Chuyên đề Xuất khẩu lao động của Việt Nam thập kỉ 90. Thực trạng và giải pháp

- Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động chiịu trách nhiệm thực hiện tổ chức tuyển chọn lao động theo đúng quy định của Thông tư số 28/2000/TT - BLĐTBXH ngày 15/11/2000; Nghị định 152/2000/NĐ-CP ngày 20/09/2000 và những quy định trên đây. - Các Bộ, ngành, cơ quan Trung Ương, các đoàn thể, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có doanh nghiệp hoạt động XKLĐ chỉ đạo, kiểm tra, quản lý công tác tuyển chọn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo quy định, bảo đảm chất lượng, chống tiêu cực, môi giới trái pháp luật; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tuyển chọn lao động trên địa bàn. Tổ chức thanh tra lao động các cấp phải tăng cường và thường xuyên kiểm tra, thanh tra việc thực hiện tuyển chọn, đào tạo và các chế độ tài chính của các doanh nghiệp và các đơn vị liên quan.

doc89 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1413 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Xuất khẩu lao động của Việt Nam thập kỉ 90. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i nước ngoài của nước ta là rất lớn, nếu chúng ta biết tổ chức và khai thác hết những tiềm năng đó trong quan hệ kinh tế đối ngoại thì sẽ thu được nguồn ngoại tệ đáng kể thúc đẩy sản xuất phát triển” Nguồn: Văn kiện Đại hội Đảng, khoá VIII, tháng 5/1997. Mặt khác, Nhà nước ngoài việc thu được thuế của các doanh nghiệp chuyên doanh XKLĐ nộp, phần thu quỹ Bảo hiểm xã hội cũng được bổ sung, tiết kiệm được hàng trăm tỉ đồng để đầu tư tạo việc làm mới cho số lao động xuất khẩu. Nguồn thu nhập của người lao động ở nước ngoài đã cải thiện được cuộc sống gia đình và họ hàng họ, làm cho nhiều gia đình trở nên khá giả, thậm chí có người đã trở thành các nhà đầu tư và các chủ doanh nghiệp, tạo việc làm cho một bộ phận lao động khác. Đây là kết quả trực tiếp và là động lực thúc đẩy mạnh nhất kích thích việc người lao động luôn có ý muốn tìm mọi cách để được đi XKLĐ. Tuy nhiên, đối với mỗt thị trường khác nhau, thu nhập của người lao động cũng khác nhau. 2.3.1.4. Về mối quan hệ hợp tác với các nước : XKLĐ góp phần làm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước, tăng cường giao lưu quốc tế, củng cố cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Thông qua việc tiếp xúc, giao lưu với lao động nước ta, phần lớn các nước đều có điều kiện hiểu thêm về Việt Nam, về phong tục tập quán, nền văn hoá Việt Nam, công cuộc đổi mới và mong muốn muốn làm bạn với các nước của nhân dân Việt Nam, góp phần vào việc thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở của Đảng và Nhà nước ta. Mặt khác, XKLĐ còn giúp thể hiện mối quan hệ giúp đỡ lẫn nhau giữa nước ta và các nước, đặc biệt là qua các thoả thuận chính thức và những tuyên bố của các vị Nguyên thủ Quốc gia, những nhà lãnh đạo của hai nước trong những dịp tiếp xúc, thăm viếng lẫn nhau. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã thừa nhận sự đóng góp của lao động Việt Nam trong việc phát triển sản xuất kinh doanh của họ. 2.3.1.5. Về tổ chức quản lý lao động : Sau một thập kỷ thực hiện cơ chế đổi mới về XKLĐ, chúng ta vừa tổ chức thực hiện đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, vừa rút kinh nghiệm từ thực tế và từ các nước XKLĐ truyền thống, đồng thời từng bước hoàn thiện các chính sách và quy định pháp lý về XKLĐ. Tính tới thời điểm hiện nay, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước coi XKLĐ là một lĩnh vực mũi nhọn cần phát huy, từng bước đưa công tác quản lý lao động xuất khẩu trở nên nề nếp. Các khâu tuyển chọn, làm thủ tục, tập huấn trước khi đi... đều được tổ chức quản lý sao cho phù hợp và đảm bảo quyền lợi của người lao động. Về cơ bản, chúng ta đã hình thành được những chính sách cụ thể trong lĩnh vực XKLĐ và xác lập được mô hình quản lý đội ngũ lao động đi làm việc ở nước ngoài. Hệ thống quản lý XKLĐ được hình thành đồng bộ từ quản lý Nhà nước đến quản lý của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này, từ bộ máy quản lý ở trong nước đến quản lý lao động ở nước ngoài. ở những nước tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam, cùng với đại diện quản lý lao động ở các Đại sứ quán, các doanh nghiệp XKLĐ đều cử cán bộ quản lý, phiên dịch để phối hợp với phía đối tác trong việc theo dõi, giám sát kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh và bảo vệ quyền lợi của người lao động. 2.3 2. Những hạn chế: Bên cạnh những kết quả đạt được, thời gian qua trong việc XKLĐ chúng ta còn những tồn tại sau đây : 2.3.2.1. Về chủ trương, chính sách: Việc cụ thể hoá chủ trương, cơ chế chính sách và tổ chức thực hiện chưa phù hợp, chưa tương xứng với khả năng về nguồn lao động trong nước, chưa đáp ứng yêu cầu thị trường lao động quốc tế. Về quan điểm và giải pháp của các ngành, các cấp vẫn còn có những khác nhau trong việc giữ và mở rộng thị trường XKLĐ, nhất là một số nghề có khả năng gây ra những vấn đề có tính xã hội như nghề giúp việc gia đình ở nước ngoài. Tuy rằng có chủ trương chính sách mở rộng và tăng cường tìm kiếm thị trường XKLĐ nhưng các chính sách hỗ trợ về vốn, về chỉ đạo các chính sách còn chưa thể hiện đầy đủ. Trong chỉ đạo về XKLĐ, nhà nước ta chỉ quyết định đưa lao động có chuyên môn kỹ thuật cao đi theo hình thức nhận thầu, khoán gọn xây dựng các công trình hoặc dự án, trong khi chúng ta chưa đủ điều kiện về vốn, thiết bị năng lực quản lý và công nhân có tay nghề cao. Vì vậy, chúng ta đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội thâm nhập vào những thị trường có nhu cầu sử dụng một lực lượng khá lớn lao động nước ta như khu vực Trung Đông, Hồng Kông, Nhật Bản, các đảo thuộc Nam Thái Bình Dương và Hoa Kì.v.v... 2.3.2.2. Cơ chế XKLĐ còn nhiều hạn chế : Hiện nay cơ chế XKLĐ còn nhiều hạn chế và chưa phù hợp với sự vận động của thị trường lao động quốc tế, chưa tạo được sự phối hợp giữa các ngành, các cấp có liên quan trong quá trình tổ chức thực hiện. Chúng ta chưa có cơ chế khuyến khích các đơn vị XKLĐ tạo nguồn lao động có đủ điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của chủ sử dụng lao động nước ngoài. Do vậy chưa khai thác hết, thậm chí kìm hãm tiềm năng to lớn về XKLĐ của nước ta. Vẫn còn có nhiều hiện tượng, đối tượng đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài không được pháp luật lao động điều tiết, dẫn đến việc người lao động phải đầu tư tốn kém bằng các con đường không hợp pháp như đi thăm thân