Trong thời gian gần đây, thị trường chứng khoán ngày càng trở nên sôi động và là tâm điểm chú ý của các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư quốc tế. Với vài năm hoạt động, sự phát triển của thị trường chứng khoán đã khẳng định vai trò là trung gian dẫn vốn hiệu quả và trở thành động lực thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Quy mô và tầm vóc của thị trường ngày càng được mở rộng, chỉ số VN-Index đã có những bước đi thăng trầm đầy ngoạn mục. Năm 2006 được đánh dấu là năm bùng nổ của thị trường chứng khoán, chỉ số VN-Index tăng lên đột biến tạo đà cho sự bứt phá trên ngưỡng 1000 điểm vào đầu năm 2007. Thị trường chứng khoán phát triển quá nóng, và không ổn định, lịch sử hình thành và phát triển đã cho thấy sự biến động ngoài quy luật của chỉ số VN-Index. Và trong thời gian gần đây chỉ số VN-Index giảm liên tục gây ra tâm lý bất ổn cho các nhà đầu tư. Thị trường có sự sụt giảm nhất định trong ngắn hạn và sẽ phục hồi trở lại bởi thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất tiềm năng. Gia nhập WTO mang lại cho Việt Nam rất nhiều thuận lợi, nền kinh tế đang trên đà phát triển nhanh, một con số rất lớn công ty nhà nước đầy triển vọng đã cổ phần hóa và đang xếp hàng đợi lên sàn trong thời gian tới, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục nhìn nhận đầy triển vọng về thị trường chứng khoán Việt Nam, với sự tham gia của các quỹ đầu tư, các ngân hàng thương mại, các tổ chức chuyên nghiệp Làm cho thị trường vận hành ngày càng chuyên nghiệp và phát triển theo đúng hướng, tất cả đều hứa hẹn một sự tăng trở lại ấn tượng của chỉ số VN-Index.
27 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1931 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Xu hướng biến động về giá của thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn bộc lộ sự non trẻ biểu hiện rõ nhất là sự biến động của giá chứng khoán trong thời gian qua. Qua tìm hiểu bài viết tôi mong muốn trình bày một số nhận định về sự biến động giá của cổ phiếu trong thời gian qua và trong thời gian tới.
B. NỘI DUNG
I. TỔNG QUAN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Khái niệm thị trường chứng khoán:
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay là bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tùy theo tính chất sở hữu của chúng.
Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp hay thị trường thứ cấp, tại sở giao dịch hay thị trường chứng khoán phi tập trung, ở thị trường giao ngay hay thị trường có kỳ hạn. Các quan hệ trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như vậy, thực chất đây là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
Thị trường chứng khoán không giống với thị trường các hàng hóa khác vì hàng hóa của thị trường chứng khoán là một loại hàng hóa đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hóa này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy có thể nói, bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa.
2. Vai trò của thị trường chứng khoán
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực với sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới (WTO), của liên minh Châu Âu, của các khối thị trường chung, đòi hỏi các quốc gia phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả cao. Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán trong phát triển kinh tế :
Thứ nhất, thị trường chứng khoán, với việc tạo ra các công cụ tài chính có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế.
Thứ hai, thị trường chứng khoán góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng, giải tỏa sự tập trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn, song vẫn tập trung vốn cho phát triển kinh tế. Việc tăng cường tầng lớp trung lưu trong xã hội, tăng cường giám sát của xã hội đối với quá trình phân phối đã giúp nhiều nước tiến xa hơn tới một xã hội công bằng và dân chủ. Việc giải tỏa tập trung quyền lực kinh tế cũng tạo điều kiện cạnh tranh công bằng hơn, qua đó tạo hiệu quả và tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp. Khi quy mô của doanh nghiệp tăng lên, môi trường kinh doanh trở nên phức tạp hơn, nhu cầu về quản lý chuyên trách cũng tăng theo. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc tiết kiệm vốn và chất xám, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế thông tin hoàn hảo tạo khả năng giám sát chặt chẽ của thị trường chứng khoán đã làm tác động của các tiêu cực trong quan lý, tạo điều kiện kết hợp hài hòa giữa lợi ích của chủ sở hữu, nhà quản lý và những người làm công.
Thứ tư, hiệu quả của quốc tế hóa thị trường chứng khoán. Việc mở cửa của thị trường chứng khoán làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều này cho phép các công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường đầu tư nguồn tiết kiệm bên ngoài, đồng tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng các cơ hội kinh doanh của các công ty trong nước.
Thứ năm, thị trường chứng khoán tạo cơ hội cho chính phủ huy động các nguồn lực tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ.
Thứ sáu, thị trường chứng khoán cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh trong tương lai. Việc thay đổi giá chứng khoán có xu hướng đi trước chu kỳ kinh doanh cho phép chính phủ cũng như các công ty đánh giá kế hoạch đầu tư cũng như việc phân bổ các nguồn lực của họ. Thị trường chứng khoán cũng tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế.
Ngoài những tác động tích cực trên đây, thị trường chứng khoán cũng có những tác động tiêu cực nhất định. Thị trường chứng khoán hoạt động trên cơ sở thông tin hoàn hảo nhất định. Song ở các thị trường mới nổi, thông tin được chuyển đổi tới các nhà đầu tư không đầy đủ và không giống nhau. Việc quyết định giá cả, mua bán chứng khoán của các nhà đầu tư không dựa trên cơ sở thông tin và xử lý thông tin. Như vậy giá cả chứng khoán không phản ánh giá trị kinh tế cơ bản của công ty và không trở thành cơ sở để phân phối một cách có hiệu quả các nguồn lực.
Một số tiêu thức khác của thị trường chứng khoán như hiện tượng đầu cơ, hiện tượng xung đột quyền lực làm thiệt hại quyền lợi của các cổ đông thiểu số, việc mua bán nội gián, thao túng thị trường làm nản lòng các nhà đầu tư và như vậy, sẽ tác động tiêu cực tới tiết kiệm và đầu tư. Nhiệm vụ của nhà quản lý thị trường là giảm thiểu các tiêu cực của thị trường nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư và đảm bảo tính hiệu quả của thị trường.
Như vậy, vai trò của thị trường chứng khoán thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau. Song vai trò tích cực hay tiêu cực của thị trường chứng khoán có thực sự phát huy hay hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia thị trường và sự quản lý của nhà nước.
3. Các chỉ tiêu tài chính
3.1. Chỉ tiêu
Vốn điều lệ : là số vốn do tất cả các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ của công ty.
Cổ phiếu đang lưu hành : là số lượng cổ phiếu của công ty hiện đang lưu hành trên thị trường.
Cổ phiếu quỹ : là cổ phiếu đã phát hành và được mua, bán lại trên thị trường bởi chính tổ chức phát hành.
3.2. Kết quả hoạt động kinh doanh
Tổng tài sản : là giá trị của toàn bộ tài sản hiện có của công ty tính đến thời điểm lập báo cáo.
Vốn chủ sở hữu : là nguồn vốn thuộc sở hữu của công ty, vốn chủ sở hữu thường bao gồm vốn góp ban đầu, lợi nhận chưa chia, phát hành cổ phiếu mới, các quỹ của công ty.
Doanh thu thuần : là tổng số doanh thu bán hàng ( trừ đi các khoản giảm trừ) công ty đạt được trong năm.
Lợi nhuận sau thuế : là tổng số tiền thực lãi ( lợi nhuận trước thuế - thuế thu nhập doanh nghiệp ) công ty thu về trong năm.
3.3. Hệ số khả năng thanh toán
3.3.1. Hệ số thanh toán ngắn hạn
Tổng tài sản lưu động
Hệ số thanh toán ngắn hạn = --------------------------------
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của công ty, nó cho biết tỷ lệ các khoản nợ ngắn hạn của công ty được trả bằng các tài sản tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó.
