Chuyển giao công nghệ trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam

Đ ặt v ấn đ ề Đến thời điểm này, quá trình hội nhập kinh tế thé giới của Việt Nam diễn ra một cách mạnh mẽ. Bên cạnh nỗi lo cạnh tranh của các doanh nghiệp, nông dân nước ta cũng đang đứng trước một thách thức không nhỏ. Nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng nông sản hàng hóa là biện pháp sống còn để hội nhập, trong đó, không thể thiếu vai trò của công nghệ. Làm thế nào để đưa sản phẩm công nghệ đến tay nông dân là một thực tế gắt gao đang đặt ra. Theo đánh giá của các nhà khoa học, trong vòng 5 năm gần đây, công nghệ đã đóng góp khoảng 30% trong giá trị tăng trưởng của nông nghiệp ở nước ta. Trên cơ sở xây dựng mối liên kết giữa các nhà khoa học và nông dân, các cơ quan nghiên cứu đã nắm bắt được những đòi hỏi của thực tế sản xuất và nhu cầu của xã hội, nên đã có những định hướng nghiên cứu phù hợp và thu được những thành tựu nổi bật. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã giao cho Bộ Khoa học – Công nghệ xây dựng chương trình chuyển giao ứng dụng KH – CN vào phục vụ nông nghiệp nông thôn ( giai đoạn 2004 – 2010 ). Mục tiêu của chương trình này là chuyển giao các mô hình đã được khẳng định như chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi; giống mới, công nghệ mới; cung cấp thông tin KH – CN cho nông dân . Thế nhưng, những công nghệ đã được áp dụng hiện nay vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu . Ở nước ta, thành quả KH – CN không ít, thậm chí có thể nói là phải “trùm mền” ở các viện, trường nhưng nông dân vẫn đói công nghệ là một nghịch lý khó chấp nhận. Tuy vậy, nghịch lý ấy vẫn đang tiếp tục diễn ra. Điều này khiến các nhà khoa học nóng ruột và đi tìm nguyên nhân. Có 5 yếu tố ảnh hưởng đến “đường đi” của công nghệ xuống đồng ruộng, đó là cơ sở hạ tầng, thị trường, hình thức khuyến nông, trình độ nắm bắt của nông dân và phương pháp khuyến nông chưa phù hợp. Trong đó, kiến thức nhà nông và phương pháp khuyến nông đóng vai trò quan trọng. Nông dân lúc nào cũng ngại tình trạng nhiều người biết, nhiều người làm; bộ máy khuyến nông thì đang bị “ hành chính hóa”, thiếu cán bộ khoa học kỹ thuật; chính quyền địa phương thì xem nhẹ công tác này, trong khi nhà khoa học không thể đủ sức để đến tận cơ sở CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM

doc23 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2460 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyển giao công nghệ trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TẬP CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Đề tài: CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM Nhóm thực hiện: Nhóm DMF_A2_CD_KII_FTU Nguyễn Bình Minh Nguyễn Hoàng Vũ Thu Phương Nguyễn Thị Thu Trang Nguyễn Phương Thảo Nguyễn Thuỳ Linh Võ Thị Bảo Ngọc Nguyễn Ngọc Mai Nguyễn Thị Thanh Tú Trần Quang Huy Hoàng Thành Đạt A.Phần mở đầu I/ Đ ặt v ấn đ ề Đến thời điểm này, quá trình hội nhập kinh tế thé giới của Việt Nam diễn ra một cách mạnh mẽ. Bên cạnh nỗi lo cạnh tranh của các doanh nghiệp, nông dân nước ta cũng đang đứng trước một thách thức không nhỏ. Nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng nông sản hàng hóa là biện pháp sống còn để hội nhập, trong đó, không thể thiếu vai trò của công nghệ. Làm thế nào để đưa sản phẩm công nghệ đến tay nông dân là một thực tế gắt gao đang đặt ra. Theo đánh giá của các nhà khoa học, trong vòng 5 năm gần đây, công nghệ đã đóng góp khoảng 30% trong giá trị tăng trưởng của nông nghiệp ở nước ta. Trên cơ sở xây dựng mối liên kết giữa các nhà khoa học và nông dân, các cơ quan nghiên cứu đã nắm bắt được những đòi hỏi của thực tế sản xuất và nhu cầu của xã hội, nên đã có những định hướng nghiên cứu phù hợp và thu được những thành tựu nổi bật. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã giao cho Bộ Khoa học – Công nghệ xây dựng chương trình chuyển giao ứng dụng KH – CN vào phục vụ nông nghiệp nông thôn ( giai đoạn 2004 – 2010 ). Mục tiêu của chương trình này là chuyển giao các mô hình đã được khẳng định như chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi; giống mới, công nghệ mới; cung cấp thông tin KH – CN cho nông dân... Thế nhưng, những công nghệ đã được áp dụng hiện nay vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu... Ở nước ta, thành quả KH – CN không ít, thậm chí có thể nói là phải “trùm mền” ở các viện, trường nhưng nông dân vẫn đói công nghệ là một nghịch lý khó chấp nhận. Tuy vậy, nghịch lý ấy vẫn đang tiếp tục diễn ra. Điều này khiến các nhà khoa học nóng ruột và đi tìm nguyên nhân. Có 5 yếu tố ảnh hưởng đến “đường đi” của công nghệ xuống đồng ruộng, đó là cơ sở hạ tầng, thị trường, hình thức khuyến nông, trình độ nắm bắt của nông dân và phương pháp khuyến nông chưa phù hợp. Trong đó, kiến thức nhà nông và phương pháp khuyến nông đóng vai trò quan trọng. Nông dân lúc nào cũng ngại tình trạng nhiều người biết, nhiều người làm; bộ máy khuyến nông thì đang bị “ hành chính hóa”, thiếu cán bộ khoa học kỹ thuật; chính quyền địa phương thì xem nhẹ công tác này, trong khi nhà khoa học không thể đủ sức để đến tận cơ sở... Chưa lúc nào, yêu cầu chuyển giao công nghệ cho nông dân lại đặt ra hết sức gay gắt như lúc này. Muốn hay không, việc hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới cũng sẽ đem lại không ít bất lợi, nếu sản xuất nông nghiệp thiếu bước chuyển mình thật sự. Nông dân hiện nay rất cần kỹ thuật cao; cần được các nhà khoa học, quản lý và nhà nước chăm sóc tốt hơn nữa. Tuy nhiên, điều này không thể nói suông, mà phải cụ thể hóa bằng chính sách. Vì thế công nghệ muốn nhanh chóng được nông dân chấp nhận và áp dụng rộng rãi thì phải thực hiện sự vượt trội cả về khía cạnh kỹ thuật lẫn hiệu quả kinh tế, nghĩa là giá thành phải hạ và chất lượng phải cao. Thế nhưng, chuyển giao bằng cách nào và làm thế nào để nông dân đón nhận công nghệ không phải là chuyện đơn giản. Khi chuyển giao cho nông dân phải có phương thức phù hợp, có mục tiêu sản xuất rõ ràng, phải phù hợp với trình độ và khả năng của nông dân. Phải chuyển giao công nghệ bằng nhiều con đường khác nhau, nhưng trên mô hình và máy móc, thiết bị cụ thể là chính. Trong tất cả các phương pháp chuyển giao KH – CN thì việc xây dựng các mô hình trình diễn có vai trò hết sức quan trọng. “Trăm nghe không bằng một thấy”. Thông qua hiệu quả các mô hình trình diễn, người nông dân sẽ dễ dàng tiếp thu và tin tưởng vào các tiến bộ KH – CN được giới thiệu Vì thế, muốn chuyển giao công nghệ thành công và bền vững phải có mạng lưới cán bộ khoa học cấp cơ sở có trình độ trung cấp trở lên tiếp nhận trước rồi hướng dẫn cụ thể cho nông dân. Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài hướng dẫn chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp, mong muốn khắc phục được phần nào thực trạng nền kinh tế Việt Nam và hợn thế là mong muốn phát triển nền nông nghiệp Việt Nam vươn tới một tầm cao mới. II/ Thực trạng nền nông nghiệp Việt Nam Nông nghiệp Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn của sự phát triển kinh tế như: qui mô sản xuất nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu, năng suất, độ đồng đều, chất lượng sản phẩm còn thấp, khả năng hợp tác lien kết của nông dân Việt Nam còn rất yếu. Dịch vụ và cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho việc phát triênt nông nghiệp nông thôn không theo kịp với đà tăng trưởng kinh tế của toàn xã hội. Việc cải cách hành chính chuyển đổi cơ cấu thể chế còn chậm, môi trường pháp lý đầu tư kinh doanh còn nhiều bất cập, thị trường đất, lao động, vốn, công nghệ chưa vận hành một cách thuận lợi. Trong khi đó trên thế giới, quá trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao đang diễn ra mạnh mẽ trên diẹn rộng ở những nước có khoa học công nghệ phát triển. Đó là sự kết hợp ứng dụng các công nghệ trộng điểm của thời đại như công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ nano để tạo ra nông sản có năng suất, chất lượng cao, giá thành hạ. Dựa vào công nghệ gen, các nước tiên tiến đã tạo ra được các giống cây trồng có năng suất cao, công nghệ chọn lọc lai tạo giốn, vật nuôi có thể rút ngắn thời gian nuôi, phát triển nhanh về số lượng nhờ công nghệ nhân bản vô tính. KHu công nghệ cao xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào năm 1939 và 40 năm sau Mỹ đã có trên một trăm khu. Ở Anh năm 1988 đã có 38 khu vường khoa học. Năm 2002, Trung Quốc đã xây dựng bốn trăm khu công nghệ cao, nhờ đó sự gia tăng giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 42%, đạt giá trị sản lượng bình quân khoảng 40 nghìn đến 50 nghìn USD/ha/năm, gấp 40- 50 lần so với mô hình sản xuất trước đó. Nhờ ứng dụng thành công và hiệu quả công nghệ tưới phục vụ cho canh tác nông nghiệp cũng như trong hệ thống nhà kính, nhà lưới mà nền công nghiệp Ixraen có năng suất và chất lượng cao. Hiệu quả mang lại từ các mô hình trên đã khẳng định các mô hình công nghệ cao và khu nông nghiệp công nghệ cao đã và đang trở thành điển hình cho nền nông nghiệp trí thức của thế kỷ XXI Nền nông nghiệp Việt Nam những năm qua đã xác lập được vị thế đáng ghi nhận trên thế giới thông qua một số loại nông sản như: hồ tiêu, cà fê, gạo, điều. Do tổ chức sản xuất nông nghiệp được đổi mới và khoa học công nghệ được tăng cường, chỉ trong 10 năm (1989-1998), sản xuất nông, lâm nghiệp của Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 4,3%/năm, sản lượng lương thực bình quân đạt 23,08 triệu tấn/ năm( mồi năm tăng bình quân hơn một triệu tấn, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng dân số). Khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam lien tục tăng, đưa nước ta trở thành nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo. Rau quả, cà fê, cao su, chè, điều, hồ tiêu cũng đều tăng về sản lượng, khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay sản xuất nông nghiệp công nghệ cao ở nước ta đang được triển khai ở nhiều địa phương theo các mẫu cải tiến nhà kính,nhà lưới của nước ngoài như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bà Rịa-Vũng Tàu, Đà Lạt. Ở Đông Nai, sự mạnh dạn đầu tư ứng dụng các giống cây trồng mới, năng suất cao và kỹ thuật chăm sóc tiến bộ vào sản xuất của nông dân đã khiến cho giá trị sản xuất nông lâm sản luôn giữ ở mức tăng trưởng khá. Cụ thể, năng suất các loại cây trồng đều tăng( năng suất lúa tăng 3,28%, bắp tăng 3,7%, mì tăng 3%, đậu tăng 7,6%...) Tuy nhiên theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, những mô hình nông nghiệp công nghệ cao ở trong nước chỉ mới xuất hiện, quy mô sản xuất cong nhỏ, công nghệ thiếu đồng bộ nên hiệu quả chưa cao. Trong thời gian qua, một số nông sản của Việt nam đã phải đối mặt với cạnh tranh của các sản phẩm nước ngoài và kết quả cho thấy sự hạn chế về năng lực cạnh tranh của các sản phẩm. Chẳng hạn, trong khi những sản phẩm nông nghiệp như gạo, rau quả có thể trụ vững trên thị trường “ bình dân”, thì gạo thơm hoa nhài Thái Lan lại chiếm lĩnh được hầu hết thị trường cấp cao trong nước. Trái cây Thái Lan ở phía nam và trái cây Trung Quốc ở phía bắc đang chia sẻ thị phần một cách có hiệu quả với trái cây Việt Nam ngay trên thị trường thành thị và một phần thị trường ở nông thôn. Dù có tiềm năng, song mía đường không cạnh tranh được với đường nhập ngoại, dẫn tới tình trạng một số nhà máy đường phải giải thể hoặc phá sản. Một số sản phẩm khác như bông, đậu tương, ngô có năng suất quá thấp, giá thành cao sẽ khó có thể cạnh tranh được với bông từ Trung Á hay Ai Cập và đậu tương và ngô từ Mỹ. Có một thực tế đang tồn tại là trình độ sản xuất của bà con nông dân còn ở mức độ thấp, bộc lộ nhất là giống cây trồng, vật nuôi vẫn chưa kiểm dịch đầy đủ và cũng chưa kiểm soát nguồn gốc, chưa kiểm soát tốt phân hoá học, phân bón, công tác bảo quản sau thu hoạch, bao bì, nhãn hiệu hàng hoá thương hiệu vẫn chưa đáp ứng theo chuẩn mực yêu cầu của quốc tế trong qua trình hội nhập, quy mô sản xuất bình quân diện tích đất trên một nông hộ còn rất thấp khoản 0,7-1 ha/hộ, vì vậy muốn sản xuất với quy mô lớn, chất lượng đồng đều là rất khó. Đi đôi với những bất lợi đó là việc giá thành sản xuất vẫn còn cao, chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm chưa được quan tâm đầy đủ khi đưa sản phẩm ra thị trường Đó là chưa kể một số vấn đề phát sinh, sẽ ảnh hưởng đến nông nghiệp nước ta trong thời gian tới: đất nông nghiệp và đất canh tác bình quân đầu người giảm do tăng dân số, đất đai bị xói mòn, thoái hoá do nạn phá rừng gây ra. Một số cây giống đang có dấu hiệu sớm thoái hoá đòi hỏi phải có những giống mới mạnh hơn, tốt hơn thay thế. Môi trường sinh thái cũng đang bị ô nhiễm nghiêm trọng ở một số địa phương do chất thải công nghiệp, do sử dụng bừa bãi phân hoá học, hoá chất trừ sâu, diệt cỏ, gây ô nhiễm đất canh tác, nguồn nước mặt, nước ngầm và để dư lượng chất độc hại trong nông sản thực phẩm… Đây la môt vấn đề rất đáng lo ngại cho nền nông nghiệp của ta. I/ Chuyển giao công nghệ trong trồng trọt * Trồng l úa 1/Thực trạng về trồng lúa ở Việt Nam Cây lúa là cây lương thực chiếm vị trí quan trọng cho các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam. Cho đến nay, hiện trạng sản xuất lúa gạo của nước ta đã đổi thay rất nhiều. Mặc lúa vẫn là cây trồng chủ yếu, có vị trí hết sức quan trọng bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đóng góp