Hạn chế chuyển nhượng cổ phần của
doanh nghiệp xã hội
Hiện nay, doanh nghiệp xã hội (DNXH)
là một trong các đối tượng chịu sự điều
chỉnh của LDN 2014, có thể tồn tại dưới cả
04 hình thức pháp lý doanh nghiệp là doanh
nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty
trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần5.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Nghị định
số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều của
Luật Doanh nghiệp (Nghị định số 96/2015/
NĐ-CP) thì “chủ doanh nghiệp tư nhân,
thành viên và cổ đông doanh nghiệp xã hội
chỉ được chuyển nhượng phần vốn góp, cổ
phần của mình cho tổ chức, cá nhân khác
nếu họ có cam kết tiếp tục thực hiện các mục
tiêu xã hội, môi trường”. Yêu cầu phải có
“cam kết tiếp tục thực hiện các mục tiêu xã
hội, môi trường” có thể hiểu là điều kiện để
được chuyển nhượng cổ phần/phần vốn góp.
Quy định này nhằm đảm bảo rằng nhà đầu
tư trước khi mua cổ phần có thể biết và hiểu
rõ về những đặc thù của DNXH, bởi những
đặc thù này có thể thu hẹp quyền lợi của cổ
đông. Xoay quanh quy định này của Nghị
định số 96/2015/NĐ-CP, chúng tôi thấy có
một số vấn đề sau:
Khoản 4 Điều 10 LDN 2014 trao
quyền cho Chính phủ trong việc quy định
chi tiết Điều 10, tức là các nội dung về tiêu
chí nhận diện DNXH, quyền và nghĩa vụ của
DNXH, ưu đãi, hỗ trợ cho DNXH. Còn vấn
đề chuyển nhượng cổ phần thì LDN 2014
không có quy định đặc thù dành riêng cho
DNXH, cho nên việc mua bán cổ phần của
DNXH vẫn phải theo quy chế pháp lý của
mô hình công ty cổ phần. Việc Nghị định
số 96/2015/NĐ-CP đặt ra điều kiện phải có
“cam kết tiếp tục thực hiện các mục tiêu xã
hội, môi trường” là vượt quá sự phân quyền
mà LDN 2014 cho phép. Hơn nữa, nếu cổ
phiếu của DNXH không có nội dung về việc
người mua phải có “cam kết tiếp tục thực
hiện các mục tiêu xã hội, môi trường” thì
liệu rằng nhà đầu tư có bắt buộc phải làm
cam kết này hay không, khi mà khoản 1
Điều 126 LDN 2014 quy định những hạn
chế chuyển nhượng cổ phần phải được “nêu
rõ” trên cổ phiếu.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
5 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 374 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyển nhượng cổ phần theo luật doanh nghiệp năm 2014: Một số bất cập và kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014: 
MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ
Tóm tắt: 
Vấn đề chuyển nhượng cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 
đang tồn tại một số bất cập. Tuy nhiên các bất cập này chưa được 
giải quyết thấu đáo trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số 
điều của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp. Do đó, cần nghiên 
cứu sửa đổi, bổ sung một số quy định có liên quan nhằm hoàn thiện 
pháp luật ở lĩnh vực này. 
Lê Nhật Bảo*
* ThS. Giảng viên Khoa Luật Thương mại - Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Abstract 
The mechanism for share transactions under the Law on Enterprises 
of 2014 has revealed a numnber of shortcomings. However, these 
shortcomings have not been thoroughly addressed in the Bill of 
Law with amendments of a number of articles of the Law on 
Investment and the Law on Enterprises. Therefore, it is necessary 
to review for further improvements of the relevant regulations on 
this area.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật Doanh nghiệp, cổ phần, 
chuyển nhượng cổ phần.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 10/04/2019
Biên tập : 26/04/2019
Duyệt bài : 04/05/2019
Article Infomation:
Keywords: The Law on Enterprise, 
shares, share transactions. 
Article History:
Received : 10 Apr. 2019
Edited : 26 Apr. 2019
Approved : 04 May 2019
1. Chuyển nhượng cổ phần
Theo nghĩa phổ thông, “chuyển 
nhượng” là chuyển quyền sở hữu1. Từ đây có 
thể suy ra chuyển nhượng tài sản là chuyển 
quyền sở hữu tài sản. Nói cách khác, chuyển 
nhượng tài sản là hành vi làm thay đổi quyền 
sở hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể 
khác. Theo cách hiểu như vậy, “chuyển 
nhượng” có thể được thực hiện thông qua 
các loại giao dịch khác nhau như mua bán, 
tặng cho, trả nợ, để lại thừa kế hoặc góp vốn 
vào doanh nghiệp
1 Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Nxb. Đà Nẵng, tr. 188.
