Đẩy mạnh xuất khẩu lao động
nông thôn
Tăng cường, khuyến khích xuất khẩu
lao động đã qua đào tạo nghề. Để làm
được điều này, một mặt, chính quyền địa
phương các cấp cần đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, định hướng và có chương
trình/chính sách hỗ trợ cho thanh niên
nông thôn học nghề, cũng như chính sách
cho lao động ở các vùng nông thôn, vùng
bị mất đất do đô thị hoá tham gia XKLĐ;
Mặt khác, Nhà nước xây dựng chính sách
khuyến khích, hỗ trợ cho các doanh nghiệp
dịch vụ XKLĐ tìm kiếm các đơn hàng
chất lượng cao, đưa lao động đã qua đào
tạo đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Nhà nước xây dựng chính sách để
thống nhất quản lý hoạt động XKLĐ
đồng thời tạo điều kiện để doanh nghiệp,
người lao động phát huy tính chủ động,
tự chịu trách nhiệm trước pháp luật trong
nước, nước ngoài trong XKLĐ. Đối với
doanh nghiệp XKLĐ, nhà nước nên đầu
tư xây dựng một số doanh nghiệp XKLĐ
mạnh cả về cơ sở vật chất và đội ngũ cán
bộ để có thể cạnh tranh, tìm kiếm được
nhiều thị trường trên thị trường quốc tế;
các doanh nghiệp đưa lao động đi XKLĐ
nên có chính sách sử dụng lao động sau
khi về nước hoặc hướng dẫn, kết nối với
các doanh nghiệp liên quan nhằm tạo
thêm nhiều kênh thông tin để người lao
động trở về tìm được nghề làm thích hợp.
18 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 264 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2000-2009 – thực trạng và những vấn đề đặt ra, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảm từ 65,10% xuống
còn 51,28%; số lượng lao động công
nghiệp tăng gấp 2,1 lần (10,46 triệu người
năm 2009 so với 5,03 triệu người năm
2000), đưa tỷ trọng lao động công nghiệp
từ 13,11% tăng lên đến 21,94%; và số lao
động dịch vụ cũng tăng gần gấp 1,5 lần
(12,77 triệu người năm 2009 so với 8,37
triệu người năm 2000), đưa tỷ trọng lao
động dịch vụ tăng từ 21,8% lên đến
26,78%.
Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu lao
động nông nghiệp còn chậm và chưa theo
kịp chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong giai
đoạn 2000-2009, trung bình mỗi năm cơ
cấu lao động nông nghiệp chỉ giảm bình
quân 1,53 điểm phần trăm, tương đương
với việc mỗi năm rút khoảng 58 ngàn lao
động ra khỏi ngành nông nghiệp; cơ cấu
lao động công nghiệp tăng 1 điểm phần
trăm và của dịch vụ tăng 0,6 điểm phần
trăm, tương ứng với 604 ngàn lao động và
489 ngàn lao động mỗi năm. Đến năm
2009, tỷ lệ lao động nông nghiệp vẫn còn
trên 51%. Trong khi đó, mức độ đóng góp
của ngành nông nghiệp cho tăng trưởng
kinh tế vẫn còn rất hạn chế - một nghịch
lý là hiện nay (năm 2009) lao động nông
nghiệp chiếm trên 51% tổng lao động xã
hội nhưng giá trị GDP được tạo ra từ
ngành này lại thấp nhất, chiếm khoảng
21% giá trị GDP của cả nước. Ngược lại,
tỷ lệ lao động công nghiệp là gần 21% và
lao động dịch vụ là 26,65% nhưng tạo
được giá trị GDP của mỗi ngành chiếm
gần 40% giá trị GDP của cả nước (xem
hình 1). Điều này cho thấy, năng suất lao
động trong nội bộ ngành nông nghiệp vẫn
còn rất thấp, lao động ngành nông nghiệp
chưa trú trọng phát triển theo chiều sâu.
Xét tổng thể, chính sách phát triển
kinh tế xã hội của Việt nam đã có những
tác động nhất định, trong đó tác động trực
tiếp tới chuyển dịch cơ cấu lao động là
các chính sách phát triển đô thị, thu hồi
hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng đất,
khôi phục và phát triển ngành nghề truyền
thống tại các địa phương cũng như chính
sách đầu tư phát triển và mở rộng các
khu/cụm công nghiệp, dịch vụ. Ngoài ra,
các chính sách phát triển nông nghiệp như
chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi
hợp lý, đưa tiến bộ khoa học và cơ giới
hóa vào sản xuất nông nghiệp đã và đang
góp phần giải phóng sức lao động và thúc
đẩy công nghiệp chế biến phát triển, qua
đó thu hút lao động nông nghiệp chuyển
dịch sang các ngành hàng có chuỗi giá trị
cao hơn4. Trong những năm qua, kinh tế
tăng trưởng cao đã thu hút một lượng lớn
lao động phi nông nghiệp, nhưng chưa đủ
lớn để rút được nhiều hơn nữa lao động
nông nghiệp ra, lượng lao động thu hút
được dường như chỉ tương đương với số
lao động mới gia tăng hàng năm. Kinh tế
phát triển nhưng chưa tạo được bước đột
phá lớn trong chuyển dịch lao động sang
các ngành phi nông nghiệp.
4
Đặng Kim Sơn-Viện Chính sách và Chiến lược
Phát triển Nông nghiệp Nông thôn, Nông nghiệp
nông dân nông thôn Việt nam hôm nay và mai sau,
tr. 12-13.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
17
Hình 1: Xu hướng chuyển dịch cơ cấu cơ cấu lao động Việt Nam và cơ cấu
kinh tế theo ngành kinh tế, giai đoạn 2000-2009
0%
20%
40%
60%
80%
100%
20
00
20
01
20
02
20
03
20
04
20
05
20
06
20
07
20
08
20
09
20
00
20
01
20
02
20
03
20
04
20
05
20
06
20
07
20
08
20
09
Cơ cấu lao động cả nước Cơ cấu Tổng sản phẩm trong nước (theo giá
thực tế)
Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ
Nguồn: Số liệu Thống kê 2000-2009, TCTK,
2.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn
a. Chuyển dịch cơ cấu lao động nông
thôn theo ngành kinh tế
Trong giai đoạn 2000-2009, trong nội
bộ cơ cấu kinh tế nông thôn cũng đã có sự
chuyển dịch ngày càng tích cực hơn theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ
trọng giá trị sản xuất công nghiệp khu vực
nông thôn đã tăng từ 16,75% năm 2000
lên 23,5% năm 2009. Trên cơ sở đó, đã
tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu
lao động xã hội nông thôn mà biểu hiện rõ
nhất là thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ
cấu lao động nông thôn theo hướng giảm
và sử dụng hiệu quả lao động nông
nghiệp; trong khi ngày càng tăng thêm lao
động làm công nghiệp, thương mại và
dịch vụ - xem hình 2.
Hình 2: Xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn Việt Nam theo
ngành kinh tế, giai đoạn 2000-2009
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Cơ cấu lao động nông thôn
Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ
Nguồn: Số liệu điều tra Lao động việc làm năm 2000 - 2006 của Bộ LĐTBXH; Số liệu Điều
tra Lao động Việc làm năm 2007, 2008 của TCTK; Tổng điều tra Dân số 2009 của TCTK.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
18
Giảm và sử dụng hiệu quả lao
động nông nghiệp
Trong giai đoạn 2000-2009, lao động
nông nghiệp nông thôn nhìn chung đã
giảm cả số lượng lẫn tỷ trọng. Mỗi năm
có khoảng 145 ngàn lao động rút ra khỏi
ngành nông nghiệp, tương đương với tốc
độ giảm khoảng 0,51%/năm. Về tỷ trọng,
lao động nông nghiệp nông thôn đã giảm
được 15 điểm phần trăm trong cả giai
đoạn (từ 79,04% năm 2000 xuống
64,02% năm 2009), mức giảm cũng khá
ấn tượng đối với ngành nông nghiệp
truyền thống như ở Việt nam. Trong nội
bộ ngành nông nghiệp cũng đang có sự
chuyển dịch theo hướng chuyển từ hoạt
động thuần nông, giản đơn, năng suất
thấp sang các công việc, ngành nghề có
chuỗi giá trị kinh tế cao. Đó là phát triển
kinh tế trang trại, phát triển mô hình kinh
tế hộ gia đình thu hút một lượng lao động
đáng kể vào làm việc. Theo số liệu của
Bộ NN&PTNT, tính đến giữa năm 2009,
cả nước có khoảng 150.102 trang trại,
bình quân mỗi tỉnh có 2.382 trang trại,
chủ yếu tập trung ở Đồng bằng sông Cửu
Long, miền Đông Nam Bộ, Nam Trung
Bộ và Đồng bằng sông Hồng. Từ năm
2000 đến nay, mỗi năm tăng thêm khoảng
8.600 trang trại. Trang trại phát triển, đã
thu hút một lượng lao động đáng kể vào
làm việc, nhất là ở vùng nông thôn, miền
núi. Nếu như năm 2001, các trang trại đã
thu hút được 374.701 lao động vào làm
việc, thì đến năm 2007 số lượng này tăng
lên là 488.277; và đầu năm 2009 đạt con
số trên 510.000 lao động, trong đó lao
động của chủ trang trại chiếm khoảng
40%, còn lại là lao động thuê ngoài5.
