Xuất khẩu gạo Việt Nam đã trở thành ngành chủ lực mũi nhọn đối với ngành Nông nghiệp nói riêng cũng như nền kinh tế của cả nước, đồng thời thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tiến nhanh hơn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Từ chỗ thiếu đói triền miên và phải nhập khẩu lương thực bình quân hàng năm trên nửa triệu tấn gạo, Việt Nam đã vươn lên trở thành cường quốc đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo. Xuất khẩu gạo Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn lao trong những năm qua, tăng nhanh về số lượng, đảm bảo an ninh lương thực, bên cạnh đó còn là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực đóng góp phần lớn trong kim ngạch xuất khẩu.
99 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1569 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: Thực trạng và những vấn đề đặt ra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rường ngoài nước và nếu có cũng chỉ qua con đường tiểu ngạch, quyu mô nhỏ. Ngay tại vùng ĐBSCL, tuy chiếm tới trên 95% lượng gạo xuất khẩu cả nước trong những năm qua, nhưng nhược điểm trên vẫn chưa được khắc phục. 70,7% số hộ nông nghiệp có quy mô đất lúa dưới 1 ha, trong đó có 46% số hộ có quy mô dưới 0,5 ha, chỉ có 29,3% số hộ có quy mô 1 ha trở lên, trong đó chỉ có 3,74% số hộ có quy mô trên 3 ha đất lúa. Toàn vùng có 1700 trang trại trồng lúa hàng hoá nhưng quy mô đất lúa bình quân 1 trang trại từ 3-5 ha chiếm gần 60%, chỉ có 4,9% trang trại có quy mô trên 10 ha. Với quy mô nhỏ như hiện nay, khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật mới vào sản xuất lúa bị hạn chế và vùng này khó có thể triển khai thực hiện quy hoạch 1 triệu ha lúa xuất khẩu như dự kiến trong những năm tới.
- Mạng lưới thu mua, vận chuyển lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu gạo vẫn phụ thuộc quá lớn vào thương lái, chưa có sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp lương thực Nhà nước, tập thể. Hệ thống kênh thu mua của Việt Nam quá kồng kềnh nên lợi tức thu mua qua công đoạn thấp (Số liệu do Viện Khoa học Miền Nam cung cấp cho thấy có ít nhất 7 đại lý trong một kênh thu mua nội địa và 5 đại lý trong một kênh thu mua xuất khẩu. Lợi nhuận trong kênh thu mua gạo xuất khẩu năm 1997 ước tính được phân phối như sau: nông dân 44%, cơ sở xay xát đầu tiên 19% các cơ sở xay xát tiếp theo nơi loại tấm để nâng cao chất lượng gạo 39% và 12% cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Một số nước sử dụng kênh thu mua hiệu quả hơn với duy nhất chỉ một công đoạn xay xát. Với chu trình công nghệ này người thu mua được gạo chất lượng cao cho xuất khẩu trực tiếp từ thóc, chứ không phải qua công đoạn xay xát và xàng gạo chất lượng thấp với 35% tấm như ở Việt Nam). Lợi nhuận đặc biệt cao thường chỉ thu được ở các công đoạn do doanh nghiệp quốc doanh tiến hành. Tình trạng ép cấp, ép giá đối với người sản xuất lúa vẫn diễn ra và rõ nét nhất là các năm 1997, 2000, 2002. Hậu quả là Nhà nước phải chi hàng trăm tỷ để hỗ trợ các doanh nghiệp mua lúa tạm trữ xuất khẩu mỗi năm, nhưng nông dân trồng lúa vận bị thiệt, còn các doanh nghiệp xuất khẩu gạo lâm vào tình trạng xuất càng nhiều lỗ càng lớn. Dù sử dụng thương lái trong hoạt động xuất khẩu gạo là nhu cầu tất yếu, nhưng nếu chỉ dựa vào màng lưới này gần 100% như hiện nay chưa đảm bảo tính bền vững cần thiết.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ chế biến, bảo quản xuất khẩu còn yếu kém lại phân bố không đều. Hệ thống nhà máy xay xát, đánh bóng gạo xuất khẩu những năm gần đây tuy có được trang bị thêm máy móc, thiết bị hiện đại hơn nhưng số lượng còn ít, chủ yếu được bố trí ở các Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho. Trong khi đó những vùng và địa phương có nhiều lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu lớn như An Giang, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Long An... lại không có các nhà máy chế biến và đánh bóng gạo xuất khẩu hiện đại. Lúa gạo sản xuất và chế biến chủ yếu ở ĐBSCL, nhưng cảng xuất khẩu gạo lớn nhất lại ở TP Hồ Chí Minh nên chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản lớn. Trong khi đó cảng Cần Thơ dù đã nâng cấp nhưng vẫn chưa đủ sức đảm bảo yêu cầu xuất khẩu gạo của toàn vùng. Đối với vùng Nam Trung Bộ tuy có lượng gạo xuất khẩu ngày càng tăng nhưng các cơ sở chế biến, đánh bóng và các dịch vụ phục vụ xuất khẩu gạo còn nhiều hạn chế và bất cập. Vùng ĐBSH cho đến nay chưa có cơ sở chế biến và đánh bóng gạo xuất khẩu quy mô lớn, công nghệ hiện đại. Thị trường xuất khẩu gạo tuy đã mở rộng hơn trước nhưng vẫn chưa ổn định, nhất là thị trường lớn như Inđônêsia và Philippin. Thông tin thị trường chậm và không đồng bộ nên ảnh hưởng lớn đến hoạt động điều hành và xuất khẩu gạo.
Thứ hai: Việc tổ chức, điều hành xuất khẩu gạo như hiện nay cũng đang bộc lộ những nhược điểm. Kế hoạch xuất khẩu gạo giao từ đầu năm trong khi chưa biết kết quả sản xuất lúa trong năm như thế nào, do đó liên tục phải điểu chỉnh. Kế hoạch lại không gắn với quy hoạch và thực tế sản xuất nên chưa có đủ cơ sở và tính khả thi thấp. Việc dựa vào “cầu” của các khách hàng theo hợp đồng ký kết để quyết định kế hoạch xuất khẩu gạo cả năm chưa tính đến khả năng “cung” là chưa hợp lý. Đã xuất hiện tình trạng một số hợp đồng đã ký từ đầu năm với giá thấp, cuối năm giá cao nên nông dân không bán lúa theo giá hợp đồng dẫn đến tình trạng phá vỡ hợp đồng xuất khẩu gạo, làm giảm lòng tin của khách hàng và thiệt hại cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo (do bị phạt).
Việc phân bổ lợi nhuận xuất khẩu gạo giữa người nông dân trồng lúa với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gạo chưa hợp lý, trong đó phần thiệt thòi vẫn thuộc về nông dân và Nhà nước. Tình trạng này có từ lâu nhưng vẫn tồn tại đến nay dù năm 2002 Thủ Tướng Chính Phủ đã có Quyết định 80 về hợp đồng tiêu thụ nông sản, trong đó trọng tâm là lúa gạo. Đã 2 năm thực hiện Quyết định 80, nhưng kết quả đạt được trong lĩnh vực hợp đồng tiêu thụ lúa gạo ở các vùng đều rát hạn chế; kể cả vùng ĐBSCL. Không ký kết hợp đồng đã ký là tình trạng phổ biến trong thu mua lúa gạo xuất khẩu thể hiện rõ nhất trong năm 2004 khi giá lúa thị trường trong nước tăng cao và thị trường thế giới cung thấp hơn cầu.
Thứ ba: chất lượng lúa gạo vẫn còn thấp so với yêu cầu thị trường thế giới. Trong bối cảnh Việt Nam thực hiện lộ trình CEPT/AFTA và tiến tới gia nhập WTO, sự cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu nông sản nói chung, xuất khẩu gạo nói riêng diễn ra quyết liệt, nhất là về chất lượng. Trong đó lúa gạo Việt Nam chưa có chuyển biến đồng bộ từ sản xuất đến chế biến nên chất lượng chưa theo kịp yêu cầu thị trường. Trong sản xuất, những năm gần đây nông sản chủ yếu mở rộng diện tích các giống lúa mới nguồn IRR (phía Nam), lúa lai Trung Quốc (phía Bắc), có ưu điểm ngắn ngày, năng suất cao nhưng chất lượng gạo thương phẩm chưa cao, không hợp gu các thị trường có sức mua cao như Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, EU... Cơ cấu gạo xuất khẩu Việt Nam tuy có tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của các thị trường khó tính. Do đó, giá gạo Việt Nam hiện nay vẫn còn thấp hơn gaọ Thái Lan cả trên thị trường thế giới và trong nước. Điều này được chứng minh trong các siêu thị Việt Nam.