Hệ số này của từng công ty thường được so sánh với hệ số trung bình của ngành, tuy nhiên mỗi ngành sẽ có một hệ số trung bình khác nhau.
3.3.2. Hệ số thanh toán nhanh
Tổng tài sản lưu động – hàng tồn kho
Hệ số thanh toán nhanh = -----------------------------------------------
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này nói lên việc công ty có nhiều khả năng đáp ứng việc thanh toán nợ ngắn hạn vì công ty dễ dàng chuyển từ tài sản lưu động về tiền mặt.
Hệ số này cũng thường được so sánh với hệ số trung bình của ngành, thông thường khả năng thanh toán của công ty được đánh giá an toàn khi hệ số này > 0,5 lần vì công ty có thể trang trải các khoản nợ ngắn hạn mà không cần đến các nguồn thu hay doanh số bán.
3.4. Hệ số khả năng sinh lời
3.4.1. Hệ số tổng lợi nhuận
Doanh số - trị giá hàng đã bán theo giá mua
Hệ số tổng lợi nhuận = -------------------------------------------------------
Doanh số bán
Hệ số này cho biết mức độ hiệu quả khi sử dụng các yếu tố đầu vào ( vật tư, lao động ) trong một quy trình sản xuất của doanh nghiệp.
Trong thực tế khi muốn xem các chi phí này có cao quá hay không là đem so sánh hệ số tổng lợi nhuận của công ty với hệ số của các công ty cùng ngành, nếu hệ số tổng lợi nhuận của các công ty đối thủ cạnh tranh cao hơn thì công ty cần giải pháp tốt hơn trong việc kiểm soát các chi phí đầu vào.
3.4.2. Hệ số lợi nhuận ròng
Lợi nhuận sau thuế
Hệ số lợi nhuận ròng = ----------------------------
Doanh thu thuần
Hệ số lợi nhuận ròng phản ánh khoản thu nhập ròng ( thu nhập sau thuế ) của một công ty so với doanh thu của nó. Hệ số này càng cao thì càng tốt vì nó phản ánh hiệu quả hoạt động của công ty.
Trên thực tế mức lợi nhuận ròng giữa các ngành là khác nhau, còn trong bản thân một ngành thì công ty nào quản lý và sử dụng yếu tố đầu vào tốt hơn thì sẽ có hệ số lợi nhuận cao hơn. Đây là một trong các biện pháp quan trọng đo lường khả năng tạo lợi nhuận của công ty năm nay so với các năm khác.
3.4.3. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản ( ROA )
Lợi nhuận sau thuế
ROA = ---------------------------
Tổng tài sản
ROA là hệ số tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư. ROA cho biết cứ một đồng tài sản thì công ty tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận và ROA đánh giá hiệu suất sử dụng tài sản của công ty.
Hệ số này càng cao thì cổ phiếu càng có sức hấp dẫn hơn vì hệ số này cho thấy khả năng sinh lợi từ chính nguồn tài sản hoạt động của công ty.
3.4.4. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có ( ROE )
Lợi nhuận sau thuế
ROE = -------------------------------
Vốn chủ sở hữu
ROE cho biết một đồng vốn tự có tạo được bao nhiêu lợi nhuận. ROE càng cao thì khả năng cạnh tranh của công ty càng mạnh và cổ phiếu của công ty càng hấp dẫn, vì hệ số này cho thấy khả năng sinh lời và tỷ suất lợi nhuận của công ty, hơn nữa tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là mục tiêu quan trọng trong hoat động quản lý tài chính của công ty.
3.5. Hệ số cơ cấu tài chính
3.5.1. Hệ số nợ
Nợ phải trả
Hệ số nợ = ---------------------
Tổng tài sản
Hệ số này cho biết phần trăm tổng tài sản của công ty được tài trợ bằng các khoản nợ là bao nhiêu.
Hệ số nợ thấp có thể cho thấy việc sử dụng nợ không hiệu quả, còn hệ số nợ cao thể hiện gánh nặng về nợ lớn, như vậy một hệ số nợ/tổng tài sản là hợp lý sẽ tùy thuộc vào nhu cầu và khả năng tự tài trợ của công ty.
3.5.2. Hệ số cơ cấu nguồn vốn
Lợi nhuận sau thuế
Hệ số cơ cấu nguồn vốn = -------------------------------
Vốn chủ sở hữu
Hệ số này phản ánh tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn của công ty.
Để xác định mức độ phù hợp về tỷ lệ vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn của công ty sẽ phụ thuộc rất lớn vào hoạt động và chính sách của từng công ty cũng như của từng ngành.
3.6. Các chỉ số về cổ phiếu
3.6.1. Cổ tức: là số tiền hàng năm được trích từ lợi nhuận của công ty để trả cho mỗi cổ phiếu mà cổ đông nắm giữ.
3.6.2. Thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS)
Lợi nhuận ròng – cổ tức ưu đãi
EPS = --------------------------------------------
Số lượng cổ phiếu phổ thông
EPS cho biết nhà đầu tư được hưởng lợi nhuận trên mỗi cổ phần mà họ đang nắm giữ hàng năm là bao nhiêu. Chỉ số này càng cao thì càng được đánh giá tốt vì khi đó khoản thu nhập trên mỗi cổ phiếu sẽ cao hơn.
3.6.3. Giá trên thu nhập của cổ phiếu (P/E)
Giá thị trường
P/E = ---------------------------------------
Thu nhập của mỗi cổ phiếu
Hệ số P/E đo lường mối quan hệ giữa giá thị trường ( market price – P) và thu nhập của mỗi cổ phiếu (earning per share – EPS).
P/E cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao nhiêu lần, hay nhà đầu tư phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn để có được một đồng thu nhập.
Nếu P/E cao điều đó có nghĩa là người đầu tư dự kiến công ty đạt tốc độ tăng trưởng cao trong tương lai. Thông thường cổ phiếu được đánh giá tốt khi tỷ lệ P/E nằm trong khoảng giá trị 10 lần.
3.6.4. Cổ tức trên thu nhập (D/E)
Cổ tức
D/E = --------------------------------------
Thu nhập của mỗi cổ phiếu
Hệ số này đo lường tỷ lệ phần trăm lợi nhuận ròng trả cho cổ đông phổ thông dưới dạng cổ tức. Hệ số này càng cao thì cổ phiếu đó càng nhận được sự quan tâm của các nhà đầu tư, bởi lẽ họ sẽ được trả mức cổ tức cao cho mổi cổ phiếu nắm giữ.
3.6.5. Cổ tức trên thị giá (D/P)
Cổ tức
D/P = -----------------------------------
Giá thị trường hiện thời
Hệ số này phản ánh mức lợi tức mong đợi của nhà đầu tư khi mua một loại cổ phiếu tại thời điểm hiện tại. Nếu tỷ lệ này càng cao thì cổ phiếu đó càng được các nhà đầu tư ưa thích vì họ kỳ vọng vào lợi nhuận cao thu về khi đầu tư vào cổ phiếu.
3.6.6. Giá trị sổ sách của cổ phiếu phổ thông
Tổng tài sản – tổng số nợ - cổ phiếu ưu đãi
Giá trị sổ sách = --------------------------------------------------------
Số cổ phiếu phổ thông
Chỉ tiêu này được dùng để xác định giá trị của một cổ phiếu theo số liệu trên sổ sách một nhà đầu thường quan tâm đến chỉ tiêu này để so sánh với giá trị của cổ phiếu.