5Lê Phi Hùng, Phát triển kinh tế trang trại ở Việt
Nam,
VN/61/43/2/97/97/81211/Default.aspx
Cầu lao động trong khu vực kinh tế hộ
gia đình nông thôn có xu hướng gia tăng.
Theo kết quả Điều tra Mức sống Hộ gia
đình Việt nam hàng năm, lao động làm
thuê thường xuyên cho các hộ gia đình ở
nông thôn tăng từ 1,3 triệu lao động (năm
1998) lên 3,1 triệu lao động (năm 2008),
với tốc độ tăng bình quân là 7,82%/năm
trong giai đoạn 1998-2008.
Phát triển lao động phi nông nghiệp
Ở ngành công nghiệp- xây dựng, lao
động trong các ngành này năm 2000 ở
nông thôn chỉ có 2,5 triệu người, sau gần
10 năm đã lên tới 6,41 triệu người, tăng
bình quân 10,91%/năm trong giai đoạn
2000-2009, góp phần nâng tỷ trọng lao
động trong ngành tăng thêm 9,83 điểm
phần trăm (từ 8,29% lên 18,27%). Trong
công nghiệp nông thôn nói chung, số
lượng và tỷ trọng lao động của các ngành
đều tăng, đặc biệt, ngành công nghiệp
chế biến mà chủ yếu là tiểu thủ công
nghiệp chiếm tỷ trọng cao (trên 10%
tổng lao động có việc làm ở nông thôn)
và liên tục tăng trưởng với tốc độ nhanh
(14%/năm); tiếp đến là ngành xây dựng
cũng có tốc độ tăng trưởng lao động khá
nhanh (10,1%/năm)- xem bảng 2.
Lao động ngành dịch vụ tăng khiêm
tốn hơn với tốc độ tương ứng là
6,14%/năm trong giai đoạn 2000-2009,
đạt 6,2 triệu lao động vào năm 2009,
chiếm 21,08% trong tổng số lao động
nông thôn (tăng 6,64 điểm phần trăm so
với năm 2000). Hầu hết các phân ngành
dịch vụ đều tăng cả về quy mô và cơ cấu
như thương nghiệp, sửa chữa xe có động
cơ, mô tô xe máy đồ dùng cá nhân và gia
đình, khách sạn nhà hàng, vận tải kho bãi
và thông tin liên lạc - xem bảng 3.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
19
Bảng 2: Số lượng và cơ cấu lao động công nghiệp ở nông thôn theo các ngành chính
Số lượng (1000 người) Cơ cấu (%)
2000 2005 2009 2000 2005 2009
Tổng cộng 30056 32931 35074 100 100 100
1. Công nghiệp khai thác mỏ 126 302 263 0.36 0.86 0.75
2. Công nghiệp chế biến 2087 3164 3991 5.95 9.02 11.38
3. Điện, khí đốt và nước 25 53 88 0.07 0.15 0.25
4. Xây dựng 666 1407 2066 1.9 4.01 5.89
5. Khác (các ngành dịch vụ và
nông nghiệp) 32168 30152 28666 91.71 85.96 81.73
Nguồn: Số liệu điều tra Lao động việc làm năm 2000 - 2006 của Bộ LĐTBXH; Số liệu Điều
tra Lao động Việc làm năm 2007, 2008 của TCTK; Tổng điều tra Dân số 2009 của TCTK
Bảng 3: Số lượng và cơ cấu lao động dịch vụ ở nông thôn theo các ngành chính
Số lượng (1000 người) Cơ cấu (%)
2000 2005 2009 2000 2005 2009
Tổng cộng 29462 32229 35074 100.00 100.00 100.00
1. Thương nghiệp, sửa chữa 1859 2286 2918 6.31 7.09 8.32
2.Khách sạn nhà hàng 200 275 800 0.68 0.85 2.28
3. Vận tải kho bãi và TT liên lạc 457 546 835 1.55 1.69 2.38
4. Giáo dục và đào tạo 461 618 891 1.56 1.92 2.54
5. Các ngành dịch vụ khác 758 1044 768 2.57 3.24 2.19
6. Khác (các ngành công nghiệp và
nông nghiệp) 26485 28504 28862 87.33 85.22 82.29
Nguồn: Số liệu điều tra Lao động việc làm năm 2000 - 2006 của Bộ LĐTBXH; Số liệu Điều
tra Lao động Việc làm năm 2007, 2008 của TCTK; Tổng điều tra Dân số 2009 của TCTK
Trong những năm gần đây, sự phát
triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở khu vực nông thôn đã và đang
góp phần quan trọng trong phát triển lao
động phi nông nghiệp. Theo số liệu của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn, từ khi luật doanh nghiệp 2000 được
thực hiện, số lượng doanh nghiệp đăng
ký kinh doanh ở các vùng nông thôn
cũng tăng rất nhanh - Năm 2001 mới có
3.600 doanh nghiệp hoạt động trong các
lĩnh vực nông, lâm, ngư, nghiệp, thì nay
đã có 16.000 doanh nghiệp, không kể
gần 8.600 hợp tác xã. Khu vực doanh
nghiệp này đang thu hút khoảng 25-26%
lực lượng lao động phi nông nghiệp và sẽ
thu hút mạnh mẽ hơn trong thời gian tới.
Tuy nhiên, sự phát triển của doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn hiện nay
còn nhiều hạn chế. Đó là do nguồn vốn
ít, lực lượng lao động chủ yếu là lao
động thủ công và khép kín trong quan hệ
gia đình, ít thu hút lao động bên ngoài.
Những hạn chế này đã làm phát sinh
nhiều vấn đề phức tạp như công nghệ lạc
hậu, sản xuất phân tán, manh mún, sức
cạnh tranh kém. Mặt khác, cơ sở hạ tầng
chưa được coi trọng là một trong những
nguyên nhân gây nên tình trạng ô nhiễm
môi trường.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
20
Ở khu vực nông thôn, khu vực làng
nghề cũng đóng vai trò quan trọng trong
phát triển lao động phi nông nghiệp. Khu
vực làng nghề ngày càng mở rộng và thu
hút ngày càng nhiều lao động. Năm 2006
cả nước ta có 1077 làng nghề (trong đó có
951 làng nghề truyền thống thuộc khu vực
nông thôn), thu hút khoảng 8,2 triệu lao
động, trong đó, có khoảng 42% lao động
làm công ăn lương; số còn lại là kiêm
nghề và sử dụng lao động trong gia đình.
Đến năm 2009, cả nước có 2790 làng
nghề truyền thống, giải quyết việc làm
cho khoảng 11 triệu lao động, trong đó có
cả những người già, thương binh, người
tàn tật và lao động lúc nông nhàn. Lực
lượng lao động nữ ở các làng nghề chiếm
tới hơn 80%. Những làng nghề có tỷ lệ
lao động nữ thấp thì cũng chiếm tới 45%;
đặc biệt, một số làng nghề như Ngư Lộc
thuộc tỉnh Thanh Hóa, lao động nữ, chiếm
tới 98%6. Tuy nhiên, lao động trong các
làng nghề đang phải đối mặt với các vấn
đề về môi trường ô nhiễm nặng nề và điều
kiện lao động không đảm bảo, không
được ký kết hợp đồng lao động và do đó
cũng không được thụ hưởng các chế độ
bảo hiểm và bảo trợ xã hội khi cần thiết.