Thứ tư, khối lượng gạo xuất khẩu thực tế của Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng xuất khẩu của đất nước. Nếu so với sản lượng gạo được sản xuất ra thì hiện Việt Nam chỉ xuất khẩu khoảng 20% tổng khối lượng gạo sản xuất (như năm 2004 lượng gạo xuất khẩu chiếm 18,8% so với khối lượng gạo sản xuất). Lượng gạo huy động cho xuất khẩu vẫn còn nhưng khả năng xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn chưa đạt đến giới hạn.
Thứ năm, còn hạn chế trong công tác nghiên cứu, phân tích, dự báo cung-cầu gạo trên thị trường xuất khẩu; bị động trong việc ký hợp đồng xuất khẩu; hạn chế chế trong việc tiếp cận tín dụng của các doanh nghiệp xuất khẩu ở Việt Nam hiện nay được xem như một trở ngại quan trọng nhất trong việc tăng trưởng xuất khẩu của các nhà xuất khẩu chủ yếu.
Các cơ quan cung cấp tín dụng chủ yếu cho các doanh nghiệp xuất khẩu ở Việt Nam là Ngân hàng Nông Nghiệp Việt Nam, Ngân hàng Thương mại Việt Nam và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Các cơ quan này chỉ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp sau khi đã có hợp đồng xuất khẩu. Vì vậy, nếu không được cấp tín dụng kịp thời, nhà xuất khẩu sẽ không thể mua được gạo xuất khẩu theo hợp đồng và có thể còn bị phạt do không thực hiện đúng hợp đồng. Các DNNN ở ĐNB và ĐBSCL đều cho rằng tiếp cận tín dụng hiện nay còn thiếu hạn chế, thông thường Ngân hàng chỉ đáp ứng đủ 1/3 nhu cầu vay của doanh nghiệp.
Thứ sáu, hoạt động tiếp cận thị trường còn hạn chế. Phần lớn quan hệ giao dịch buôn bán gạo thường được bắt đầu từ người mua nước ngoài hoặc là trực tiếp, hoặc là thông qua cơ quan Chính phủ. Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam chưa chủ động tìm kiếm thị trường; chưa có được các hợp đồng lớn ổn định. Các hợp đồng chủ yếu là các hợp đồng Chính phủ chiếm 1/2 lượng gạo xuất khẩu.
Hoạt động của Hiệp hội xuất nhập khẩu lương thực Việt Nam trong việc cung cấp thông tin về giá cả, thị trường chưa có hiệu quả. Mặt khác, do gạo là nguồn an ninh lương thực quốc gia nên Nhà nước quản lý hoạt động xuất khẩu bằng việc cấp quota nên các doanh nghiệp cũng không chủ động trong việc ký hợp đồng.
Các hoạt động hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu gạo cũng chưa được quan tâm đầy đủ, chưa tận dụng được các phương tiện thông tin, văn phòng đại diện, cơ quan tham tán, người Việt ở nước ngoài...để tổ chức tuyên truyền, quảng bá gạo Việt Nam đến người tiêu dùng. Đối với thị trường có nhu cầu lớn về gạo có phẩm cấp thấp như Châu Phi chúng ta chưa xuất khẩu trực tiếp được do ta chưa có chính sách tín dụng hỗ trợ bạn trong thanh toán. ở các thị trường có sức mua lớn đòi hỏi chất lượng cao, gạo của ta cũng chưa tiếp cận được. Nhìn chung, hoạt động tiếp cận thị trường của doanh nghiệp được giao xuất khẩu của chúng ta chưa xứng đáng với tiềm năng và vị trí nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới, làm giảm khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam.
• So sánh gạo xuất khẩu của Việt Nam so với các đối thủ
cạnh tranh lớn (Thái Lan, ấn Độ, Mỹ, Pakistan)
Thái Lan
Việt Nam
ấn Độ
Mỹ
Pakistan
Loại gạo xuất khẩu
- Gạo hạt dài,
trong đó xuất khẩu gạo Parbolied, gạo Jasmine, thơm hương nhài là chính
- Gạo tấm, nếp và thơm
- Chủ yếu là gạoBastima, ngoài ra có gạo hạt dài không có mùi thơm.
- Gạo có độ dài trung bình
- Chủ yếu là gạo Bastima. Ngoài ra có gạo tẻ trắng thường.
Chất lượng gạo xuất khẩu
Gồm cả gạo chất lượng cao và gạo chất lượng thấp, trong đó gạo chất lượng cao là chủ yếu
- Chủ yếu là gạo có chất lượng Trung bình và thấp, gạo chất lượng cao chiếm số ít.
- Gồm cả gạo chất lượng cao và chất lượng trung bình
- Chủ yếu là gạo chất lượng cao, có tiêu chuẩn phân loại và khả năng về mặt công nghệ đảm bảo cung ứng đúng chất lượng
- Cả gạo chất lượng cao và gạo chất lượng trung bình
Giá bình quân xuất khẩu
Từ 173-298 USD/tấn
Từ 145-269 USD/tấn
Từ 136-286 USD/tấn
Từ 250- 314 USD/tấn
Từ 149-270 USD/tấn
Thị trường xuất khẩu
- Gạo chất lượng cao chủ yếu xuất khẩu vào nước có thu nhập cao (Mỹ, Nhật Bản EU..)
- Gạo chất lượng thấp sang Châu Phi, Châu á
- Chủ yếu là sang thị trường Châu á ( >50%), còn lại là Châu Phi, Trung Đông và Châu âu rất thấp (5-7%).
- Gạo chất lượng cao vào thị trường có thu nhập cao (Mỹ, Châu âu), còn gạo chất lượng thấp xuất khẩu sang Nam Phi và Trung Đông.
- Chủ yếu xuất sang thị trường Bắc Mỹ và nam Mỹ. Ngoài ra còn xuất sang EU, Nhật Bản
- Thị trường chính là Châu Phi, Afghanistan, Inđônêsia, Trung Đông và EU.
Từ bảng so sánh gạo của Việt Nam với các đối thủ cạnh tranh có thể thấy gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn nhiều yếu kém cả về loại gạo xuất khẩu, chất lượng gạo xuất khẩu, thị trường xuất khẩu và giá thấp hơn các đối thủ cạnh tranh.
Tóm lại, từ những tồn tại và nguyên nhân ở trên cho thấy để Việt Nam đứng vững trên vị trí một cường quốc gạo xuất khẩu trong cuộc cạnh tranh gay gắt trên thị trường thế giới như hiện nay, thì vấn đề đặt ra đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam là khắc phục những tồn tại ở trên. Để khắc phục những tồn tại đó thì vấn đề quan trọng không phải là phấn đấu tăng diện tích, qui mô và doanh số xuất khẩu, mà cần tập trung đầu tư thâm canh và áp dụng các tiến bộ KH-CN, cải tiến chất lượng và phẩm cấp gạo, tổ chức tốt và khép kín các khâu thu mua, chế biến, marketing bán hàng, đảm bảo nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả cũng như ổn định thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Chương 3
dự báo và giải pháp nhằm thúc đẩy
xuất khẩu gạo của Việt Nam trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế
3.1. Dự báo thị trường gạo thế giới tới năm 2010
3.1.1. Dự báo sản xuất và tiêu thụ gạo thế giới
Theo Dow Jones, dự đoán mới của Tổ chức Lương Nông Liên Hợp Quốc(FAO) cho thấy sản lượng thóc năm 2005 sẽ đạt 614 triệu tấn (tương đương 409,3 triệu tấn gạo), tăng 1,5% so với năm trước. Trong 7 nước sản xuất lớn nhất, chiếm 79-80% tổng sản lượng thế giới, sản lượng thóc của năm 2005 dự đoán sẽ tăng ở Trung Quốc tăng 20%; Inđônêsia tăng 0,6%; Việt Nam tăng 1,1%; Myanmar tăng 1,7% nhưng giảm 3% ở ấn Độ, Thái Lan giảm 3,3%; Băngladet giảm hơn 1%.