nhân, du lịch. Trong giải quyết thủ tục xuất nhập cảnh đã xếp loại lao động đi làm việc ở nước ngoài vào nhóm đi việc riêng (cùng loại với những người đi thăm thân nhân, đi du lịch) nên không được quan tâm tạo điều kiện, làm người lao động phải mất nhiều thời gian, tiền bạc, nhiều hợp đồng phải huỷ bỏ bởi vì lý do chậm thủ tục. 2.3.2.3. Công tác nghiên cứu thị trường : Công tác nghiên cứu thị trường, tìm và áp dụng các biện pháp mở rộng thị trường còn nhiều yếu kém. Thị trường lao động quốc tế đang có những biến động theo chiều hướng không có lợi cho ta do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính - tiền tệ khu vực (1998 - 1999) làm cho nhu cầu tiếp nhận lao động nước ngoài tại các quốc gia giảm sút đáng kể. Thêm vào đó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước XKLĐ trong khu vực, trong khi chất lượng lao động của nước ta còn non kém chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động quốc tế. Các doanh nghiệp của ta chưa đầu tư nghiên cứu, khai thác các thị trường còn tiềm năng tiếp nhận lao động mà chỉ tập trung vào một vài thị trường lân cận có thu nhập cao, mặc dù Nhà nước đã có sự khảo sát, định hướng và tạo mở thông thoáng về cơ chế. 2.3.2.4. Tổ chức thực hiện : Việc tổ chức thực hiện công tác XKLĐ nước ta còn nhiều khuyết điểm, hạn chế, cụ thể là : - Ta chưa chủ động và mạnh dạn đưa lao động sang mọi thị trường có nhu cầu sử dụng lao động Việt Nam trên cơ sở đảm bảo an ninh và quyền lợi kinh tế cho lao động Việt Nam nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội tham gia vào các thị trường mới. - Đảng và Nhà nước chưa cụ thể hoá chủ trương, chính sách khuyến khích người lao động tự tìm việc ở nước ngoài thông qua người nhà, bạn bè ở nước ngoài bảo lãnh hoặc giới thiệu việc làm nên số người đi XKLĐ theo hình thức này rất ít và chính phủ thì chưa quản lý được loại hình này theo pháp luật lao động. - Chưa giao nhiệm vụ cụ thể cho các ngành, các cấp theo thẩm quyền hướng dẫn, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ có liên quan đến XKLĐ, vì vậy sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa đồng bộ. Trong các hoạt động của doanh nghiệp hiện nay chưa có sự thống nhất, thậm chí còn có sự cạnh tranh không lành mạnh, giành giật thị trường bằng nhiều hình thức, trong đó có cả việc hạ thấp tiền lương người lao động để giành giật hợp đồng, gây thiệt hại cho người lao động, cho các doanh nghiệp khác và tạo sự xem thường của người nước ngoài đối với sự đoàn kết của người Việt Nam. - Chủ trương khuyến khích XKLĐ theo hướng nhận thầu công trình, khuyến khích XKLĐ theo dự án, lao động kỹ thuật tay nghề cao là đúng xét về lâu dài. Tuy nhiên, quan điểm không phát triển việc đưa lao động phổ thông và tay nghề thấp đi làm việc ở nước ngoài là chưa phù hợp với tình hình nước ta và nhu cầu sử dụng lao động của các nước hiện nay. Trong khi thị trường lao động ngoài nước có nhu cầu về loại hình lao động này, ta có khả năng đáp ứng tốt nhu cầu đó thì lại bị hạn chế. - Việc thực hiện các quy định của Nhà nước và của các doanh nghiệp đối với người lao động còn nhiều thiếu sót. Một số doanh nghiệp không công khai những vấn đề liên quan tới quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong việc đi lao động ở nước ngoài, còn tự đặt ra các quy định trái với quy định của Nhà nước để thu tiền của người lao động, gây tình trạng người lao động phải chịu các chi phí cao không hợp lý. Bên cạnh đó, việc phát hiện và xử lý các hiện tượng lừa đảo, kiếm tiền bất hợp pháp chưa kịp thời, quyết liệt, thường xuyên nên chưa chặn đứng được tình hình này. - Việc quản lý người lao động đang làm việc ở nước ngoài chưa được Nhà nước và các doanh nghiệp quan tâm đúng mức, nhất là ở các thị trường mới có ít lao động Việt Nam làm việc. Tại hầu hết các nước có lao động Việt Nam làm việc chưa có cán bộ quản lý Nhà nước về lao động trong cơ quan đại diện Việt Nam nên việc bảo vệ quyền lợi cho người lao động không được quan tâm giải quyết kịp thời. - Các nước có nhu cầu sử dụng lao động vẫn còn bị hạn chế trong việc tìm hiểu các thông tin về lao động Việt Nam, nên rất khó khăn cho khả năng tiếp thị của các doanh nghiệp nước ta vào thị trường lao động quốc tế. Việc cung cấp các thông tin, nhu cầu văn hoá phẩm cho người lao động Việt Nam ở nước ngoài quá yếu, khiến cho một số người lao động ở nước ngoài đã có những sinh hoạt thiếu văn hoá và không lành mạnh, ảnh hưởng đến bản sắc dân tộc của Việt Nam (vấn đề này trong thời kỳ hợp tác lao động năm 1980, có sự chỉ đạo của Chính phủ nên được thực hiện khá tốt). - Việc ban hành các văn bản thực thi giải quyết các chính sách, chế độ cho người lao động chưa được cụ thể rõ ràng. Chưa có sự thống nhất để tạo điều kiện và cơ chế cho người lao động thuộc các chính sách xã hội, người có công, người nghèo được tham gia vào chương trình việc làm nước ngoài. Việc giải quyết các chế độ đền bù, bảo hiểm xã hội cho người lao động còn lúng túng chưa biết vận dụng văn bản pháp quy nào, cơ quan nào chịu trách nhiệm giải quyết. 2.3.2.5. Công tác tuyển chọn, đào tạo và chuẩn bị nguồn lao động: Chúng ta chưa đầu tư và coi trọng công tác đào tạo, chuẩn bị nguồn lao động theo đúng yêu cầu của thị trường lao động quốc tế, bao gồm đào tạo nghề, ngoại ngữ, tác phong làm việc công nghiệp và quan hệ chủ - thợ trong cơ chế thị trường, nhận thức về trách nhiệm đi đôi quyền lợi của người lao động trong thực hiện hợp đồng, về phong tục tập quán của nước sở tại. Việc tuyển chọn người lao động còn qua nhiều trung gian gây “đội giá” cho người lao động. Hiện nay các doanh nghiệp chỉ thường tập trung vào khâu tuyển chọn và đưa lao động ra nước ngoài, nên đã xem nhẹ công tác đào tạo nghề và tập huấn cho người lao động trước khi đi. Bản thân người lao động coi vấn đề này không quan trọng, không chú ý đến việc học tập nên khi ra nước ngoài thường lúng túng nhiều khi không đáp ứng yêu cầu của chủ sử dụng. 2.3.2.6. Chất lượng nguồn lao động xuất khẩu: Đội ngũ lao động xuất khẩu của nước ta số đông đi từ khu vực nông thôn. Chất lượng nguồn lao động xuât khẩu không cao. Thể lực của người Việt Nam yếu, tay nghề chưa đáp ứng được yêu cầu của công nghệ sản xuất hiện đại, ý thức tổ chức kỷ luật còn thấp, nhận thức về quan hệ chủ thợ không phù hợp với cơ chế thị trường của nước ngoài, khả năng ngoại ngữ kém. Vì vậy sức cạnh tranh của lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế còn thấp. Thậm chí có một bộ phận không nhỏ người lao động tự ý bỏ hợp