Tuy nhiên, trong pháp luật nước ta, 
khái niệm “chuyển nhượng” đang được hiểu 
không thống nhất. Chẳng hạn trong pháp 
luật về chứng khoán, giao dịch mua bán và 
chuyển nhượng cổ phần đều được quy về loại 
giao dịch mua bán chứng khoán, các giao 
dịch này được gọi là mua bán cổ phiếu nói 
riêng và mua bán chứng khoán nói chung. 
Pháp luật chứng khoán xem chuyển nhượng 
cổ phần là quan hệ mua bán cổ phần. Trong 
khi đó, Luật Doanh nghiệp năm 2014 (LDN 
2014) có cách tiếp cận khác với pháp luật 
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
36 Số 11(387) T6/2019
chứng khoán. Theo đó, chuyển quyền sở hữu 
cổ phần trong LDN 2014, có thể phân loại 
thành hai nhóm chế định khác nhau. Cụ thể:
- Cổ đông chuyển quyền sở hữu cổ 
phần của mình cho người khác, nhóm các 
giao dịch này được quy định tại Điều 126 
LDN 2014 với tên gọi là “chuyển nhượng 
cổ phần”. Quan hệ pháp luật này được thực 
hiện giữa bên chuyển nhượng là cổ đông 
công ty và người nhận chuyển nhượng, bản 
thân công ty cổ phần không phải là một bên 
trong giao dịch chuyển nhượng cổ phần. Hệ 
quả của việc chuyển nhượng cổ phần là làm 
thay đổi chủ sở hữu đối với cổ phần được 
chuyển nhượng, nhưng không làm thay đổi 
vốn điều lệ và tài sản của công ty cổ phần.
- Giao dịch chuyển quyền sở hữu cổ 
phần giữa công ty với nhà đầu tư. Đó là giao 
dịch giữa công ty với tổ chức, cá nhân mua 
cổ phần khi công ty chào bán cổ phần được 
quyền chào bán thông qua các quy định về 
chào bán cổ phần (Điều 122 LDN 2014), 
hoặc giao dịch giữa công ty với cổ đông khi 
cổ đông đề nghị công ty mua lại cổ phần của 
mình (Điều 129 LDN 2014), công ty mua 
lại cổ phần của cổ đông theo quyết định của 
mình (Điều 130 LDN 2014). Hệ quả là làm 
thay đổi vốn điều lệ và tài sản của công ty cổ 
phần (tùy từng trường hợp mà tăng lên hoặc 
giảm xuống). Điểm chung của các giao dịch 
này là, công ty cổ phần hiện diện với tư cách 
là một bên trong quan hệ pháp luật, LDN 
2014 gọi những giao dịch như vậy bằng từ 
“mua” hoặc “bán” cổ phần. 
Cách tiếp cận như trên cũng diễn ra 
tương tự trong mô hình công ty TNHH hai 
thành viên trở lên thông qua các quy định 
về chuyển nhượng phần vốn góp (Điều 53 
LDN 2014), mua lại phần vốn góp (Điều 
52 LDN 2014) Giải thích cho lý do LDN 
2014 thiết kế 2 điều 52, 53, có quan điểm 
cho rằng, “khi cổ phần của công ty đã được 
bán cho cổ đông, thì việc cổ đông chuyển 
quyền sở hữu cổ phần đó cho người khác sẽ 
không còn được gọi là “bán” mà được gọi 
2 Trương Thanh Đức, Luận giải về Luật Doanh nghiệp 2014: 36 kế sách pháp lý của doanh nghiệp, Nxb. Sự thật, 2017, tr. 237.
là “chuyển nhượng” cổ phần”2. Theo quan 
điểm này, quan hệ mua bán cổ phần là quan 
hệ mà một trong các bên chính là công ty 
có cổ phần mua bán, còn chuyển nhượng 
cổ phần là giao dịch giữa cổ đông với các 
cá nhân, tổ chức khác không phải là công 
ty. Tuy nhiên, mặc dù hoạt động chuyển 
nhượng cổ phần giữa cổ đông công ty với 
người khác thông qua việc mua bán cổ phần 
không được LDN 2014 minh thị rõ ràng bằng 
cụm từ “mua bán cổ phần”, nhưng xét về 
bản chất, đây cũng là một loại quan hệ mua 
bán. Nghĩa là hoạt động “chuyển nhượng cổ 
phần” bao hàm trong nó nhiều loại giao dịch 
khác nhau, và mua bán cổ phần là một trong 
số đó. Cho nên, hiện nay, khi nói đến “mua 
bán cổ phần” cần phải đặt trong ngữ cảnh cụ 
thể để xác định chủ thể của quan hệ này có 
công ty cổ phần tham gia hay không.