Kết quả trên đây lần nữa cho thấy quá
trình đô thị hoá, công nghiệp hóa và hiện
đại hoá nông thôn đã có những tác động
nhất định đến việc chuyển dịch cơ cấu
lao động nông thôn, chuyển sang các
ngành có hiệu quả kinh tế và năng suất
lao động cao hơn, góp phần cải thiện thu
nhập và đời sống của người lao động.
Tuy nhiên, vấn đề an ninh việc làm, an
sinh xã hội của lao động nông thôn chưa
được chú trọng.
6
Văn hóa doanh nhân Việt Nam, Lực lượng lao
động nữ ở các làng nghề chiếm tới hơn 80%,
t&view=article&id=7299:Lc-lng-lao-ng-n--cc-lng-
ngh-chim-ti-hn-80&catid=96:xa-hi.
b. Chuyển dịch chất lượng lao động
nông thôn
Về trình độ học vấn, nhìn chung,
trình độ học vấn của lao động nông thôn
thấp. Đến năm 2009, mới chỉ có gần 1/5
lực lượng lao động nông thôn tốt nghiệp
trung học phổ thông; trong khi đó, còn
gần 6% lao động nông thôn không biết
chữ và 16% chưa tốt nghiệp tiểu học.
Trong giai đoạn 2000-2009, chuyển dịch
cơ cấu lao động nông thôn theo trình độ
học vấn còn chậm. Sau gần 10 năm, lao
động có trình độ tốt nghiệp trung học
mới tăng gần gấp đôi về số lượng (từ
3,397 triệu lao động năm 2000 lên 6,399
triệu lao động năm 2009) và về tỷ lệ tăng
thêm gần 7 điểm phần trăm (từ 11,18%
năm 2000 lên đến 17,8% năm 2009); lao
động ở các cấp trình độ tốt nghiệp trung
học cơ sở, tốt nghiệp tiểu học và chưa tốt
nghiệp tiểu học tăng về số lượng nhưng
lại giảm nhẹ về tỷ lệ trong cơ cấu lao
động nông thôn. Điều đáng lưu ý, trong
giai đoạn này, lao động nông thôn có
hiện tượng tái mù chữ - số lượng lao
động mù chữ đã tăng lên gần 500 ngàn
người (từ 1,456 triệu người năm 2000
tăng lên 2,049 triệu người năm 2009) và
tỷ lệ lao động mù chữ cũng tăng lên gần
1 điểm phần trăm (từ 4,79% năm 2000
lên 5,7% năm 2009) - xem Bảng 4.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao
động nông thôn cũng thấp và chuyển dịch
còn chậm. Năm 2009, lao động qua đào
tạo của nông thôn là 5,78 triệu người, chỉ
chiếm khoảng 16% trong tổng số lao động
nông thôn. Trong thời kỳ 2000-2009,
LLLĐ nông thôn có trình độ CNKT có
bằng trở lên tiếp tục gia tăng về số lượng
và tỷ lệ - số lượng lao động đã tăng gấp 2
lần (từ 1,775 triệu lao động năm 2000 lên
đến 3,707 triệu lao động năm 2009) và tỷ
lệ cũng tăng gần 5 điểm phần trăm (từ
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
21
5,84% năm 2000 lên đến 10,31% năm
2009). Trong khi đó, lao động ở trình độ
sơ cấp học nghề, CNKT không bằng lại
giảm nhẹ về số lượng và tỷ lệ. Lao động
không có chuyên môn kỹ thuật chỉ giảm
1,5 điểm phần trăm qua gần 10 năm
(85,43% năm 2000 giảm xuống còn
83,92% năm 2009) và vẫn tiếp tục tăng về
số lượng (từ 25,954 triệu người năm 2000
và 30,171 triệu người năm 2009).
Bảng 4: Cơ cấu lao động nông thôn chia theo trình độ học vấn, 2000-2009
Trình độ học vấn
2000 2009
Số lượng
(1000 người)
Cơ cấu
(%)
Số lượng
(1000 người)
Cơ cấu
(%)
1. Mù chữ 1,456 4.79 2,049 5.7
2. Chưa tốt nghiệp tiểu học 5,614 18.48 5,716 15.9
3. Tốt nghiệp tiểu học 9,403 30.95 10,750 29.9
4. Tốt nghiệp trung học cơ sở 10,509 34.59 11,037 30.7
5. Tốt nghiệp trung học phổ thông 3,397 11.18 6,399 17.8
Tổng số 30,379 100 35,952 100
Nguồn: - Số liệu TK Việc làm - Thất nghiệp ở VN giai đoạn 1996- 2005, NXB LĐXH, Số liệu
Tổng điều tra Dân số 2009 của TCTK đã được điều chỉnh theo xu thế
Bảng 5: Cơ cấu lao động nông thôn chia theo trình độ CMKT, 2000-2009
Trình độ chuyên môn kỹ thuật
2000 2009
Số lượng
(1000 người)
Cơ cấu
(%)
Số lượng
(1000 người)
Cơ cấu
(%)
1. Không có CMKT 25,954 85.43 30,171 83.92
2. Sơ cấp học nghề, CNKT không bằng 2,650 8.72 2,074 5.77
3. CNKT có bằng trở lên 1,775 5.84 3,707 10.31
Tổng số 30,379 100 35,952 100
Nguồn: - Số liệu TK Việc làm - Thất nghiệp ở VN giai đoạn 1996- 2005, NXB LĐXH, Số liệu
Tổng điều tra Dân số 2009 của TCTK đã được điều chỉnh theo xu thế.
2.3. Chuyển dịch lao động từ nông thôn
ra thành thị và các vùng kinh tế
Cùng với chính sách phát triển kinh
tế, xây dựng và mở rộng các khu công
nghiệp cũng như phát triển làng nghề thì
chính sách phát triển đô thị và phát triển
các vùng kinh tế trọng điểm đang là lực
hút lao động di cư tới làm việc, tạo điều
kiện chuyển đổi nghề nghiệp hoặc tìm
kiếm việc làm cho thu nhập cao hơn.
Các vùng kinh tế trọng điểm (phía
Bắc, miền Trung và phía Nam) là một thí
dụ về việc thu hút tỷ lệ lớn lao động di
cư làm trong các ngành công nghiệp và
dịch vụ. Đây là các vùng có tốc độ tăng
trưởng kinh tế luôn cao hơn mức tăng
trưởng bình quân chung cả nước và có
mức đóng góp quan trọng trong tổng
GDP cả nước7. Riêng về công nghiệp
Đông Nam bộ -vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam đã đóng góp tới trên phân nửa
giá trị sản xuất công nghiệp cả nước suốt
7
Vùng kinh tế trọng điểm tại Việt Nam
753/ns041124104306#Hbam63Z3uOQF
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
22
từ 1999 đến nay, Đồng Bằng sông Hồng-
vùng trọng điểm phía Bắc đóng góp trên
20% trong nhiều năm và gần ¼ giá trị
sản xuất công nghiệp năm 2008. Tập
trung các điểm/ cụm du lịch quốc gia nổi
tiếng và sự hình thành các khu công
nghiệp, khu kinh tế và cảng biển nước
sâu vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
đang phát huy thế mạnh của kinh tế biển.
Các khu công nghiệp như khu lọc hóa
dầu, hóa chất Dung Quất đã chính thức
đi vào hoạt động đang tạo ra một chuỗi
việc làm phát sinh (backwards and
forwards employment) phục vụ những
người lao động từ các ngành nghề nói
trên. Bên cạnh đó, một số khu công
nghiệp khác đang tiếp tục được xây dựng
và đi vào hoạt động, trong vài năm tới
nơi đây sẽ là nơi thu hút một lượng lao
động không nhỏ.