4. Chỉ số chứng khoán việt nam ( VN – Index )
Chỉ số VN – index xây dựng căn cứ vào giá thị trường của tất cả các cổ phiếu được niêm yết. Với hệ thống chỉ số này, nhà đầu tư có thể đánh giá và phân tích thị trường một cách tổng quát. VN – index được tính theo công thức sau :
∑ (P1i * Q1i ) * 100
VN-INDEX = -------------------------------
P0i * Q0i
Trong đó : P1i : giá hiện hành của cổ phiếu i
Q1i : khối lượng đang lưu hành của cổ phiếu i
P0i : giá của cổ phiếu i thời kỳ gốc
Q0i : khối lượng cổ phiếu i thời kỳ gốc
Các trường hợp điều chỉnh và cách điều chỉnh
- Khi trên thị trường xảy ra trường hợp niêm yết mới hay tổ chức niêm yết tiến hành tăng vốn, hệ số chia sẽ được điều chỉnh như sau :
D0 * V1
D1 = ----------------
V1 - AV
Trong đó: D1 : hệ số chia mới
D0 : hệ số chia cũ ( D0 = ∑ P0i * Q0i )
V1 : tổng giá trị hiện hành của các cổ phiếu niêm yết
( V1 = ∑P0i * Q1i )
AV : giá trị điều chỉnh cổ phiếu
- Khi hủy niêm yết hay tổ chức niêm yết tiến hành giảm vốn, hệ số chia mới sẽ được tính như sau :
D0 * V1
D1 = -----------------
V1 + AV
Chỉ số giá VN - index tăng chóng mặt từ 307,5 điểm phiên đóng cửa năm 2005 lên 751,7 điểm tại phiên đóng cửa 29/12/2006 và đầu năm 2007 VN - Index đã vượt ngưỡng 1000 điểm. Theo giới tài chính quốc tế, chỉ số giá VN - Index của Việt Nam năm 2006 tăng cao nhất trong số hơn 410 chỉ số của các thị trường chứng khoán ở Châu Á.
5. Các chủ thể trên thị trường
5.1. Chủ thể phát hành
Chủ thể phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hóa của thị trường chứng khoán. Các chủ thể phát hành bao gồm : chính phủ, các doanh ngiệp và một số tổ chức khác như : quỹ đầu tư, tổ chức tài chính trung gian …
- Chính phủ và chính quyền địa phương là chủ thể phát hành các chứng khoán : trái phiếu chính phủ, trái phiếu địa phương, trái phiếu công trình, tín phiếu kho bạc.
- Công ty là chủ thể phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là chủ thể phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ hưởng thụ … phục vụ cho mục tiêu huy động vốn và phù hợp với đặc thù hoạt động của họ theo luật định.
5.2. Nhà đầu tư :
Chủ thể đầu tư là những người có tiền, thực hiện việc mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận. Nhà đầu tư có thể được chia thành hai loại : Nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
- Các nhà đầu tư cá nhân
Nhà đầu tư cá nhân là các cá nhân và hộ gia đình, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu tư thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, kỳ vọng lợi nhuận càng cao thì mức độ chấp nhận rủi ro phải càng lớn và ngược lại. Chính vì vậy các nhà đầu tư cá nhân luôn phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của mình.
- Các nhà đầu tư có tổ chức
Nhà đầu tư có tổ chức là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên thị trường chứng khoán là các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm, quỹ tương hỗ, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Đầu tư thông qua các tổ chức đầu tư có ưu điểm là đa dạng hóa danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có chuyên môn và có kinh nghiệm.
5.3. Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán
5.3.1. Cơ quan quản lý và giám sát hoạt động thị trường chứng khoán
Cơ quan quản lý và giám sát hoạt động thị trường chứng khoán được hình thành dưới nhiều mô hình tổ chức hoạt động khác nhau, có nước do tổ chức tự quản thành lập, có nước cơ quan này trực thuộc chính phủ, nhưng có nước lại có sự kết hợp quản lý giữa các tổ chức tự quản và nhà nước. Nhưng tựu chung lại, cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán do chính phủ của các nước thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích của người đầu tư và đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh, an toàn và phát triển bền vững.
Cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán có thể có những tên gọi khác nhau, tùy thuộc từng nước và nó được thành lập để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán.
5.3.2. Sở giao dịch chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán thực hiện vận hành thị trường chứng khoán thông qua bộ máy tổ chức và hệ thống các quy định, văn bản pháp luật về giao dịch chứng khoán trên cơ sở phù hợp với các quy định của luật pháp và ủy ban chứng khoán.
5.3.3. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức tự quản của các công ty chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các thành viên và các nhà đầu tư trên thị trường.
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán thực hiện một số chức năng sau
- Đào tạo nghiên cứu trong lĩnh vực chứng khoán.
- Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán.
- Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cở sở các quy định pháp luật về chứng khoán hiện hành.
- Giải quyết tranh chấp giữa các thành viên.
- Tiêu chuẩn hóa các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán.
- Hợp tác với chính phủ và các cơ quan khác để giải quyết các vấn đề có tác động đến hoạt động kinh doanh chứng khoán.
5.3.4. Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
Là tổ chức lưu giữ các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán. Các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán đáp ứng đủ điều kiện của ủy ban chứng khoán sẽ thực hiện dịch vụ lưu ký và thanh khoán bù trừ chứng khoán.
5.3.5. Các tổ chức hỗ trợ
Là các tổ chức được thành lập với mục đích khuyến khích mở rộng và tăng cường của thị trường chứng khoán thông qua các hoạt động như : cho vay tiền để mua cổ phiếu và cho vay chứng khoán để bán trong các giao dịch bảo chứng. Các tổ chức hỗ trợ chứng khoán ở các nước khác nhau có đặc điểm khác nhau, có một số nước không cho phép thành lập các tổ chức này.
5.3.6. Các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là các công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và tiềm lực tài chính của tổ chức phát hành theo những điều khoản đã cam kết của tổ chức phát hành cụ thể.
Hệ số tín nhiệm có thể biểu hiện bằng các chữ cái hay chữ số, tùy theo quy định của từng công ty xếp hạng.
Các nhà đầu tư có thể dựa vào các hệ số tín nhiệm về tổ chức phát hành do các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm cung cấp để cân nhắc đưa ra quyết định đầu tư của mình.
Các công ty đánh giá ( xếp hạng ) hệ số tín nhiệm có vai trò quan trọng trong việc phát hành các chứng khoán, đặc biệt là phát hành các chứng khoán quốc tế.
II. XU HƯỚNG BIẾN ĐỘNG GIÁ CỔ PHIẾU TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
1. Giai đoạn từ 20/07/2000 đến 31/12/2001
Thị trường chứng khoán Việt Nam sau một năm chính thức đi vào hoạt động xảy ra rất nhiều biến động : giá chứng khoán lên xuống thất thường, cung cầu trên thị trường mất cân bằng. Trong giai đoạn này, các tổ chức tham gia thị trường và công chúng đầu tư mới bước đầu làm quen được với khái niệm và hình thức đầu tư mới.
Trong ngày giao dịch đầu tiên 28/07/2000, chỉ với hai loại cổ phiếu được niêm yết là REE và SAM chỉ số VN-Index đã lên tới 100 điểm tương ứng với tổng giá trị giao dịch là 70.400.000 VND, trong đó cổ phiếu REE chiếm 16.000.000 VND và SAM chiếm 54.400.000 VND. Ngày đầu lên sàn cổ phiếu REE có mức giá là 16.000 đồng, SAM là 17.000 đồng, tổng khối lượng giao dịch là 4.200 cổ phiếu trong đó REE khớp được 1.000 còn lại là khối lượng SAM khớp được. Thời điểm này thị trường vắng bóng những nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước còn khá dè dặt.