Bảng 3.1: Sản lượng thóc thế giới ( triệu tấn)
Nước
ước 2004
Dự báo 2005
Trung Quốc
182,8
186,4
ấn Độ
127,2
123,4
Inđônêsia
53,8
54,1
Bangladet
38,2
37,5
Việt Nam
35,6
36,0
Thái Lan
27,1
26,2
Myanmar
22,8
23,2
Philippin
14,8
14,4
Brazil
12,8
11,5
Mỹ
10,3
11,2
Pakistan
7,4
7,5
Tổng cộng thế giới
605,0
614,0
Nguồn: FAO, 3/2005
Theo dự báo mới nhất của USDA, sản lượng gạo thế giới vụ 2004/2005 sẽ tiếp tục tăng 2,3% so với vụ trước, lên 389,253 triệu tấn. Trong đó, sản lượng gạo vụ 2004/2005 dự báo sẽ tăng chủ yếu ở Trung Quốc, Nhật Bản, và Mỹ, tăng 11-13% so với vụ trước. Ngược lại sản lượng gạo vụ 2004/2005 dự báo sẽ giảm 4,6% ở ấn Độ, còn 83 triệu tấn, và ở Thái Lan giảm 3,8% còn 17 triệu tấn. Tiêu thụ gạo thế giới vụ 2004/2005 được USDA dự báo sẽ giảm gần 1 triệu tấn so với vụ trước, nhưng vẫn cao hơn sản lượng tới 14,1 triệu tấn. Tồn kho gạo thế giới cuối vụ 2004/2005 dự báo sẽ tiếp tục giảm mạnh, giảm 16,5% so với cuối vụ trước, còn 71,444 triệu tấn. Do giá gạo Châu á vững, chênh lệch giữa giá gạo Mỹ và gạo Châu á sẽ giảm dần, do đó gạo Mỹ sẽ cạnh tranh hơn trên một số thị trường. Tại Châu á, Trung Quốc tiếp tục giữ vai trò chủ đạo. Trung Quốc đã quay trở lại tập trung cho nguồn cung cho thị trường nội địa hơn là cho xuất khẩu. Tại Châu Phi, sản lượng gạo dự đoán sẽ tăng 3,5% so với vụ trước, lên gần 19 triệu tấn. Phần lớn sản lượng tăng ở Ai Cập, Nigiêria, Madagaxca trong khi lại giảm ở Môdămbích. Tại Mỹ La Tinh và Caribê, theo số liệu mới nhất, sản lượng tăng nhẹ ở các nước ác-hen-ti-na, Brazil, Bôlivia, Urugoay và Côlôbia trong khi lại giảm ở Chi-Lê, Pê-Ru và Equado. Trung Mỹ và Caribe bị bão và thời tiết xấu nên sản lượng giảm, nhất là Côxtarica, CuBa và Đôminica, riêng Mêhicô có sản lượng tăng 18% nhờ tăng diện tích và năng suất. Sản lượng của EU(25) sẽ đạt 2,7 triệu tấn, diện tích gieo trồng tại một số nước sản xuất
Bảng 3.2: Dự báo sản lượng, tiêu thụ gạo thế giới niên vụ 2004/2005
Đơn vị: 1.000 tấn
Nước
Sản lượng
Nước
Tiêu thụ
Trung Quốc
126.000
Trung Quốc
135.700
ấn Độ
83.000
ấn Độ
82.400
Inđônêsia
34.991
Inđônêsia
35.850
Bănglađét
25.500
Bănglađét
26.700
Việt Nam
21.500
Việt Nam
18.600
Thái Lan
17.000
Thái Lan
9.850
Myanmar
10.150
Myanmar
10.300
Philippin
9.200
Philippin
10.300
Brazil
7.900
Brazil
8.650
Nhật Bản
7.950
Nhật Bản
8.300
Mỹ
7.228
Pakistan
5.000
EU(25)
2.700
Tổng sản lượng thế giới
389.253
Tổng tiêu thụ thế giới
412.371
Nguồn: Dow Jones 8-12-2004, USDA
Theo dự báo của USAD, tổng mức tiêu thụ gạo của thế giới đến năm 2010 là 493.324 ngàn tấn. Tốc độ tăng trưởng tiêu thụ gạo bình quân từ nay đến năm 2010 là 0,9%/năm, trong đó số lượng gạo dùng làm thực phẩm là 399.023 ngàn tấn, sử dụng làm thực phẩm với tốc độ tăng bình quân là 1%/năm.
Bảng 3.3: Dự báo mức tiêu thụ gạo của thế giới tới năm 2010 của USDA
Các khu vực
Tổng sử dụng
Thực phẩm
Tiêu thụ theo đầu người (kg)
Thực tế 1998 (1.000 tấn)
Dự đoán 2010
Mức tăng (%)
Thực tế 1998 (1.000 tấn)
Dự đoán 2010
Tăng trưởng (%)
Thực tế 1998
Dự đoán 2010
91-98
98-010
91-98
98-010
Thế giới
329.402
439.324
1,7
0,9
352.023
399.023
1,8
1,0
59.9
59.1
1
Các nước đang PT
374.711
420.115
1,8
1,0
337.119
382.162
1,9
1,1
73.3
70.3
Châu Phi
14.929
19.353
3,6
2,2
12.985
17.720
3,5
2,6
18.0
18.8
Mỹ la Tinh
15.221
18.050
1,3
1,4
14.056
16.842
2,1
1,5
27.9
28.5
Châu á
344.248
382.340
1,7
0,9
309.777
347.242
1,8
1,0
92.0
89..2
Cận đông
6.337
8.454
3,0
2,4
5.902
8.072
3,3
2,6
24.7
26.1
Nam á
111.110
130.816
2,0
1,4
103.648
123.054
2,4
1,4
80.9
80.9
Đông nam á
226.802
243.070
1,6
0,6
200.227
216.115
1,5
0,6
108.4
104.8
2
Các nước PT
15.832
16.836
0,6
0,5
14.070
14.548
0,9
0,3
15.9
15.9
Bắc Mỹ
3.726
4.428
2,2
14
3.090
3.627
3,4
1,3
10.3
11.2
Tây âu
2.364
2.734
2,5
1,2
2.167
2.499
2,9
1,2
5.6
6.5
EU(15)
2.301
2.662
2,7
1,2
2.104
2.426
3,0
1,2
5.6
6.5
Châu đại dương
334
433
8,2
2,2
189
285
8,8
3,4
8.4
11.6
3
Các nước PT khác
9.407
9.242
-0,6
-0,1
8.624
8.138
-0,4
-0,5
49.7
45.0
4
Các nền kinh tế chuyển đổi
1.859
2.373
-2,8
2,1
1.799
2.313
-1,4
2,1
4.4
5.7
Đông âu
442
481
2,7
0,7
432
471
3,1
0,7
3.6
3.9
Các quốc gia độc lập
1.389
1.860
-4,4
2,5
1.324
1.815
-2,8
2,5
4.7
6.6
Nguồn:FAS, USDA năm 2000- Thương mại
Dự báo tiêu thụ gạo theo nhóm nước: tổng mức tiêu thụ của các nước đang phát triển sẽ tăng khoảng 1%/năm và tại các nước phát triển chỉ tăng 0,5%/năm. Dự báo tiêu thụ gạo theo mục đích sử dụng: tiêu dùng gạo như thực phẩm tại các nước đang phát triển sẽ tăng bình quân 1,1%/năm còn tại các nước phát triển là 0,3%/năm.
Nếu xét về cơ cấu tiêu thụ theo đầu người thì Myanmar có mức tiêu thụ theo đầu người cao nhất đạt 183,8kg/người/năm vào năm 2010, tiếp đến là Campuchia với 166kg/người/năm, thứ 3 là Inđônêsia với 158kg/người/năm.
3.1.2. Triển vọng buôn bán gạo trên thị trường thế giới
Theo dự báo của USDA, buôn bán gạo toàn cầu dự báo sẽ tăng bình quân 2,4%/năm trong giai đoạn 2003- 2012. Tới năm 2012, buôn bán gạo dự báo sẽ đạt trên 33 triệu tấn, tăng 25% so với mức kỷ lục đạt trong năm 1998. Ty nhiên, so với tổng lượng tiêu thụ, tỷ trọng gạo giao dịch vẫn ở mức khá nhỏ so với các loại ngũ cốc khác, chỉ đạt 6-7%.
+ Nhập khẩu
Gạo hạt dài (Indica) sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng giao dịch gạo toàn cầu. Các nước nhập khẩu gạo chủ yếu ở Châu á, Trung Đông, Cận Shahara Châu Phi và Mỹ La Tinh, trong đó phải kể đến Inđônêsia, Iran, Irắc, Philippin và ảrập Xêút sẽ vẫn là những nước nhập khẩu gạo hạt dài chủ yếu.
Trong khi đó, gạo hạt trung bình (Japonica) vẫn được các nước có mức thu nhập cao và trung bình nhập khẩu nhiều, nhất là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ và Gioócđanni. Tuy nhiên, tăng trưởng nhập khẩu gạo hạt trung bình sẽ không cao như tăng trưởng nhập khẩu hạt dài, bất chấp những dự báo về xu hướng tăng nhập khẩu hạt trung bình và gạo hạt ngắn vào Nhật Bản và Hàn Quốc theo các cam kết của WTO.