Không chỉ các vùng trọng điểm mới
là nơi thu hút lao động, các vùng kinh tế
khác cũng có sức hút riêng bởi tính đặc
thù của mỗi vùng miền. Tây nguyên là
vùng cao nguyên rộng lớn, khí hậu mát
mẻ, hứa hẹn tiềm năng du lịch, công
nghiệp chế biến và phát triển nông
nghiệp dựa vào thế mạnh về các loại cây
công nghiệp và cây hàng năm vốn đã nổi
tiếng như cà phê, hồ tiêu, cao su, bông,
chè, ngô, rau màu và hoa xuất khẩu, ...
Sức hút lao động di cư đến sinh sống lập
nghiệp vùng này, vì thế, là rất lớn. Bảng
4 cho thấy mặc dù đã có sự hoán vị ngôi
thứ nhưng Đông Nam bộ và Tây nguyên
là 2 vùng duy nhất có tỷ suất di cư thuần
dương ở cả khu vực thành thị lẫn nông
thôn trong thời kỳ 1999-2009, tỷ suất di
cư thuần của 2 vùng này năm 2009 tương
ứng là 117%0 và 8,9%0. Điều đó cho
thấy tiềm năng phát triển kinh tế của các
vùng này lớn nhưng Đông Nam bộ -
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam sẽ vẫn
là nơi có kinh tế phát triển nhất cả nước
nên sức hút lao động di cư tới làm việc
cũng là lớn nhất cả nước.
Thành thị là nơi thu hút dòng di cư
lớn chủ yếu từ nông thôn ra với tỷ suất di
cư thuần năm 2009 lên tới 19,3%0.
Trong đó, vùng núi phía Bắc và Đồng
bằng sông Hồng là nơi có tỷ suất di cư
thuần dương ở khu vực thành thị bởi
tiềm năng phát triển kinh tế mậu dịch
biên giữa Việt Nam và các nước láng
giềng cũng như điểm nóng tăng trưởng
của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc là
đồng bằng sông Hồng. Đặc biệt, vùng
Đông Nam bộ với hầu hết các tỉnh có
tiềm lực phát triển công nghiệp to lớn có
tỷ lệ đô thị hóa cao nhất cả nước (57,1%
năm 2009) nên mức độ thu hút di cư
cũng là cao nhất, trong đó Bình Dương là
tỉnh có tỷ suất di cư thuần lớn nhất cả
nước (340,4%0), tiếp đó là thành phố Hồ
Chí Minh (135,7%0). Ngoài ra Đà Nẵng
cũng là nơi thu hút di cư đến khá lớn với
tỷ suất di cư thuần là 76,7%0 trong khi
Hà nội chỉ đạt 49,5%08.
Chính sách đô thị hóa kết hợp với
dòng di cư nông thôn - thành thị hay Bắc-
Nam đã góp phần làm cho khu vực đô thị
ngày càng được mở rộng và phát triển.
Biểu 6 cho thấy tốc độ tăng trưởng và tỷ
lệ dân số thành thị cả nước và các vùng
kinh tế đã có những thay đổi tích cực
trong 10 năm qua (1999-2009). Trong khi
dân số nông thôn tăng trưởng không đáng
kể (0,4%) thì dân số thành thị có tốc độ
tăng trưởng cao vượt lên, đạt 3,4%. Kết
quả này là do có dòng di cư nông thôn
thành thị lớn, bình quân mức nhập cư đã
đóng góp 0,57 điểm phần trăm cho tỷ lệ
tăng dân số thành thị hàng năm9.
8
Một số chỉ tiêu chủ yếu từ TĐTDS và nhà ở 2009
của TCTK
9
Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở 2009: Những kết
quả chủ yếu, Phần II, tr.85 Hà nội, 6/2010.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
23
Bảng 6: Tốc độ và tỷ lệ tăng dân số và tỷ suất di cư thuần qua các cuộc TĐTDS
và Nhà ở 1999- 2009.
Tốc độ tăng dân số bình
quân năm 1999-2009 (%)
Tỷ lệ dân số thành
thị (%)
Tỷ suất di cư
thuần (%0)
Cả
nước
Nông
thôn
Thành
thị
1999 2009 1999 2009
Cả nước 1.2 0.4 3.4 23.5 29.6 0 0
Trung du và miền núi phía Bắc 1.0 0.7 2.5 13.8 16.0 -10 -17.9
Đồng bằng sông Hồng 0.9 -0.2 4.3 21.1 29.2 -11 -2.3
Bắc Trung bộ và DH miền
Trung 0.4 -0.2 2.8 18.4 24.1
-19 -38.4
Tây nguyên 2.3 2.2 2.5 26.7 27.8 76 8.9
Đông Nam bộ 3.2 2.8 3.7 55.1 57.1 49 117.0
Đồng bằng sông Cửu Long 0.6 -0.1 3.5 17.1 22.8 -10 -42.1
Nguồn: Trích từ phụ lục 2 trong "Báo cáo: Kết quả sơ bộ TĐTDS và Nhà ở 1/4/2009" tại Hội
nghị công bố kết quả sơ bộ và tính toán từ mẫu 15% TDTDS và Nhà ở 2009, biểu B.2 tr. 176-182,
TCTK và TDTDS và nhà ở 1999.
Ngoài ra, dân số thành thị tăng một
phần là do mở rộng địa giới các khu vực
hành chính10. Việc này đồng nghĩa với
việc thừa nhận mô hình phát triển kinh tế
của khu vực đó đã có những thay đổi cơ
bản, các ngành nghề công nghiệp và dịch
vụ phát triển nhiều hơn, người lao động
cũng chuyển dịch mạnh sang các hoạt
động phi nông nghiệp nhiều hơn thay vì
sản xuất nông nghiệp.
Đối với lao động di cư, vấn đề nổi
cộm nhất hiện nay là chuyện nhà ở và
các vấn đề xã hội liên quan như hộ khẩu
và chính sách giáo dục, y tế, an sinh cho
con cái và gia đình đi theo lao động di
cư. Việc làm tại nơi đến tuy tốt hơn
nhưng thu nhập của người lao động di cư
thấp hơn lao động sở tại 20%, trong khi
10
Nông thôn có tỷ suất sinh thô cao hơn thành thị,
tỷ suất chết thô giữa 2 khu vực không có chênh
lệch đáng kể trong khi đó dân số nông thôn tăng
trưởng thấp, dân số thành thị tăng cao là do có sự di
cư lớn từ nông thôn ra thành thị-xem “Tổng Điều
tra Dân số và Nhà ở 2009: Những kết quả chủ yếu”,
Phần II, tr.84 Hà nội, 6/2010 của Ban Chỉ đạo
TĐTDS&Nhà ở.
đó điều kiện nhà ở chật chội, không đảm
bảo vệ sinh, giá sinh hoạt đắt đỏ, nhiều
lao động không được hưởng phúc lợi từ
doanh nghiệp và hầu như không được
tham gia sinh hoạt cộng đồng nơi cư trú.
Trường hợp khó khăn, thậm chí nếu có
rơi vào tình trạng nghèo thành thị thì
người lao động di cư cũng khó tiếp cận
được các hỗ trợ từ chính quyền sở tại.
Những khó khăn, bức xúc như vậy
dường như thường trực trong cuộc sống
hàng ngày của người lao động di cư.
Thêm vào đó, các mâu thuẫn, tranh chấp
trong quan hệ lao động giữa người sử
dụng lao động và người lao động trong
các doanh nghiệp gia tăng đã làm cho
vấn đề mưu sinh của người lao động
càng thêm bức xúc, dồn nén và là một
trong các nguyên nhân chính dẫn đến
bùng phát các cuộc đình công tự phát
trong những năm gần đây tại các khu
công nghiệp ở TPHCM, Bình Dương,
Đồng Nai, Hà Nội...