Tính đến cuối năm 2000, trên trung tâm giao dịch chứng khoán HCM chỉ có 5 cổ phiếu niêm yết với tổng giá trị là 321.178 tỷ VND. Trong năm 2001 đã có thêm 6 công ty được UBCKNN cấp giấy phép niêm yết nâng tổng giá trị phát hành trên thị trường là 500.617 tỷ VND.
Nhìn chung từ phiên giao dịch đầu tiên đến 25/06/2001, giá cổ phiếu liên tục tăng và đặc biệt đến ngày 25/06/2001 chỉ số VN-Index đã đạt đến mức kỷ lục là 571,04 điểm tại phiên giao dịch đạt giá trị giao dịch là 23.570.700.000 VND. Trong đó, giá của HAP lên tới 127.000 VND tăng gấp 8 lần so với phiên giao dịch đầu tiên ( 04/08/2000 ), TMS tăng 9,5 lần so với phiên đầu tiên là 14.000 VND đạt 132.000 VND, REE tăng lên 95.000 VND, SAM là 74.000 VND và LAF là 82.500 VND. Sau đó, thị trường trầm lắng và chỉ số chứng khoán giảm liên tục.
Trước tình hình thị trường như vậy, ngày 10/10/2001 UBCKNN đã áp dụng biên độ dao động cũ là ±2% với hy vọng chỉ số tăng trở lại. Nhưng đến cuối năm 2001, chỉ số lại tiếp tục giảm, trung bình giảm 3,6 điểm/phiên. Đến ngày 31/12/2001 chỉ số đạt 235,4 điểm, tăng 135,4 điểm so với 100 điểm của phiên giao dịch đầu tiên và giảm 335,64 điểm so với đỉnh 571,04 điểm ngày 25/06/2001.
2. Giai đoạn từ 31/12/2001 đến hết năm 2002
Tính đến tháng 7/2002, trung tâm giao dịch chứng khoán tp. HCM đã thực hiện được 322 giao dịch, với tổng khối lượng cổ phiếu được giao dịch là 41 triệu cổ phiếu, giao dịch cổ phiếu chiếm 94,9 %, bình quân một giao dịch đạt 5 tỷ đồng. Số tài khoản giao dịch mở tại các công ty chứng khoán là gần 12.000, trong đó có 91 nhà đầu tư có tổ chức và 33 nhà đầu tư nước ngoài, có 17 loại cổ phiếu được niêm yết trên thị trường.
Có thể thấy đây là năm không mấy tươi sáng của thị trường chứng khoán Việt Nam vì hầu hết giá các cổ phiếu trên thị trường đều có xu hướng giảm. Tháng 09/2002, chỉ số VN-Index rơi vào đợt sụt giảm giá dài nhất từ trước đến nay, 16 phiên giảm liên tiếp 11,73 điểm từ 191,66 điểm xuống 179,93 điểm và là mức thấp nhất trên thị trường kể từ ngày đỉnh là 25/06/2001 là 571,04 điểm. Kết thúc tháng 9 chỉ số dừng ở mức 182,13 điểm. Sang đến tháng 10 kết thúc phiên giao dịch cuối cùng của tháng chỉ số VN-Index rớt xuống mức kỷ lục mới là 177,61 điểm thấp hơn mức sụt thấp nhất của tháng 9 là 2,32 điểm. Điều đó cho thấy thị trường không có dấu hiệu phục hồi mà còn sụt giảm hơn.
3. Giai đoạn từ 31/12/2002 đến hết năm 2003
Có thể thấy đây là năm đáng ghi nhớ trong lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán việt nam với “ đoạn kết có hậu “ cho các nhà đầu tư – những người đã từng gắn bó “ chung thủy “ với thị trường. Trong 9 tháng đầu năm giá cổ phiếu giảm sút liên tục như trong tháng 1 giảm mạnh nhất là cổ phiếu GIL từ 43.000 VND/cổ phiếu xuống còn 29.500 VND/cổ phiếu, giảm 13.500 VND/cổ phiếu, giảm 31,6% do công ty nay phát hành thêm 850.000 cổ phiếu nên giá giảm do hiệu ứng “ pha loãng “. Một số cổ phiếu có mức giá rất cao khi mới lên sàn cũng sụt giảm ghê gớm như REE giảm xuống còn 12.200 VND/cổ phiếu, BBC là 12.100 VND/cổ phiếu …
Tháng 10 đánh dấu mức đáy thấp nhất của thị trường chứng khoán từ trước tới nay vào ngày 24/10/2003. Chỉ số VN-Index giảm xuống một mức đáy hoàn toàn mới 130,9 điểm. Nhưng 3 tháng cuối năm ghi dấu sự bừng tỉnh của thị trường chứng khoán Việt Nam bằng những phiên giao dịch đầy ấn tượng, thực sự đã tạo ra “ cú huých “ có hiệu ứng khá mạnh.
Tháng 11, 12 thị trường được hâm nóng dần lên bởi sự trở lại của các nhà đầu tư nước ngoài, sự hâm nóng của các nhà pháp chế phi ngân hàng như các công ty quản lý quỹ VMF, VINA CAPITAL, và một số định chế nước ngoài như IFC, FMO, PXP… đồng thời tâm lý các nhà đầu tư được cải thiện và tham gia nhiệt tình hơn. Cuối tháng 11, VN-Index đạt 163,87 điểm tăng 32,97 điểm so với mức giảm kỷ lục trong tháng 10. Kết thúc tháng 12 chỉ số VN-Index dừng ở mức 168,74 điểm là mức cao nhất sau tháng 01/2002.
4. Giai đoạn năm 2004
Tháng 1, không khí thị trường sôi động khác hẳn không khí ảm đạm của năm 2003. Chỉ trong vòng một tháng, chỉ số VN-Index tăng 47,38 điểm, tổng khối lượng giao dịch trên toàn thị trường là 10.999.993 cổ phiếu, trị giá 740 tỷ đồng. Giá khớp lệnh bình quân đạt 6,2 tỷ đồng/phiên, tăng 3,2 tỷ đồng so với tháng 12/2003. Giá cổ phiếu tăng đồng loạt sau hơn một năm trầm lắng. Kết thúc phiên giao dịch 714 thì VN-Index đạt 214,32 điểm.
Tháng 3 có hai sự kiện quan trọng đã tác động mạnh mẽ đến thị trường chứng khoán đẩy chỉ số VN-Index lên cao và đạt mức cao nhất trong năm là 277,44 điểm. Hai sự kiện đó là UBCKNN – cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán chính thức được chuyển giao về Bộ Tài Chính ngày 16/03/2004 và 24/03/2004, quỹ đầu tư đầu tiên trên thị trường chứng khoán Việt Nam (VFI) được chính thức cấp phép thành lập và phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư, tạo hàng hóa cho thị trường.
Quý II thị trường giao dịch khá trầm lắng, có dấu hiệu chững lại đi xuống. Chỉ số giao động với biên độ hẹp dần, giá cổ phiếu giảm mạnh. Khối lượng và giá trị giao dịch đều giảm mạnh. Nguyên nhân do nhà nước đầu tư nước ngoài đã dừng đầu tư vào cổ phiếu do tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu tại các công ty niêm yết đã hết giới hạn. Họ chuyển sang đầu tư vào trái phiếu nhiều hơn và giao dịch rất cầm chừng. Thị trường vắng bóng các nhà đầu tư có tổ chức, có hiểu biết và thiếu tính chuyên nghiệp.