đồng đi “làm chui” cho các chủ sử dụng lao động không hợp pháp làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của lao độngViệt Nam và các công ty của ta, bị đưa về nước, một số ít vi phạm pháp luật nước sở tại như nấu rượu lậu, đánh nhau, buôn bán hàng lậu.v.v... 2.3.2.7. Kinh nghiệm và thông tin, nhu cầu thị trường các nước : Các doanh nghiệp nước ta cho đến nay vẫn chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc thực hiện XKLĐ ra nước ngoài. Thông tin về luật pháp các nước còn thiếu, chưa tìm hiểu được rõ các nhu cầu về thị trường và chưa đủ cán bộ có năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển XKLĐ và chuyên gia. Nhiều hợp đồng ký không chặt chẽ, chỉ tiêu thiên về hướng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Bản thân cán bộ nghiệp vụ của doanh nghiệp chưa nắm rõ quy định của Nhà nước về XKLĐ, trình độ chuyên môn kém đã dẫn đến hậu quả xấu không chỉ gây thiệt hại cho doanh nghiệp mà còn cho cả người lao động. Cán bộ quản lý của doanh nghiệp ở nước ngoài do hạn chế về năng lực, thường chỉ làm phiên dịch, chưa thể hiện rõ vai trò người quản lý nên không giải quyết được những tranh chấp nhỏ hàng ngày, dẫn đến các tranh chấp lớn không thể giải quyết được. 2.3.2.8. Thủ tục hành chính đưa lao động ra nước ngoài làm việc : Thủ tục, giấy phép đưa lao động ra nước ngoài làm việc còn quá rướm rà, tốn nhiều thời gian, công sức. Nhất là thủ tục nhân sự, xuất nhập cảnh chưa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đáp ứng kịp thời nhu cầu lao động của nước ngoài, nhiều khi gây khó khăn rất lớn cho người lao động. Nó là nguyên nhân phát sinh của nhiều hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật. Trên thực tế, thủ tục nhân sự để cấp hộ chiếu phải qua nhiều cơ quan khác nhau kéo dài đến hơn 1 tháng thậm chí đến vài tháng làm người lao động phải chi phí một khoản tiền khá lớn (khoảng1 - 2 triệu đến 4 - 5 triệu VNĐ). 2.4. Kết luận chương Việt Nam là một quốc gia có lực lượng lao động trẻ với dân số đông, đời sống KT - XH còn thấp. Vấn đề giải quyết việc làm trong nhiều năm qua vẫn luôn là mối quan tâm hàng đầu của toàn Đảng và toàn dân. Mặc dù quy mô XKLĐ còn rất khiêm tốn so với các quốc gia khác trong khu vực, số lượng lao động được giải quyết việc làm bằng con đường XKLĐ còn nhỏ bé so với số người chưa có việc làm hiện tại, nhưng XKLĐ đã góp phần thực hiện được các mục tiêu tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tăng ngân sách quốc gia, thu được một nguồn lớn ngoại tệ và mở rộng quan hệ hợp tác của nước ta đối với các quốc gia khác nhau trên thế giới... So với giai đoạn 1980 - 1991, 10 năm vừa qua, hoạt động XKLĐ của nước ta đang ngày càng được mở rộng và phát triển, số người được đưa đi lao động ở nước ngoài ngày càng gia tăng. Song song với việc đó là việc thị trường lao động cũng như cơ cấu ngành nghề xuất khẩu cũng đang từng bước được mở rộng, mang lại hiệu quả kinh tế và xã hội cao cho quốc gia. Để có thể tạo đà cho việc phát triển hơn nữa trong những năm tới và chấn chỉnh lại những mặt thiếu sót của hoạt động này trong thời gian qua, cần đưa ra được các định hướng và giải pháp cụ thể cho hoạt động này về trước mắt cũng như lâu dài và đây cũng chính là phần nội dung của Chương 3. chương 3 định hướng và giải pháp nhằm nâng cao khả năng XKLĐ của Việt Nam ra nước ngoài trong những năm tới 3.1. Định hướng Do hoạt động XKLĐ ở các nước đang phát triển có vai trò quan trọng, thậm chí một số nước đã coi việc phát triển lĩnh vực này như là một thế mạnh kinh tế quốc gia. Vì vậy việc đề ra những định hướng và chủ trương cho hoạt động này là rất cần thiết. ở nước ta, chiến lược phát triển KT - XH của Nhà nước đang thu được những kết quả khả quan. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII đã nhấn mạnh chủ trương: “Trong những năm trước mắt, phải giải quyết tốt một số vấn đề xã hội, tập trung sức tạo việc làm... Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh XKLĐ, giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn”. Chủ trương này đã được Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 4 khoá VIII cụ thể hoá như sau : “ Mở rộng XKLĐ trên thị trường đã có và thị trường mới. Cho phép các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu và làm dịch vụ XKLĐ trong khuôn khổ pháp luật dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Kiên quyết chấn chỉnh những hoạt động dịch vụ XKLĐ trái quy định của Nhà nước”. Nhằm cụ thể hoá thêm một bước và đánh giá vai trò của XKLĐ trong điều kiện hiện nay, ngày 22 tháng 9 năm 1999, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 41- CT/TW khẳng định : “ XKLĐ và chuyên gia là một hoạt động KT- XH góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước. Sự nỗ lực tạo thêm việc làm trong nước và ngoài nước chỉ mới giải quyết được một phần trong khi số lao động không có việc làm ở đô thị còn khá cao. Hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn còn rất thấp. Hàng năm lại có hơn một triệu người đến tuổi lao động. Trước tình hình đó, cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, XKLĐ và chuyên gia còn có vai trò quan trọng trước mắt và lâu dài”. Từ quan điểm và chủ trương tổng quát mà Đảng đã đề ra, định hướng phát triển của XKLĐ trong thời gian tới sẽ bao gồm : 3.1.1. Định hướng chung - XKLĐ là một chiến lược quan trọng, lâu dài, là một nội dung của Chương trình quốc gia về việc làm, một hoạt động KT - XH góp phần phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là một bộ phận của hợp tác quốc tế góp phần tăng cường mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa Việt Nam với các nước và củng cố cộng đồng người Việt ở nước ngoài. - Đẩy mạnh XKLĐ trước hết là trách nhiệm của Nhà nước. Các cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung Ương tới địa phương phải có sự phối hợp đồng bộ trong việc đầu tư mở rộng thị trường, đào tạo nguồn nhân lực xuất khẩu, cụ thể hoá chủ trương, chính sách và chỉ đạo để đẩy mạnh XKLĐ. - Phải có chiến lược về mở rộng thị trường XKLĐ, củng cố thị trường truyền thống, giữ và phát triển thị trường hiện có, khai thông các thị trường mới. Mỗi khu vực cần xây dựng đề án riêng cho phù hợp với đặc điểm và tình hình của khu vực đó. - Thực hiện việc XKLĐ theo quan hệ cung - cầu của thị trường lao động. Đa dạng hoá thị trường XKLĐ, cung cấp lao động cho mọi thị trường cần lao động Việt Nam nếu ở đó phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, đảm bảo an ninh và quyền lợi