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
24
2.4. Chuyển dịch lao động ra ngoài
nước (Xuất khẩu lao động)
Đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài là một chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước được thực hiện từ hơn
30 năm nay nhằm mục tiêu giải quyết
việc làm bền vững trong bối cảnh thị
trường lao động (TTLĐ) chưa phát triển
ở Việt Nam. Thời gian qua, thị trường lao
động ngoài nước ngày càng phát triển và
mở rộng. Năm 2008, Việt Nam đã đưa đi
86.990 người tăng gấp 1,2 lần so với năm
2005, và 2,8 lần so với của năm 2000;
trong đó lao động nữ chiếm 33%. Năm
2009, do tác động của khủng hoảng kinh
tế, số lao động xuất khẩu đã suy giảm
so với năm 2008. Hàng năm, lao động
nông thôn chiếm trên 90% tổng số lao
động đi làm việc ở nước ngoài của cả
nước. Đến nay, Việt Nam có khoảng 500
ngàn lao động đang làm việc tại hơn 40
nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm
ngành nghề, tập trung chủ yếu ở các
nước và vùng lãnh thổ như Đài Loan,
Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia; mở thêm
thị trường mới ở Trung Đông; và hiện
đang xúc tiến mở thị trường ở Bắc và
Đông Âu.
Bảng 6: Số lượng và cơ cấu lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài trong năm theo hợp đồng, giai đoạn 2005-2009
Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009
I. Tổng số (người) 70.594 78.855 85.020 86.990 73.028
II. Cơ cấu (%)
2.1. Theo giới tính 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
-Nam 66,37 64,80 64,83 70,18 63,79
-Nữ 33,63 35,20 35,17 29,82 36,21
2.2. Theo trình độ chuyên môn kỹ thuật 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
-Lao động qua đào tạo 15,36 23,24 34,69 40,12 45,47
-Lao động phổ thông 84,64 76,76 65,31 59,88 54,53
Nguồn: Cục Quản lý Lao động Ngoài nước, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, 2010
Lao động đi XK của ta chủ yếu là lao
động nông nghiệp nông thôn (chiếm trên
80%) và phần lớn chưa qua đào tạo
(54,53%). Trên thực tế, việc đưa lao
động phổ thông đi làm việc ở nước ngoài
chưa thực sự hiệu quả do thu nhập thấp
và công việc kém ổn định. Mặt khác hầu
hết là các lao động này xuất thân từ nông
dân nên việc tuân thủ kỷ luật công nghệ,
ý thức tổ chức còn hạn chế, đã dẫn đến
những tranh chấp, mâu thuẫn với chủ sử
dụng lao động. Thậm chí gây rối trật tự
trị an ở nước bạn. Hiện nay, xu hướng
chung của phần lớn các thị trường đều có
nhu cầu về lao động có tay nghề song
hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu lao
động của Việt Nam thường bị động trước
những đơn hàng mới do thiếu trầm trọng
nguồn lao động qua đào tạo.
Nhìn chung, xuất khẩu lao động
(XKLĐ) đã trở thành một kênh giải
quyết việc quan trọng cho lao động nông
thôn, đã và đang đem lại nguồn ngoại tệ
hàng năm khá lớn, riêng năm 2008, số
ngoại tệ chuyển về nước khoảng 1,8 tỷ
USD chiếm khoảng 2% GDP. Nguồn lợi
về kinh tế mà những người đi lao động
có thời hạn gửi về trong thời gian qua
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
25
đã góp phần làm thay đổi bộ mặt nông
thôn, nâng cao mức sống cho nhiều gia
đình nông dân. Bản thân người lao động
đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài tiếp
thu được những kiến thức kỹ thuật tiên
tiến, kỹ năng hiện đại, phong cách và
phương pháp làm việc chuyên nghiệp và
những phẩm chất tốt từ những nước nhập
khẩu lao động.
Bên cạnh tác động tích cực, xuất
khẩu lao động cũng đã và đang tồn tại
một số vấn đề, bất cập từ khâu làm thủ
tục đi XKLĐ, đến quá trình làm việc tại
nước ngoài và sau khi trở về nước -
Nhiều người lao động để được đi XKLĐ
đã phải chi thêm những khoản chi phí
không chính thức hoặc những khoản chi
phí cao hơn quy định; các vấn đề phá vỡ
hợp đồng, lao động bỏ trốn lại nước
ngoài; lao động có thu nhập thấp, bấp
bênh; lao động phải về nước trước thời
hạn do thiếu việc làm, mất việc làm v.v..
Ngoài ra, hàng năm một lực lượng không
nhỏ lao động đi làm việc ở nước ngoài
trở về Việt Nam họ đang gặp phải các
vấn đề về tái hoà nhập thị trường lao
động và xã hội. Trongkhi đó, Nhà nước
vẫn thiếu các chính sách hậu xuất khẩu
hỗ trợ những lao động này tái hòa nhập
vào thị trường việc làm trong nước. Đặc
biệt, những lao động ở khu vực nông
thôn sau khi trở về nước rất khó khăn
trong tìm kiếm việc làm vì thiếu thông
tin và trình độ tay nghề thấp.
2.5. Chuyển dịch cơ cấu lao động nông
nghiệp, nông thôn theo vùng kinh tế
Các vùng kinh tế trọng điểm11 vẫn là
các vùng phát triển chủ lực với các
11
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ gồm 8 tỉnh
thuộc ĐB sông Hồng: Hà Nội, Hà Tây, Vĩnh Phúc,
Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên,
Bắc Ninh. Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
gồm 5 tỉnh Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng
ngành công nghiệp mũi nhọn như công
nghiệp phần mềm, tin học, tự động hóa,
công nghiệp đóng tàu và các ngành công
nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh như
cơ khí chế tạo thiết bị phụ tùng ô tô xe
máy, thiết bị điện, điện tử, động cơ
điện, Với ngành dịch vụ, phát triển
toàn diện, đặc biệt phát triển các dịch vụ
chất lượng cao thuộc lĩnh vực ngân hàng,
tài chính, thương mại, du lịch, khoa học
công nghệ, viễn thông, vận tải hàng
không, vận tải hàng hải. Ngoài các thế
mạnh này vùng kinh tế trọng điểm vẫn
phát triển nông nghiệp, chuyển dịch theo
hướng sản xuất hàng hóa có năng suất và
chất lượng cao, đặc biệt chú ý đến nông
nghiệp sạch, gắn nông nghiệp với phát
triển kinh tế trang trại và hộ gia đình.
Đây là các vùng tạo nhiều việc làm phi
nông nghiệp nhất và cũng là nơi thu hút
phần lớn lao động di cư tập trung về đây,
có nơi lao động di cư chiếm tới quá bán
như khu công nghiệp Bắc Ninh
(54,85%12), Hà Nội, Hải Dương, hay
thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương,
Đồng Nai, Điều đáng bàn là sự tập
trung các khu công nghiệp như hiện nay
lại đang trở thành các thị trường nóng về
cầu lao động trong khi cung lao động (cả
lao động địa phương và lao động di cư)
đã có hiện tượng khan hiếm, đặc biệt, lao
động có trình độ cao. Khả năng một số
ngành sử dụng nhiều lao động (như dệt
may) sẽ phải di chuyển hoặc mở rộng
đầu tư đến những vùng kinh tế chưa phát
triển đang dần trở thành hiện thực nhằm
thu hút lao động địa phương, giải quyết
bài toán thiếu nhân lực, đồng thời cũng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam gồm các tỉnh Thành phố Hồ Chí
Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Long An, Thành
phố Bà Rịa-Vũng tàu, Tây Ninh, Bình Phước.
12
&id=6374&category_id=3734&portal=kcnbn
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
26
giảm gánh nặng chi phí đối với lao động
nếu phải di cư.
ĐB sông Cửu Long không chỉ là vựa
thóc của cả nước mà còn đứng đầu về diện
tích và sản lượng nuôi trồng thủy sản, về
số trang trại nói chung cũng như trang trại
nuôi trồng thủy sản13 nói riêng và các loại
cây trái giá trị. Sản phẩm của vùng được
xuất khẩu đi nhiều nước và mang về nguồn
ngoại tệ lớn cho đất nước. Thế mạnh này
được xem là lĩnh vực chủ lực trong phát
triển kết hợp với phát triển công nghiệp
(chủ yếu là công nghiệp chế biến dựa vào
vùng nguyên liệu sẵn có của vùng từ nông
nghiệp và thủy sản) và mậu dịch biên. Vấn
đề là nguồn nhân lực của vùng đang là
điểm yếu so với mặt bằng chung của cả
nước xét về trình độ văn hóa và chuyên
môn. Đây là vùng bị xem là “vùng trũng”
của ngành giáo dục Việt Nam, tiềm năng
phát triển của vùng, vì thế, bị hạn chế 14 và
còn kéo theo vấn đề giảm nghèo và thu
hẹp khoảng cách giàu nghèo khu vực nông
thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng có
đồng bào dân tộc Khmer.