Sang tháng 7 do chịu ảnh hưởng của tâm lý các nhà đầu tư trong nước có xu hướng đầu tư theo các nhà đầu tư nước ngoài và do sự dịch chuyển vốn từ thị trường chứng khoán sang đầu tư vào các công ty tiềm năng như Bảo Việt, Kinh Đô … làm cho giá cổ phiếu có xu hướng giảm dần, xuống mức 238,44 điểm và phiên giao dịch cuối cùng.
Trong những tháng cuối năm, thị trường vẫn chưa có những dấu hiệu sáng sủa. Một không khí giao dịch rất cầm chừng và dò xét của các nhà đầu tư. Kết thúc tháng 12 chỉ số VN-Index dừng ở ngưỡng 218,41 điểm cao hơn mức cao nhất của tháng 1 là 4,09 điểm.
5. Biến động giá thị trường chứng khoán năm 2005
Năm 2005 được ghi nhận với nhiều sự kiện quan trọng có ý nghĩa đột phá trong lịch sử phát triển thị trường chứng khoán. Hàng hóa trên thị trường chứng khoán năm 2005 chiếm 65,7 % là trái phiếu, chứng chỉ quỹ chiếm tỷ lệ nhỏ còn lại là các cổ phiếu. Trên thị trường chứng khoán có 34 loại cổ phiếu, tính tới thời điểm cuối năm đa số các cổ phiếu này đều tăng giá so với đầu năm. Chỉ số VN-Index từ phiên 951 đến phiên thứ 1101 nhìn chung tăng, nhưng tăng nhẹ dưới 250 điểm. Thời điểm cuối năm 2005 chỉ số này tăng lên đạt trên mức 300 điểm.
Tháng 9, thị trường chứng khoán Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực, thị trường chuyển sang giai đoạn mới. Thông tin về số liệu kết quả sản xuất kinh doanh tuy chưa công bố chính thức nhưng khá khả quan. Vì thế mà tăng kỳ vọng của các nhà đầu tư. Trong tháng này, sự lên ngôi của cổ phiếu NKD trên thị trường có vai trò đặc biệt quan trọng, giá cổ phiếu này trở thành điểm nóng và không ngừng tăng lên kéo theo sự gia tăng của hàng loạt cổ phiếu khác. Chỉ trong hai phiên liên tiếp 1117 và 1118 cổ phiếu này tăng 17.000 đồng/cổ phiếu, các phiên sau đó giá cổ phiếu này đều tăng lên và đạt 47.700 đồng/cổ phiếu, trở thành cổ phiếu đứng thứ hai chỉ sau GMD. Kết quả là chỉ số VN-Index đạt mức 289,33 điểm, tăng 43,83 điểm và tăng 17,8 % so với phiên giao dịch cuối cùng của tháng 08/2005. Toàn bộ 30 cổ phiếu đều tăng giá. Trong đó, các cổ phiếu tăng nhiều nhất là BBC, REE, NKD, CAN. Theo đó, hai tháng 10 và 11, chỉ số VN-Index tiếp tục tăng lên, mức độ tăng không còn đột biến như trong tháng 9 mà đi vào quỹ đạo ổn định hơn. Sang tháng 12 thị trường giảm nhẹ ở tất cả các chỉ tiêu : giá, chỉ số và khối lượng giao dịch.
6. Biến động giá chứng khoán năm 2006
Trong tháng 1, phiên giao dịch ấn tượng nhất là ngày 19/01 các cổ phiếu được giao dịch trên sàn tăng gấp đôi lên 16 tỷ đồng. Theo đánh giá thì sự tăng vọt này chủ yếu là do sự xuất hiện cổ phiếu của Vinamilk. Với tổng giá trị khoảng 531 tỷ đồng, cao hơn giá trị cổ phiếu của tất cả các cổ phiếu khác cộng lại, đã tạo nên một sự kiện quan trọng trong hơn 5 năm hoạt động của thị trường.
Tháng 2, thị trường giao dịch tăng đột biến 210 % về khối lượng và 272 % về giá trị so với tháng 1. Trên thị trường có sự tham gia của quỹ đầu tư nước ngoài khiến cho thị trường thêm sôi động. Trong số 34 cổ phiếu thì chỉ có 3 loại giảm giá : TAY, SGH và DPC, 2 loại đứng giá còn lại 30 loại cổ phiếu tăng giá. Chỉ số VN-Index tăng cao, chủ yếu vẫn là do sự tăng giá của những cổ phiếu chủ chốt là : REE, SAM, VNM.
Tháng 3 và 4 được các chuyên gia nhận định là phát triển nóng, chỉ số VN-Index đã vượt ngưỡng 500 điểm. Ngày 21/04 chỉ số VN-Index dạt mức kỷ lục là 591,31 điểm. cho đến đầu tháng 5 chỉ số VN-Index vẫn tiếp tục tăng lên. Nguyên nhân của sự tăng lên liên tục này là do các nhận định khả quan về thị trường chứng khoán Việt Nam, sự ra đời của các quỹ đầu tư làm cho lượng tiền chảy vào tương đối lớn, đặc biệt là sự xuất hiện của cổ phiếu VNM. Với quy mô lớn đã làm cho cầu thị trường tăng lên đáng kể.
Các tháng tiếp theo chỉ số VN-Index lại giảm xuống, thấp nhất là 399,8 điểm tại phiên giao dịch ngày 02/08/2006. Nguyên nhân của hiện tượng này chủ yếu là do sự ảnh hưởng tâm lý của các nhà đầu tư hình thành làn sóng bán tháo các cổ phiếu gây ra sự giảm giá mạnh trên thị trường.
Tuy nhiên vào những tháng cuối năm 2006 chỉ số VN-Index lại tăng lên và tăng đột biến. Sau hơn 11 năm đàm phán, ngày 07/11/2006 Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của WTO. Theo đó Việt Nam phải thực hiện các cam kết mở cửa. Hội nhập kinh tế là bước khởi đầu hứa hẹn cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế và thu hút các nguồn vốn nước ngoài.
Nhiều nhận định tích cực đã được đưa ra về sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới. Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đã đánh giá cao vị trí của nền kinh tế Việt Nam đối với khu vực và mặc dù còn khá non trẻ nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam đã được xếp vào hàng ngũ những thị trường trường chứng khoán năng động nhất Châu Á với tốc độ tăng trưởng trên 70% năm 2006. Các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu quan tâm hơn đến thị trường chứng khoán và kéo theo đó là sự chuyển biến trong tâm lý các nhà đầu tư trong nước. Chỉ số VN-Index liên tục tăng lên từ trung tuần tháng 11 đến tháng 12 và đạt mức kỷ lục là 809,86 điểm vào ngày 20/12/2006.
7. Biến động giá cổ phiếu 3 tháng đầu năm 2007
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã phát triển chưa từng có trong năm 2006 cả về số lượng công ty niêm yết và chỉ số chứng khoán. Thị trường vẫn tiếp tục sôi động vào những tháng đầu năm 2007.
Từ tháng 1 cho đến trung tuần tháng 3, chỉ số VN-Index liên tục tăng cao và vượt ngưỡng 1000 điểm tại phiên giao dịch ngày 18/01/2007. Nguyên nhân là do:
Tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam tiếp tục được đánh giá khả quan, việc gia nhập WTO đã thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài tăng mạnh từ tháng 11/2006 và tiếp tục tăng trong năm 2007.
Cầu chứng khoán quá mạnh đã dẫn đến cổ phiếu bị đánh giá quá cao trong bối cảnh cung chứng khoán còn hạn chế.
Các yếu tố khác làm tăng mạnh định giá chứng khoán như : tốc độ hội nhập quốc tế nhanh, những lợi ích hiệu quả thu được từ tự do hóa thương mại, cải cách thị trường sau khi gia nhập WTO, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tính minh bạch được cải thiện với việc bắt đầu áp dụng chế độ báo cáo tài chính của nhiều công ty.