kinh tế cho người lao động. - Đa dạng hoá ngành nghề, trình độ lao động, cung cấp lao động với mọi ngành nghề và trình độ tay nghề khác nhau. XKLĐ phải đảm bảo tính cạnh tranh trên cơ sở tăng cường đào tạo lực lượng lao động kỹ thuật và chuyên gia, nâng dần tỷ trọng lao động xuất khẩu...Mặt khác phải đa dạng hoá thành phần tham gia XKLĐ, củng cố các doanh nghiệp chuyên XKLĐ, mở rộng diện các doanh nghiệp Nhà nước có đủ điều kiện trực tiếp để nhận thầu công trình, đưa lao động đi làm việc tại các thị trường nước ngoài... Bên cạnh đó phải đa dạng hoá hình thức đưa lao động đi nước ngoài theo các hướng ưu tiên sau : . Đi tập thể, do các doanh nghiệp tổ chức dưới các hình thức nhận thầu cong trình công nghiệp, nông nghiệp, thuỷ lợi, giao thông dân dụng... ở nước ngoài. . Chuyên gia trên một số lĩnh vực mà ta có điều kiện. . Công nhân có tay nghề làm việc theo hợp đồng ký giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. . Lao động phổ thông trong một số lĩnh vực theo yêu cầu của phía nước ngoài và theo quy định của Chính phủ. - Đầu tư để phát triển sự nghiệp XKLĐ, nâng cao năng lực của cơ quan quản lý Nhà nước, đầu tư cho các tổ chức XKLĐ và người lao động. Đầu tư đào tạo về ngoại ngữ, tay nghề và chuyên môn, đáp ứng yêu cầu thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế. 3.1.2. Định hướng cụ thể Trên thế giới hiện nay, nhìn chung nhu cầu sử dụng lao động không còn cao như thời kì trước do nhiều nước đang cải cách kinh tế, các tập đoàn đổi mới sản xuất kinh doanh, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ mới vào sản xuất để tiết kiệm lao động. Muốn hình thành được một hệ thống thị trường lao động quốc tế tiếp nhận và sử dụng lao động Việt Nam đòi hỏi chúng ta phải có những định hướng cụ thể cho các năm trước mắt và nỗ lực thực hiện những chủ trương, định hướng đó. Định hướng của Đảng và Nhà nước ta từ nay đến năm 2010 về lĩnh vực XKLĐ là : Với chủ trương mở rộng, đa dạng hoá trong XKLĐ, những chính sách cởi mở tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, cho người lao động như đã trình bày ở phần trên, trong bối cảnh quan hệ ngoại giao và quan hệ hợp tác kinh tế giữa nước ta với nước ngoài đã có nhiều thuận lợi thì khả năng đưa được một số lượng lớn lao động ra nước ngoài làm việc là một hiện thực trong những năm tới. Trong thời gian tới, nước ta phấn đấu đạt quy mô đưa lao động ra nước ngoài như sau : . Từ năm 2002 - 2005: bình quân hàng năm khoảng 50.000 - 100.000 người. .Từ năm 2006 - 2010: trung bình hàng năm đưa đi khoảng 100.000 - 150.000 người. Phấn đấu luôn có khoảng 400.000 đến 500.000 lao động làm việc thường xuyên ở nước ngoài. 3.2. Giải pháp Từ các định hướng nêu trên, để thực hiện có hiệu quả hoạt động XKLĐ đòi hỏi phải có các giải pháp thiết thực 3.2.1. Các giải pháp về cơ chế quản lý : 1. Cần thiết lập quan hệ Nhà nước với các nước có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài: Nhà nước đóng vai trò quyết định cho sự ổn định và phát triển của XKLĐ. Ngoài chức năng xác định chủ trương, định hướng chiến lược...để hỗ trợ cho XKLĐ phát triển, Chính phủ còn có vai trò hết sức to lớn trong mở rộng thị trường lao động ngoài nước, cũng là khâu mang tính quyết định trong chu trình XKLĐ của bất kỳ nước nào. Do vậy, cần thiết lập quan hệ Nhà nước, hình thành hệ thống tuỳ viên lao động để tham mưu, tư vấn cho Nhà nước các Hiệp định khung hoặc các thoả thuận nguyên tắc để mở đường cho các doanh nghiệp ký kết và thực hiện các hợp đồng cụ thể. Đối với các nước XKLĐ truyền thống, có thể thấy vai trò của tuỳ viên lao động rất lớn, có tính quyết định cho việc thâm nhập, cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường. 2. Phân định rõ vai trò và trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan và chính quyền các cấp trong XKLĐ cụ thể như sau : Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan Chính phủ, thống nhất quản lý Nhà nước về XKLĐ có trách nhiệm : Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, khai thác thị trường lao động quốc tế, nhằm hình thành một hệ thống thị trường sử dụng lao động Việt Nam ổn định và phát triển; nghiên cứu và tổ chức triển khai các chính sách, chế độ về XKLĐ; tổ chức quản lý, kiểm tra đồng thời chỉ đạo và hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp triển khai công tác XKLĐ theo đúng luật pháp lao động. Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thiết lập, thúc đẩy và tăng cường quan hệ hợp tác song phương với các nước có khả năng thu hút lao động và chuyên gia Việt Nam; chỉ đạo các cơ quan đại diện ở nước ngoài nghiên cứu tình hình và cung cấp cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thông tin về thị trường lao động nước ngoài, thực hiện chức năng lãnh sự, bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động Việt Nam ở nước ngoài theo luật pháp Việt Nam, luật pháp nước sở tại và luật pháp quốc tế... Bộ Công An phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý việc xuất nhập cảnh của người lao động đi làm việc ở nước ngoài kể cả lao động tự túc, chỉ đạo các cấp triệt để cải cách hành chính trong các khâu thuộc Bộ, đảm bảo thuận lợi, nhanh chóng tránh phiền hà cho người lao động, chuyên gia và tổ chức kinh tế XKLĐ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài Chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Văn hoá, Bộ Xây dựng, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn...và chính quyền các cấp theo chức năng của mình đẩy mạnh hoạt động XKLĐ trong phạm vi thuộc Bộ, ngành, địa phương mình theo quy định của Nhà nước; chỉ đạo các tổ chức kinh tế XKLĐ tổ chức tốt đời sống văn hoá tinh thần cho người lao động và chuyên gia Việt Nam làm việc ở nước ngoài. Bên cạnh đó các tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên công sản Hồ Chí Minh và các tổ chức chính trị khác nên tổ chức vận động, giáo dục tuyên truyền chủ trương, chính sách về XKLĐ và giám sát, triển khai công tác XKLĐ. 3. Mở rộng phạm vi về thành phần kinh tế tham gia XKLĐ, đồng thời đa dạng hoá hình thức và ngành nghề đưa đi: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các khu vực kinh tế cùng tham gia hoạt động trong một lĩnh vực thì sẽ có tác đông hoàn thiện quá trình và không ngừng tăng hiệu quả. Tăng thành phần tham gia XKLĐ sẽ giúp số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài tăng lên, Nhà nước thu hút được nguồn ngoại tệ lớn, quyền lợi người lao động được bảo đảm hơn do quy luật cạnh tranh điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp. Đa dạng hoá ngành nghề, công việc trong XKLĐ trong giai đoạn tới đối với nước ta là một giải pháp mang tính chủ trương lớn và có ý nghĩa quyết định cho sự phát triển XKLĐ. Cần mạnh dạn cho thí điểm đưa lao động đi phục vụ gia đình (hiên nay chủ yếu tại thị trường Đài Loan) loại công việc này sẽ thu hút một số lượng lớn lao động nước ngoài. Tuy nhiên chúng ta cũng cần phải chuẩn bị chu đáo để bảo vệ quyền lợi người lao động. 3.2.2. Các giải pháp về chính sách 1. Đối với các doanh nghiệp XKLĐ: Đầu tư xây dựng các doanh nghiệp XKLĐ đủ mạnh để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trước mắt, chúng ta cần đầu tư vốn, phương tiện hoạt động, xây dựng bộ máy và đào tạo cán bộ có khả năng tiếp cận và tìm kiếm thị trường. Các cơ quan chủ quản và các cơ quan quản lý Nhà nước cần hỗ trợ về vốn và về cán bộ để đầu tư xây dựng các tổ chức kinh tế tham gia vào XKLĐ trở thành các tổ chức kinh tế mạnh, có đủ kinh nghiệm và khả năng cạnh tranh trên thị trường XKLĐ quốc tế, xây dựng một số tổ chức kinh tế thành công ty đấu thầu quốc tế. Ban hành các chính sách ưu đãi với các doanh nghiệp XKLĐ trong các lĩnh vực tài chính, như cho vay với lãi suất thấp, xây dựng chi phí môi giới... tạo điều kiện cho doanh nghiệp tìm được hợp đồng XKLĐ. Có thể xem xét theo định hướng là đối với các doanh nghiệp tham gia XKLĐ thì được hưởng ưu đãi theo luật thuế quy định, mức ưu đãi sẽ được Bộ Tài chính quy định cụ thể ở các văn bản dưới luật. Nghiên cứu thành lập Hiệp hội XKLĐ và chuyên gia để các doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài có sự phối hợp chặt chẽ với nhau và bảo vệ quyền lợi cho nhau trước sự cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực XKLĐ 2. Đào tạo nguồn lao động xuất khẩu Nhà nước có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo nguồn lao động xuất khẩu. Kinh nghiệm thế giới đã chỉ rõ với việc chuẩn bị được lực lượng lao động phù hợp, có chất lượng so với yêu cầu quốc gia sẽ có khả năng cạnh tranh và chiếm giữ được thị trường. Chất lượng lao động càng cao thì hiệu quả càng cao. Cho phép sử dụng cơ chế ba bên, Nhà nước - Doanh nghiệp Người lao động cùng đầu tư để đào tạo nguồn lao động cho xuất khẩu. Kết hợp đào tạo kỹ thuật với đào tạo ngoại ngữ, phong tục tập quán, kiến thức pháp luật cho lao động. Đây cũng là chính sách đào tạo đôi ngũ lao động kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu sử dụng trong nước khắc phục tình trạng thiếu công nhân có kỹ thuật cao đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 3. Hoàn thiện chính sách về tài chính Chính sách tài chính là đòn bẩy thúc đẩy mở rộng và nâng cao hiệu quả XKLĐ. Trong chính sách tài chính, vấn đề cơ bản cần quan tâm là bảo đảm hài hoà các lợi ích: Lợi ích của người lao động, lợi ích của các tổ chức XKLĐ, lợi ích của Nhà nước và cũng cần chú ý tới lợi ích của chủ thuê lao động. Nên phân định rõ và giao các chính sách này cho các cơ quan quản lý chức năng cụ thể như Bộ Văn hoá - Thông tin thực hiện tốt dịch vụ văn hoá tinh thần phục vụ cộng đồng lao động của ta ở nước ngoài, các ngành có liên quan như ngành Hàng không, Thuế, Hải quan cần ban hành các quy chế ưu đãi trong việc làm thủ tục và giá cước đối với sản phẩm dành cho người lao động khi đưa ra nước ngoài phục vụ lao động nước ta. 4. Đối với người lao động Nghiên cứu qui định hợp lý chi phí dịch vụ việc làm ở nước ngoài. Phí dịch vụ này nên quy định thành 3 mức cố định : Đối với lao động phổ thông; đối với lao động kỹ thuật và đối với lao động “chất xám”. Không nên quy định thành tỉ lệ phần trăm theo lương, sẽ gây nên việc khó tính toán và khó thực hiện. Cần nghiên cứu, ban hành các chính sách thuế hợp lý, nên miễn thuế thu nhập cao nhằm đảm bảo và khuyến khích người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Mặt khác, nên sửa đổi bổ sung chế độ bảo hiểm xã hội, cho người lao động tự nguyện tham gia bảo hiểm xã hội chứ không nên bắt buộc đóng bảo hiểm xã hội như hiện nay. Nghiên cứu và sửa đổi, bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội cho phù hợp với người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Nhà nước cần có chính sách cho người lao động được vay vốn với lãi suất ưu tiên để chi phí cho việc đi nước ngoài làm việc. Xây dựng cơ chế cho vay tín dụng từ các nguồn vốn quốc gia giải quyết việc làm, quỹ xoá đói giảm nghèo và các nguồn khác để cho các đối tượng nghèo và đối tượng chính sách được vay với lãi suất ưu đãi. Nếu được thì sẽ tạo tâm lý an tâm cho người lao động đi làm việc, chấp hành tốt các quy định ở nước ngoài vì họ không phải lo lắng gì về những khoản vay nợ cá nhân. Tiến hành mở tài khoản cá nhân cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Giải pháp này sẽ giải quyết được ba vấn đề: Quản lý và theo dõi được lượng ngoại tệ chuyển vào nước ta, người lao động an tâm khi họ biết được tiền của họ được bảo vệ và chuyển về nước an toàn, giúp đỡ người nhà gặp khó khăn khi họ còn làm việc ở nước ngoài. Nên có chính sách khuyến khích người lao động và chuyên gia làm việc ở nước ngoài dùng thu nhập ở nước ngoài mà họ kiếm được đầu tư vào sản xuất kinh doanh, tư vấn việc làm, đào tạo lại cho người lao động sau khi về nước. Bên cạnh đó với những lao động đã hoàn thành hợp đồng trở về nước khác, cần tạo điều kiện tiếp nhận họ vào làm việc trong các cơ sở sản xuất kinh doanh vì họ có thế mạnh tay nghề, tác phong công nghiệp, ngoại ngữ... Nghiên cứu để ban hành các chính sách thưởng phạt nghiêm minh đối với mọi đối tượng có liên quan đến XKLĐ. Có các biện pháp ngăn chặn tình trạng tiêu cực trong hoạt động của lĩnh vực này. 3.2.3. Các giải pháp về tổ chức quản lý 1. Hoàn thiện hệ thống quản lý và tổ chức bộ máy cán bộ quản lý Nhà nước về XKLĐ. Để phù hợp với cơ chế thị trường và cải cách nền hành chính quốc gia nhằm tăng cường và nâng cao năng lực của quản lý Nhà nước, hệ thống quản lý XKLĐ cần được đổi mới theo hướng tinh giảm đầu mối trung gian, tập trung chức năng quản lý Nhà nước vào một số cơ quan của Chính phủ. Hệ thống tổ chức quản lý XKLĐ trong thời gian tới cần bao quát được các nội dung quản lý Nhà nước trong và ngoài nước nhưng bảo đảm tính linh hoạt và năng động. Về cán bộ cần tập trung đào tạo kiến thức kinh tế thị trường, kiến thức Marketing, ngoại ngữ, kiến thức về lao động, luật pháp, đối ngoại mới đủ điều kiện để làm công tác quản lý. 2. Các giải pháp về tổ chức thực hiện và quản lý Để thực hiện thành công chủ trương và phương hướng