khá lớn vào kim ngạch xuất khẩu nông sản (chiếm khoảng 25%) nhưng diện tích trồng lúa lại đang thu hẹp dần. Tính riêng về diện tích trồng lúa so với tổng diện tích gieo trồng chung cả nước năm 1991 chiếm tới 70%, đến năm 2001 còn 60%. Tuy nhiên, nhờ các tiến bộ khoa học được áp dụng, khả năng thâm canh của nông dân được nâng cao, cho nên năng suất, sản lượng lúa vẫn tăng. Tuy nhiên, trong năm năm gần đây, mỗi năm sản lượng lúa vẫn tăng trung bình 700 nghìn tấn. Công cuộc chuyển dịch cơ cấu, trong đó việc quan trọng là giảm diện tích lúa chuyển sang các cây trồng khác cho lợi nhuận cao đang làm bức tranh nông nghiệp nước ta đổi thay từng ngày. Có thể nhận định công cuộc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đi từ chiều rộng đến chiều sâu. Giá trị trên một ha đất canh tác tăng từ 17 triệu đồng/ha lên 24 triệu đồng/ha, bình quân cả nước sau năm năm (2000-2005). Riêng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long đạt gần 40 triệu đồng/ha. Các sản phẩm nông nghiệp phong phú, đa dạng, thể hiện sự phát triển toàn diện của ngành nông nghiệp. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông - lâm sản năm 2005 đạt 5,8 tỷ USD, tăng 29% so với năm trước, gấp hai lần kim ngạch năm 2001. Trong số các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta, gạo vẫn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu. Khi thị trường xuất khẩu nông-lâm sản mở rộng sang hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ thì hạt gạo Việt Nam cũng đã có mặt hơn 40 nước. Hạt gạo Việt Nam cũng đã góp phần đưa vị thế nước ta ngày càng cao trên thế giới.Tính đến 15-01-2008, cả nước đã gieo cấy được 1894,1 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 101,5% cùng kỳ năm trước. Các địa phương phía Bắc gieo cấy 108,6 nghìn ha, bằng 102%, trong đó vùng đồng bằng sông Hồng mới đạt 60% cùng kỳ năm trước; vùng Bắc Trung Bộ 90,4 nghìn ha, bằng 101,2%. Hiện nay, thời tiết đang rét và khô hạn, mực nước các sông xuống thấp, khả năng nhiều diện tích lúa sẽ bị thiếu nước, ngành thủy lợi và các địa phương cần chủ động khai thác và sử dụng mọi nguồn nước để đảm bảo cung cấp đủ cho sản xuất. Các địa phương phía Nam gieo sạ 1785,5 nghìn ha, bằng 101,5%, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 1485,2 nghìn ha, bằng 99,5%; lúa đã gieo cấy hiện đang phát triển tốt, tuy nhiên thời tiết se lạnh và sương mù là điều kiện thuận lợi cho sâu bệnh phát triển, vì vậy các địa phương cần tích cực chủ động phòng chống để hạn chế thiệt hại. Có đựơc những kết quả trên, ko chỉ nhờ những kinh nghiệm của bà con nông dân trong viêc trồng lúa lâu năm, mà còn nhờ việc chúng ta đã biết áp dụng những công nghệ, khoa hoc kĩ thuật vào sản xuât, điều đó g úp cho năng suât đã tăng lên rõ rệt và chất lượng cũng tốt h ơn. 2/ một số ứng dụng công nghệ điển hình a/ Công nghệ sinh học trong phòng trừ sâu bệnh hại lúa Hiện nay tình hình sâu bệnh hại lúa hằng năm diễn biến thất thường. Đặc biệt trong năm 2003 dịch rầy nâu, bệnh cháy lá ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất cả nước và các tỉnh, thành nói riêng. Để hạn chế tình trạng này các Viện nghiên cứu đã sáng chế ra những công nghệ sinh học mang lại hiệu quả cao mà nổi bật la công nghệ chuyển đổi gen ở lúa Trước đây, để tạo một giống mớI các nhà tạo giống thường sử dụng phương pháp truyền thống để tổ hợp lại các gien giữa hai cá thể lúa tạo ra con lai mang những tính trạng mong muốn. Tuy nhiên, phép lai chéo này bị hạn chế bởi nó chỉ có thể thực hiện được giữa các cá thể cùng loài ( lai gần), lai giữa các cá thể khác loài (lai xa) thường bất thụ do đó không thể tạo ra con lai được. Tuy nhiên, lai gần cũng phải mất nhiều thời gian mới thu được những kết quả mong muốn và thông thường những tính trạng quan tâm lại không tồn tại trong những loài có họ hàng gần nhau. Ngày nay, công nghệ chuyển gien cho phép nhà tạo giống cùng lúc đưa vào một loài lúa những gien mong muốn có nguồn gốc từ những cơ thể sống khác nhau, không chỉ ở những loài có họ gần nhau mà còn ở những loài rất xa nhau. Phương pháp hữu hiệu này cho phép các nhà tạo giống lúa thu được giống mới nhanh hơn và vượt qua những kỹ thuật tạo giống truyền thống. Nhìn chung việc ứng dụng cây lúa chuyển gien có những lợi ích rõ rệt sau: cây lúa chuyển gien có khả năng kháng các vi khuẩn gây bệnh, kháng côn trùng phá hoại, chống chịu chất diệt cỏ, sản suất Vitamin A từ đó - Tăng sản lượng - Giảm chi phí sản xuất - Tăng lợi nhuận nông nghiệp - Cải thiên môi trường Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm có những nguy c ơ tiềm ẩn trong việc phát triển k ĩ thuật mới.Bao g ồm: - Mối nguy hiểm trong việc vô tình đưa những chất gây dị ứng hoặc làm giảm chất dinh dưỡng vào lúa - Sâu bệnh có nguy cơ tăng cường tính kháng với các chất độc tiết ra từ cây chuyển gen - Nguy cơ những chất độc này tác động đến các sinh vật không phải là loại sinh vật cần diệt, vì thế có thể làm mất cân bằng sinh thái Các bước cơ bản của chuyển gen - Xác định gien liên quan đến tính trạng cần quan tâm - Phân lập gen (PCR hoặc sàn lọc từ thư viện cDNA hoặc từ thư viện genomic DNA) - Gắn gien vào vecto biểu hiện (expression vector) để biến nạp - Biến nạp vào E.coli. - Tách chiết DNA plasmid - Biến nạp vào mô hoặc tế bào cây lúa bằng một trong những phương pháp khác nhau đã kể ở trên - Chọn lọc các cá thể biến nạp trên môi trường chọn lọc - Tái sinh cây biến nạp - Phân tích để xác nhận các cá thể chuyển gien (PCR hoặc Southern blot) và đánh giá mức độ biểu hiện của chúng (Northern blot, Western blot, ELISA hoặc các thử nghiệm IN VIVO khác) b/ Công nghệ lai tạo gíông lúa Cây lúa (Oryza sativa L.) là cây lương thực lâu đời nhất, phổ biến nhất. Trên thế giới, về mặt diện tích gieo trồng, lúa đứng thứ hai sau lúa mì; về tổng sản lượng, lúa đứng thứ ba sau lúa mì và ngô. Lúa được trồng ở 112 nước, là lương thực của hơn 54% dân số thế giới. Ở một số nước như Ấn Độ, Trung Quốc, Inđônêsia, Nhật Bản, Việt Nam....lúa là cây lương thực chính [2]. Về giá trị kinh tế, lúa gạo là mặt hàng xuất khẩu của một số nước, do lúa gạo là cây lương thực có giá trị dinh dưỡng cao [5]. Những năm gần đây, sản xuất lúa gạo ở nước ta đã có những bước phát triển đáng kể và đang hướng tới nền sản xuất hàng hóa. Mặt khác do đời sống của người dân không ngừng được cải thiện, nên từ nhu cầu đủ no đã và đang tiến tới nhu cầu ăn ngon. Vì vậy, nhu cầu về gạo đặc sản có chất lượng cao cũng không ngừng tăng nhanh. Đột biến thực nghiệm là một trong những phương pháp mang lại hiệu quả trong việc cải tiến các giống cũ và tạo ra những giống cây trồng mới. Tuy nhiên cũng cần thiết phải xác định, so sánh các chỉ tiêu sinh trưởng và phẩm