Tóm lại, CTCP có rất nhiều ưu thế
để cạnh tranh và khả năng mở rộng quy mô
không bị giới hạn. Tuy nhiên, cả hai mô
hình cơ cấu tổ chức của CTCP trong Luật
Doanh nghiệp năm 2014 hiện nay, vẫn còn
tồn tại rất nhiều hạn chế, bất cập và cần có
sự nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện.
2. Kiến nghị
Như đã trình bày, theo quy định tại
điểm c, khoản 1, Điều 135 Luật Doanh
nghiệp năm 2014, ĐHĐCĐ là cơ quan quyền
lực cao nhất và trực tiếp bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm thành viên HĐQT và Kiểm soát
viên. Điều này đồng nghĩa, Ban kiểm soát
không có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm
các thành việc của HĐQT. Còn nếu CTCP
hoạt động theo mô hình Ban kiểm toán nội
bộ thì đây lại là cơ quan trực thuộc của
HĐQT nên vì thế có thể dẫn đến tình trạng
có sự thông đồng, móc nối giữa HĐQT và
Ban kiểm toán nội bộ. Mặc dù vậy, nghiên
cứu cho thấy, trái ngược với quy định của
Luật Doanh nghiệp năm 2014, pháp luật
Cộng hòa liên bang Đức hiện quy định Ban
kiểm soát mới là cơ quan bầu ra các thành
viên của HĐQT và giám sát hoạt động của
cơ quan này23. Cụ thể tại Đức, pháp luật luôn
đề cao vai trò của Ban kiểm soát trong việc
giám sát các hoạt động và thành viên của
HĐQT. Hay nói cách khác, pháp luật Đức
quy định cho Ban kiểm soát quyền hạn rất
lớn và đây là cơ quan hoàn toàn độc lập với
HĐQT. Điểm thuận lợi của mô hình tổ chức
này chính là việc HĐQT trong quá trình
hoạt động phải luôn có tinh thần, ý thức
trách nhiệm rất cao vì luôn chịu sự quản lý,
giám sát chặt chẽ của Ban kiểm soát. Từ đó,
theo chúng tôi, nếu Việt Nam quy định cơ
cấu tổ chức của CTCP giống như mô hình
của Đức hiện nay thì sẽ phù hợp hơn. Bởi
lẽ, điều này góp phần mở rộng sự dân chủ,
bình đẳng giữa mọi cổ đông và giảm bớt sự
tư lợi, chuyên quyền của các cổ đông hoặc
nhóm cổ đông lớn. Trên thực tế, các CTCP
của Việt Nam hiện nay đang phát triển theo
mô hình của Hoa Kỳ. Tức là, “quyền lực của
các công ty tập trung chủ yếu vào các cổ
đông lớn và những người quản lý điều hành
công ty (managers)”24. Mặc dù pháp luật của
Việt Nam có quy định ít nhất 20% số thành
viên HĐQT phải là thành viên độc lập, tuy
nhiên, điều này lại mâu thuẫn vì những cổ
đông hoặc nhóm cổ đông nắm giữ rất ít cổ
phần thì rất khó đủ điều kiện để trở thành
thành viên của HĐQT. Vì với nguyên tắc ưu
tiên số phiếu bầu, nên thông thường những
cổ đông được tham gia vào HĐQT chủ yếu
lại là các cổ đông hoặc nhóm cổ đông lớn.
Cho dù các cổ đông lớn này không giữ các
chức vụ của công ty và chỉ tham gia vào Ban
kiểm toán nội bộ trực thuộc HĐQT nhưng
ít nhiều họ vẫn mong muốn các điều mang
lại lợi ích cho họ hoặc cho nhóm quyền lợi
của họ.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 303 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp năm 2014, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014
Tóm tắt:
Khác với cơ cấu tổ chức theo hướng đơn giản, tinh gọn của các
loại hình công ty đối nhân, cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần
khá phức tạp. Bởi lẽ, công ty cổ phần là loại hình công ty có sự
tham gia của rất nhiều thành viên nên cần có cơ chế kiểm soát và
phối hợp chặt chẽ để đảm bảo cho công ty hoạt động hiệu quả. Vì
vậy, nghiên cứu về cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần theo Luật
Doanh nghiệp năm 2014, từ đó, chỉ ra một số hạn chế, bất cập và
đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật về công ty này là việc làm cần thiết.