XKLĐ của Đảng và Nhà nước, nhằm đẩy mạnh XKLĐ trong thời gian tới, ngoài các giải pháp nêu trên, cơ quan quản lý Nhà nước cần tiến hành một số giải pháp khác để chỉ đạo thống nhất hoạt động XKLĐ, đó là các giải pháp sau : - Xây dựng quy trình XKLĐ riêng biệt. XKLĐ của ta đã tiến hành được gần 20 năm, nhưng chưa có một quy trình tổng quát, thống nhất. Do đó sự phối hợp giữa các ngành, các cấp thiếu đồng bộ, không nhịp nhàng đã ảnh hưởng lớn đến hiệu quả công việc. Quy trình XKLĐ gồm ba giai đoạn : Giai đoạn một là giai đoạn tìm kiếm và ký kết hợp đồng, giai đoạn hai là giai đoạn tuyển chọn và làm thủ tục xuất cảnh, giai đoạn ba là quản lý ở nước ngoài và thanh lý hợp đồng. Trong giai đoạn hai thì việc tiến hành làm thủ tục cho lao động xuất cảnh còn nhiều phiền hà ở các cấp, các ngành thuộc các địa phương đã làm chậm trễ tiến độ xuất cảnh ảnh hưởng không nhỏ tới sự nghiệp XKLĐ. Thậm chí, nhiều khi, phải bỏ cả yêu cầu cung cấp lao động của chủ nước ngoài nhất là đối với thuyền viên (do phải dùng hai hộ chiếu) - Xây dựng hợp đồng mẫu cho các loại lao động đi làm việc ở nước ngoài. Hợp đồng mẫu là những quy định tối thiểu về điều kiện làm việc, tiền lương, điều kiện ăn ở, bảo hiểm, giải quyết tranh chấp và các điều kiện về bảo đảm nhân phẩm và an ninh. Ban hành hợp đồng mẫu là nhằm bảo vệ các quyền lợi tối thiểu của người lao động khi làm việc ở nước ngoài, tránh sự bóc lột và đối xử phân biệt của chủ đối với lao động - Xây dựng và ban hành mức lương tối thiểu cho từng khu vực thị trường sử dụng lao động Việt Nam. - Xây dựng các chỉ tiêu đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp XKLĐ. Đó là một trong các giải pháp góp phần tăng cường quản lý Nhà nước, đưa hoạt động XKLĐ đạt được hiệu quả KT - XH cao. Việc đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp XKLĐ hàng năm nhằm xác định khả năng và hiệu quả của XKLĐ, động viên khuyến khích các doanh nghiệp năng động, tìm tòi mọi biện pháp để mở rộng thị trường và kịp thời uốn nắn những sai lệch trong hoạt động XKLĐ của các doanh nghiệp. 3.3. Kết luận chương Từ những thực trạng hoạt động XKLĐ và định hướng mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong các cuộc hội thảo, đại hội Đảng khoá VIII và khoá IX, các cuộc tổng kết và đánh giá chương trình hoạt động XKLĐ Việt Nam trong những năm qua, khoá luận nêu ra một số các giải pháp nhằm xây dựng XKLĐ nước ta về trước mắt cũng như lâu dài. Các giải pháp này được thể hiện một cách đồng bộ và thống nhất từ cơ chế quản lý, chính sách đến việc tổ chức quản lý, nhằm góp phần vào việc đẩy mạnh hoạt động XKLĐ, tránh những sai sót có thể gặp phải. Bên cạnh đó, thông qua các định hướng và giải pháp đề ra các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn cho XKLĐ trong tương lai. Nhằm mục đích đẩy mạnh hoạt động XKLĐ, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Các định hướng và giải pháp nêu trên được dựa trên cơ sở tham khảo và đánh giá các kiến nghị của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và được xây dựng trên cơ sở trình độ nhận thức của một sinh viên Đại học. Có thể những giải pháp này chưa thật hoàn chỉnh, nhưng người viết mong muốn có thể góp một phần sức mình vào sự nghiệp XKLĐ nói riêng và sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung của Việt Nam. kết luận XKLĐ là một hoạt động phổ biến trên thế giới và mang tính KT - XH cao. Hoạt động này sẽ còn tiếp tục phát triển phù hợp với sự phát triển kinh tế của thế giới. Đối với nước ta, con người luôn là một vốn quý, lợi thế, nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển đất nước. Là một quốc gia có đông dân số tạo nên một nguồn nhân lực dồi dào, người Việt Nam cần cù, sáng tạo, có khả năng tiếp thu nhanh khoa học và công nghệ. Trong điều kiện hiện nay nền kinh tế quốc gia còn gặp nhiều khó khăn, nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp, cơ sở kỹ thuật vật chất cũ kỹ và chưa được đầu tư đúng mức, với lợi thế về nhân lực chúng ta hoàn toàn có thể phát triển nâng cao KT - XH của nước mình thông qua XKLĐ, coi đây như là một thế mạnh của quốc gia. XKLĐ đã và đang đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và giải quyết các nhu cầu Xã hội. Chính vì vậy khi chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang thời kỳ mở cửa nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa thì việc nghiên cứu lĩnh vực XKLĐ này trở nên một vấn đề phức tạp và cấp bách hiện nay. Về tổng quát, cuốn khoá luận này đã xem xét một các khái quát về các cơ sở lý luận của XKLĐ, tình hình XKLĐ thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng trong hơn một thập kỷ qua. Qua những kinh nghiệm của các quốc gia khác trong cùng khu vực, nghiên cứu thực trạng và đề ra các giải pháp của nước ta trong những năm tới. Kết quả của bài viết này chủ yếu là đã phân tích, đánh giá hoạt động XKLĐ trong vòng 10 năm qua và đưa ra được những giải pháp thiết thực về những vấn đề mà trong lý luận và thực tiễn XKLĐ của nước ta còn đang vướng mắc. Từ việc phân tích, đánh giá và so sánh để rút ra được các bài học kinh nghiệm, với cuốn khoá luận này, tôi mong mình có thể đóng góp một phần ý kiến vào công cuộc nghiên cứu đối với lĩnh vực đang được ưu tiên hiện nay của nước ta. Tôi hy vọng hiện tại cũng như trong thời gian tới, XKLĐ sẽ vẫn là một chiến lược quan trọng của nước ta, hoạt động này là vì mọi người và vì sự thịnh vượng chung cho xã hội “ XKLĐ vừa ích nước và vừa lợi nhà, lại vừa có thêm một lực lượng lao động có nghề với ý thức và khả năng lao động công nghiệp tốt hơn để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (Trích lời Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh xã hội Trần Đình Hoan trong bài trả lời phỏng vấn báo Thanh niên - số 9/1997). phụ lục chương 1 phụ lục 1.1 địng hướng thị trường XKLĐ tại một số nước trong khu vực thời kỳ 1991 - 1999 Đơn vị tính: % thái lan Thị trường nhận lao động 1991 1996 1999 Trung Đông 43,5 9,9 9,3 Đông á 19,4 66,5 64,4 Các nước phương Tây 9,7 0,8 3,1 Tổng số % 100,0 61.200 100,0 202,300 100,0 191.735 Nguồn: Bộ Lao động và Phúc lợi, Thái Lan. philipin Thị trường nhận lao động 1991 1996 1999 Châu á - ASEAN 27,1 4,0 38,2 7,0 48,3 8,4 Trung Đông 65,1 51,6 47,1 Châu Mỹ 4,4 4,9 3,0 Châu Âu 2,0 2,4 3,2 Châu Phi 0,4 0,8 0,7 Tổng số % 100,0 334.883 100,0 436.884 100,0 486.627 Nguồn: Cục Việc làm ngoài nước, Philipin inđônêxia Thị trường tiếp nhận lao động 1991 1996 1999 Trung Đông 48,5 56,6 56,0 Malaixia, Singapo 44,8 32,6 30,5 