Mức tăng trưởng dân số cao cùng với những hạn chế về khả năng tăng trưởng của sản xuất nội địa làm tăng nhu cầu nhập khẩu gạo của Inđônêsia. Các nước Châu Phi và Trung Đông cũng có xu hướng tăng nhập khẩu trong những năm tới do dân số tăng trong khi sản xuất nội địa hạn chế do điều kiện tự nhiên không thuận lợi ở các nước Bắc Phi trong khi Trung Đông và các nước Cận Sahara lại bị cản trở do những khó khăn về cơ sở hạ tầng và bất trắc về chính trị. Cụ thể ở bảng 3.4:
Bảng 3.4: Dự báo các nước nhập khẩu gạo thế giới tới năm 2010
Đơn vị: Triệu tấn
Các nước
02/02
02/03
03/04
04/05
05/06
06/07
07/08
08/09
09/10
Cận Sahara
5,8
5,7
5,5
5,6
5,6
5,6
5,7
5,7
5,8
Inđônêsia
3,5
3,3
3,5
3,8
4,0
4,3
4,6
5,0
5,3
Các nước Châu á
2,3
2,7
2,5
2,5
2,5
2,6
2,6
2,6
2,7
Các nước khác
1,1
1,0
1,9
1,9
1,9
1,9
1,9
2,0
2,0
I ran
1,0
1,5
1,4
1,5
1,6
1,6
1,6
1,7
1,7
Các nước Bắc Phi và Trung Đông
1,4
1,5
1,4
1,5
1,5
1,6
1,6
1,7
1,7
Trung Mỹ/Caribe
1,3
1,4
1,4
1,4
1,5
1,5
1,5
1,6
1,6
I rắc
1,3
1,1
1,2
1,2
1,3
1,3
1,3
1,4
1,4
Philippin
1,1
1,0
1,0
1,1
1,1
1,2
1,2
1,3
1,3
A rập Xếut
1,1
0,9
1,0
1,1
1,1
1,1
1,2
1,2
1,2
EU(1)
0,8
0,9
0,9
0,9
0,9
0,9
0,9
0,9
0,9
Nhật Bản
0,7
0,7
0,7
0,7
0,7
0,7
0,7
0,7
0,7
Nam Phi
0,6
0,6
0,6
0,6
0,6
0,6
0,6
0,7
0,7
Liên Xô cũ(2)
0,6
0,7
0,6
0,6
0,6
0,6
0,6
0,6
0,6
Mêhico
0,5
0,5
0,5
0,5
0,5
0,5
0,5
0,6
0,6
Trung Quốc
0,2
0,3
0,3
0,4
0,4
0,4
0,4
0,5
0,5
Malaysia
0,6
0,6
0,5
0,5
0,5
0,5
0,5
0,5
0,5
Brazil
0,6
0,5
0,6
0,6
0,5
0,5
0,5
0,5
0,5
Mỹ
0,4
0,4
0,4
0,4
0,4
0,4
0,4
0,4
0,4
Canada
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
Các nước
Nam Mỹ
0,4
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
Trung Đông âu
0,3
0,4
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
Hàn Quốc
0,1
0,1
0,2
0,2
0,2
0,2
0,2
0,2
0,2
Tổng
25,9
26,3
26,9
27,6
28,3
28,9
29,6
30,3
31,0
Nguồn: USDA Baseline Projection, 2/2003
1/. Không tính thương mại nội bộ EU
2/. Bao gồm cả thương mại nội bộ Liên Xô cũ
Inđônêsia là nước nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới trong thời gian qua, nhưng năm 2004 lượng nhập khẩu gạo của Inđônêsia giảm đáng kể còn 800 ngàn tấn do Chính phủ Inđônêsia duy trì lệnh cấm nhập khẩu gạo đến hết năm 2004.
Theo Dow Jones, tin tức từ Cơ quan Lương thực Quốc gia Philippin (NFA) cho thấy vào cuối Tháng 4/2005 hoặc đầu Tháng 5 tới, Cơ quan này sẽ tiếp tục đấu thầu nhập khẩu 300.000 tấn gạo, hàng giao chủ yếu trong Tháng 5, Tháng 6/2005. Đợt nhập khẩu này của NFA nhằm tăng lượng gạo cho những tháng giáp hạt vào Quý 3 hàng năm. Theo Dó Jones, hiện NFA đang quan tấm nhiều đến gạo của Việt Nam , bởi nguồn cung thóc gạo của Việt Nam khá dồi dào sau thu hoạch vụ lúa chính , chất lượng tốt và giá cả phải chăng. Hiện giá chào bán gạo của Việt Nam thấp hơn 20-30 USD/tấn so với giá chào bán gạo cùng loại của Thái Lan. Cho đến cuối Tháng 3/2005, NFA đã ký hợp đồng nhập khẩu 888.500 tấn gạo, trong đó hơn 50% là nhập khẩu từ Việt Nam. Dự đoán cả năm 2005, nhập khẩu của Philippin sẽ đạt tới 1,4 triệu tấn, cao hơn 300.000 tấn so với dự báo ban đầu (1,1 triệu tấn) và cao hơn 415 tấn so với năm 2004. Trong đó có 200.000 tấn gạo trong hạn ngạch nhập khẩu được cấp cho nông dân Philippin. Thời tiết khô hạn làm sản lượng gạo của Philippin năm nay giảm sút và đẩy nhu cầu nhập khẩu gạo tăng.
Theo Dow Jones, nhập khẩu gạo năm 2005 dự đoán sẽ duy trì ở mức cao ở một số nước Trung Đông và Châu á như Iran, Irắc, ảRậpXêút, Philippin, Bangladet và Inđônêsia.
+ Xuất khẩu
Thái Lan và Việt Nam, 2 nước đứng đầu về xuất khẩu gạo hạt dài, dự báo sẽ chiếm khoảng 44% trong tổng lượng xuất khẩu gạo toàn cầu. Năng suất tăng trong khi mức tiêu thụ bình quân đầu người trên thị trường nội địa có xu hướng giảm đi sẽ tạo điều kiện tăng nguồn cung xuất khẩu của 2 nước này.
Xuất khẩu gạo của Trung Quốc- nước đứng thứ 5 về xuất khẩu gạo- chỉ tăng nhẹ trong những năm tới do Trung Quốc chuyển từ sản xuất gạo cấp thấp sang các loại gạo có chất lượng cao nhưng năng suất thấp để đáp ứng nhu cầu tăng lên về loại gạo này từ thị trường nội địa cũng như thị trường xuất khẩu
Gạo chất lượng cao Basmati giữ vai trò quan trọng trong xuất khẩu của Pakistan. Mặc dù nguồn thu từ xuất khẩu gạo chiếm vị trí quan trọng trong nguồn thu ngoại tệ của Pakistan nhưng những khó khăn về nguồn nước tưới cũng như cơ sở hạ tầng ngăn cản Pakistan tăng sản xuất và xuất khẩu gạo, làm lượng xuất khẩu của nước này, sau khi tăng nhẹ, lại giảm xuống mức 2,4 triệu tấn, tương đương với mức xuất khẩu năm 2000. (Bảng 3.5)
Bảng 3.5: Dự báo các nước xuất khẩu gạo thế giới tới năm 2010
Đơn vị: Triệu tấn
Nước
02/02
02/03
03/04
04/05
05/06
06/07
07/08
08/09
09/10
Thái Lan
6,5
7,5
7,8
7,9
8,0
8,1
8,3
8,5
8,6
ấn Độ
6,0
3,9
4,0
4,3
4,5
4,8
5,0
5,3
5,5
Việt Nam
3,1
4,0
4,2
4,3
4,5
4,6
4,8
4,9
5,1
Mỹ
2,9
3,1
3,0
3,1
3,1
3,1
3,1
3,0
3,0
Các nước khác ngoài Mỹ
2,2
2,4
2,3
2,1
2,1
2,0
2,1
2,2
2,3
Pakistan
1,5
1,0
1,6
1,8
2,0
2,0
2,1
2,1
2,1
Trung Quốc
1,8
2,3
2,0
1,9
1,8
1,8
1,7
1,8
1,9
Các nước Nam Mỹ
0,9
1,0
1,1
1,1
1,2
1,2
1,2
1,3
1,3
úc
0,5
0,5
0,5
0,5
0,6
0,6
0,6
0,6
0,7
ác- hen-ti-na
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
0,4
0,4
0,4
EU (1)
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
Tổng
25,9
26,3
26,9
27,6
28,3
28,9
29,6
30,3
31,0
Nguồn: USDA Baseline Projection, 2/2003
1/. Không tính thương mại nộibộ EU
Từ Bảng 3.5 có thể thấy :
Sản lượng xuất khẩu gạo thế giới tăng dần qua các năm từ 25,9 triệu tấn năm 2002 đến 32 triệu tấn năm 2010. Theo dự báo thì xuất khẩu gạo tăng từ năm 2002 đến năm 2004, nhưng thực tế thì xuất khẩu gạo trong 3 năm này lại giảm dần, năm 2002 là 27,92 triệu tấn giảm xuống 25,37 triệu tấn năm 2004.
