hiểm- Trường ĐH Kinh tế quốc dân
Luận văn tốt nghiệp của khoá 44, 45.
– Website của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
-
-
-
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0108.doc