Khác 6,7 10,9 13,5 Tổng số % 100,0 86.264 100,0 176.187 100,0 235.275 Nguồn: Bộ lao động, Inđônêxia phụ lục 1.2 Di cư lao động không theo hợp đồng tại các quốc gia châu á Đơn vị tính: người STT Lao động đi từ nước Thị trường tiếp nhận lao động Cộng Nhật Hàn Quốc Đài Loan Malaixia Thái lan 1 Bănglađes 5.864 6.939 - 246.400 - 259.203 2 Cămpuchia - - - - 81.000 81.000 3 TrungQuốc 38.957 53.429 - - - 92.386 4 Indonexia - 1.013 2.700 475.200 - 478.913 5 HànQuốc 52.854 - - - - 52.854 6 Malaixia 10.926 - 400 - - 11.326 7 Mianma 5.957 - - 25.600 810.000 841.557 8 Pakistan 4.766 3.350 - 12.000 - 20.116 9 Philippin 42.627 6.302 5.150 7.600 - 61.679 10 Đài Loan 9.403 - - - - 9.403 11 Thái Lan 38.191 2.528 6.000 8.000 - 54.719 12 Việt Nam - 3.181 - - - 3.181 13 Khác 72.242 18.285 5.750 23.000 109.000 207.577 Cộng 281.157 95.617 20.000 800.000 1.000.000 2.173,914 Nguồn: Cục quản lý lao động với nước ngoài Phụ lục chương 2 phụ lục 2.1 tốc độ tăng dân số Việt nam Đơn vị tính: % Năm Tổng số Thành thị Nông thôn 1992/1991 101.955 103.063 101.687 1993/1992 101.936 102.957 101.685 1994/1993 101.937 103.218 101.619 1995/1994 101.814 103.988 101.265 1996/1995 101.715 103.581 101.231 1997/1996 101.641 103.610 101.118 1998/1997 101.598 107.594 99.967 1999/1998 101.573 104.189 100.807 2000/1999 101.448 102.908 101.006 Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê phụ lục 2.2 nhân khẩu nam - nữ từ 15 tuổi trở lên trong cả nước hoạt động kinh tế thường xuyên chia theo trình độ chuyên môn Đơn vị tính : 1000 người Trình độ chuyên môn 1997 1998 1999 Tổng số Nam Nữ Tổng số Nam Nữ Tổng số Nam Nữ Tổng số (1000 người) 35867 17715 18152 36296 18144 18152 37409 18688 18721 Không có chuyên môn 31452 15059 16393 31838 15490 16348 32431 15750 16681 Sơ cấp 637 313 324 546 268 278 545 259 286 Công nhân kỹ thuật không bằng 762 508 254 848 557 291 968 649 319 Công nhân kỹ thuật có bằng 810 688 122 742 628 114 808 686 122 Trung học chuyên nghiệp 1378 663 715 1380 657 723 1517 696 821 Cao đẳng và đại học 816 474 342 910 519 319 1110 628 482 Trên đại học 12 10 2 17 14 3 30 20 10 Khác 0 0 0 15 11 4 0 0 0 Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê. Phụ lục 2.3 Cơ cấu ngành của nến kinh tế theo gdp và lao động đơn vị tính: % 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 1. Nông nghiệp Gdp 40,6 33,9 29,9 28,7 28,4 27,1 25,8 25,8 25,4 24,2 lao động 72,6 72,9 73,0 72,8 69,7 69,2 69,0 63,5 63,7 62,6 2. công nghiệp gdp 23,8 27,3 28,9 29,6 29,9 30,7 32,0 32,5 34,5 36,9 lao động 13,6 13,5 13,4 13,6 13,3 12,9 12,5 11,9 12,4 13,2 3. dịch vụ gdp 35,7 38,8 41,2 41,7 41,7 42,1 42,2 41,7 40,1 39,0 lao động 13,8 13,6 13,6 13,6 17,0 17,8 18,5 24,5 23,9 24,3 Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê. Phụ Lục 2.4 Nhân khẩu nam nữ từ 15 tuổi trở lên ở nông thôn có việc làm thường xuyên chia theo nhóm ngành Kinh Tế Đơn vị tính: 1000 người Ngành kinh tế 1997 1998 Tổng số Nam Nữ Tổng số Nam Nữ Tổng số 28443 13901 14542 27858 13775 14083 Nông, lâm, ngư ngiệp 23221 11170 12051 21752 10622 11130 Công nghiệp và xây dựng 1942 1172 770 1910 974 936 Dịch vụ 3280 1559 1721 4196 2179 2017 Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê Phụ lục 2.5 Số liệu thống kê về người lao động nước ngoài làm việc tại đài loan Đơn vị tính: người. Năm Tổng số Indonesia Malaysia Philipin Thái Lan Việt Nam 1995 151.989 6.020 2.344 38.473 105.152 - 1996 189.051 5.430 2.071 54.647 126.903 - 1997 236.555 10.206 1.489 83.630 141.230 - 1998 248.396 14.648 736 100.295 132.717 - 1999 270.620 22.058 940 114.255 133.367 - 2000 297.967 41.224 158 113.928 139.526 131 2001 Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 296.569 299.763 301.447 298.633 302.157 309.424 42.522 44.995 46.762 48.776 52.031 55.779 155 147 143 117 143 136 113.875 113.591 112.859 109.937 109.076 109.297 139.661 140.188 140.133 137.589 137.923 140.487 356 842 1.550 2.214 2.984 3.743 Nguồn: Uỷ ban Lao động Đài Loan. các nghề và khu vực không đưa người lao động và chuyên gia việt nam đi làm việc ở nước ngoài I - Nghề : - Nghề vũ nữ, ca sỹ, masage tại các nhà hàng, khách sạn hoặc các trung tâm giải trí đối với lao động nữ; - Công việc phải tiếp xúc với chất nổ, chất độc hại trong luyện quặng kim loại màu (đồng, chì, thuỷ ngân, bạc, kẽm), dọn rác vệ sinh, tiếp xúc thường xuyên với mangan, điôxýt thuỷ ngân; - Công việc phải tiếp xúc với nguồn phóng xạ hở, khai thác quặng phóng xạ các loại; - Công việc sản xuất, bao gói hoặc phải tiếp xúc thường xuyên với các hoá chất axít natric, natri sunfat, disunfua cacbon, các loại thuốc trừ sâu, diệt cỏ diệt chuột, sát trùng chống mối mọt có tính độc mạnh; - Những công việc săn bắt thú dữ, cá sấu, cá mập; - Những công việc phải điều trị hoặc trực tiếp phục vụ bệnh nhân các bệnh xã hội như: phong (hủi), HIV, những công việc mổ tử thi, liệm, mại táng, thiêu xác người chết, bốc mồ mả. II - KHU VựC : Đang có chiến sự hoặc có nguy cơ xẩy ra chiến sự; Bị nhiễm xạ, nhiễm độc. III - Đối với một số nghề như phục vụ gia đình, dịch vụ trên các tàu biển du lịch đối với lao động nữ, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại khác và một số khu vực có tính chất phức tạp, trước khi ký hợp đồng đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, các doanh nghiệp phải báo cáo với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Văn bản số 2408/LĐTBXH - QLLĐNN hướng dẫn tuyển lao động đi làm việc ở nước ngoài Nhằm tăng cường công tác quản lý và nâng cao chất lượng tuyển chọn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo Thông tư số 28/2000/TT - BLĐTBXH ngày 15/11/2000 Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 152/2000/NĐ-CP ngày 20/9/2000 của Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn bổ sung như sau: 1. Đối tượng và nguồn tuyển chọn: - Thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự trong các đơn vị quân đội, thanh niên xung phong, thanh niên tình nguyện tham gia các chương trình, dự án ở những nơi khó khăn (biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa) đã hoàn thành nhiệm vụ; - Lao động đang làm việc trong các công ty, xí nghiệp có nhu cầu đi; - Học sinh tốt nghiệp các trường đào tạo; - Lao động chưa có việc làm ở xã, phường, thị trấn; trong đó ưu tiên tuyển con em các gia đình chính sách, lao động thiếu việc làm ở nông thôn. 2. Thủ tục tuyển chọn: a) Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và chuyên gia khi có nhu cầu tuyển lao động thì căn cứ vào ngành