chất hạt gạo của các giống và dòng lúa đột biến với con lai của chúng. Về phương diện sản xuất, từ những nghiên cứu trên có thể phát hiện ra các tổ hợp lai thích hợp giữa các giống và dòng lúa đột biến nghiên cứu để góp phần làm cơ sở chọn tạo ra các giống lúa vừa có năng suất cao, ổn định, vừa có phẩm chất gạo ngon Lúa lai được gieo trồng ở Việt Nam từ năm 1991. Hiện nay, diện tích lúa lai là hơn 600.000 ha hằng năm với năng suất trung bình từ 6-6,3 tấn/ha, cao hơn lúa thuần từ 15-20%. Việc sử dụng lúa lai đã góp phần nâng cao năng suất, sản lượng lúa và tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho nông dân thông qua việc sản xuất hạt lai. C ác vi ện Nghien c ứu đ ã lai t ạo ra nh ững gi ống l úa m ớI cho n ăng su ất cao, ph ẩm ch ất t ốt, khang ch ịu đ ư ợc s âu b ệnh, th ích nghi v ớI đi ều ki ện kh í h ậu Vi ệt Nam nh ư: OM 4498, OM 5930, OM 2008, OM5239…………. Nhờ công nghệ hiện đại trong lai tạo chúng ta đã cho ra một số giống lúa mới với năng suất và phẩm chất cao Giống lúa mới: OM 4498 1. Đặc điểm ·    Giống lúa OM 4498 được phát triển từ tổ hợp lai IR64/OMCS2000//IR64, quần thể BC2F2 được sử dụng để thực hiện bản đồ di truyền gen chống chịu mặn với sự có mặt của marker RM223 định vị trên nhiễm sắc thể số 8. Ứng dụng marker phân tử trong chọn tạo giống lúa đã được Viện lúa ĐBSCL thực hiện để chọn ra dòng OM 4498. Giống OM 4498 đã được Bộ Nông nghiệp & PTNT công nhận tạm thời vào năm 2005. ·    Thời gian sinh trưởng: 95-100 ngày. Chiều cao: 100-105cm. Thân rạ cứng. Khả năng đẻ nhánh khá. Trọng lượng 1000 hạt 25,8g. Chiều dài bông 26cm. Phản ứng với rầy nâu cấp 5 và đạo ôn cấp 3. Có khả năng chống chịu với bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá. Chỉ số thu hoạch HI = 0,58. năng suất đạt trung bình 5-7 tấn/ha. Năng suất cao nhất: 8 t/ha. ·    Khả năng sống sót ở giai đoạn mạ trong điều kiện bị stress do mặn ở EC=12dS/m là 28 ngày. Khả năng chống chịu độ độc nhôm được đánh giá bằng chỉ số RRL là 0,85. Như vậy đây là giống có khả năng thích nghi cho vùng khó khăn như phèn mặn. ·    Giống lúa OM 4498 có lượng phytate thấp trong hạt gạo, giúp cho việc hấp thu sắt trong dinh dưỡng hàng ngày của người dân tốt hơn. ·    Dạng hình cây lúa được đánh giá tốt trong nhiều lần thăm dò ý kiến của nông dân và cán bộ khuyến nông qua 6 vụ khảo nghiệm (2004-2006). 2. Phẩm chất ·    Dài hạt gạo: 7,3mm. Tỉ lệ D/R: 3,1. Tỉ lệ gạo nguyên: 52,4% ·    Hàm lượng amylsoe: 24,3%. Độ trở hồ cấp 3. Độ bền thể gel: 43,3mm Giống lúa sản xuất thử * OM 5930 1. Đặc điểm          Giống lúa OM 5930 do Viện lúa ĐBSCL tạo chọn, có nguồn gốc từ biến dị tế bào soma từ giống OM 3536-12, thông qua phân tích và đánh giá dòng triển vọng được chọn bằng marker sau đó được khảo nghiệm chính quy.         Thời gian sinh trưởng: 95-100 ngày. Chiều cao cây: 105-110cm. Thân rạ cứng. Khả năng đẻ nhánh khá. Trọng lượng 1000 hạt: 25,8g.        Phản ứng với rầy nâu, đạo ôn cấp 3 và bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá cấp1.        Chỉ số thu hoạch HI = 0,59. Năng suất trung bình là 6,8 tấn/ha trong vụ Đông Xuân và 4,5 tấn/ha trong vụ Hè Thu. Năng suất cao nhất đạt 7,5 tấn /ha. Thích hợp phát triển ở vùng thâm canh và cả vùng khó khăn như: Kiên Giang, Trà Vinh, Cần Thơ, Hậu Giang, Bến Tre. Thích nghi trồng trong cả hai vụ Đông Xuân và Hè Thu.  2. Phẩm chất          Tỉ lệ gạo nguyên: 49,53%. Chiều dài hạt gạo: 7,22mm.          Hàm lượng amylose: 24,78%, cơm mềm và dẻo. Độ trở hồ: cấp 5. Độ bền thể gel 45,67mm. * OM 2008  1. Đặc điểm          Giống lúa OM 2008 là giống lúa nếp, được lai tạo và chọn lọc tại Viện lúa ĐBSCL từ tổ hợp lai Nếp hoa vàng/NN6A và được phóng thích năm 2000.          Thời gian sinh trưởng: 95-100 ngày. Dạng cây thấp. Hơi yếu rạ. Khả năng đẻ nhánh khá. Trọng lượng 1000 hạt: 26,3g.          Phản ứng với rầy nâu, đạo ôn cấp và bạc lá cấp 5 .          Năng suất trung bình là 5-6 tấn/ha trong vụ Đông Xuân và 4-5 tấn/ha trong vụ Hè Thu. Giống OM 2008 có tính thích nghi rộng nên đựoc nông dân các tỉnh ĐBSCL chấp nhận đưa vào sản xuất trên diện tích đại trà.  2. Phẩm chất          Tỉ lệ gạo nguyên: 48,8% (vụ Hè Thu) và 51,7% (vụ Đông Xuân). Chiều dài hạt gạo: 6,8mm. Chiều dài/rộng 3,1          Hàm lượng amylose: 9-9,5%. Độ đục: 1000%, cơm dẻo. Độ trở hồ: cấp 6. Độ bền thể gel: 100mm. c/Cơ giới hoá sản xuất lúa Trước đây, trong quá trình cày cấy, thu hoạch bà con n ông dân phảI dùng các công cụ thô sơ.Thì nay v ớI tr ình độ khoa học ki thuật tiên tiến, công nghệ hiện đạI máy móc đã đư ợc đưa vào sản xuất bao gồm: - Máy trục bùn tự hành - Công cụ gieo lúa theo hàng - Máy gieo lúa theo hàng liên kết vớI máy kéo 4 bánh GLH 2800 - Máy bóc bẹ tách hạt bắp BBTH-1,5 - M áy gặt đập liên hợp - Máy sấy lúa dùng sấy lúa cho các hộ nông hộ máy cấy lúa MC8-20 3/ Giải pháp phát triển công nghệ trong sản xuất lúa Để góp phần tăng năng suất, sản lượng, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất lúa.Ngoài việc hướng dẫn, chỉ đạo nông dân thực hiện tốt hệ thống các biện pháp canh tác, Cần tiếp tục thực hiện dồn điền đổi thửa để tập trung ruộng đất, hình thành vùng sản xuất chuyên canh, tập trung, thuận lợi cho việc áp dụng công nghệ, cơ giới trong sản xuất nông nghiệp, thực hiện tốt công tác nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật; tăng cường quản lý nhà nước về sản xuất lúa. Trước hết cần ứng dụng có hiệu quả công nghệ cây, con lai; đây là hướng quan trọng để tạo ra bước đột phá về năng suất, chất lượng. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ trước, trong và sau sản xuất theo hướng đồng bộ, khép kín, giảm đầu tư chi phí, nâng cao hiệu quả của sản xuất. Gắn chặt hơn nữa sản xuất với thị trường. Xây dựng một số mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất lúa. Nghiên cứu quy trình quản lý, khai thác có hiệu quả tài nguyên nước, đất và hệ thống các công trình giúp trong việc trồng trọt lúa Tất cả các hướng nghiên cứu, ứng dụng trên phải gắn chặt với xây dựng các mô hình trình diễn, các ruộng thí nghiệm và mở các lớp tập huấn, khuyến nông để hướng dẫn, chuyển giao tiến bộ kĩ thuật cho nông dân; gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng. * Trồng cây ăn quả 1/Thực trạng về cây ăn quả hiện nay ở Việt Nam: Tính đến nay, diện tích trồng cây ăn quả (CAQ) ở cả nước đã lên tới 755 ngàn ha, trong đó ĐBSCL hiện có 325 ngàn, tăng hơn gần 100 ngàn so với năm 2000. Năm 2004, diện tích cây ăn quả đạt trên 550 ngàn ha. Trong đó, Đồng Bằng sông Cửu long (ĐBSCL) là vùng cây ăn quả quan trọng nhất của Việt Nam chiếm trên 30% diện tích cây ăn quả của cả nước. Dưới đây là 1 sơ đồ thể hiện sự phát triển diện tích cây ăn quả ở nước ta