Nguyễn Vinh Hưng*
* TS. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Abstract:
In difference from the simplified structure of organization of a
counterpart company, the organization of a joint stock company
is quite more complicated. Joint stock company is the form
of company that is often participated by several shareholders
and executive persons, it thus is necessary to have control and
coordination mechanism a to ensure its effective operation. This
article is focused on the studies of the organizational structure of
joint stock company under the Enterprise Law of 2014 to point
out limitations and shortcomings in the current law and provides
recommendations to further improve the regulations on this form
of company.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: công ty cổ phần, cơ cấu tổ
chức, Luật Doanh nghiệp, cổ đông,
chứng khoán.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 04/08/2019
Biên tập : 24/8/2019
Duyệt bài : 27/8/2019
Article Infomation:
Keywords: Joint stock company,
organizational structure, Law on
Enterprise, shareholder, securities.
Article History:
Received : 04 Aug. 2019
Edited : 24 Aug. 2019
Approved : 27 Aug. 2019
1. Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần
So với các loại hình công ty phổ biến
hiện nay ở Việt Nam và trên thế giới, công
ty cổ phần (CTCP) luôn “có số lượng thành
viên rất đông. Có CTCP có tới hàng vạn cổ
1 Lê Minh Toàn (chủ biên 2006), Luật Kinh tế Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, tr. 215.
đông ở hầu khắp các nước trên thế giới, vì
vậy có khả năng huy động vốn rộng rãi nhất
trong công chúng để đầu tư vào nhiều lĩnh
vực khác nhau”1. Hơn nữa, CTCP là loại
hình công ty “có khả năng mở rộng quy mô
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
23Số 24(400) T12/2019
vốn thông qua thị trường chứng khoán”2.
Chính vì thế, vấn đề tổ chức quản lý công ty
này luôn rất phức tạp3. Pháp luật ở hầu hết
các quốc gia đều quy định cơ cấu tổ chức
của CTCP với sự tham gia của khá nhiều
cơ quan như: “Chủ sở hữu (cổ đông); Hội
đồng quản trị (HĐQT) hoặc Hội đồng giám
sát; Giám đốc điều hành; Ban kiểm soát đối
với công ty có số lượng thành viên trên 11
người”4. Sự tham gia của các cơ quan này
chủ yếu với mục đích quản lý điều hành, duy
trì các hoạt động kinh doanh của CTCP và
mặt khác, còn để giám sát, kiểm tra lẫn nhau
nhằm hạn chế việc lạm dụng quyền lực của
từng cơ quan.
Hiện nay, Luật Doanh nghiệp năm
2014 thiết kế hai mô hình cơ cấu tổ chức
của CTCP để các cổ đông khi thành lập công
ty này có quyền lựa chọn: (i) Đại hội đồng
cổ đông (ĐHĐCĐ), HĐQT, Ban kiểm soát,
Giám đốc/Tổng giám đốc; và (ii) ĐHĐCĐ,
HĐQT (bao gồm các thành viên độc lập
và Ban kiểm toán nội bộ); Giám đốc/Tổng
giám đốc. Như vậy, có thể nhận thấy, sự
khác biệt căn bản giữa hai mô hình tổ chức
thể hiện qua việc có hay không sự tham gia
của Ban kiểm soát hay Ban kiểm toán nội bộ
và thành viên độc lập.
Thứ nhất, mô hình tổ chức của CTCP
có sự tham gia của Ban kiểm soát
Theo quy định tại điểm a, khoản 1,
Điều 134 Luật Doanh nghiệp năm 2014, mô
hình này bao gồm các thiết chế: ĐHĐCĐ,
HĐQT, Ban kiểm soát và Giám đốc/Tổng
giám đốc. Trường hợp CTCP có dưới 11 cổ
đông và các cổ đông là tổ chức sở hữu dưới
50% tổng số cổ phần của công ty thì không
2 Nguyễn Thị Lan Hương (2009), Một số so sánh về CTCP theo Luật công ty Nhật Bản và Luật doanh nghiệp Việt Nam,
Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 25 (2009), tr. 88.
3 Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật thương mại Việt Nam tập I, sđd, tr. 205.