Sau sự tăng đột biến thị trường chứng khoán bước sang thời kỳ suy thoái. Chỉ số VN-Index liên tục giảm xuống và hiện nay con số này là dưới 1000 điểm. Sự sụt giảm này được các chuyên gia đánh giá chủ yếu là tâm lý đầu tư theo cảm tính của các nhà đầu tư. Bởi vì nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển, đầu tư nước ngoài vẫn tăng, tình hình kinh doanh nói chung của các doanh nghiệp vẫn tốt.
Các nhà đầu tư nhỏ đua nhau bán cổ phiếu và họ trở nên ngày càng mất bình tĩnh khi chỉ số Vn-Index tiếp tục giảm xuống dưới 1000 điểm.
Mặt khác cơn sốt địa ốc vừa qua cũng kéo theo một số lượng lớn các nhà đầu tư sang địa ốc, giá vàng tăng lên cũng khiến cho các nhà đầu tư nhỏ sốt ruột mau chóng muốn bán nhanh để bảo tồn vốn.
8. Cuối năm 2007 đầu năm 2008:
Khoảng thời gian này VN - Index liên tục tăng giảm và phá ngưỡng 500 điểm khiến tâm lý hầu hết các nhà đầu tư là bất an. Ngày 25/03/2008, UBCK phải ra một quyết định khó khăn, đó là thu hẹp biên độ hai sàn, từ 5% xuống 1% (tại HOSE) và từ 10% xuống 2% (tại HASTC). Với cơ quan quản lý, quyết định giảm biên độ được ví như một liều thuốc “dũng cảm”, buộc thị trường phải “cầm” đà tuột dốc. Còn với nhà đầu tư, việc giảm biên độ được đón nhận với nhiều thái độ khác nhau.
Việc thu hẹp biên độ cũng chỉ là biện pháp tình thế của UBCK. Đến ngày 07/04/2008 UBCK cho phép tăng biên độ giao dịch với sàn HOSE từ 1% lên 2% và sàn HASTC từ 2% lên 3%. Mở rộng sự giao động giá chứng khoán.
III. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XU HƯỚNG BIẾN ĐỘNG CHỨNG KHOÁN
1.Nhóm yếu tố kinh tế
-Về tăng trưởng kinh tế, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển và giảm khi nền kinh tế kém phát triển. Tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm cổ phiếu và tình hình biến động của từng cổ phiếu phụ thuộc vào tình hình hoạt động cụ thể của từng công ty.
-Về mối liên hệ giữa giá cổ phiếu và hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, giá cổ phiếu đôi khi xảy ra trước biến động hoạt động kinh doanh, đôi khi xảy ra sau. Thời gian xảy ra và mức độ biến động này có sự chênh lệch đáng kể qua theo dõi tình hình. Qua một thời gian dài, nhiều người cho rằng giá cổ phiếu phổ thông thay đổi trước hoạt động kinh doanh.
-Thu nhập công ty, những người theo trường phái này cho rằng, thu nhập hay lợi nhuận của công ty được coi là nhân tố quan trọng nhất tác động tới giá cổ phiếu. Những nhà kinh doanh và nhà đầu tư mua và bán cổ phiếu chủ yếu dựa trên cơ sở dự đoán về mức thu nhập. Tuy nhiên, giá cổ phiếu không phải lúc nào cũng có mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập. Có những thời điểm, giá cổ phiếu tăng nhanh hơn thu nhập, vào những thời điểm khác, nó bị tụt lại đằng sau thu nhập. Đôi khi trên thực tế, nó lại biến động theo chiều hướng ngược lại với thu nhập. Do vậy, dù một người theo dõi rất sát thị trường đã dự đoán đúng xu hướng thay đổi của thu nhập, nhưng không có gì bảo đảm rằng anh ta có thể dự đoán chính xác xu hướng biến đổi của giá cổ phiếu.
-Cổ tức, những người theo trường phái này cho rằng cổ tức là nhân tố cơ bản, chủ yếu thứ hai sau thu nhập, trong việc xác định giá chứng khoán. Tuy nhiên, cổ tức không đóng vai trò quan trọng đối với loại cổ phiếu tăng trưởng là loại cổ phiếu mà người ta coi sự tăng giá của chúng là rất quan trọng, thường xuyên mang lại lợi suất đầu tư cuối cùng lớn hơn nhiều so với cổ tức hiện tại. Một công ty tăng trưởng có khả năng sử dụng số vốn này có hiệu quả hơn cho các cổ đông, là những người luôn phải tim kiếm cơ hội đầu tư. Trong tất cả các nhân tố báo chí sử dụng để giả thích về sự biến động giá hàng ngày của từng cổ phiếu, các thông tin về cổ tức luôn được xếp ở vị trí quan trọng gần đầu.
-Lãi suất, mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu là gián tiếp và luôn thay đổi. Nguyên nhân là do luồng thu nhập từ cổ phiếu có thể thay đổitheoi lãi suất và chúng ta không thể chắc chắn liệu sự thay đổi của luồng thu nhập này có làm tăng hay bù đắp cho mức biến động về lãi suất hay không. Để giải thích rõ vấn đề này, chúng ta sẽ xem xét các khả năng có thể xảy ra khi tỷ lệ lạm phát tăng, cụ thể như sau:
Lãi suất tăng do tỷ lệ lạm phát tăng và thu nhập công ty theo đó cũng tăng vì công ty có thể tăng giá cho phù hợp với mức tăng của chi phí. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có thể khá ổn định vì ảnh hưởng tiêu cực của việc tăng tỷ suất lợi nhuận đã được đền bù một phần hay toàn bộ bởi phần tăng của tỷ lệ tăng trưởng thu nhập và cổ tức.
Lãi suất tăng, nhưng luồng thu nhập dự tính thay đổi ít do công ty không có khả năng tăng giá để phù hợp với chi phí tăng, do vậy giá cổ phiếu giảm. Tỷ suất lợi nhuận quy định có thể tăng nhưng tỷ lệ tăng trưởng của cổ tức là không đổi, nên mức chênh lệch giữa hai nhân tố này càng lớn.
Lãi suất tăng trong khi luồng thu nhập giảm vì các nguyên nhân làm tăng lãi suất lại gây tác động xấu tới thu nhập của công ty. Hoặc là người ta có thể hình dung thời kỳ lạm phát trong đó chi phí sản xuất tăng, nhưng nhiều công ty không thể tăng giá, dẫn đến biên độ lợi nhuận giảm. Tác động của một loạt các sự kiện này là rất tồi tệ. Trong những trường hợp này, giá cổ phiếu sẽ sụt nghiêm trọng vì tỷ suất lợi nhuận giảm khi cổ tức giảm, dẫn tới chênh lệch giữa hai nhân tố này càng lớn.
-Giá cả hàng hóa, lịch sử thị trường chứng khoán Mỹ đã cung cấp nhiều thông tin về sự bất cập của giá chứng khoán trong mối quan hệ với hàng hóa. Từ năm 1923 tới 1929 là giai đoạn đáng ghi nhớ khi giá bán buôn ổn định và giá hàng hóa có xu hướng giảm nhẹ. Tuy nhiên, trong thời kỳ đó, giá chứng khoán theo thống kê tăng vọt phổ biến trên các thị trường đầu cơ giá lên. Ngược lại, giá hàng hóa tăng vào năm 1940, 1941, và 1942, nhưng giá cổ phiếu lại hạ. Vào mùa xuân năm 1946, việc kiểm soát giá hàng hóa đã được bãi bỏ, và lạm phát về giá hàng hóa đã lên tới đỉnh cho đến hết năm và tiếp tục tăng cho đến giữa năm 1948, giá cả tăng đều trong hai năm. Giá cổ phiếu bắt đầu biến động gần như vào đúng ngày giá hàng hóa bắt đầu tăng nào năm 1946, giá cổ phiếu giảm mạnh từ tháng 8 cho tới cuối năm. Nói cách khác, giá chưng khoán sụp đổ vào năm 1946 đúng vào thời điểm nguy cơ lạm phát tăng mạnh nhất do ảnh hưởng của chiến tranh thế giới lần thứ II.