từ năm 1999-2005:  Sở dĩ diện tích đất trồng cây ăn quả tăng nhiều như vậy là vì nay người trồng đã chú trọng hơn đến hiệu quả kinh tế ben cạnh những tác dụng của CAQ là làm cây bóng mát, cây chắn gió như trước đây. Ðơn cử như cây bơ, từ khi được chọn để phát triển thành cây hàng hóa thì nhiều người đã bắt đầu tìm chọn giống bơ tốt để trồng với quy mô lớn. Nhờ có nhu cầu ngày càng tăng này nên diện tích cây ăn quả trong thời gian qua tăng mạnh. Trong các loại cây ăn quả, một số cây nhiệt đới đặc trưng như vải, nhãn, và chôm chôm tăng diện tích lớn nhất vì ngoài thị trường trong nước còn xuất khẩu tươi và khô sang Trung Quốc. Năm 1993, diện tích của các loại cây này chưa thể hiện trong số liệu thống kê. Từ năm 1994, diện tích trồng 3 loại cây này tăng gấp 4 lần, với mức tăng trường bình quân 37%/năm, chiếm 26% diện tích cây ăn quả cả nước. Diện tích cây có múi và xoài cũng tăng mạnh bình quân 18% và 11%/năm. Chuối tuy là cây trồng quan trọng chiếm 19% diện tích cây ăn quả cả nước nhưng chưa trở thành sản phẩm hàng hoá qui mô lớn. Diện tích dứa giảm trong thập niên 1990, nhất là từ khi Việt Nam mất thị trường xuất khẩu Liên Xô và Đông Âu.  Tiền Giang là tỉnh phát triển diện tích trồng CAQ nhanh nhất và rộng nhất nước ta: năm 1990 có 24.500 ha, thì đến 2006 có gần 67.000 ha. Một cơ cấu giống CAQ hợp với từng loại đất đã được người làm vườn thực hiện và luôn hoàn thiện. Chủng loại CAQ ở mỗi vùng không chỉ phụ thuộc vào vùng đất ngọt, vùng đệm, lợ, mặn, phèn, mà còn phụ thuộc vào ý người trồng cây muốn có lời cao hơn. Số loài CAQ vùng ngọt nhiều nhất: 15 loài chính chiếm trên 50% diện tích CAQ của cả tỉnh, trong đó có sầu riêng, vú sữa, xoài, cam, quýt, nhãn, sapô, ổi, chôm chôm, bưởi. Vùng đệm và vùng mặn có 12 loài, vùng mặn có 10 loài và vùng phèn chỉ có 6. Phần lớn các loài CAQ ở vùng ngọt cho năng suất cao nhất, như cam đạt 12-13 tấn , thì ở vùng đệm còn 5 tấn, vùng mặn còn 1 tấn, tất nhiên có thể tăng đầu tư để đạt cao hơn, nhưng lời ít hoặc lỗ vốn. Dừa tập trung ở vùng lợ, có trên 5.000 ha, chiếm 70% diện tích dừa cả tỉnh, và có năng suất (8-9 tấn/ha) vượt trội so với các vùng khác; vùng ngọt đứng thứ nhì cũng chỉ đạt 7,5 t. Sản xuất dứa (khóm, thơm) hàng hóa tập trung tới 100% diện tích (#5.000 ha) ở vùng phèn. Vùng phèn thường giàu mùn giàu đạm này còn làm cho chuối đạt năng suất cao nhất tỉnh, khoảng 13 – 14 t/ha, trong khi vùng ngọt chưa đầy 10 tấn. Mỗi địa phương, mỗi vùng lại có tính đặc thù trong sản xuất CAQ về giống cũng như về tập quán và về điều kiện tự nhiên. Đến nay, chưa thấy giống CAQ nhập nào vượt trội hơn giống bản địa về chất lượng ngon lành. Tuy nhiên, ta kém về lợi thế cạnh tranh hàng hóa, như độ an toàn thực phẩm, không đáp ứng kịp thời thị trường về số lượng, chất lượng cao và độ đồng đều, cũng như bao bì đóng gói, thời gian giao hàng theo hợp đồng, và giá bán lại cao do giá thành cao. Các nhà khoa học cùng địa phương hàng thập kỷ đến nay kiên trì đề xuất và chỉ đao thực hiện nhiều giải pháp nhằm khắc phục tình trạng vùng sản xuất trái cây hàng hóa chưa đủ rộng, tổ chức hợp tác sản xuất kinh doanh yếu, thiếu giống tốt, áp dụng kỹ thuật tùy tiện, yếu kém trong khâu chế biến, bảo quản, chưa đạt nhiều tiêu chuẩn hàng hóa trên “sân chơi” WTO.. Hiệu quả chỉ đạo hầu như chỉ thể hiện trong quá trình tăng diện tích sản xuất như trên, chưa tăng được lợi thế cạnh tranh về chất lượng, giá thành. Giải pháp phù hợp nhằm tăng thu, giảm rủi ro cho nông dân là cách để người nông dân ham áp dụng giống và kỹ thuật mới hơn. Giống CAQ vẫn được xếp hàng đầu trong quy trình sản xuất trái cây. Khác với sản xuất lúa hàng vụ có thể đổi giống, với trái cây là hàng chục năm. Khác với rau hiện ta đang sản xuất chủ yếu bằng giống nhập nội, vì hiện còn rất ít giống bản địa, như sả, giềng..; còn đối với CAQ thì phần nhiều dùng giống bản địa đặc sản, có giống có chất lượng và mẫu mã mầu sắc vỏ quả bắt mắt vượt trội không những không thua kém giống nhập nội, như cam, xoài, bưởi, sầu riêng, mà còn có giống vượt trội hơn. Để phát huy CAQ đặc sản bản địa, cần xác định và mở rộng diện tích ra vùng có điều kiện đất và sinh thái khí hậu thích hợp, như ta đã làm rất thành công với vải thiều trước kia chỉ có ở Hưng Yên Thời gian tạo chọn giống CAQ mới cần 10 – 15 năm, nhưng sau đó năm nào ta cũng có thể giới thiệu vào sản xuất giống mới. Tuyển chọn cây mẹ làm đầu dòng triết ghép nhân ra cũng là cách như ta đã làm có kết quả tốt. Quản lý cây giống vẫn là vấn đề bức xúc, vì giống kém chất lượng và không đúng giống vẫn còn trôi nổi trên thị trường. Nhìn chung sản xuất cây ăn quả mới nhắm vào phục vụ thị trường trong nước, một thị trường dễ tính, đang tăng nhanh nhưng sẽ bị cạnh tranh mạnh trong tương lai. Triển vọng của ngành sản xuất này là rất lớn với điều kiện đầu tư thích đáng và đồng bộ từ nghiên cứu, tổ chức sản xuất giống, chế biến, đóng gói, vận chuyển, tiêu chuẩn cất lượng, nhãn hiệu, tiếp thị,... những lĩnh vực Việt Nam còn rất yếu kém. Hiện nay, xu hướng phát triển sản xuất hàng hoá ngày càng tăng. Tuy nhiên mức độ thương mại hoá khác nhau giữa các vùng. ĐBSCL là vùng có tỷ suất hàng hoá quả cao nhất với gần 70% sản lượng được bán ra trên thị trường. Tiếp theo là Đông nam Bộ và Nam Trung Bộ với tương ứng là 60% và 58%. Các vùng còn lại tỷ suất hàng hoá đạt từ 30-40%. Mức độ thương mại hoá cao ở Miền Nam cho thấy xu hướng tập trung chuyên canh với quy mô lớn hơn so với các vùng khác trong cả nước. Sản xuất nhỏ lẻ, vườn tạp vẫn còn tồn tại nhiều, đây chính là hạn chế của quá trình thương mại hoá, phát triển vùng chuyên canh có chất lượng cao.  2/ Ứng dụng công nghệ trong trồng cây ăn quả Trong hơn hai thập kỷ qua, công nghệ sinh học đã có những bước tiến nhảy vọt góp phần mang lại những thành tựu to lớn cho loài người. Nhờ công nghệ sinh học hiện đại, các sinh vật biến đổi gen và sản phẩm của chúng được tạo ra với những đặc tính ưu việt đã từng bước khẳng định vị trí trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm và y tế. Công nghệ sinh học (CNSH) có 3 cấp độ khác nhau: CNSH truyền thống như các hoạt động chế biến thực phẩm (rượu, giấm , sữa chua, dưa chua, cà muối, pho-mát, tương, nước mắm, men bánh mì...), ủ phân, phơi ải đất, diệt khuẩn và ức chế vi sinh vật có hại... CNSH cận đại với việc sản xuất ở quy mô công nghiệp các sản phẩm của công nghệ lên men, công nghệ vi sinh vật (cồn, bia, dung môi hữu cơ, bột ngọt và các acid amin khác, acid citric và các acid hữu cơ khác, chất kháng sinh, nhiều vitamin, các loạin vaccin, kháng độc tố, các kit chẩn đoán bệnh truyền nhiễm, thuốc trừ sâu sinh học, phân bón sinh học...). CNSH  hiện đai chỉ mới xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây. CNSH  