4 Lê Học Lâm và Lê Ngọc Đức (2010), Luật Kinh doanh, Nxb Thống kê, tr. 135.
5 Lê Học Lâm và Lê Ngọc Đức (2010), Luật Kinh doanh, sđd, tr. 135.
6 Nguyễn Thị Khế (2007), Pháp luật về tổ chức các hình thức kinh doanh, Nxb. Tư pháp, tr. 87.
7 Phạm Duy Nghĩa (2009), Luật Doanh nghiệp - Tình huống - Phân tích - Bình luận, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 146.
8 Khoản 1, Điều 149 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
bắt buộc phải có Ban kiểm soát. Thực chất,
mô hình này cũng chính là mô hình tổ chức
của CTCP được quy định tại Điều 95 Luật
Doanh nghiệp năm 2005 trước đây. Theo đó,
từng cơ quan tại bộ máy tổ chức hoạt động
của CTCP lại có nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể
như sau:
Đối với ĐHĐCĐ, có thể nhận thấy,
“một trong những đặc điểm của CTCP là
quản lý tập trung thông qua cơ cấu Hội đồng.
Về nguyên tắc, cơ cấu tổ chức và phân phối
quyền lực trong cơ cấu tổ chức là công việc
nội bộ của các nhà đầu tư”5. Còn theo quy
định tại Điều 135 Luật Doanh nghiệp năm
2014, ĐHĐCĐ gồm tất cả các cổ đông có
quyền biểu quyết và đây chính là cơ quan có
thẩm quyền quyết định cao nhất của CTCP.
Về nguyên tắc, “cổ đông không có quyền
biểu quyết thì không được tham dự Đại hội
đó là cổ đông ưu đãi cổ tức và cổ đông ưu đãi
hoàn lại”6. Mặc dù vậy, ĐHĐCĐ lại không
thường xuyên hoạt động như HĐQT mà
chỉ họp thường niên mỗi năm một lần. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp nếu xét thấy
cần thiết thì ĐHĐCĐ có thể họp bất thường.
Về HĐQT, có ý kiến cho rằng, “HĐQT
là cơ quan quyền lực mang tính hạt nhân trong
CTCP”7. Điều này thể hiện tầm quan trọng và
vai trò đặc biệt của HĐQT đối với CTCP. Bởi
lẽ, đây chính là cơ quan quản lý của CTCP
và là cơ quan có toàn quyền nhân danh công
ty để quyết định, thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của CTCP nếu không thuộc thẩm
quyền của ĐHĐCĐ8. Trên thực tế, HĐQT
là cơ quan chịu trách nhiệm duy trì mọi hoạt
động của CTCP, nên quyền hạn của cơ quan
này rất lớn. Theo quy định hiện nay, HĐQT
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
24 Số 24(400) T12/2019
sẽ có từ 03 đến 11 thành viên và hoạt động
trong nhiệm kỳ không quá 05 năm nhưng
thành viên có thể được bầu lại với số nhiệm
kỳ không hạn chế9. Do chịu trách nhiệm quản
lý điều hành mọi công việc quan trọng của
CTCP, nên vai trò, khả năng, trình độ hay đạo
đức của từng thành viên HĐQT rất được đề
cao. Về nguyên tắc, các thành viên phải đáp
ứng khá nhiều tiêu chuẩn và điều kiện để có
thể trở thành thành viên của HĐQT10. Nhìn
chung, nếu các thành viên HĐQT hoạt động
cần mẫn và có tinh thần, ý thức trách nhiệm
cao với công việc thì công ty và các cổ đông
hoặc nhóm cổ đông thiểu số sẽ được hưởng
lợi. Ngược lại, nếu như thành viên HĐQT cấu
kết với nhau để chuyên quyền, tư lợi thì sẽ
gây ảnh hưởng và thiệt hại rất lớn cho công ty
cũng như ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của cổ đông hoặc nhóm cổ đông thiểu
số. Chính vì vậy, hầu hết các CTCP hiện nay
đều quy định sự tham gia của Ban kiểm soát
để kiểm tra, giám sát hoạt động của các thành
viên HĐQT.
Đối với Ban kiểm soát, có thể khẳng
định, “trong các CTCP, đặc biệt là các công
ty đại chúng và công ty niêm yết, vai trò
của Ban kiểm soát là hết sức quan trọng”11.
Bởi đây là cơ quan chịu trách nhiệm thường
xuyên giám sát mọi hoạt động của HĐQT và
các chức danh lãnh đạo khác của CTCP. Về
nguyên tắc, “Ban kiểm soát là một cơ quan
do ĐHĐCĐ bầu ra, có số lượng từ 03 đến
05 thành viên, trong đó, có ít nhất một thành
viên là kế toán viên hoặc kiểm toán viên”12.
Nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu của Ban kiểm
soát chính là thực hiện các công việc liên
quan đến việc giám sát hoạt động của HĐQT,
9 Điều 150 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
10 Điều 151 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
11 Báo điện tử Vneconomy.vn, Ban kiểm soát bị vô hiệu hóa như thế nào?, nguồn:
kiem-soat-bi-vo-hieu-hoa-nhu-the-nao-20100330111055423.htm , truy cập ngày 06/4/2019.
12 Phạm Duy Nghĩa (2009), Luật Doanh nghiệp - Tình huống - Phân tích - Bình luận, sđd, tr. 158.
13 Điều 165 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
14 Báo điện tử Vneconomy.vn, Ban kiểm soát bị vô hiệu hóa như thế nào?, tlđd, truy cập 06/4/2019.
15 Điều 157 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
16 Lê Học Lâm và Lê Ngọc Đức (2010), Luật Kinh doanh, sđd, tr. 138.
Giám đốc/Tổng giám đốc trong việc quản
lý và điều hành của CTCP13. Chính vì vậy,
Ban kiểm soát phải được quyền tiếp cận mọi
thông tin liên quan đến hoạt động của các chủ
thể trên. Mặt khác, sau khi đã xem xét, thẩm
định các thông tin mà chủ yếu liên quan đến
hoạt động tài chính của công ty thì Ban kiểm
soát phải có trách nhiệm lập các báo cáo thẩm
định và trình ĐHĐCĐ. Ngoài ra, “Ban kiểm
soát còn đóng vai trò quan trọng trong việc đề
xuất các biện pháp, giải pháp khắc phục, cải
tiến để hoạt động quản lý, điều hành công ty
đạt được hiệu quả cao nhất Thế nhưng, ở
không ít các công ty, Ban kiểm soát chỉ đóng
vai trò hình thức, được chính HĐQT và các
cổ đông lớn dựng lên cho có và hoàn toàn
bị vô hiệu hóa, thậm chí còn được xem là
lực lượng hậu thuẫn, đứng sau, tiếp tay cho
HĐQT, Tổng giám đốc/Giám đốc dấn sâu
vào những hoạt động sai phạm, xâm phạm
lợi ích các cổ đông nhỏ lẻ”14. Trên thực tế,
không ít trường hợp HĐQT và Ban kiểm soát
phối hợp, liên kết với nhau để thao túng mọi
quyền lực trong CTCP.
Đối với các chức danh Giám đốc/
Tổng giám đốc, về nguyên tắc, Giám đốc/
Tổng giám đốc là người điều hành công
việc kinh doanh hằng ngày của CTCP và
chịu sự giám sát cũng như chịu trách nhiệm
trước HĐQT. Luật Doanh nghiệp năm 2014
cho phép HĐQT được quyền bổ nhiệm một
thành viên trong số họ hoặc thuê người khác
làm Giám đốc/Tổng giám đốc của CTCP15.
Ngoài ra, “Chủ tịch HĐQT có thể kiêm
nhiệm Giám đốc (Tổng giám đốc) công
ty”16. Nhiệm kỳ của Giám đốc/Tổng giám
đốc sẽ là 05 năm nhưng tương tự thành viên
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
25Số 24(400) T12/2019
của HĐQT, Giám đốc/Tổng giám đốc có thể
được bổ nhiệm lại và không bị hạn chế về
số nhiệm kỳ. Về cơ bản, nhiệm vụ và quyền
hạn của Giám đốc/Tổng giám đốc liên quan
đến việc quyết định công việc kinh doanh
hằng ngày của CTCP mà các công việc đó
không cần phải có quyết định của HĐQT.