-Các yếu tố kinh tế khác:
Trong những năm gần đây, các chỉ số hàng đầu thường được các nhà dự báo chứng khoán nhắc tới bao gồm số liệu về việc làm, những thay đổi về hàng tồn kho, và những biến động về lượng cung tiền. Lãi suất cơ bản ( thường là lãi suất trái phiếu chính phủ ) trong những năm gần đây đã thu hút sự chú ý đáng kể cho dù từ lâu nó chỉ được coi là một nhân không đáng kể chứ không phải là nhân tố hàng đầu. Bởi vì giá chứng khoán là một trong những chỉ số được coi trọng nhất trong 12 chỉ số hàng đầu, nên các nhà dự báo cho răng tốt nhất nên dự tính lãi suất cơ bản theo giá chứng khoán hơn là dự đoán giá chứng khoán theo những thay đổi của lãi suất cơ bản.
Các chỉ số quan trọng khác bao gồm vốn liên ngân hàng, các khoản vay thương mại và dịch vụ, giao dịch vốn trên thị trường tiền tệ, và các số liệu về giao dịch và thanh toán của quỹ tương hỗ.
2.Nhóm yếu tố phi kinh tế
Nhóm nhân tố ảnh hưởng chủ yếu tiếp theo là những yếu tố phi kinh tế, bao gồm sự thay đổi về các điều kiện chính trị, ví dụ chiến tranh hoặc thay đổi cơ cấu chinh phủ, thay đổi về thời tiết và những nhân tố tự nhiên khác, và những thay đổi về điều kiện văn hóa, như tiến bộ về công nghệ … Tuy nhiên, những yếu tố này chỉ có ảnh hưởng lớn đối với giá chứng khoán ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, thị trường sẽ đánh giá chính sách này. Trong điều kiện Việt Nam, nền chính trị ổn định, mặt khác thị trường chứng khoán còn chưa phát triển, thì yếu tố này ít có tác động.
3.Nhóm yếu tố thị trường
Các yếu tố thị trường, là những nhân tố bên trong của thị trường, bao gồm sự biến động thị trường và mối quan hệ cung cầu có thể được coi là nhóm yếu tố thứ ba tác động tới giá cổ phiếu. Sự biến động thị trường là một hiện tượng chờ đợi thái quá từ việc dự tính quá cao giá trị thực chất của cổ phiếu khi giá cổ phiếu cao nhờ sự phát đạt của công ty, và ngược lại do dự đoán thấp giá trị tại thời điểm thị trường đi xuống. Mối quan hệ giữa cung và cầu được trực tiếp phản ánh thông qua khối lượng giao dịch trên thị trường, hoạt động của những nhà đầu tư có tổ chức, giao dịch ký quỹ … cũng có ảnh hưởng đáng kể. Mặc dù số lượng giao dịch ký quỹ tăng khi mà giá cổ phiếu tăng, nhưng một khi giá cổ phiếu giảm số lượng cổ phiếu bán ra tăng và làm cho giá càng giảm.
Giá cổ phiếu của công ty niêm yết về cơ bản cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố nói trên nhưng mức độ không rõ ràng. Có thể thống kê những yếu tố chủ yếu sau:
-Yếu tố tâm lý “bầy đàn”, thuộc nhóm yếu tố thị trường nói ở trên, thể hiện tương đối rõ nét nhất là ở trong giai đoạn đầu thị trường mới thành lập. Bạn có thể thấy rõ hiện tượng này qua biểu hiện giá của đa số các cổ phiếu đều lên hoặc đều xuống, giá cổ phiếu biến động tăng (giảm) không phản ánh tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, mà chủ yếu do yếu tố tâm lý của người đầu tư trên thị trường. Sau này mới có sự phân hoá về biến động giá giữa các loại cổ phiếu khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay yếu tố này vẫn chiếm xu thế chủ đạo.
-Thu nhập công ty, yếu tố này có tác động tương đối rõ rệt tới giá cổ phiếu, chẳng giá cổ phiếu của CTCP Chế biến hàng xuất khẩu Long An tăng “kịch trần” nhiều phiên bởi Công ty công bố lợi nhuận sau thuế quý III /2004 đạt 8, 6 tỷ đồng tăng hơn 140% so với cùng kỳ năm trước.
Ngoài những yếu tố nói trên, có thể tính đến các yếu tố khác như mức trả cổ tức, thông tin mua bán cổ phiếu của các thành viên trong ban lãnh đạo công ty, thông tin tách gộp cổ phiếu, thông tin về việc phát hành thêm cổ phiếu, tin đồn…Những người đầu tư chuyên nghiệp hơn có thể còn tìm hiểu các thông tin liên quan đến chính sách của Chính phủ đối với thị trường chứng khoán, chính sách cổ phần hoá DNNN, tình hình quản trị của công ty niêm yết, tên tuổi của CTCK bảo lãnh phát hành hay tư vấn niêm yết cho công ty niêm yết.
IV. NHẬN ĐỊNH VỀ XU HƯỚNG BIẾN ĐỘNG GIÁ CỔ PHIẾU TRONG THỜI GIAN TỚI
1.Một vài nhận định về thị trường trong thời gian qua
Lúc thị trường mới bắt đầu đi vào hoạt động số lượng công ty tham gia niêm yết trên thị trường còn rất hạn chế, lượng hàng hóa còn kém phong phú, số lượng các nhà đầu tư chưa nhiều, thị trường còn vắng bóng các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư có kinh nghiệm. Nhưng đến nay các công ty niêm yết trên thị trường đã tăng lên rất nhiều, riêng ở sàn tp HCM là 154 công ty, còn ở sàn Hà Nội là 135 công ty, trong đó có rất nhiều công ty lớn được các nhà đầu tư kỳ vọng như : VNM, FPT, REE, SAM, SACOMBANK, ACB …Chỉ trong một khoảng thời gian không nhiều mà số lượng các nhà đầu tư đã gia tăng đáng kể, ngày càng có nhiều người quan tâm tới thị trường hơn. Nhu cầu tham gia thị trường nhiều hơn và do đó cũng ngày càng có nhiều công ty chứng khoán hơn. Sự xuất hiện của các cổ phiếu ngân hàng rất được các nhà đầu tư cả trong nước nước ngoài chào đón và có mức kỳ vọng rất cao.
Năm 2006 là năm “thăng hoa” của thị trường chứng khoán Việt Nam, thị trường đã thực sự lớn mạnh cả về mặt chất và mặt lượng với sự chuyển động có gia tốc của quy mô thị trường, vượt qua ngưỡng 15% GDP là mục tiêu mà Chính phủ đã đặt ra trong chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2010. Từ đó xác lập vị trí mới của thị trường trong nền kinh tế. Năm 2006 đánh dấu một năm đầy bội thu của các nhà đầu tư trên thị trường, chỉ số VN-Index đã lập kỷ lục trong năm với mức 809,86 điểm tại phiên giao dịch ngày 20/12/2006. Nhưng những kỷ lục của năm đã nhanh chóng bị phá vỡ khi thị trường bước sang năm 2007, chỉ số của thị trường đã vượt ngưỡng 1000 điểm. Đầu năm 2007, số lượng các nhà đầu tư tăng mạnh, số lượng tài khoản giao dịch tăng nhanh làm cho một số công ty chứng khoán phải ra hạn mức tối thiểu của tài khoản để hạn chế việc mở tài khoản của khách hàng. Như công ty SSI quy định khách hàng mở tài khoản thì giá trị tài khoản phải trên 100 triệu. Trong bốn tháng giao dịch đầu năm 2007, chỉ số của thị trường chỉ xoay quanh mức 1000 điểm và phiên giao dịch trong tháng 4 chỉ số VN-Index giảm xuống dưới mức 1000 điểm.