Xét các quy định về chuyển nhượng 
cổ phần tại Điều 126 LDN 2014, có thể phân 
thành hai nhóm: 
- Nhóm quy phạm chung của hoạt 
động chuyển nhượng, đó là toàn bộ nội dung 
tại khoản 1 (về điều kiện chuyển nhượng cổ 
phần), một phần nội dung của khoản 2 (về 
hình thức chuyển nhượng cổ phần), khoản 6 
(xử lý trường hợp cổ phiếu cũ bị huỷ bỏ) và 
khoản 7 (thời điểm xác lập tư cách cổ đông). 
- Nhóm các quy phạm còn lại trong 
Điều 126 LDN 2014 quy định về các hình 
thức chuyển nhượng cụ thể, các hình thức 
chuyển nhượng này chịu sự chi phối bởi 
các quy định ở nhóm một. Tuy nhiên, vì các 
nhóm quy định này lại được tách thành các 
điều khoản khác nhau nên tạo nên sự mâu 
thuẫn trong chuyển nhượng cổ phần. Chẳng 
hạn, khoản 3 Điều 126 LDN 2014 quy định, 
“trường hợp cổ đông là cá nhân chết thì 
người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp 
luật của cổ đông đó là cổ đông của công ty”. 
Quy định này có thể hiểu, từ thời điểm cổ 
đông chết thì quyền sở hữu cổ phần đương 
nhiên thuộc về người thừa kế mà không có 
ngoại lệ. Đặt trường hợp cổ đông sáng lập 
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
37Số 11(387) T6/2019
chết và công ty cổ phần vẫn đang trong thời 
hạn 3 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng 
nhận đăng ký doanh nghiệp, nếu người thừa 
kế không phải là cổ đông sáng lập của công 
ty đó thì họ có đương nhiên trở thành cổ 
đông hay cần phải được thông qua Đại hội 
đồng cổ đông như quy định tại khoản 1 Điều 
126 LDN 2014 (dẫn chiếu đến khoản 3 Điều 
119 LDN 2014)? 
Chúng tôi cho rằng, Điều 126 LDN 
2014 cần được thiết kế lại theo sự phân chia rõ 
ràng như trên. Chẳng hạn, khoản 1 Điều luật 
này nên sửa lại với tên gọi là “quy định chung 
về chuyển nhượng cổ phần”, khoản 2 Điều 
luật này sửa lại thành “các hình thức chuyển 
nhượng cổ phần”, trong đó khoản 2 Điều 126 
LDN 2014 cần minh thị cụ thể “quyền mua 
bán cổ phần” để khẳng định bản chất pháp 
lý của hoạt động chuyển nhượng này, cũng 
nhằm đảm tính thống nhất trong cách hiểu và 
áp dụng của pháp luật doanh nghiệp.
2. Các trường hợp hạn chế chuyển nhượng 
cổ phần
2.1 Đối với cổ phần ưu đãi 
Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức 
và cổ phần ưu đãi hoàn lại được LDN 2014 
khẳng định có các quyền như cổ đông phổ 
thông, trừ các trường hợp hạn chế3. Theo 
khoản 1 Điều 114 LDN 2014 về quyền của 
cổ đông phổ thông, cổ đông có quyền “tự do 
chuyển nhượng cổ phần của mình cho người 
khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 
Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của Luật 
này”. Theo quy định của khoản 1 Điều 126 
LDN 2014, nếu “trường hợp Điều lệ công 
ty có quy định hạn chế về chuyển nhượng 
cổ phần thì các quy định này chỉ có hiệu lực 
khi được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần 
tương ứng”. Các quy định trên cho thấy, cổ 
đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ 
phần ưu đãi hoàn lại có thể tự do chuyển 
nhượng cổ phần này cho người khác, còn 
nếu công ty cổ phần có hạn chế chuyển 
nhượng loại cổ phần này thì phải đáp ứng đủ 
hai điều kiện: (i) sự hạn chế chuyển nhượng 
3 Điểm c, khoản 2 Điều 117, khoản 2 Điều 118 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
phải được quy định trong Điều lệ công ty, 
và (ii) những hạn chế đó phải được “nêu rõ” 
trên cổ phiếu của cổ phần tương ứng. Do đó, 
nếu công ty đã có hạn chế chuyển nhượng 
nhưng không được “nêu rõ” trên cổ phiếu 
thì không có giá trị hạn chế chuyển nhượng 
(chẳng hạn như cổ phiếu tồn tại dưới hình 
thức dữ liệu điện tử, bút toán ghi sổ).