hiện đại sử dụng các kỹ thuật trao đổi, sửa chữa, tổ hợp hoặc cải tạo vật chất di truyền ở mức độ phân tử để tạo ra những  loại vi sinh vật mới hoặc bắt các sinh vật này tạo ra các protein hay các sản phẩm khác mà vốn dĩ chúng ta không tạo ra được. Ứng dụng công nghệ sinh học vào trồng trọt, chúng ta có một số biện pháp như sau: a/ Cây chuyển gen: Theo các nhà khoa học, cây chuyển gen có ích lợi tiềm tàng đối với môi trường. Chúng giúp bảo tồn các nguồn lợi tự nhiên, sinh cảnh và động, thực vật bản địa; góp phần giảm sói mòn đất, cải thiện chất lượng nước, cải thiện rừng và nơi ngụ cư của động vật hoang dại. Thực vật với khả năng tự bảo vệ chống lại côn trùng và cỏ dại có thể giúp giảm liều lượng và nồng độ các thuốc trừ sâu sử dụng. Ở các quốc gia thường xuyên không đủ lương thực để phân phối và giá lương thực ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập của đại bộ phận dân chúng thì lợi ích tiềm tàng của cây chuyển gen là không thể phủ nhận. Các loại cây biến đổi gen được trồng phổ biến nhất hiện nay là ngô, đậu tương, cà chua, cải dầu, bông... Nhưng điều quan tâm hơn cả đối với cộng đồng là sản phẩm chế biến từ cây biến đổi gen có ảnh hưởng đến sức khỏe con người hay không ? Qua nhiều năm nghiên cứu, các nhà khoa học vẫn chưa đi đến kết luận cuối cùng nên pháp luật mỗi nước có những quy định riêng về vấn đề này. Nhưng họ cũng thống nhất rằng, thực phẩm xuất xứ từ cây chuyển gen phải được ghi rõ cụ thể để người tiêu dùng được quyền lựa chọn. Ngày nay, các nhà khoa học đang hướng tới tạo những cây chuyển gen thế hệ thứ hai có đặc điểm tăng giá trị dinh dưỡng hoặc có những tính trạng thích hợp cho công nghiệp chế biến. Lợi ích của những cây trồng này hướng trực tiếp hơn vào người tiêu dùng. Ví dụ: lúa gạo giàu vitamin A và sắt; khoai tây tăng hàm lượng tinh bột; vắc-xin ăn được ở ngô và khoai tây; những giống ngô có thể trồng trong điều kiện nghèo dinh dưỡng; dầu ăn có lợi cho sức khỏe hơn từ đậu nành và cải dầu... Không phát triển rầm rộ, các nghiên cứu về cây trồng biến đổi gen đã và đang được thực hiện tại một số cơ sở chuyên nghiên cứu về công nghệ sinh học (CNSH) ở nước ta. Các nhà khoa học đã bước đầu thành công trong việc chuyển gen kháng sâu bệnh, pro- vitamin A... vào cây lúa, bắp cải, ngô, đu đủ, cây hoa. Tuy nhiên, những thành công này chỉ dừng lại ở mức độ phòng thí nghiệm. Nhưng các chuyên gia khẳng định, thị trường thực phẩm của Việt Nam đã xuất hiện các cây trồng và sản phẩm biến đổi gen cây chuyển gen đem lại rất nhiều lợi ích như: tăng sản lượng, cung cấp nhiều hơn thực phẩm cho dân số ngày càng tăng; giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận nông nghiệp; tăng giá trị dinh dưỡng hoặc tính thích hợp cho công nghiệp chế biến thực phẩm; tạo ra các sản phẩm có lợi cho sức khỏe. b/ số biện pháp bảo vệ và chăm s óc cây trồng: * Thuốc bảo vệ thực vật: Thuốc bảo vệ thực vật là các loại hoá chất do con người sản xuất ra để trừ sâu bệnh và cỏ dại có hại cho cây trồng. Thuốc bảo vệ thực vật được phân thành hai loại chính là thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ. Các loại thuốc này có ưu điểm là diệt sâu bệnh, cỏ dại nhanh, sử dùng lại đơn giản, nên được nông dân ưa thích. Nhưng thuốc bảo vệ thực vật cũng có rất nhiều tác hại, đó là: Trong tự nhiên có rất nhiều loại sâu hại khác nhau, có loại sâu ẩn núp dưới lá, có loại đục vào thân cây, có loại lại chui vào đất, nên phải dùng nhiều loại thuốc khác nhau để tiêu diệt chúng. Việc này gây khó khăn cho người sử dụng, nhất là những người nông dân có trình độ văn hoá thấp. Nhiều người chỉ thích mua thuốc rẻ để phun, không cần biết phạm vi tác dụng của chúng ra sao. Có người hay phun quá liều chỉ dẫn để cho "chắc ăn", làm tăng lượng thuốc thừa tích đọng trong đất và nước. Các loại thuốc trừ sâu thường có tính năng rộng, nghĩa là có thể diệt được nhiều loại côn trùng. Khi dùng thuốc diệt sâu hại một số côn trùng có ích cũng bị diệt luôn, đồng thời ảnh hưởng tới các loại chim ăn sâu, vì chim ăn phải sâu đã trúng độc. Nói cách khác, sau khi phun thuốc trừ sâu, số lượng thiên địch của nhiều loại sâu cũng giảm. Ðiều đó có lợi cho sự phát triển của sâu hại. Các loại thuốc trừ sâu đều có tính độc cao. Trong quá trình dùng thuốc, một lượng thuốc nào đó có thể đi vào trong thân cây, quả, hoặc dính bám chặt trên lá, quả. Người và động vật ăn phải các loại nông sản này có thể bị ngộ độc tức thời đến chết, hoặc nhiễm độc nhẹ, từ từ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ. Do trình độ hạn chế, một số nông dân không tuân thủ đầy đủ các quy định về sử dụng, bảo quản thuốc trừ sâu, có người cất thuốc vào chạn, vào tủ quần áo, nên đã gây nên những trường hợp ngộ độc, thậm chí chết thảm thương do ăn nhầm phải thuốc. Một số loại thuốc trừ sâu có khả năng bay hơi mạnh nên gây khó chịu, mệt mỏi, thậm chí choáng ngất cho người trực tiếp phun thuốc sâu trên đồng ruộng, nhất là trong trường hợp không có các biện pháp phòng tránh tốt. Việc dùng thuốc trừ sâu liên tục sẽ sinh chứng nhờn thuốc. Vì thế mỗi loại thuốc trừ sâu chỉ có tác dụng mạnh một số năm đầu sử dụng. Ðể hạn chế bệnh nhờn thuốc, tăng khả năng diệt trừ sâu người ta thường tăng dần nồng độ thuốc, tăng số lần dùng thuốc. Tuy nhiên biện pháp này không lâu dài do không thể tăng mãi nồng độ được. Mặt khác, nó làm ô nhiễm môi trường mạnh hơn, do lượng tồn dư trong môi trường nhiều lên. Một số loại thuốc trừ sâu có tính năng hoá học ổn định, khó phân huỷ, nên sẽ tích luỹ trong môi trường. Sau nhiều lần sử dụng lượng tích luỹ này có thể cao đến mức gây độc cho môi trường đất, nước, không khí và con người. Do thuốc tồn đọng lâu không phân huỷ, nên có thể theo nước và gió phát tán tới các vùng khác, theo các loài sinh vật đi khắp mọi nơi. Thuốc diệt cỏ được dùng ở mức ít hơn. Tuy nhiên do có tính độc, chúng cũng gây nên những tác hại tới môi trường giống như thuốc trừ sâu. Nói tóm lại, thuốc trừ sâu, diệt cỏ không chỉ có tác dụng tích cực bảo vệ mùa màng, mà còn gây nên nhiều hệ quả môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng tới hệ sinh thái và con người. Do vậy cần phải thận trọng khi dùng thuốc và phải dùng đúng liều, đúng loại, đúng lúc theo chỉ dẫn của cán bộ kỹ thuật. * Thuốc trừ sâu sinh học: Những năm gần đây, sử dụng thuốc trừ sâu trong nông nghiệp mang lại lợi ích kinh tế to lớn, song việc lạm dụng thuốc đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho sức khoẻ cộng đồng, gây ô nhiễm môi trường, tiêu diệt nhiều loại động vật có ích, từ đó làm phát sinh nhiều bệnh dịch do sâu hại kháng thuốc và do không còn thiên địch trên đồng ruộng để đảm nhận chức năng tự nhiên là hạn chế