- Thái Lan vẫn là cường quốc xuất khẩu gạo trong những năm tới. Dự báo năm 2004 xuất khẩu 7,8 triệu tấn nhưng thực tế thì năm 2004 Thái Lan xuất khẩu tới 10 triệu tấn gạo.
Theo Dow Jones, Báo cáo của Văn phòng kinh tế nông nghiệp Thái Lan (OAE) cho thấy hạn hán làm diện tích trồng lúa vụ 2 của nước này chỉ đạt 8,1 triệu rai (1,296 triệu ha) giảm 14,1% so với vụ trước. Sản lượng thóc vụ 2 của Thái Lan năm 2005 dự đoán đạt 5,22 triệu tấn, giảm 17,6% so với vụ trước. Nhằm nâng đỡ giá thóc gạo cho nông dân, Chính phủ Thái Lan đã quyết định tiếp tục thực hiện chương trình can thiệp thị trường lúa vụ 2 với giá sàn mua thóc gạo hơn giá thị trường. Theo đó Chính phủ Thái Lan sẽ mua thóc loại hạt trắng 100% với giá 6.600 Bath/tấn; thóc loại 5% tấm với giá 6.500 Bath/tấn. Chương trình này thực hiện từ 1/4/2005 đến 31/7/2005 tại tất cả các vùng trừ khu vực Miền Nam Thái Lan từ 1/7/2005 đến 30/9/2005. Dự kiến Chính phủ Thái Lan sẽ mua 2,5 triệu tấn thóc vụ 2 tù nông dân. Vừa qua Chính phủ Thái Lan đã thực hiện chương trình can thiệp thị trường lúa vụ chính 2004/2005 (ban đầu từ Tháng 11/2004 đến tháng 3/2005, sau đó kéo dài đến hết Tháng 4/2005).
- ấn Độ theo như dự báo thì lượng gạo xuất khẩu ngày càng tăng kể từ năm 2004 đến năm 2010, nhưng vẫn thấp hơn mức kỷ lục năm 2002 (6,6 triệu tấn). Trong khi thực tế xuất khẩu gạo của ấn độ ngày càng giảm dần, năm 2004 còn 2,8 triệu tấn nguyên nhân là do Chính phủ ấn Độ đã ngừng trợ cấp xuất khẩu gạo sau khi dự trữ trong nước giảm mạnh nên lượng gạo xuất khẩu của ấn Độ năm 2005 dự báo tiếp tục giảm.
Theo FAO cho biết, sản lượng thóc của ấn Độ năm 2005 dự báo sẽ đạt 131 triệu tấn, tăng so với năm 2004 là 127 triệu tấn. Lượng gạo Chính Phủ ấn Độ thu mua trong niên vụ 2003/2004 đạt 19,25 triệu tấn, tăng 7,3% so với mức 17,94 triệu tấn hồi năm ngoái. Xuất khẩu của ấn Độ đã giảm mạnh từ mức 4,4 triệu tấn năm 2003 xuống còn 2,8 triệu tấn năm 2004. Dự báo sẽ giảm hơn nữa trong năm 2005.
- Trung Quốc cũng là một trong những nước xuất khẩu gạo lớn. Năm 2004 là 2 triệu tấn, trong khi thực tế năm 2004 xuất khẩu của Trung Quốc giảm đáng kể xuống còn 800 ngàn tấn, do sản lượng và tồn kho gạo của Trung Quốc năm 2004 giảm mạnh đã làm xuất khẩu gạo của nước này giảm tới 69% (1,78 triệu tấn) so với năm 2003.
- Mỹ cũng là nước xuất khẩu gạo lớn, năm 2004 xuất khẩu Mỹ đúng bằng 3 triệu tấn theo như dự báo nhưng Mỹ đã vượt lên trên ấn Độ trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới sau Thái Lan và Việt Nam.
Ngoài ra có Pakistan và các nước khác ngoài Mỹ cũng xuất khẩu gạo với lớn khoảng từ 1-2,5 triệu tấn/năm.
Theo dự báo mới nhất của USDA (8/12/2004) xuất khẩu gạo thế giới năm 2005 dự báo sẽ giảm 3,8% so với năm trước, còn 24,41 triệu tấn. Trong đó, vị trí của các nước xuất khẩu gạo sẽ không có sự thay đổi so với năm 2004, xuất khẩu gạo năm 2005 dự báo giảm ở Thái Lan, giảm 17,5% so với năm trước còn 8,25 triệu tấn và ở Việt Nam giảm 6,2% còn 3,75 triệu tấn.
3.2. Dự báo xuất khẩu gạo Việt Nam trong thời gian tới
Trong những năm vừa qua, khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đã liên tục tăng lên. Tuy nhiên, khối lượng xuất khẩu thực tế vẫn chưa đạt đến giới hạn có thể xuất khẩu. Giới hạn có thể xuất khẩu được xác định dựa trên cân đối giữa mức đảm bảo tiêu dùng lương thực trong nước (theo quy định về số calo cần thiết cho mỗi người/ngày) và sản lượng trong nước. Như vậy khả năng huy động sản lượng gạo cho xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn, ngay cả trong trường hợp sản lượng sản xuất tăng thấp hơn giai đoạn trước. Hơn nữa, chất lượng gạo xuất khẩu hiện nay cũng đang được Việt Nam quan tâm nhiều hơn cả từ lựa chọn giống mới và đầu tư thiết bị chế biến.
Về triển vọng khả năng thương mại mặt hàng gạo, trong xu thế tự do hoá thương mại hiện nay, cơ hội gia tăng xuất khẩu gạo cho các nước cũng được mở ra. Một mặt, Chương trình Công ước Viện trợ lương thực về các sản phẩm có hạt (tương đương với lúa mì ) đang có xu hướng giảm dần, kể từ năm 1990/1991 đến 1997/1998 đã giảm hơn 50% tương đương với 5,5 triệu tấn. Trong Công ước về Viện trợ năm 1995, tổng mức đóng góp tối thiểu hàng năm của các nước phát triển giảm 29%. Các nước kém phát triển đang chuyển dần sang nhập khẩu lương thực hoàn toàn theo điều kiện thương mại. Vì vậy, tổng giá trị thương mại lương thực sẽ tăng lên. Mặt khác, trong khuôn khổ các cuộc đàm phán về nông nghiệp của WTO, các nước nhập khẩu lương thực cũng đã đưa ra các cam kết về mở rộng thị trường lương thực, giảm trợ cấp sản xuất trong nước.
Như vậy, Việt Nam có rất nhiều cơ hội tăng sản lượng và chất lượng gạo xuất khẩu. Nếu Việt Nam tận dụng được cơ hội nhu cầu thị trường tăng lên (trong khi các nước có tiềm năng cạnh tranh trong sản xuất và xuất khẩu gạo như: Myanmar, Pakistan và Campuchia còn đang chậm hơn trong nâng cao hiệu quả đầu tư sản xuất và tìm cách mở rộng thị trường), đồng thời, tăng cường có hiệu quả áp dụng các kỹ thuật mới trong sản xuất đi đôi với cải thiện cơ chế chính sách và phương thức xúc tiến thương mại, bắt kịp Thái Lan, Trung Quốc và ấn Độ trong cạnh tranh xuất khẩu vào các thị trường mới mở, Việt Nam sẽ có thể mở rộng xuất khẩu trên cả hai thị trường gạo phẩm cấp cao và gạo chất lượng trung bình. Tổng các thị phần có thể ở mức 17- 18%, khối lượng gạo xuất khẩu có hể đạt cao nhất 5,2 triệu tấn/năm trong vòng 5 năm tới và 6,2 triệu tấn/năm trong thời kỳ 5 năm tiếp theo. Ngược lại, nếu Việt Nam duy trì năng lực cạnh tranh như hiện tại, đồng nghĩa với Thái Lan, Trung Quốc, ấn Độ và Mỹ sẽ có cơ hội tiếp tục giữ vững thị phần của họ ở khu vực thị trường gạo chất lượng cao, trong khi đó khoảng cách không nhiều về khả năng cạnh tranh xuất khẩu giữa Việt Nam và nhóm 3 nước đang phát triển sẽ càng sít sao, thị phần nhập khẩu gạo của Việt Nam, vì vậy sẽ càng bị thu hẹp ít nhất 15-16%, gạo xuất khẩu chỉ có khả năng đạt cao nhất khoảng 4 triệu tấn/năm trong thời kỳ 2001-2005 và 4,8 triệu tấn/năm trong thời kỳ 2006-2010.