Theo quy định của khoản 4 Điều 113 
LDN 2014, “người được quyền mua cổ phần 
ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và 
cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy 
định hoặc do Đại hội đồng cổ đông quyết 
định”. Có thể hiểu rằng, nếu công ty đặt ra 
tiêu chuẩn về “người được quyền mua cổ 
phần ưu đãi” thì đây là một trường hợp hạn 
chế chuyển nhượng cổ phần ưu đãi. Những 
tiêu chuẩn như vậy chỉ có hiệu lực nếu thoả 
mãn các điều kiện tại khoản 1 Điều 126 
LDN 2014 - phải “nêu rõ” trên cổ phiếu. 
Tuy nhiên, bên cạnh Điều lệ công ty, khoản 
4 Điều 113 LDN 2014 quy định: Đại hội 
đồng cổ đông cũng có thể đặt ra những hạn 
chế về người mua cổ phần ưu đãi. Quy định 
này đặt ra câu hỏi sau đây: (i) Nếu những 
hạn chế về người mua cổ phần ưu đãi theo 
quyết định của Đại hội đồng cổ đông không 
có trong Điều lệ công ty và không được “nêu 
rõ” trên cổ phiếu ưu đãi thì quyết định này 
có hiệu lực hay không? (ii) Đại hội đồng cổ 
đông có quyền đặt ra các tiêu chuẩn về người 
mua cổ phần ưu đãi khi mà các bên hoàn tất 
việc mua bán hay không? Sự không rõ ràng 
này có thể bị lợi dụng làm ảnh hưởng tiêu 
cực đến quyền được tự do chuyển nhượng 
cổ phần ưu đãi.
Khi nhà đầu tư quyết định mua cổ phần 
ưu đãi, họ có quyền được biết tất cả những 
thông tin liên quan đến loại hàng hoá mà họ dự 
định đầu tư, những triển vọng cũng như khả 
năng rút lui thông qua cách chuyển nhượng. 
Chính những thông tin này góp phần giúp 
họ cân nhắc việc có nên mua cổ phần ưu đãi 
hay không, đặc biệt là đối với những trường 
hợp thu hẹp khả năng chuyển nhượng. Bởi 
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
38 Số 11(387) T6/2019
vậy, nhà đầu tư có quyền được biết trước, khả 
năng tiên liệu trước những điều kiện về người 
mua cổ phần ưu đãi. Để đáp ứng quyền này, 
công ty cổ phần phải minh bạch, công khai 
nội dung quyết định hạn chế chuyển nhượng 
cổ phần ưu đãi cho nhà đầu tư, điều này cũng 
góp phần thể hiện nguyên tắc thiện chí trong 
các giao dịch dân sự nói chung. Từ góc độ 
công ty cổ phần, nếu công ty xét thấy cần hạn 
chế người mua cổ phần ưu đãi, có thể thông 
qua quyền sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty 
(điểm d khoản 2 Điều 135 LDN 2014) của 
Đại hội đồng cổ đông để đưa các nội dung 
này vào, nhằm đảm bảo tương thích với quy 
định tại khoản 1 Điều 126 LDN 2014. Do đó, 
chúng tôi đề xuất bỏ cụm từ “hoặc do Đại hội 
đồng cổ đông quyết định” tại khoản 4 Điều 
113 LDN 2014.
2.2 Hạn chế chuyển nhượng cổ phần phổ 
thông của cổ đông sáng lập
Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau 
đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần 
phổ thông được quyền chào bán tại thời 
điểm đăng ký doanh nghiệp, và lượng cổ 
phần này bị hạn chế chuyển nhượng trong 
ba năm đầu theo quy định tại khoản 3 Điều 
119 LDN 2014: “trong thời hạn 03 năm, kể 
từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận 
đăng ký doanh nghiệp, cổ đông sáng lập có 
quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của 
mình cho cổ đông sáng lập khác và chỉ được 
chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình 
cho người không phải là cổ đông sáng lập 
nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng 
cổ đông. Trường hợp này, cổ đông dự định 
chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu 
quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần 
đó”. Quy định về tỷ lệ cổ phần phổ thông tối 
thiểu mà cổ đông sáng lập phải nắm giữ và 
quy định hạn chế khả năng chuyển nhượng 
các cổ phần này trong ba năm đầu là nhằm 
đảm bảo sự gắn kết các cổ đông sáng lập về 
mặt tài sản và trách nhiệm với công ty trong 
thời gian “khởi sự” của công ty4.