Có thể nói rằng, do bản chất “là loại
hình công ty đối vốn, có tư cách pháp nhân,
CTCP được tổ chức quản lý theo cơ chế có
sự tách biệt khá rõ ràng giữa quyền sở hữu
và quyền quản lý công ty. Quyền quản lý
công ty không dàn trải, phân bổ cho các cổ
đông mà được tập trung ở bộ máy có tính
“chuyên nghiệp”. Các cổ đông nắm quyền sở
hữu công ty, có quyền bầu ra bộ máy quản lý
công ty nhưng bản thân mỗi cổ đông không
phải là người quản lý công ty”17. Chính vì
vậy, sự tham gia của Ban kiểm soát là rất cần
thiết đối với việc giám sát mọi hoạt động
của HĐQT. Tuy nhiên, hoạt động với mô
hình này chỉ mới có thể giúp cho Ban kiểm
soát thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt động
của HĐQT chứ chưa có thể trực tiếp quản lý
các thành viên của HĐQT như mô hình đang
áp dụng ở một số nước, như ở Cộng hòa liên
bang Đức hiện nay18. Vì vậy, quyền hạn của
HĐQT rất lớn và gần như chi phối mọi thiết
chế quyền lực khác trong CTCP.
Thứ hai, mô hình tổ chức của CTCP
có sự tham gia của Ban kiểm toán nội bộ và
thành viên độc lập.
So với Luật Doanh nghiệp năm 2005,
“mô hình quản trị công ty này mới được
Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định”19.
Cụ thể, theo quy định tại điểm b, khoản 1,
17 Nguyễn Như Phát (2011), Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam, Viện Đại học Mở Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, tr. 113 - 114.
18 Friedrich Fubler, Jurgen Simon (1992), Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, Nxb Pháp lý, tr. 47. Tại
Đức, Ban điều hành (HĐQT) do Hội đồng giám sát (Ban kiểm soát) cử ra, có nhiệm vụ quản lý và điều hành mọi hoạt
động của công ty, chẳng hạn lập kế hoạch kinh doanh, thực hiện các chính sách tài chính, lao động, đại diện công ty
trong giao dịch với bên ngoài.
19 Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam, Tập I, sđd, tr. 212.
20 Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam, Tập I, sđd, tr. 212 - 213.
21 Điểm b, khoản 1, Điều 134 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Điều 134 của Luật Doanh nghiệp năm 2014,
CTCP có mô hình tổ chức bao gồm các thiết
chế: ĐHĐCĐ, HĐQT, Giám đốc/Tổng giám
đốc. Trong đó, HĐQT phải có hai loại thành
viên khác nhau đó là thành viên chịu trách
nhiệm điều hành mọi hoạt động của công ty
(thành viên điều hành); và thành viên độc
lập. Ngoài ra, trong mô hình này, còn có sự
tham gia của Ban kiểm toán nội bộ và đây là
cơ quan trực thuộc của HĐQT.
So với mô hình cơ cấu tổ chức truyền
thống của CTCP bên trên thì đối với mô hình
tổ chức mới này, các vấn đề cơ bản như vị
trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và các quy
định khác của các cơ quan ĐHĐCĐ, HĐQT,
Giám đốc/Tổng giám đốc là tương tự như
nhau. Tuy vậy, sự khác biệt chỉ thể hiện khi
trong cơ cấu tổ chức của HĐQT còn có thêm
sự tham gia của Ban kiểm toán nội bộ và
thành viên độc lập. Cụ thể, về cơ bản, nhiệm
vụ và quyền hạn của các thiết chế này thể
hiện như sau:
Về Ban kiểm toán nội bộ và thành viên
độc lập, có thể thấy rằng, “mô hình quản
trị thứ hai này không có Ban kiểm soát mà
thay vào đó là Ban kiểm toán nội bộ, thành
viên độc lập thực hiện chức năng giám sát
và tổ chức thực hiện việc kiểm soát đối với
việc quản lý, điều hành công ty”20. Hiện nay,
Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định ít
nhất 20% số thành viên HĐQT phải là thành
viên độc lập và các thành viên độc lập thực
hiện chức năng giám sát và tổ chức thực hiện
kiểm soát đối với việc quản lý điều hành
công ty21. Về tiêu chuẩn, điều kiện để có thể
trở thành thành viên độc lập được quy định
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
26 Số 24(400) T12/2019
tại khoản 2, Điều 151 Luật Doanh nghiệp
năm 2014. Tuy nhiên, về nguyên tắc, thành
viên độc lập phải là những người không được
nắm giữ bất kỳ chức vụ nào trong CTCP (ví
dụ Chủ tịch HĐQT, Giám đốc/Tổng giám
đốc, Phó Giám đốc/Phó Tổng giám đốc, Kế
toán trưởng). Vì có như vậy, thành viên
độc lập mới không bị ảnh hưởng, chi phối
bởi những lợi ích từ việc đang nắm giữ các
chức vụ, quyền hạn trong công ty.