2. Triển vọng của thị trường trong thời gian tới
Thứ nhất, lượng hàng hóa trên thị trường sẽ tiếp tục tăng và ổn định hơn so với năm 2007 do động thái tích cực đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa gắn với niêm yết trên thị trường chứng khoán của nhiều tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp lớn, các ngân hàng thương mại nhà nước đã được Chính phủ phê duyệt.
Thứ hai, số lượng các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tăng đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Hiện nay thu hút vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp của Việt Nam mới chỉ chiếm 5% trong tổng vốn đầu tư nước ngoài, trong khi đó ở các nước thường chiếm từ 30 – 40%, nên theo nhiều dự báo thị trường chứng khoán sẽ là kênh thu hút vốn đầu tư gián tiếp mạnh từ khu vực đầu tư nước ngoài trong các năm tiếp theo.
3. Xu hướng biến động giá cổ phiếu trong thời gian tới
Mặc dù thị trường tiếp tục ảm đạm nhưng nhiều nhà đầu tư cho rằng chỉ số VN – Index khó xuống thấp hơn mức đáy 496,64 điểm ngày 25/03/2008. Niềm tin đó dựa trên các cơ sở như: Nền kinh tế Việt Nam vẫn phát triển, hầu hết các công ty niêm yết vẫn làm ăn tốt, duy trì mức lợi nhuận cao.
Chỉ số tăng giá tiêu dùng đã có dấu hiệu hạ nhiệt và có thể được ngăn chặn từ tháng tới.
Khi thấy giá chứng khoán giảm mạnh, nhiều nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm rút khỏi thị trường đem vốn đầu tư sang các lĩnh vực khác như bất động sản, vàng, ngoại tệ thì đây có thể là cơ hội tốt cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp tham gia vào thị trường. Sự có mặt của các nhà đầu tư này có thể góp phần làm ổn định giá chứng khoán trong thời gian tiếp theo vì hiện nay các nhà đầu tư Việt Nam chỉ đầu tư theo phong trào, mang tính chộp giật.
Và hiện nay khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức WTO thì các cơ hội thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài của nước ta rất lớn. Theo nhận định của nhiều chuyên gia nước ngoài, Việt Nam là một thị trường đầu tư nhiều hứa hẹn. Mở cửa hội nhập kinh tế sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa của nhiều doanh nghiệp nhà nước đặc biệt là các Ngân hàng thương mại Nhà nước. Sự tham gia của loại cổ phiếu này hứa hẹn sẽ làm cho thị trường phát triển rất sôi động vì nó thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. Tiếp đó quá trình hội nhập yêu cầu các doanh nghiệp phải tuân thủ theo nhiều nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế, đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh gay gắt không chỉ giữa các doanh nghiệp trong nước mà còn với các doanh nghiệp nước ngoài. Từ đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải hoạt động kinh doanh tốt hơn, minh bạch thông tin đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của khách hàng… Quá trình này sẽ góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường còn những doanh nghiệp nào không đáp ứng được yêu cầu của hội nhập thì tự nó sẽ bị thị trường đào thải. Uy tín và thương hiệu tăng lên sẽ làm cho các nhà đầu tư tin tưởng vào cổ phiếu của doanh nghiệp hơn và có thể làm cho giá cổ phiếu tăng. Do vậy có thể nói sự giảm giá của các cổ phiếu hiện nay chỉ là tạm thời để thị trường tự nó điều chỉnh về trạng thái cân bằng phản ánh đúng giá trị thực của các cổ phiếu đang được niêm yết. Sau khi đã đạt được trạng thái cân bằng này thì chỉ số giá của các cổ phiếu do sự tác động của các yếu tố như đã nói ở trên sẽ tăng và thị trường sẽ tiếp tục phát triển với quy mô lớn hơn và có quy luật hơn.
Thị trường chứng khoán việt nam vẫn còn là một thị trường non trẻ hoạt động và biến động giá cổ phiếu là một xu thế tất yếu khách quan. Và vì đây là một loại thị trường hết sức nhạy cảm với chỉ một biến động nhỏ về kinh tế, chính trị… Ngoài ra vấn đề tâm lý của các nhà đầu tư cũng đóng vai trò rất quan trọng. Trước bối cảnh giá chứng khoán đang xuống các nhà đầu tư trong nước đang có rất nhiều băn khoăn lo lắng còn các nhà đầu tư nước ngoài lại rất bình tĩnh tin tưởng vào quyết định đầu tư của mình vì họ có nhiều kinh nghiệm và đã quen với sự biến động của giá cổ phiếu.
Như vậy chỉ cần các nhà đầu tư trong nước bình tĩnh chờ đợi không nóng vội và không có những hành đọng bán tháo ồ ạt thì chỉ trong một khoảng thời gian nữa thì thị trường sẽ sôi động trở lại như các chuyên gia đã dự báo hồi đầu năm .
C. KẾT LUẬN
Trong thời gian gần đây, thị trường chứng khoán ngày càng trở nên sôi động và là tâm điểm chú ý của các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư quốc tế. Với vài năm hoạt động, sự phát triển của thị trường chứng khoán đã khẳng định vai trò là trung gian dẫn vốn hiệu quả và trở thành động lực thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Quy mô và tầm vóc của thị trường ngày càng được mở rộng, chỉ số VN-Index đã có những bước đi thăng trầm đầy ngoạn mục. Năm 2006 được đánh dấu là năm bùng nổ của thị trường chứng khoán, chỉ số VN-Index tăng lên đột biến tạo đà cho sự bứt phá trên ngưỡng 1000 điểm vào đầu năm 2007. Thị trường chứng khoán phát triển quá nóng, và không ổn định, lịch sử hình thành và phát triển đã cho thấy sự biến động ngoài quy luật của chỉ số VN-Index. Và trong thời gian gần đây chỉ số VN-Index giảm liên tục gây ra tâm lý bất ổn cho các nhà đầu tư. Thị trường có sự sụt giảm nhất định trong ngắn hạn và sẽ phục hồi trở lại bởi thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất tiềm năng. Gia nhập WTO mang lại cho Việt Nam rất nhiều thuận lợi, nền kinh tế đang trên đà phát triển nhanh, một con số rất lớn công ty nhà nước đầy triển vọng đã cổ phần hóa và đang xếp hàng đợi lên sàn trong thời gian tới, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục nhìn nhận đầy triển vọng về thị trường chứng khoán Việt Nam, với sự tham gia của các quỹ đầu tư, các ngân hàng thương mại, các tổ chức chuyên nghiệp… Làm cho thị trường vận hành ngày càng chuyên nghiệp và phát triển theo đúng hướng, tất cả đều hứa hẹn một sự tăng trở lại ấn tượng của chỉ số VN-Index.
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tạp chí chứng khoán Việt Nam
Số 1,2 năm 2001 đến 2007
Số 3 tháng 3 năm 2007
Số 5 tháng 5 năm 2006
- Tạp chí tài chính
- Giáo trình thị trường chứng khoán – ĐH KTQD
- Trang wed
Vietstock.com.vn
Vse.org
Bidv.com.vn
Trangvang.vn
Bsc.com.vn
Google.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10955.doc