4 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh, Bùi Xuân Hải (Chủ biên), Nxb. 
Hồng Đức, 2016, tr. 250.
Tuy nhiên, LDN 2014 có quy định về 
các trường hợp ngoại lệ tại khoản 4 Điều 119, 
đó là đối với: (i) cổ phần mà cổ đông sáng 
lập có thêm sau khi đăng ký thành lập doanh 
nghiệp, và (ii) cổ phần mà cổ đông sáng lập 
chuyển nhượng cho người khác không phải 
là cổ đông sáng lập của công ty. Trong đó, 
“cổ phần mà cổ đông sáng lập có thêm sau 
khi đăng ký thành lập doanh nghiệp” có thể 
đến từ nhiều nguồn. Chẳng hạn, cổ đông 
sáng lập nhận chuyển nhượng cổ phần từ cổ 
đông khác, hoặc cổ đông sáng lập mua thêm 
cổ phần khi công ty chào bán cổ phần được 
quyền chào bán trong quá trình hoạt động. 
Vấn đề đặt ra là, các cổ đông sáng lập có 
thể sử dụng ngoại lệ này để vô hiệu hoá quy 
định về hạn chế chuyển nhượng tại khoản 3 
Điều 119 LDN 2014. 
Ví dụ, Công ty cổ phần A có 4 cổ đông 
phổ thông là A1, A2, A3 và A4 (trong đó, 
A1, A2, A3 là các cổ đông sáng lập). Với 
quy định tại khoản 3 Điều 119 LDN 2014 thì 
trong ba năm đầu khởi sự, A1 có thể tự do 
chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình 
cho các cổ đông sáng lập còn lại, nhưng 
nếu A1 muốn chuyển nhượng cổ phần cho 
A4 hoặc người khác thì phải được Đại hội 
đồng cổ đông đồng ý. Để “lách” quy định 
này, A1 có thể chuyển nhượng cổ phần phổ 
thông của mình sang A2, lượng cổ phần mà 
A2 nhận chuyển nhượng từ A1 là số cổ phần 
mà A2 “có thêm sau khi đăng ký thành lập 
doanh nghiệp”. Do đó, theo khoản 4 Điều 
119 LDN 2014 thì A2 có thể tự do chuyển 
nhượng cho A4 hoặc người khác theo thoả 
thuận ngầm với A1. Lúc đó, tổng lượng cổ 
phần mà các cổ đông sáng lập nắm giữ có 
thể thấp hơn so với lúc đăng ký công ty.
Bên cạnh trường hợp trên, việc cho 
phép cổ đông sáng lập có thể chuyển nhượng 
cổ phần phổ thông cho người không phải là 
cổ đông sáng lập khi được Đại hội đồng cổ 
đông chấp thuận có thể dẫn đến hệ quả là 
lượng cổ phần phổ thông mà các cổ đông 
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
39Số 11(387) T6/2019
sáng lập nắm giữ thấp hơn 20% so với lúc 
đăng ký thành lập doanh nghiệp. Khi đó, 
ý nghĩa của quy định tại khoản 2 Điều 119 
LDN 2014 trong việc gắn kết các cổ đông 
sáng lập với công ty không còn. Do đó, để 
khắc phục bất cập này, chúng tôi đề nghị bổ 
sung quy định về yêu cầu các cổ đông sáng 
lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% tổng 
số cổ phần phổ thông trong 03 năm kể từ 
ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận 
đăng ký doanh nghiệp.
2.3 Hạn chế chuyển nhượng cổ phần của 
doanh nghiệp xã hội
Hiện nay, doanh nghiệp xã hội (DNXH) 
là một trong các đối tượng chịu sự điều 
chỉnh của LDN 2014, có thể tồn tại dưới cả 
04 hình thức pháp lý doanh nghiệp là doanh 
nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty 
trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần5. 
Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Nghị định 
số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của 
Chính phủ quy định chi tiết một số điều của 
Luật Doanh nghiệp (Nghị định số 96/2015/
NĐ-CP) thì “chủ doanh nghiệp tư nhân, 
thành viên và cổ đông doanh nghiệp xã hội 
chỉ được chuyển nhượng phần vốn góp, cổ 
phần của mình cho tổ chức, cá nhân khác 
nếu họ có cam kết tiếp tục thực hiện các mục 
tiêu xã hội, môi trường”. Yêu cầu phải có 
“cam kết tiếp tục thực hiện các mục tiêu xã 
hội, môi trường” có thể hiểu là điều kiện để 
được chuyển nhượng cổ phần/phần vốn góp. 
Quy định này nhằm đảm bảo rằng nhà đầu 
tư trước khi mua cổ phần có thể biết và hiểu 
rõ về những đặc thù của DNXH, bởi những 
đặc thù này có thể thu hẹp quyền lợi của cổ 
đông. Xoay quanh quy định này của Nghị 
định số 96/2015/NĐ-CP, chúng tôi thấy có 
một số vấn đề sau:
Khoản 4 Điều 10 LDN 2014 trao 
quyền cho Chính phủ trong việc quy định 
chi tiết Điều 10, tức là các nội dung về tiêu 
chí nhận diện DNXH, quyền và nghĩa vụ của 
DNXH, ưu đãi, hỗ trợ cho DNXH. Còn vấn 
5 Lê Nhật Bảo, Bản chất của doanh nghiệp xã hội và cách phân loại pháp nhân theo Bộ luật Dân sự 2015, Tạp chí Khoa 
học pháp lý, số 8 (120), 2018, tr. 63.
đề chuyển nhượng cổ phần thì LDN 2014 
không có quy định đặc thù dành riêng cho 
DNXH, cho nên việc mua bán cổ phần của 
DNXH vẫn phải theo quy chế pháp lý của 
mô hình công ty cổ phần. Việc Nghị định 
số 96/2015/NĐ-CP đặt ra điều kiện phải có 
“cam kết tiếp tục thực hiện các mục tiêu xã 
hội, môi trường” là vượt quá sự phân quyền 
mà LDN 2014 cho phép. Hơn nữa, nếu cổ 
phiếu của DNXH không có nội dung về việc 
người mua phải có “cam kết tiếp tục thực 
hiện các mục tiêu xã hội, môi trường” thì 
liệu rằng nhà đầu tư có bắt buộc phải làm 
cam kết này hay không, khi mà khoản 1 
Điều 126 LDN 2014 quy định những hạn 
chế chuyển nhượng cổ phần phải được “nêu 
rõ” trên cổ phiếu. 
Hiện nay, nếu làm “cam kết tiếp tục 
thực hiện các mục tiêu xã hội, môi trường” 
thì chúng ta cũng đang thiếu một khoảng 
trống pháp lý về vấn đề này. Chẳng hạn, cam 
kết này làm theo hình thức nào vì không có 
quy định cụ thể, nên các bên có thể tự do lựa 
chọn hình thức cam kết, kể cả là nói miệng 
với nhau, và như vậy giá trị chứng minh của 
cam kết là rất thấp; Hay nội dung của cam 
kết gồm những gì? Hiện tại, Nghị định số 
96/2015/NĐ-CP và Thông tư số 04/2016/
TT-BKHĐT có đề cập về nội dung và biểu 
mẫu của “Cam kết thực hiện mục tiêu xã 
hội, môi trường”, còn “cam kết tiếp tục thực 
hiện các mục tiêu xã hội, môi trường” thì 
chưa được làm rõ. 
Khi trở thành cổ đông của công ty, nhà 
đầu tư có nghĩa vụ tuân thủ theo Điều lệ công 
ty (Điều 115 LDN 2014), khi những mục 
tiêu xã hội, môi trường của DNXH được ghi 
nhận trong Điều lệ công ty thì các cổ đông 
DNXH có trách nhiệm thực hiện theo mục 
tiêu mà DNXH đó theo đuổi. Do đó, chúng 
tôi kiến nghị bỏ quy định yêu cầu tổ chức, 
cá nhân mua cổ phần của DNXH phải làm 
“cam kết tiếp tục thực hiện các mục tiêu xã 
hội, môi trường” như Nghị định số 96/2015/
(Xem tiếp trang 64)
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
40 Số 11(387) T6/2019
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
chuyen_nhuong_co_phan_theo_luat_doanh_nghiep_nam_2014_mot_so.pdf