sâu hại phát triển thành dịch. Trước thực tế đó, nhu cầu cấp bách là phải nghiên cứu các chế phẩm sinh học có khả năng thay thế, hoặc giảm thiểu thuốc hoá học, tiến tới xây dựng nền nông nghiệp sinh thái không sử dụng hóa chất, duy trì sự cân bằng tự nhiên. Tiến sĩ Sinh học Nguyễn Văn Vấn- Chuyên gia bệnh cây (Viện Bảo vệ thực vật) cho biết: “Thuốc trừ sâu sinh học lấy từ các virus, vi khuẩn, nấm côn trùng, tuyến trùng có ích, các loại kháng sinh và hóa sinh trong tự nhiên để phòng trừ những sinh vật gây hại cho cây trồng”. Thuốc trừ sâu sinh học không gây độc hại cho người sử dụng, gia súc, làm trong sạch môi trường, tiêu diệt sâu với tỷ lệ cao mà không làm cho chúng nhờn thuốc, hạn chế việc “giết nhầm” những loài côn trùng hữu ích. Có khá nhiều loại thuốc trừ sâu sinh học nhưng hay được sử dụng nhất vẫn là 7 loại thuốc sau: - NPV là chế phẩm trừ sâu hoạt lực cao, gồm 2 loại V- Ha và V- S1. Thuốc chuyên dùng để diệt trừ sâu xanh, sâu khoang, sâu xanh đốm trắng, sâu tơ trên các loại cây rau màu, cây công nghiệp, cây ăn quả với hiệu quả rất cao. NPV có nồng độ đặc hơn so với các loại thuốc khác, sử dụng tương đối dễ dàng: chỉ cần hoà thuốc vào bình và phun bình thường với liều lượng 1,0- 1,2 kg/ha. - Chế phẩm Bt: Gồm 2 loại: dạng sữa 4.000 IU/ml và dạng bột Biotox 16.000 IU/mg chuyên dùng trừ sâu tơ, sâu xanh hại rau, sâu kéo ra lá, các loại sâu thuộc họ Leptidopera. - Chế phẩm M&B có 2 loại: Metarhizium và Beauveria. Metarhizium anisopliae 1,6- 2,5 x 109Bt/gr bọ hại dừa. Thử nghiệm tại Đà Nẵng, Phú Yên đạt hiệu quả tới 86,5%. Dạng nấm xanh được dùng để trừ rầy, bọ xít trên lúa và cây ăn quả đạt 70- 90%, dạng nấm trắng đạt 50- 85%. Chế phẩm Beauveria chuyên dùng để trị sâu róm thông và sâu đo nâu hại bồ đề với hiệu quả tiêu diệt sâu tới gần 87%. TS. Nguyễn Văn Vấn cho biết: “Loại thuốc này có thể sử dụng để tiêu diệt sâu róm hại thông đang xảy ra tại Nghệ An hiện nay”. - Chế phẩm nấm đối kháng Trichoderma 3- 3,2 x 109Bt/gr trừ bệnh hại cây trồng như bệnh lở cổ rễ bắp cải, nấm đất đạt 41,5- 60%. - Chế phẩm tuyến trùng EPN Biostar 15- 20 x 106 IJs trừ sâu xám hại thuốc lá, đặc biệt là mía đạt hiệu quả khá cao. Hiện những sản phẩm đầu tiên đã được đưa vào ứng dụng để diệt trừ sâu xám hại thuốc lá tại Ba Vì (Hà Tây), bọ hung hại mía tại Thạch Thành (Thanh Hoá). - Chế phẩm hoá sinh Momosertatin (MM) 2IU/lít trừ các loại sâu hại rau màu đạt 45- 50%. - Chế phẩm Ditacin 8% và Ketomium 1,5 x 106 Cfu/g, trừ bệnh hại trên cây ăn quả, cây lâu năm. Hạn chế của các chế phẩm sinh học tuyến trùng là giá thành còn khá cao và khả năng bảo quản khó khăn so với thuốc hóa học và một số chế phẩm sinh học khác. Trong 3 năm gần đây, Viện Bảo vệ thực vật đã tiến hành thử nghiệm các chế phẩm sinh học trên diện tích hàng trăm ha ở nhiều địa phương trong cả nước, cho kết quả rất tốt. Tuy nhiên, giá thành một chế phẩm thuốc trừ sâu sinh học hiện còn khá cao so với thuốc trừ sâu hoá học, khoảng 60.000 đồng/kg chế phẩm, chưa phù hợp với sức mua của người nông dân. Sở dĩ giá thành chế phẩm vẫn còn cao, theo TS Nguyễn Văn Vấn là do công nghệ sản xuất của ta vẫn còn làm phương pháp thủ công là chính, chưa có sự hỗ trợ của các thiết bị máy móc hiện đại, vì thế để hạ giá thành chế phẩm và thương mại hóa, cần tiếp tục nghiên cứu, áp dụng công nghệ cao, sử dụng môi trường lỏng và thiết bị lên men tự động (bio-reactor). Đây là hướng đi thành công tại các nước có nền công nghệ cao như Trung Quốc, Mỹ và châu Âu, cho phép sản xuất lớn và hạ giá thành, đủ sức cạnh tranh với thuốc trừ sâu hoá học, mà lợi ích lâu dài về môi trường sẽ còn lớn hơn nhiều. . Hiện Viện Bảo vệ thực vật đang tiếp tục nghiên cứu để hạ giá thành sản xuất và sớm ứng dụng đại trà. * Phân bón hóa học: Cây trồng cần một lượng tương đối lớn chất đạm, lân và kali nên ba loại này gọi là các nguyên tố đa lượng. Các loại phân đạm, phân lân, phân kali gọi là phân bón đa lượng. Cây trồng cần canxi, ma giê và lưu huỳnh ở mức vừa phải nên gọi là các nguyên tố trung lượng. Các nguyên tố bo, ma ngan, sắt,  đồng, kẽm, molipđen rất cần thiết cho cây trồng nhưng chỉ với một lượng rất nhỏ nên được gọi là nguyên tố vi lượng. Phân bón hoá học là những hoá chất có chứa nguyên tố dinh dưỡng, dùng để bón cho cây trồng nhằm nâng cao năng suất. Những hoá chất dùng làm phân bón phải là những hợp chất tan được trong dung dịch đất để rễ cây có thể hấp thụ được. Ngoài ra, hợp chất đó phải không độc hại, và không có lẫn chất độc hại, có thể gây ô nhiễm môi trường. Trên thị trường có rất nhiều loại phân bón như phân hóa học, phân hữu cơ sinh học, phân khoáng hữu cơ dùng để bón gốc, ngoài ra còn có phân bón phun trên lá cây trồng. Riêng phân hóa học cũng có rất nhiều loại như phân đơn và phân hỗn hợp, phân vi lượng. Hiện tại phân bón hóa học là nguồn chủ yếu cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây trồng. Tuỳ theo lượng phân bón, giống lúa, mùa vụ và phương pháp bón, hiệu quả 1 kg phân đạm trên đất phù sa Sông Hồng đạt từ 2,5-16,5 kg thóc. Đối với supe lân bón trên đất phèn, giống chiêm bầu đạt tới 17,7kg thóc/kg P205 còn phân lân nung chảy -26,7 kg thóc/kg P205. Các nhà khoa học nông nghiệp khuyến cáo nên bón cân đối các loại chất dinh dưỡng nghĩa là chọn tỷ lệ giữa đạm, lân và kali hợp lý cho từng loại cây và đất trồng. Hiện nay lượng phân bón trên ha còn rất thấp, ngay ở đồngbằng cũng chỉ mới đạt khoảng 80 kg N + P205  + K2O , trong khi ở các nước phát triển là 240-400 kg. Tỷ lệ N - P - K sử dụng bị mất cân đối nghiêm trọng, hiện mới đạt tỷ lệ 1,0 : 0,3 : 0,1 trong khi tỷ lệ trung bình của thế giới là 1,0 : 0,47 : 0,32. Tuy nhiên khi bón phân vào đất, cây trồng chỉ hấp thụ được một phần. Hệ số sử dụng phân đạm trên đất phù sa Sông Hông chỉ đạt 12,5 - 46,5%, còn trên đất bạc mầu là 11,4 -   48,3%. Đối với phân lân hệ số sử dụng trung bình từ 13-30%. Phân bón có thể bị tổn thất do rửa trôi, bị bốc hơi (đối với phân đạm) và bị giữ chặt trong đất do tạo thành hợp chất không tan. Do vậy, các nhà khoa học công nghệ đang tìm cách để hạn chế sự mất mát này. Thí dụ, để hạn chế sự rửa trôi người ta đã sản xuất những loại phân bón tan chậm bằng cách tạo viên bọc thêm một lớp sáp hay lưu huỳnh. Muốn cho phân đạm đỡ bị phân huỷ bởi vi sinh vật, người ta cho thêm chất ức chế, hoặc để tránh phân lân bị giữ chặt trong đất bởi sắt, nhôm người ta sản xuất loại phân khoáng chứa chất hữu cơ. Các nhà khoa học nông nghiệp cho rằng bón kết hợp phân khoáng và phân hữu cơ, đồng thời đầu tư phân bón ở mức kinh tế là chìa khóa để nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón. c/ Kỹ thuật thay giống mới có phẩm chất ngon Nhằm đáp ứng nhu cầu trái ngon của thị trường, nhiều