Với xu thế phát triển của đất nước, tương quan với tình hình thị trường và các nước cạnh tranh xuất khẩu có thể nhận định chung: Việt Nam vẫn là một trong các nước có nhiều khả năng và nằm trong 4 nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới trong vòng 10 năm tới. Dự báo, trong bối cảnh cạnh tranh bám đuổi mạnh mẽ giữa các nước, tăng thêm thị phần xuất khẩu trong thời gian tới là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam. Một số nhà kinh tế cho rằng, tiếp tục giữ được thị phần như hiện nay ở các khu vực thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam là khả năng xảy ra cao nhất, theo đó xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ đạt 4,61 triệu tấn/năm trong thời kỳ 2001 –2005 và 5,42 triệu tấn/năm thời kỳ 2006-2010. Thị trường quan trọng của gạo Việt Nam vẫn là Châu Phi, hàng năm có thể xuất vào 1,9-2,7 triệu tấn gạo; Châu á 1,3-1,5 triệu tấn; tiếp theo là khu vực Mỹ La Tinh và Caribe có thể xuất vào mỗi năm 0,5-0,9 triệu tấn.
Bảng 3.6: Dự báo thị trường gạo Việt Nam giai đoạn 2001-2010
Đơn vị: 1.000 tấn
Thị trường
2001-2005
2006-2010
Châu á
1.570
1.490
Châu Phi
2.190
2.730
Mỹ La Tinh và Caribê
620
880
Khu vực còn lại
230
320
Tổng
4.610
5.420
Nguồn: Nghiên cứu kinh tế số 284/2004.
Mặt khác, trong khoảng 10 năm tới, nhu cầu gạo có chất lượng cao sẽ tăng lên chiếm 30-40% số lượng tiêu thụ trong nước tương đương 5-6 triệu tấn gạo và gạo phẩm cấp cao cho xuất khẩu sẽ tăng lên chiếm 40-50% tổng lượng gạo xuất khẩu, tương đương 2 - 2,5 triệu tấn để đảm bảo yêu cầu của các thị trường Trung Cận Đông, Châu âu, Đông và Đông Nam Châu á, Bắc Mỹ và Mỹ La Tinh. Như vậy 10 năm tới, mặc dù khả năng tăng thị phần gạo xuất khẩu của Việt Nam là rất thấp nhưng Việt Nam vẫn có cơ hội tăng giá trị xuất khẩu gạo nhờ đầu tư cải thiện chất lượng gạo xuất khẩu.
Bộ NN&PTNT cho biết, năm 2005 sản xuất nông nghiệp tiếp tục xu hướng chuyển đổi về cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng. Nhiều địa phương sẽ chuyển diện tích trồng lúa năng suất thấp sang nuôi thuỷ sản hoặc trồng các loại cây khác có hiệu quả cao hơn. Diện tích trồng lúa sẽ giảm sút. Sản lượng thóc năm 2005 dự báo sẽ giảm 0,7- 0,8 triệu tấn so với năm trước, còn 35,1- 35,2 triệu tấn.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam dự báo, giá xuất khẩu gạo bình quân của Việt Nam năm 2005 sẽ đạt 255 USD/tấn, tăng 45 USD/tấn so với giá bình quân năm 2004, sản lượng gạo xuất khẩu năm 2005 sẽ đạt ít nhất 3,8 triệu tấn, trị giá xuất khẩu đạt 1 tỷ USD.
Từ đầu năm đến hết Tháng 3/2005, cả nước xuất khẩu khoảng 900.000 tấn gạo, đạt trị giá 217,8 triệu USD, giá xuất khẩu bình quân của Quý I/2005 đạt 242 USD/tấn FOB, tăng 50 USD/tấn so với Quý I/2004. Tổng lượng gạo đã ký hợp đồng xuất khẩu trong Quý I/2005 đạt khoảng 3 triệu tấn, trong đó có 2,2 triệu tấn phải giao hàng đến hết tháng 6/2005. Những hợp đồng các doanh nghiệp vừa ký trong tháng 3, giao hàng trong Quý II/2005 có giá bình quân 250 USD/tấn FOB, cao hơn 8 USD/tấn so với giá bình quân cả quý I.
3.3. Định hướng và Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu gạo của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
3.3.1. Định hướng phát triển sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam
Sản xuất lương thực nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng luôn là ngành quan trọng bậc nhất của nông nghiệp Việt Nam nhằm thực hiện 3 mục tiêu:
- Đảm bảo vững chắc anh ninh lương thực quốc gia, tăng thêm khối lượng lương thực dự trữ, thoả mãn nhu cầu trong bất kỳ tình huống nào.
- Đảm bảo nguồn nguyên liệu cho cung cấp công nghiệp.
- Tăng cường năng suất cây trồng và năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam
Xuất phát từ mục tiêu trên, các định hướng cơ bản được đề xuất là:
(1). Tăng cường thâm canh tăng năng suất, kết hợp khai hoang tăng vụ ở những nơi có điều kiện. Trong đó, thâm canh tăng năng suất là hướng chủ yếu lâu dài, kết hợp với nâng cao chất lượng lúa hàng hoá. Tuy nhiên, một số diện tích trồng lúa kém hiệu quả ở ĐBSCL có thể sẽ chuyển sang canh tác các loại hoa màu khác hay nuôi trồng thuỷ sản sao cho cho có hiệu quả kinh tế cao hơn.
(2). Đa dạng hoá trong sản xuất, đa dạng hoá về chủng loại gạo (gạo thông thường, gạo đặc sản, gạo cao cấp), đa dạng hoá về phẩm cấp các giống lúa (cùng một giống lúa nhưng có thể có giống siêu thuần chủng, thuần chủng cấp1, cấp2), đa dạng hoá nguồn lúa gạo cho xuất khẩu. Tuy nhiên, việc đa dạng hoá phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường quốc tế để sản xuất ra các sản phẩm thích hợp.
(3). Tích cực ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất để vừa tăng năng suất vừa tăng chất lượng gạo. Nhưng chúng ta phải chú ý kèm với áp dụng khoa học kỹ thuật là bảo vệ môi trường sinh thái.
- Mục tiêu và phương hướng phát tiển xuất khẩu lúa gạo
+ Tăng lượng gạo xuất khẩu trên cơ sở vẫn phải đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và có lãi cho người sản xuất và xuất khẩu
+ Mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời phải xây dựng được một hệ thống phân phối trên thị trường quốc tế. Cùng với việc thúc đẩy mở rộng thị trường là chú trọng chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam
+ Nâng cao kim ngạch xuất khẩu trên cơ sở nâng cao giá gạo xuất khẩu trên thị trường quốc tế
- Xuất phát từ mục tiêu trên chúng ta cần định hướng sản xuất như sau:
+ Đa dạng hoá chủng loại gạo với nhiều loại khác nhau để có thể đáp ứng các nhu cầu thị trường thế giới. Chúng ta đa dạng hoá chủng loại sản phẩm nhưng mang tính tích cực, càng ngày càng có nhiều chủng loại tốt, cấp cao, đặc sản phù hợp với nhu cầu thị hiếu của các thị trường gạo trên thế giới.
+ Đa phương hoá thị trường tiêu thụ gạo, xác định và có sự ưu tiên đối với thị trường xuất khẩu gạo mang tính chiến lược, lâu dài bằng ổn định số lượng và nâng cao chất lượng hàng hoá. Khi có cơ hội phải chiếm lĩnh và biến những thị trường tiềm năng thành những thị trường quen thuộc và truyền thống của mình.
+ Khuyến khích và tạo điều kiện cho nhiều hình thức tổ chức tham gia xuất khẩu để có thể đáp ứng được mọi nhu cầu ở mọi nơi, mọi lúc, mọi quy mô của khách hàng. Như vậy đòi hỏi cơ quan quản lý Nhà nước phải có cơ chế linh hoạt mềm dẻo thích ứng kịp thời những biến động của thị trường.
+ Tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế, các hiệp định thương mại đa phương và song phương để tạo cơ hội thâm nhập và khai thác các thị trường có nhu cầu nhập khẩu gạo.
+ Kinh doanh gạo cũng như mọi hàng hoá khác đều phải phù hợp với quy luật kinh tế thị trường. Từ đó xây dựng mọi cơ sở nền tảng cho xuất khẩu gạo phù hợp với nhu cầu thị trường và tập quán thương mại.
3.2.2. Các giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới
3.2.2.1. Đối với phát triển sản xuất
Để nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu gạo trong những năm tới đòi hỏi phải có những thay đổi cơ bản trong đầu tư phát triển, chuyển từ đầu tư tăng diện tích và sản lượng gạo sang đầu tư cho phát triển gạo chất lượng cao hơn trên thị trường thế giới bằng các giải pháp cơ bản sau:
+ Quy hoạch từng vùng trồng các giống lúa khác nhau để tránh sự lai tạp giữa các loại giống lúa khi cùng trồng xen lẫn trong cùng một vùng, cũng có thể quy hoạch từng vùng lúa để phục vụ cho xuất khẩu sang từng thị trường khác nhau. Giảm diện tích gạo có chất lượng thấp, mở rộng diện tích gạo có chất lượng cao, các giống lúa có khẳ năng kháng bệnh và chịu được các điều kiện thiên tai khắc nghiệt như các giống lúa CR203, OM 80-81, IR 58, IR 64, các giống lúa lai Trung Quốc và một số giống lúa đặc sản có phẩm chất cao, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.
+ Khẩn trương hoàn thiện qu hoạch vùng lúa xuất khẩu của cả nước và kế hoạch cụ thể ưu tiên đầu tư vốn và khoa học kỹ thuật để phát triển sản xuất lúa trong từng thời kỳ phù hợp với quy hoạch và kế hoạch xuất khẩu gạo của cả nước.
+ Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Thực hiện đồng bộ các giải pháp khoa học kỹ thuật. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu sản xuất, cung ứng và ứng dụng các giống lúa mới... Tăng cường phối hợp giữa nghiên cứu và khuyến nông các giống lúa chất lượng cao và nâng cao hiệu quả phối hợp hành động với mục tiêu nâng cao năng suất và mở rộng nguồn cung giống lúa, từ đó có thể thu hút nông dân.
+ Củng cố vấn đề quyền sử dụng đất sao cho đất có thể được tập trung dồn thửa nhằm có được quy mô sản xuất lớn hơn song vẫn không ảnh hưởng đến quyền sở hữu. Điều này góp phần giảm chi phí phân loại và giúp cho việc kiểm soát chất lượng gạo.
+ Nới lỏng các quy định về mục đích sử dụng đất, cho nông dân được tự do chọn lựa đối tượng canh tác để tối đa hóa nguồn thu nhập theo tín hiệu thị trường.
3.1.2.2. Đối với khâu chế biến, vận chuyển:
Một yếu tố quan trọng gây hạn chế chất lượng gạo là công nghệ sau thu hoạch. Chất lượng phơi nắng thóc kém khiến tỷ lệ hạt gẫy vỡ trong xay xát cao. ở Thái Lan, hong khô thóc được tách thành một giai đoạn riêng trong công nghệ sau thu hoạch, do đó, tỷ lệ hạt gẫy vỡ cao nhất chỉ 25%. Công nghệ sau thu hoạch của Việt Nam kém hiệu quả do quá tập trung vào công đoạn xay xát mà chưa quan tâm đến các công đoạn khác, và một phần do việc đầu tư nâng cấp công nghệ không đem lại lợi tức cao. Đây là khâu rất yếu hiện nay, vì vậy, trong những năm tới cần tập trung giải quyết theo các hướng:
+ Hoàn thiện công nghệ sau thu hoạch: cần quan tâm đầu tư nâng cấp công nghệ thu hoạch, bảo quản sau thu hoạch (dùng máy sấy thay cho phơi thóc bằng ánh sáng mặt trời). Tăng cường đầu tư cho công nghệ xay xát, chế biến gạo. Hệ thống cơ sở vật chát phục vụ cho việc cung cấp cây giống, khuyến nông, mua, bảo quản, tồn trữ, vận chuyển, bốc xếp... tất cả phải thực hiện quản lý theo tiêu chuẩn ISO.
+ Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và bến cảng phục vụ xuất khẩu gạo, trong đó mở rộng cảng Cần Thơ trở thành cảng chủ yếu để xuất khẩu gạo
+ Tăng cường dự trữ nhằm giảm thiểu các biến động bất lợi của thị trường thế giới, và các thiệt hại do thiên tai gây ra, xây dựng hệ thống kho dự trữ và tổ chức lại hệ thống mua gom, dự trữ gạo xuất khẩu.
+ Tăng cường quản lý chất lượng gạo xuất khẩu, nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu từ khâu trồng, thu hoạch, bảo quản đến khâu xay xát, chế biến và đóng gói theo tiêu chuẩn thống nhất phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới, xây dựng quy chế bắt buộc về áp dụng tiêu chuẩn gạo xuất khẩu.
+ Tư nhân hoá và cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước trong lũnh vực xay xát gạo nói riêng và trong toàn kênh thu mua nói chung, nhờ đó nâng cao sức cạnh tranh của hệ thống thu mua chế biến của Việt Nam so với các nước xuất khẩu gạo khác.
+ Thu hút vốn FDI vào lĩnh vực chế biến gạo, cũng như chế biến một số lương thực, thực phẩm khác. Điều này một mặt mở rộng mối quan hệ giữa người sản xuất và doanh nghiệp chế biến, mặt khác góp phần cải thiện công nghệ xay xát và nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu.
3.2.2.3. Về tổ chức thu mua hàng hoá
Nhà nước cần xây dựng hệ thống tổ chức thu mua lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu gắn với chính quyền địa phương trong vùng qui hoạch. Tiến tới hình thành mạng lưới theo mô hình HTX hoặc tổ hợp tác thu mua lúa thống nhất giữa các địa phương theo phương thức và giá sàn quy định của Nhà nước. Giải quyết thoả đáng quan hệ giữa Nhà nước, nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong phân phối lợi nhuận. Phương thức mua lúa tạm trữ xuất khẩu đối với vùng ĐCL cần được nghiên cứu bổ sung để giảm bớt bù lỗ của Nhà nước và đến được tay người sản xuất.
+ Tổ chức lại hệ thống mua gom gạo xuất khẩu trên cơ sở đảm bảo quyền lợi cho người xuất khẩu cũng như người dân, hình thành Quỹ bình ổn giá gạo nhằm hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh gạo trong những thời điểm bất lợi của thị trường thế giới.
+ Hoàn thiện hệ thống chính sách của Nhà nước về đầu tư, tín dụng, tiền tệ, xuất khẩu, thuế, đất đai, bảo hiểm và trợ giá, đào tạo nhân lực và phát huy vai trò của hiệp hội sản xuất và kinh doanh lương thực trong phạm vi cả nước.
3.2.2.4. Về phát triển thị trường:
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các nước xuất khẩu gạo như hiện nay và các năm tới, Việt Nam nhất thiết phải có hệ thống các giải pháp hữu hiệu về thị trường nước ngoài. Để tăng sức cạnh tranh của hạt gạo Việt Nam trên thị trường thế giới cần phải có nhiều giải pháp đồng bộ, không chỉ là tăng năng suất và chất lượng sản xuất trong nước để giảm chi phí, mà còn phải mở rộng và ổn định thị trường theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, đảm bảo chữ tín với khách hàng, tăng cường tiếp thị, đầu tư nghiên cứu và dự báo thị trường ...Các giải pháp cụ thể, như:
+ Hoàn thiện hệ thống thông tin về tình hình mặt hàng gạo trên thế giới. Tăng cường hỗ trợ trong việc cung cấp các thông tin về biến động thị trường gạo quốc tế, phát triển mạng lưới cung cấp thông tin về thị trường thế giới cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận thị trường xuất khẩu thông qua hệ thống tham tán thương mại .
+ Đăng ký nhãn mác cho gạo xuất khẩu nhằm bảo vệ thương hiệu của gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế.
+ Tích cực tham gia các cuộc đàm phán tiến tới việc mở cửa thị trường gạo ở các nước khác trong Châu á và tiến tới tự do hoá thị trường gạo trên phạm vi toàn cầu.
+ Tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ thương mại với các nước thuộc thị trường truyền thống .