Tây nguyên có thế mạnh về cây công
nghiệp và du lịch sinh thái. Bên cạnh đó
là công nghiệp sơ chế biến nông sản giúp
cải thiện chuỗi giá trị sản phẩm ngay tại
địa phương. Quỹ đất canh tác của Tây
nguyên tuy đã bị thu hẹp nhưng sức hút
lao động di cư từ các nơi đến vẫn là tỷ
suất dương nhưng mức tăng đã giảm đi
nhiều so với thời điểm TĐTDS 1989.
Tây nguyên có địa hình đồi núi và chịu
tác động của biến đổi khí hậu nên việc
canh tác nông nghiệp ở nhiều nơi gặp
khó khăn. Nhiều nơi trong vùng vẫn
chưa thấy sự hiện diện của kinh tế hàng
13
Chiếm 70,6% diện tích nuôi trồng thủy sản cả
nước và trên 66,27% về giá trị sản xuất thủy sản-
Niên giám Thống kê 2009 của TCTK.
14
hóa, nhất là các vùng sâu, vùng xa. Trình
độ sản xuất của người dân tộc thiểu số
còn lạc hậu bởi trình độ văn hóa và
CMKT thấp nên việc hội nhập thị trường
lao động cũng như chuyển dịch cơ cấu
lao động ở đây là khó khăn. Tỷ lệ nghèo
ở vùng này đang đứng vào nhóm nghèo
nhất nhì cả nước.
Vùng miền núi phía Bắc có địa hình
đồi núi xen kẽ không mấy thuận lợi cho
canh tác nông, lâm nghiệp nhưng đó lại
là nguồn thu chính của hầu hết các hộ,
đặc biệt các vùng sâu, vùng xa và vùng
có đông người dân tộc thiểu số. Tỷ lệ
nghèo của vùng đứng trong nhóm cao
nhất cả nước. Chính sách khuyến nông,
khuyến công, tín dụng, hỗ trợ người
nghèo vay vốn và đào tạo nghề cho nông
dân nông thôn đang góp phần cải thiện
phần nào đời sống người dân. Mới đây,
các nhà đầu tư đã chú ý đến khả năng
phát triển cây công nghiệp cao su trên
vùng đồi núi và đang triển khai dự án ở
một số tỉnh miền núi như Sơn La, Lai
Châu, Có thể đây là mô hình hợp tác
mới về góp vốn bằng phần đất hộ sở hữu
(tiểu điền). Qua đó người nông dân trở
thành công nhân nông nghiệp có nghĩa
vụ chăm sóc cây cao su để vừa có lương
thu nhập hàng tháng vừa có thu hoạch
thêm từ việc trồng xen canh các loại hoa
màu trên diện tích cao su đang trong thời
gian đầu tư cơ bản. Mô hình dồn điền đổi
thửa bằng góp đất làm vốn cổ phần còn
quá sớm để tổng kết nhưng nếu cao su
cho sản phẩm thì đây là cứu cánh cho
người nông dân ở các vùng này.
Ngoài nông lâm nghiệp, miền núi phía
Bắc còn có lợi thế về du lịch và mậu dịch
biên, các ngành này có phát triển nhưng
chưa xứng với tiềm năng của vùng do hạn
chế về nguồn nhân lực có trình độ, khả
năng liên kết kinh tế giữa các vùng, các
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
27
doanh nghiệp, vì vậy, chưa cao. Giữa các
nhà quản lý các vùng chưa có sự gắn kết
hợp tác để khai thác nguồn vốn xã hội
nhằm nâng cao chuỗi giá trị sản phẩm du
lịch và dịch vụ thương mại biên. Các
ngành công nghiệp khai thác mỏ, chế biến
lâm sản, phát triển thủy điện cùng các
nghề truyền thống của địa phương vẫn
tiếp tục khai thác và phát triển nhưng giá
trị sản xuất của ngành đem lại chưa nhiều
so với các vùng khác (chiếm 3.6%15 tổng
giá trị sản xuất công nghiệp cả nước năm
2009, đứng thứ năm, trên Tây nguyên).
Lao động làm trong các ngành này chiếm
tỷ lệ khiêm tốn, chủ yếu là lao động địa
phương với trình độ CMKT và văn hóa,
nhìn chung, còn thấp so với mặt bằng
chung cả nước, khả năng gia tăng chuỗi
giá trị ở một số sản phẩm (khai thác
mỏ,chế biến lâm sản), vì thế, là thách thức
đối với các nhà đầu tư.
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Mặt được
Thời gian qua, chuyển dịch cơ cấu
lao động nông nghiệp nông thôn đã đạt
được một số điểm sau:
Mặc dù có tỷ lệ sinh cao, và chiếm số
đông trong tổng dân số cả nước (chiếm
70,4% năm 2009) nhưng dân số nông
thôn trong 10 năm qua đã tăng chậm với
tốc độ 0,4%/năm. Thành tích này là do
chính sách phát triển đô thị và các chính
sách phát triển kinh tế, xây dựng các khu
công nghiệp, khu kinh tế thu hút dòng di
cư lao động nông thôn ra làm việc.
Trong gần 10 năm qua (2000-2009),
cơ cấu lao động cả nước đã có sự thay
đổi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Lao động làm trong các ngành công
15
Tính theo gia so sánh từ nguồn của TCTK, Niên
giám Thống kê 2009, tr. 365, Hà Nội, NXB Thống
kê, 2010.
nghiệp, dịch vụ khu vực nông thôn đang
gia tăng mạnh, tăng gấp 2,22 lần so với
năm 2000. Lao động nông nghiệp tuy
chưa giảm về số lượng nhưng đã giảm
được 10,85 điểm phần trăm về cơ cấu so
với năm 2000 (chiếm 68,19% tổng lao
động nông thôn vào năm 2009) .
Cơ cấu lao động nông thôn đã có sự
chuyển biến tích cực, nghiêng về các
ngành công nghiệp chế biến, xây dựng và
thương mại. Trong nội bộ ngành nông
nghiệp nông thôn, lao động cũng đang
dịch chuyển từ hoạt động thuần nông,
giản đơn, năng suất thấp sang các công
việc, ngành nghề có chuỗi giá trị kinh tế
cao hơn như phát triển kinh tế trang trại
và kinh tế hộ gia đình, hay sang các nghề
phi nông nghiệp qua việc phát triển
không ngừng các doanh nghiệp vừa và
nhỏ và mở rộng, phát triển các làng nghề
ở địa phương.
Chất lượng lao động nông thôn cũng
đã có những chuyển biến tích cực. Trình
độ CMKT và văn hóa của lao động nông
thôn thấp nhưng có hướng được cải thiện
trong gần thập kỷ qua, số có trình độ văn
hóa cao ngày càng gia tăng cùng với số
được đào tạo nghề.
Thị trường lao động ngoài nước ngày
càng phát triển và mở rộng trở thành một
kênh tạo việc làm và thu nhập quan trọng
cho lao động nông thôn, nhằm giảm bớt
áp lực việc làm trong nước và cho phép
người dân Việt Nam có cơ hội thực hành
kỹ năng và tích luỹ một số vốn nhằm tạo
sinh kế sau khi trở về Việt Nam.
2. Tồn tại
Hiện nay, sản xuất nông nghiệp nước
ta vẫn nhỏ lẻ, manh mún, tự phát. Kinh tế
hàng hóa chưa phát triển, đặc biệt, ở các
vùng sâu, vùng xa kinh tế tự cung tự cấp
vẫn là phổ biến. Ruộng đất canh tác
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
28
không đủ lớn để có thể đưa cơ giới vào
sản xuất nhằm nâng cao năng suất và
giảm thiểu thất thu khi thu hoạch. Vấn đề
dồn điền đổi thửa, tập trung, tích tụ ruộng
đất vẫn nan giải chưa tìm được lối thoát
cho người sử dụng hay nhà đầu tư trong
khi nhiều nơi đất bị bỏ hóa do không có
người làm gây lãng phí tài nguyên.