giống cây ăn trái đã được du nhập vào nước ta, đồng thời qua các Hội thi Cây Giống Tốt do Viện nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam (Trung tâm Cây ăn quả Long Định cũ) kết hợp với Hội khuyến nông và các Trung tâm Khuyến nông tổ chức đã phát hiện nhiều giống cây ăn trái đặc sản như: sầu riêng hạt lép, nhãn xuồng cơm vàng, xoài cát Hòa Lộc, bưởi Năm Roi... Chính vì giống có chất lượng ngon, nên được thị trường chấp nhận nhanh chóng, điều này làm cho giá cây giống cũng tăng vọt lên, kích thích người dân mạnh dạn đầu tư mua cây giống mới. Tuy nhiên để đáp ứng sớm nhu cầu tiêu dùng về trái cây có chất lượng cao thay vì trồng cây mới mất 3-4 năm mới cho trái với kỹ thuật ghép giống mới trên cây đã có sẵn; chúng ta có trái ngon trên cùng gốc ghép trong khoảng 1 - 1,5 năm. Kỹ thuật thay giống này đã được sử dụng phổ biến ở một số nước có nền nông nghiệp phát triển như: Israel, Australia, Đài Loan. Ở nước ta, trước đây do tập quán của người dân, cũng như do chưa được sự giúp đỡ của Nhà nước về định hướng các giống cây ăn trái. Trên thị trường cây ăn quả hiện nay có quá nhiều giống thương phẩm trên cùng một chủng loại, do đó phẩm chất cũng rất khác nhau. Mặc dù điều này sẽ làm phong phú thêm nguồn gen cây ăn trái ở nước ta, nhưng để sản xuất hàng hóa cây ăn quả, thì chính là một trở ngại, khó khăn cho xuất khẩu và chế biến. Ví dụ: Chỉ riêng xoài, ta có xoài Cát Hòa Lộc, xoài Cát Chu, xoài Bưởi, xoàn Thanh Ca, xoài Mật. Để công nghiệp hóa, các giống xoài này nên sớm được rút lại 3-4 giống thôi, trong đó chú ý xoài Cát Hòa Lộc, Cát Chu; bằng cách ghép đọt lên cành non, ghép đoạn già hơn lên cành già của cây xoài Bưởi, xoài Thanh Ca... Qua đề nghị của Trung tâm cây ăn quả Long Định tại Hội nghị Khoa học của Bộ Nông nghiệp và PTNT ở khu vực phía Nam (Thành phố Hồ Chí Minh ngày 16-18/9/1997). Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã công nhận 13 cá thể thuộc các chủng loại xoài, sầu riêng, chôm chôm, nhãn, quýt, cam, bưởi... để đưa ra sản xuất tại các tỉnh phía Nam theo quyết định số 2767 ngày 29-10-1997. Đây là những giống có chất lượng tốt có thể cạnh tranh được với các giống cây ăn quả cùng loại của một số nước ở khu vực Đông Nam Aá. Vì vậy ngoài việc trồng cây giống tốt từ cây ghép đạt tiêu chuẩn xuất vườn ươm, thì việc ghép mắt, ghép đọt, ghép đoạn cành non tốt lên trên gốc ghép có sẵn cùng chủng loại rất nên khuyến khích, việc này sẽ làm rút ngắn thời gian cho trái của cây, cây sẽ sớm ra hoa kết trái nhờ bộ rễ đã phát triển trước và đủ mạnh để cung cấp dinh dưỡng cho cây. d/ Phương pháp ghép: Có 3 cách ghép chính: - Ghép đoạn cành non (ghép áp đoạn cành tốt lên trên xoài) (Wedge graft) - Ghép đọt (ghép chẻ gốc để trẻ hóa cây) (Cleft graft) - Ghép mắt (thường áp dụng trên ca cao, nhãn...) (Patch budding) Ở miền Bắc nước ta phương pháp thay giống (Topworking) đã được áp dụng thành công cả trên cây xoài, trên bơ, trên hồng (Đà Lạt) - (Trung tâm Cây ăn quả Phú Hộ). Còn ở các tỉnh ĐBSCL phương pháp này được phổ biến trên ghép mắt nhãn tiêu lá bầu, nhãn xuồng cơm vàng lên trên gốc nhãn long, kỹ thuật này cũng đã được áp dụng cho cây ca cao, hồng (Đà Lạt), bơ, xoài... Riêng Sapôchê do thân cây có nhiều mủ nên ghép dễ bị thất bại, vì vậy trước khi lấy mắt ghép ta phải cắt bỏ đoạn đầu cành (cành non) thì những mầm ngủ nằm trên đoạn cành còn lại sẽ nhú mầm, lúc đó ta tiến hành lấy mắt ghép giống như nhãn. "Để hạn chế cành ghép (mắt ghép) bị gãy đổ do gió, hoặc mang quá nhiều trái, cũng như gặp khó khăn trong chăm sóc và thu hoạch, chúng ta nên ghép trên gốc ghép ở vị trí gần mặt đất (60cm - 80cm) mặc dù tỷ lệ ghép thành công có thể không cao do thân của gốc ghép đã già, khó bọc vỏ, khả năng tiếp hợp giữa gốc ghép và mắt ghép thấp, nhưng tuổi thọ của cành có thể lâu hơn ghép ở trên cao". 3/ Giải pháp về phát triển công nghệ trong trồng cây ăn quả - Đầu tư cho các công trình nghiên cứu nông nghiệp tốt như lai giống, tạo phân bón nhằm cho những công nghệ đạt hiệu quả cao cho trồng trọt - Tuyên truyền cho nhân dân những kinh nghiệm có từ xưa hay những công nghệ tiên tiến, giúp dân áp dụng nhanh chóng vào trồng trọt. - Cử những chuyên gia giỏi sang nước ngoài học hỏi kinh nghiệm về áp dụng trong nước - Thử nghiệm những giống cây trồng mới nhằm tạo ra những giống cây đạt năng suất cao - Thực hiện tưới tiêu đầy đủ cho cây trồng, hệ thống hoá kênh mương đảm bảo chăm sóc tốt cây. Sản ph ẩm trồng trọt c ủa nước ta hiện nay đang ngày một tăng cao v ề số lượng và chất lượng nhưng để đáp ứng nhu cầu nông sản chất lượng cao trong nước và xuất khẩu chúng ta cần phải có những nghiên cứu mới chú trọng về chất lượng sản phẩm. Công nghệ nhà kính Trung tâm Kỹ thuật rau hoa quả thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội đang triển khai 1 dự án lần đầu tiên có mặt tại Hà Nội. Dự án có tên gọi đầy đủ là "Xây dựng cơ sở ứng dụng, sản xuất giống và sản phẩm cây trồng chất lượng cao". Các loại giống cây trồng, giống rau, giống hoa, giống cây ăn quả được sản xuất theo công nghệ nuôi cấy mô Invitro trong ống nghiệm, sau đó được tiếp tục ươm trong điều kiện vô trùng ở vườn ươm trong nhà kính rồi mới đem ra cung cấp cho bà con nông dân hoặc chuyển ra ruộng trồng thành cây thương phẩm để bán ra thị trường. Dự án có tổng số vốn đầu tư lên tới hơn 24 tỉ đồng, trong đó một nửa là từ nguồn ngân sách thành phố, còn lại là vốn tự có và huy động. Công trình được khởi công đầu năm 2003 và dự kiến sẽ hoàn thành vào đầu tháng 9 năm nay. Ðến thời điểm này, dáng dấp hiện đại của công trình đã hiện ra khá rõ nét trên một diện tích đất gần 16 ha, với các khu nhà kính, nhà điều khiển vi tính trung tâm, trạm xử lý nước, hệ thống mương máng, đường nội bộ... Các trang thiết bị phục vụ khu nhà kính như hệ thống tưới phun, tưới nhỏ giọt, thông gió, hệ thống xử lý nước v.v... đều được nhập đồng bộ từ Israel. Khi hoàn thành, khu nông nghiệp công nghệ cao này sẽ có khoảng 80 lao động kỹ thuật cao làm việc, hàng năm cung ứng 2,5 - 2,6 triệu cây giống phẩm chất tốt và hơn 4,3 tấn hạt giống rau đầu dòng cho sản xuất nông nghiệp ở ngoại thành Hà Nội, đồng thời trực tiếp đưa ra thị trường tiêu dùng khoảng 360 tấn rau sạch thương phẩm và 6 - 7 triệu bông hoa các loại. Mô hình trình diễn và chuyển giao công nghệ sản xuất rau - hoa - quả chất lượng cao của dự án sẽ tạo nên một bước chuyển lớn trong sản xuất nông nghiệp ở thủ đô. Đây là mô hình trồng rau, hoa quả trong nhà kính theo công nghệ Israel lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam do hãng Netafim (Israel) chuyển giao công nghệ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCGCN trong san xuat nong nghiep.doc
Tài liệu liên quan