+ Khai thác thị trường Trung Quốc: đây là nước có dân số đông nhất thế giới. Trung Quốc là thị trường có mức tiêu thụ lớn, trong những năm gần đây Trung Quốc nhập khẩu khá nhiều gạo của Việt Nam nhưng chủ yếu là nhập khẩu tiểu ngạch. Đối với thị trường này đòi hỏi Nhà nước phải có sự chỉ đạo đồng nhất trong hoạt động xuất khẩu; thực hiện đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại ở các cấp độ khác nhau (Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện) bảo đảm quan hệ ngoại thương lâu dài và ổn định nhằm tránh những rủi ro và tổn thất.
+ Thị trường các nước ASEAN, trong giai đoạn chuyển đổi thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp nói chung và sản phẩm lúa gạo của Việt Nam nói riêng, thị trường ASEAN đóng vai trò quan trọng và chiếm tỷ lệ lớn. Tuy nhiên, từ năm 1996 đến nay đã có những thay đổi, xu hướng giảm tỷ lệ xuất khẩu và đặc trưng cơ bản của các nước ASEAN là có cơ cấu sản phẩm nông nghiệp giống nhau nên các nước này nhập khẩu gạo của Việt Nam chủ yếu là hình thức tạm nhập tái xuất, đặc biệt là Singapo nên không phù hợp với yêu cầu nâng cao giá trị xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam trên thị trường thế giới. Mặt khác do tác động của CEPT/AFTA ít có tác động đến khối lượng xuất khẩu các sản phẩm nông sản nói chung và sản phẩm lúa gạo nói riêng trong tương lai. Tuy nhiên, thị trường ASEAN vẫn là thị trường xuất khẩu quan trọng đối với gạo xuất khẩu của Việt Nam.
3.2.2.5. Về quản lý và điều hành hoạt động xuất khẩu gạo
Để đáp ứng yêu cầu và tình hình thực tế trong giai đoạn tới, ngày 4/4/2001 Chính phủ đã có quyết định số 46/2001/QĐ-TTg về xuất khẩu- nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001- 2005. Theo tinh thần của Nghị quyết này sẽ bãi bỏ cơ chế hạn ngạch xuất khẩu gạo cũng như việc quy định doanh nghiệp đầu mối xuất khẩu. Đây là một bước đột phá mới trong cơ chế chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được xuất khẩu gạo chỉ cần có đăng ký kinh doanh ngành hàng lương thực hoặc nông sản.
Đối với những hợp đồng xuất khẩu gạo sang thị trường có sự thoả thuận giữa Chính Phủ Việt Nam với Chính phủ các nước (hợp đồng Chính phủ) Bộ NN&PTNT kết hợp với Bộ Thương mại sau khi trao đổi với Hiệp hội Lương thực Việt Nam sẽ chỉ đạo các doanh nghiệp làm đại diện giao dịch ký kết hợp đồng. Sau đó sẽ phân chia số lương ký kết được trên cơ sở lượng lúa hàng hoá của các địa phương để UBND các tỉnh trực tiếp giao cho các doanh nghiệp trực tiếp thực hiện, có tính đến quyền lợi của các doanh nghiệp ký kết hợp đồng.
Cũng theo quyết định này Thủ Tướng Chính phủ sẽ xem xét, quyết định các biện pháp cần thiết có thể nhằm can thiệp một cách có hiệu quả vào thị trường lúa gạo nhằm bảo đảm lợi ích của nông dân ổn định sản xuất nông nghiệp và thị trường trong nước. Giảm bớt khó khăn với hoạt động sản xuất và lưu thông lúa gạo. Kế hoạch trả nợ và viện trợ của Chính phủ hàng năm sẽ được thực hiện theo cơ chế đấu thầu hoặc theo quyết định của Thủ Tướng Chính phủ.
Việc khuyến khích tự do xuất khẩu trong cơ chế thị trường rất có thể phát sinh cạnh tranh vô tổ chức giữa một số doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Do vậy việc quản lý theo quyết định 45 cần phải cân nhắc tính toán cho kỹ lưỡng nhằm đảm bảo phát huy cao nhất khẳ năng chủ động của các doanh nghiệp trong xuất khẩu đáp ứng yêu cầu cải tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, trong công tác điều hành xuất khẩu gạo, Chính phủ cần quan tâm đến các vấn đề như:
+ Khắc phục biểu hiện ỷ lại vào Nhà nước hoặc phó thác cho các doanh nghiệp. Chính phủ cần tăng cường đàm phán song phương, đa phương để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp, công tác thị trường xuất khẩu và nhập khẩu cần được gắn kết chặt chẽ với nhau.
+ Tăng cường công tác thông tin về giá cả hàng hoá và các dịch vụ về thị trường. Phổ biến kịp thời các cơ chế chính sách của Nhà nước, dự báo về chiều hướng cung cầu hàng hoá và dịch vụ, các thông tin chiến lược, chiến thuật và các biện pháp của Nhà nước. Trên cơ sở đó sẽ nâng cao hiệu ứng và tính linh hoạt trong sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước để có giải pháp ứng phó quốc tế điều tiết nguồn cung trong các điều kiện cụ thể nhằm tác động vào thị trường và giá có lợi cho ta.
Kết Luận
Xuất khẩu gạo Việt Nam đã trở thành ngành chủ lực mũi nhọn đối với ngành Nông nghiệp nói riêng cũng như nền kinh tế của cả nước, đồng thời thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tiến nhanh hơn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Từ chỗ thiếu đói triền miên và phải nhập khẩu lương thực bình quân hàng năm trên nửa triệu tấn gạo, Việt Nam đã vươn lên trở thành cường quốc đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo. Xuất khẩu gạo Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn lao trong những năm qua, tăng nhanh về số lượng, đảm bảo an ninh lương thực, bên cạnh đó còn là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực đóng góp phần lớn trong kim ngạch xuất khẩu.
Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu gạo trong 16 năm qua vẫn bộc lộ một số những yếu kém như chưa có quy hoạch tổng thể và kế hoạch cụ thể về sản xuất lúa gạo xuất khẩu; cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ chế biến, bảo quản xuất khẩu còn yếu kém; chất lượng lúa gạo vẫn còn thấp so với yêu cầu của thị trường thế giới...do đó sức cạnh tranh của gạo Việt Nam vẫn còn thấp . Vì vậy, để hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam có hiệu quả hơn thì cần tập trung đầu tư thâm canh và áp dụng các tiến bộ khoa học- công nghệ; cải tiến chất lượng và phẩm cấp; tổ chức tốt và khép kín các khâu thu mua, chế biến, marketing bán hàng; đảm bảo nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả cũng như ổn định thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Danh mục tài liệu tham khảo
Đỗ Đức Bình và Nguyễn Thường Lạng - Chủ biên , Giáo trình Kinh tế Quốc tế - NXB Lao động xã hội (2004)
Nguyễn Sinh Cúc- Chủ Biên, Nông Nghiệp, Nông Thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới- NXB Thống kê (2003).
Nguyễn Hữu Khải- Chủ biên, CNH- HĐH Nông Nghiệp Nông Thôn Việt Nam và Chương Trình đẩy mạnh xuất khẩu nông sản - NXB Thống Kê (2003).
Lê Thị Vân Anh- Chủ Biên, Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế – NXBLĐ (2003).
Nguyễn Trung Quế- Chủ biên, Nông Nghiệp Việt Nam trên con đường CNH-HĐH- NXB TPHCM (2003).
Lê Doãn Diên- Chủ biên, Nâng cao chất lượng lúa gạo phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu- NXB Nông nghiệp (2003).
Thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập KTQT. Kỷ yếu Hội thảo KHQG Bộ Thương mại & Trường đại học Ngoại thương, HN, 2003.
Niên Giám Thống Kê các năm. Tổng cục Thống kê
Kinh tế –Xã hội Việt Nam hướng tới chất lượng tăng trưởng- hội nhập-phát triển bền vững- NXB Thống kê (2003)
Tạp chí Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn – Tháng 12/2004, Tháng 1,2/2005.
Thời báo Kinh tế Việt Nam : Kinh tế 2004- 2005; Số: 67, 72, 73, 74- Tháng 4/2005.
Nghiên Cứu Kinh tế Số 284, 310- Tháng 3/2004.
Thông Tin Tài Chính Số 6- Tháng 3/2004; Số 4, 5, 6-Tháng 2, 3/2005.
Kinh tế và Dự báo Số 5/2004.
Tạp Chí Thương mại Số 35/2004; Số 1+2/2005; Số 10,11/2005.
Tạp Chí Thị Trường Giá Cả Số 3/2004; Xuân 2005.
Thông Tấn Xã Việt Nam : Kinh tế Việt Nam và Thế giới – Số 1853, 1865/2005.
Trang WEB:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34194.doc