nghề, tiêu chuẩn có công văn đề nghị các đơn vị, cơ sở sau đây để tuyển chọn: - Các đơn vị quân đội, công an, đội thanh niên xung phong, thanh niên tình nguyện tập trung có cấn bộ, chiến sỹ hoàn thành nhiệm vụ; - Các doanh nghiệp, xí nghiệp sản xuất; - Các trường, trung tâm đào tạo; - Uỷ ban nhân dân các xã, phường, thị trấn. b) Khi tuyển chọn lao động, doanh nghiệp phải xuất trình Giấy phép hoạt động chuyên doanh; Đăng ký hợp đồng; kế hoạch; tiêu chuẩn tuyển chon; cơ cấu ngành nghề, giới tính; số lượng dự tuyển và số lượng tuyển chính thức với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đê thông báo bằng văn bản cho cơ sở, đơn vị trên địa bàn có nguồn lao động đáp ứng yêu cầu tuyển chọn. c) Doanh nghiệp trực tiếp tuyển chọn lao động trong số người đăng ký dự tuyển theo kế hoạch đã thống nhất với cơ sở cung cấp lao động. Chậm nhất sau 5 ngày kể từ ngày người lao động dự tuyển, doanh nghiệp phải thông báo công khai kết quả cho người lao động. - Sau khi người lao động trúng tuyển, doanh nghiệp phải thông báo thời gian dự kiến đưa đi, nếu chậm thì phải thông báo rõ lý do cho người lao động biết. 3. Chuẩn bị nguồn lao động: Doanh nghiệp có thể tuyển những người đã có nghề hoặc thông qua các trường đào tạo; hoặc chủ động tổ chức đào tạo nghề và ngoại ngữ phù hợp với số lượng và cơ cấu ngành nghề theo kế hoạch đưa lao động đi hành năm; không được tổ chức đào tạo tràn lan gây tốn kém đối với người lao động. Khi chuẩn bị nguồn lao động và đào tạo, doanh nghiệp thông báo rõ cho người lao động về điều kiện, tiêu chuẩn tuyển chọn, các khoảng mà người lao động phải đóng trong đào tạo với người học. 4. Tổ chức thực hiện: - Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động chiịu trách nhiệm thực hiện tổ chức tuyển chọn lao động theo đúng quy định của Thông tư số 28/2000/TT - BLĐTBXH ngày 15/11/2000; Nghị định 152/2000/NĐ-CP ngày 20/09/2000 và những quy định trên đây. - Các Bộ, ngành, cơ quan Trung Ương, các đoàn thể, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có doanh nghiệp hoạt động XKLĐ chỉ đạo, kiểm tra, quản lý công tác tuyển chọn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo quy định, bảo đảm chất lượng, chống tiêu cực, môi giới trái pháp luật; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tuyển chọn lao động trên địa bàn. Tổ chức thanh tra lao động các cấp phải tăng cường và thường xuyên kiểm tra, thanh tra việc thực hiện tuyển chọn, đào tạo và các chế độ tài chính của các doanh nghiệp và các đơn vị liên quan. tài liệu tham khảo 1. Các loại phí và tiền đặt cọc khi đi lao động lao động ở nước ngoài, Thời báo Kinh tế, 13/3/2001. 2. Chính sách di cư quốc tế, Liên hợp quốc, 1999. 3. CIEM - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Lao động, việc làm và thu nhập, Kinh tế Việt Nam, 2001. 4. Dự thảo: Chiến lược ổn định và phát triển KT - XH của nước ta đến năm 2001, Nhà xuất bản Sự thật.HN,1991. 5. Đề án đẩy mạnh XKLĐ và CG giai đoạn 1999 - 2010, Bộ Lao động và Thương binh xã hội, ngày 24/8/1999. 6. Kim ho-Jin, Hệ thống giấy phép lao động đối với người nước ngoài, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, Số 2/2002. 7. Lê Trung, Nhìn lại vấn đề việc làm sau 15 năm đổi mới, Tạp chí Thông tin thị trường lao động, số 1/2002. 8. Lương Đức Long, Kết quả bước đầu của lao động Việt Nam ở thị trường Đài Loan, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 5/2001. 9. Manuel Imson, Kinh nghiệm của Philipin trong tìm kiếm việc làm nước ngoài, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 4/2001. 10. Niên giám thống kê 2001, Nhà xuất bản Thống kê. 11. Niên giám thống kê Lao động và Thương binh xã hội 2000, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 12. Nghị định số 370/HĐBT ngày 9/11/1992 của Hội Đồng Bộ trưởng. 13. Nghị định số 07/CP ngày 20/1/1996 của Chính phủ. 14. Nghị định số 152/2000/NĐ-CP ngày 20/9/2000 của Chính phủ quy định việc người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. 15. Nguyễn Ngọc Quỳnh, Thị trường XKLĐ và một vài suy nghĩ về mở rộng thị trường, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 3/2001. 16. Nguyễn Quang Vinh, Xuất khẩu lao động nhìn từ đào tạo, tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 4/2001. 17. Nguyễn Xuân Lưu, Những thuận lợi khó khăn trong việc hội nhập và cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 2/2001. 18. Paul R.Krugman và Maurice Obstfeld, Kinh tế học quốc tế lý thuyết và chính sách, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1997. 19. PGS. TS Phạm Đức Thành và TS Mai Quốc Chánh, Kinh tế lao động, trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Nhà xuất bản Giáo dục, 1999. 20. PGS. TS Trần Đắc Sửu, Xuất khẩu thuyền viên Việt Nam, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số5/2001. 21. Phan thị Bé, Xây dựng cơ chế tài chính phù hợp với hoạt động XKLĐ, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 6 /2000. 22. Quý Hào, Lao động ở nước ngoài phải nộp thuế thu nhập, Thời báo Kinh Tế, 6/3/2001. 23. Sơ kết việc XKLĐ, Báo Nhân Dân, 19/12/2001. 24. Thông báo kết quả hội nghị toàn quốc về XKLĐ, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 3/2001. 25. ThS. Nguyễn Lương Phương, Những định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh XKLĐ trong tình hình mới, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 6/2001. 26. Tin kinh tế ngày 16/9/2001, Tình hình lao động ở Châu á, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 5/2001. 27. Trần Văn Hoan, Đào tạo người lao động tại các doanh nghiệp ở một số khu vực thi trường lao động, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 5/2001. 28. TS. Cao Văn Sâm, Tăng cường đào tạo ngoại ngữ cho lao động xuất khẩu và chuyên gia, Tạp chí Việc làm với nước ngoài, Cục Quản lý lao động với nước ngoài, số 1/2002. 29. TS. Phạm Đỗ Nhật Tân, Thị trường lao động ngoài nước. Thực trạng và giải pháp ổn định, phát triển thị trường, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 6/2001. 30. TS. Trần Văn Hằng, Hoạt động XKLĐ và chuyên gia năm 2001. Nhiệm vụ và định hướng công tác năm 2002, Tạp chí Việc làm nước ngoài, Cục quản lý lao động với nước ngoài, số 6/2000. 31. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII,1997. 32. Viện chiến lược phát triển, Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển KT - XH Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, HN, 2002.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0513.doc
Tài liệu liên quan