Sản xuất hàng hóa và ngành nghề
dịch vụ phi nông nghiệp phát triển khá
nhanh nhưng chưa tạo ra thị trường để
thu hút mạnh lao động nông nghiệp. Tình
trạng lao động nông thôn thiếu việc làm
vẫn phổ biến do mất đất/chuyển đổi mục
đích sử dụng và xu hướng tích tụ ruộng
đất gia tăng. Tính bền vững, ổn định và
hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và lao động nông thôn còn thấp, chưa
đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn nước ta16.
Chính sách tín dụng cho lao động
nông thôn đi làm việc ở nước ngoài đã
tạo điều kiện cho nhiều người có cơ hội
ra nước ngoài làm việc, tích lũy kinh
nghiệm làm ăn và có thu nhập cao. Tuy
nhiên, chính sách này đối với lao động
dân tộc các vùng miền núi, vùng sâu, xa
chưa thật sự có ý nghĩa bởi công tác
tuyên truyền, tiếp thị xã hội chưa thật
hiệu quả. Tâm lý không muốn xa nhà và
chịu ảnh hưởng nặng của cách làm ăn thụ
động, tự phát-trông vào may rủi hơn là
chủ động tìm cách phòng chống nên
nhiều người không muốn đi xuất khẩu,
hoặc có tham gia nhưng chưa chắc đã đi
bởi khả năng hội nhập thấp, không thích
nghi được với tác phong công nghiệp
ngay cả khi đã qua thời gian đào tạo ở
Việt Nam17.
16
PGS. TS. Nguyễn Sinh Cúc: “Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và lao động nông thôn” - tạp chí Cộng sản
17
Nhiều nơi (như vùng Tây nguyên hay miền núi
phía Bắc) chính quyền đến vận động các hộ nghèo
Xuất khẩu lao động trong thời gian
qua mới chỉ quan tâm đến số lượng, lao
động xuất khẩu chủ yếu là lao động chưa
qua đào tạo sang nước ngoài làm các
công việc giảm đơn có thu nhập thấp và
không ổn định, nên hiệu quả xuất khẩu
chưa cao. Bên cạnh đó, công tác quản lý
lao động xuất khẩu chưa được chú trọng
và còn thiếu các chính sách hậu xuất
khẩu lao động để hỗ trợ lao động xuất
khẩu hòa nhập thị tị trường lao động, xã
hội sau khi về nước.
Tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động
nông nghiệp nông thôn chậm. Đến nay,
kinh tế nông thôn về cơ bản vẫn là nông
nghiệp (68.19%). Lao động nông thôn
chưa được giải phóng khỏi ruộng đất,
đàn gia súc nên năng suất lao động, tỷ
suất hàng hóa và thu nhập của họ còn
thấp và tăng chậm. Ở vùng đồng bằng
sông Hồng, duyên hải miền Trung và
miền núi phía Bắc, cơ cấu kinh tế và lao
động chuyển dịch với tốc độ chậm hơn.
Trình độ văn hóa và CMKT của lao
động nông nghiệp nông thôn nói riêng
hay lao động nông thôn nói chung tuy có
được cải thiện nhưng so với nhu cầu phát
triển hiện nay thì chưa đáp. Nông dân
thiếu kiến thức khoa học trong khi công
tác phổ biến thông tin khoa học/chuyển
giao công nghệ sản xuất tiên tiến thiếu hệ
thống, bài bản nên hiệu quả chuyển giao
không cao, thách thức này tiếp tục đưa
họ vào thế bất lợi hơn nữa khi chúng ta
muốn gia tăng chuỗi giá trị hàng hóa
trong các ngành hàng và rút người ra
khỏi nông nghiệp.
Lao động di cư đang gặp nhiều khó
khăn trong tìm kiếm việc làm ở khu vực
cho con em đi xuất khẩu lao động nhưng kết quả là
con số rất khiêm tốn, vài người trong một xã hoặc
thậm chí không tuyển được ai.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
29
chính thức và tiếp cận đến các dịch vụ xã
hội. Theo đó, các vấn đề xã hội phát
sinh, nhiều gia đình tan vỡ, bất hòa; con
cái thiếu sự chăm sóc cha mẹ và các tệ
nạn xã hội ngày càng gia tăng ở cả nơi
đến lẫn nơi đi, Đây là những vấn đề
xã hội đáng báo động đối với các nhà
quản lý cũng như cộng đồng xã hội.
III. HÀM Ý CHÍNH SÁCH
Một số đề xuất nhằm thực hiện
chuyển dịch cơ cấu lao động nông
nghiệp, nông thôn trong sự nghiệp CNH,
HĐH ở nước ta trong bối cảnh hội nhập.
Phát triển khoa học - công
nghệ và nguồn nhân lực nông thôn,
từng bước phát triển các ngành công
nghiệp, dịch vụ ở nông thôn.
Tình trạng chuyển đổi mục đích sử
dụng đất còn tiếp tục nên tỷ lệ lao động
nông thôn thiếu việc làm sẽ vẫn cao,
chưa có khả năng giảm. Tính vững
chắc, ổn định và hiệu quả của chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông
thôn còn thấp, chưa đáp ứng được yêu
cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
nước ta. Vì vậy, Nhà nước cần có sự chỉ
đạo tập trung bằng nhiều giải pháp tích
cực và đồng bộ18 để người lao động có
được hành trang kiến thức tối thiểu khi
vào làm việc như đào tạo nghề và đưa
khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất
nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất và
rút người ra khỏi nông nghiệp nhiều hơn.
Nâng cao trình độ, kỹ năng tay nghề
cho lao động nông thôn cần chú trọng
đến (i) công tác truyền thông, giáo dục
định hướng nghề nghiệp cho người dân
nông thôn thông qua các phương tiện
truyền thông, tuyên truyền, để mọi thành
18
PGS. TS. Nguyễn Sinh Cúc: “Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và lao động nông thôn” - tạp chí Cộng sản
viên xã hội thấy được sự cần thiết và lợi
ích của việc lựa chọn con đường học tập
cho phù hợp với bản thân và xã hội; (ii)
Xây dựng các chính sách khuyến khích,
hỗ trợ thu hút lao động nông thôn học
nghề (hỗ trợ như ưu tiên giới thiệu việc
làm cho lao động nông thôn sau đào tạo
nghề, hỗ trợ lao động có nghề vay vốn
phát triển và mở rộng sản xuất kinh
doanh, ...); (iii) Đào tạo ”kỹ năng mềm”
cho lao động nông thôn. Lao động trẻ
nông thôn hiện nay không chỉ thiếu
chuyên môn mà cả kiến thức xã hội, giao
tiếp cộng đồng giúp họ có được tác
phong làm việc nghiêm túc, tuân thủ kỷ
luật lao động và có tinh thần đồng đội
khi làm việc ở bất cứ môi trường nào.
Phát triển kinh tế trang trại và phục
hồi các làng nghề truyền thống, thích ứng
với thị trường hiện đại và tạo các làng
nghề mới; tạo ra các làng chuyên về chế
biến thực phẩm, nông sản; đa dạng hoá
dịch vụ, buôn bán và cung cấp lao động
cho thị trường nông thôn mới cũng như
đô thị.
Cản trở lớn nhất trong quá trình phát
triển các hoạt động phi nông nghiệp
chính là độ rủi ro cao và thiếu thị trường
tiêu thụ sản phẩm, thiếu các chính sách
khuyến khích và hỗ trợ của Nhà nước
do đó mà có những vùng phát triển rất
năng động như các khu công nghiệp thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thì vẫn
còn nhiều vùng khá trì trệ. Các quá trình
này chưa khắc phục được trong thời gian
ngắn mà cần có biện pháp thống nhất lại
mới hy vọng có lợi cho công nghiệp hoá
nông nghiệp, nông thôn ở nước ta.
Công nghiệp hóa nông thôn là chủ
trương xây dựng nông thôn Việt nam
phát triển và thu hẹp khoảng cách khác
biệt giữa nông thôn và thành thị. Vì vậy
việc chuyển đổi cơ cấu lao động sang
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
30
những việc có năng suất và thu nhập cao
hơn, hay có việc làm đàng hoàng hơn
đồng nghĩa với việc nâng cao đời sống
cho người lao động, trong đó có lao động
nữ nông thôn đang được các nhà hoạch
định chính sách cũng như các nhà quản
lý quan tâm tới. Đặc biệt, xu thế toàn cầu
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang đòi
hỏi các ngành các cấp đổi mới và hoàn
thiện các chính sách cho phù hợp với
hoàn cảnh mới. Bởi vì, chuyển dịch cơ
cấu lao động, đặc biệt xu hướng lao động
nông nghiệp chuyển sang phi nông
nghiệp là xu hướng tất yếu và là động lực
của phát triển.
Hỗ trợ lao động nông thôn di
chuyển
Tăng cường hỗ trợ, cung cấp thông
tin cho lao động di cư được xem như một
giải pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ lao động
di cư. Ngoài ra, cần phổ biến thông tin
về các chính sách và luật pháp về lao
động cho lao động di cư. Điều này sẽ
giúp người lao động có được thông tin về
quyền và nghĩa vụ của người lao động,
giúp họ có được vị thế cần thiết khi đàm
phán về các hợp đồng lao động.
Hỗ trợ lao động nhập cư tiếp cận các
dịch vụ xã hội ở nơi đến. Trước hết, là vấn
đề hỗ trợ, đáp ứng nhu cầu nhà ở cho
người nhập cư. Cần có quy định đối với
các cơ sở tuyển dụng lao động phải bảo
đảm chỗ ở cho người nhập cư gần trụ sở
của mình và theo quy hoạch chung. Công
tác quản lý hộ khẩu cần cải tiến linh hoạt
hơn, dễ tiếp cận và không gây phiền hà
cho người dân. Trong thời gian tới, Nhà
nước cần sớm chuyển cách thức quản lý
nhân lực lao động theo hộ khẩu sang quản
lý theo thẻ công dân nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho công dân trong thực hiện
quyền được tự do cư trú, được tham gia và
hưởng thụ sự hỗ trợ của Chính phủ thông
qua các dịch vụ y tế, văn hoá- xã hội cũng
như các sinh hoạt chính trị- xã hội tại nơi
tạm trú. Tăng thẩm quyền cho chính quyền
địa phương kết hợp với đổi mới chính
quyền địa phương theo hướng tăng cường
sự tham gia của người dân, để chính quyền
có trách nhiệm với người lao động di cư
trên địa bàn của mình, tăng cường quản lý
về trật tự an ninh xã hội trong vùng có
đông người lao động di cư.
Xây dựng quy hoạch đô thị phục vụ
phát triển kinh tế có tính đến yếu tố lao
động nhập cư nhằm phát triển hệ thống
cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội cùng với
việc thông thoáng các quy định đối với
lao động nhập cư, tạo điều kiện để họ ổn
định cuộc sống.
Cuối cùng, tiếp tục tự do hóa luật đất
đai cho phép người nông dân chuyển đổi
tài sản của mình thành một loại vốn khác
như vào giáo dục và vào nền nông nghiệp
hiện có, cải thiện khả năng dịch chuyển lao
động của họ. Sự hỗ trợ hoặc cho phép mở
rộng các hệ thống tài chính vi mô và tín
dụng tương hỗ sẽ giúp nâng cao khả năng
tiếp cận tín dụng của người nông dân để họ
có thể chi trả cho việc di cư tốn kém.
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động
nông thôn
Tăng cường, khuyến khích xuất khẩu
lao động đã qua đào tạo nghề. Để làm
được điều này, một mặt, chính quyền địa
phương các cấp cần đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, định hướng và có chương
trình/chính sách hỗ trợ cho thanh niên
nông thôn học nghề, cũng như chính sách
cho lao động ở các vùng nông thôn, vùng
bị mất đất do đô thị hoá tham gia XKLĐ;
Mặt khác, Nhà nước xây dựng chính sách
khuyến khích, hỗ trợ cho các doanh nghiệp
dịch vụ XKLĐ tìm kiếm các đơn hàng
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 28/Quý III- 2011
31
chất lượng cao, đưa lao động đã qua đào
tạo đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Nhà nước xây dựng chính sách để
thống nhất quản lý hoạt động XKLĐ
đồng thời tạo điều kiện để doanh nghiệp,
người lao động phát huy tính chủ động,
tự chịu trách nhiệm trước pháp luật trong
nước, nước ngoài trong XKLĐ. Đối với
doanh nghiệp XKLĐ, nhà nước nên đầu
tư xây dựng một số doanh nghiệp XKLĐ
mạnh cả về cơ sở vật chất và đội ngũ cán
bộ để có thể cạnh tranh, tìm kiếm được
nhiều thị trường trên thị trường quốc tế;
các doanh nghiệp đưa lao động đi XKLĐ
nên có chính sách sử dụng lao động sau
khi về nước hoặc hướng dẫn, kết nối với
các doanh nghiệp liên quan nhằm tạo
thêm nhiều kênh thông tin để người lao
động trở về tìm được nghề làm thích hợp.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chỉ đạo TĐTDS&Nhà ở -TCTK
(2010), Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở 2009:
Những kết quả chủ yếu, NXB Thống kê, Hà
nội, 6/2010.
2. Ban Chỉ đạo TĐTDS&Nhà ở -TCTK và
UNDP Việt nam “Di cư và đô thị hóa ở Việt
nam: Thực trạng, xu hướng và những khác
biệt-Kết quả từ ba cuộc Tổng điều tra Dân số
&Nhà ở gần đây”, 2010.
3. Bộ LĐTB&XH (2006), Số liệu TK Việc
làm - Thất nghiệp ở VN giai đoạn 1996- 2005,
NXB LĐXH.
4. Bộ LĐTB&XH (2007), Số liệu điều tra
Lao động việc làm năm 2006.
5. Cục Việc làm (7/2009), Báo cáo chuyên
đề “Tình hình lao động mất việc làm do suy
giảm kinh tế 6 tháng đầu năm 2009 và việc
thực hiện quyết định số 30/2009/QĐ-TTg ngày
23/2/2009 cúa Thủ tướng chính phủ”.
6. Đặng Kim Sơn, Nông nghiệp, nông
thôn, nông dân trong quá trình CNH thế giới:
Liên hệ với Việt nam.
7. Đặng Kim Sơn (2010), Nông nghiệp nông
dân nông thôn Việt nam hôm nay và mai sau
8. Đặng Nguyên Anh, Di cư và Phát triển
Việt Nam: Những vấn đề nổi bật cần xem xét
về chính sách, 2009
9.
VN/61/43/2/97/97/81211/Default.aspx
10.
ws_detail&id=6374&category_id=3734&porta
l=kcnbn
11.
48100/
12. IPSARD (2009), Báo cáo Ảnh hưởng
của suy giảm kinh tế lên lao động việc làm và
đời sống người dân nông thôn.
13. Lê Phi Hùng, Phát triển kinh tế trang trại
ở Việt Nam,
14. PGS. TS. Nguyễn Sinh Cúc: “Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn” -
tạp chí Cộng sản
15. PGS.TS. Trần Đình Thiên, Về chính
sách phát triển nông nghiệp và nông thôn trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam- Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hà
Nội, 27-28/11/2008. Bài viết cho Hội nghị
khoa học hàng năm lần thứ 33 của liên hiệp
hội khoa học các nước ASEAN “Hợp tác
ASEAN và phát triển nông nghiệp, nông thôn
trong bối cảnh toàn cầu hóa"
16. TCTK (2005), Kết quả Điều tra Di cư
Việt Nam 2004
17. TCTK (2008), Kết quả Điều tra biến
động dân số năm 1999 và 2007
18. TCTK (2008), Số liệu Điều tra Lao động
Việc làm năm 2007.
19. TCTK (2009), Số liệu Điều tra Lao động
Việc làm năm 2008.
20. TCTK (2010), Niên giám Thống kê
2009.
21. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung
ương, Các yếu tố tác động đến quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn Việt
Nam, Hà Nội, 1/2006.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuyen_dich_co_cau_lao_dong_nong_nghiep_nong_thon_thoi_ky_20.pdf