Có thể thấy rằng, mô hình tổ chức thứ
hai mặc dù khá mới lạ nhưng đã tạo điều
kiện thuận lợi cho CTCP có thể dễ dàng tổ
chức bộ máy quản lý và giám sát. Tuy nhiên,
hạn chế rất lớn của mô hình này chính là việc
Ban kiểm toán không tách biệt với HĐQT
mà lại là cơ quan phụ thuộc vào HĐQT.
Điều này dễ dẫn đến tình trạng HĐQT thao
túng Ban kiểm toán nội bộ.
Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp năm
2014 quy định trường hợp công ty chỉ có
một người đại diện theo pháp luật thì Chủ
tịch HĐQT hoặc Giám đốc/Tổng giám đốc
sẽ là người đại diện theo pháp luật. Trường
hợp Điều lệ công ty không có quy định khác
thì Chủ tịch HĐQT là người đại diện theo
pháp luật của công ty. Trường hợp có hơn
một người đại diện theo pháp luật thì Chủ
tịch HĐQT và Giám đốc/Tổng giám đốc
đương nhiên là người đại diện theo pháp luật
cho CTCP22. Quy định về đại diện trên được
áp dụng cho cả hai mô hình cơ cấu tổ chức
của CTCP.
Tóm lại, CTCP có rất nhiều ưu thế
để cạnh tranh và khả năng mở rộng quy mô
không bị giới hạn. Tuy nhiên, cả hai mô
hình cơ cấu tổ chức của CTCP trong Luật
Doanh nghiệp năm 2014 hiện nay, vẫn còn
tồn tại rất nhiều hạn chế, bất cập và cần có
sự nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện.
22 Khoản 2, Điều 134 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
23 Friedrich Fubler, Jurgen Simon (1992), Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, sđd, tr. 49.
2. Kiến nghị
Như đã trình bày, theo quy định tại
điểm c, khoản 1, Điều 135 Luật Doanh
nghiệp năm 2014, ĐHĐCĐ là cơ quan quyền
lực cao nhất và trực tiếp bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm thành viên HĐQT và Kiểm soát
viên. Điều này đồng nghĩa, Ban kiểm soát
không có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm
các thành việc của HĐQT. Còn nếu CTCP
hoạt động theo mô hình Ban kiểm toán nội
bộ thì đây lại là cơ quan trực thuộc của
HĐQT nên vì thế có thể dẫn đến tình trạng
có sự thông đồng, móc nối giữa HĐQT và
Ban kiểm toán nội bộ. Mặc dù vậy, nghiên
cứu cho thấy, trái ngược với quy định của
Luật Doanh nghiệp năm 2014, pháp luật
Cộng hòa liên bang Đức hiện quy định Ban
kiểm soát mới là cơ quan bầu ra các thành
viên của HĐQT và giám sát hoạt động của
cơ quan này23. Cụ thể tại Đức, pháp luật luôn
đề cao vai trò của Ban kiểm soát trong việc
giám sát các hoạt động và thành viên của
HĐQT. Hay nói cách khác, pháp luật Đức
quy định cho Ban kiểm soát quyền hạn rất
lớn và đây là cơ quan hoàn toàn độc lập với
HĐQT. Điểm thuận lợi của mô hình tổ chức
này chính là việc HĐQT trong quá trình
hoạt động phải luôn có tinh thần, ý thức
trách nhiệm rất cao vì luôn chịu sự quản lý,
giám sát chặt chẽ của Ban kiểm soát. Từ đó,
theo chúng tôi, nếu Việt Nam quy định cơ
cấu tổ chức của CTCP giống như mô hình
của Đức hiện nay thì sẽ phù hợp hơn. Bởi
lẽ, điều này góp phần mở rộng sự dân chủ,
bình đẳng giữa mọi cổ đông và giảm bớt sự
tư lợi, chuyên quyền của các cổ đông hoặc
nhóm cổ đông lớn. Trên thực tế, các CTCP
của Việt Nam hiện nay đang phát triển theo
mô hình của Hoa Kỳ. Tức là, “quyền lực của
các công ty tập trung chủ yếu vào các cổ
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
27Số 24(400) T12/2019
đông lớn và những người quản lý điều hành
công ty (managers)”24. Mặc dù pháp luật của
Việt Nam có quy định ít nhất 20% số thành
viên HĐQT phải là thành viên độc lập, tuy
nhiên, điều này lại mâu thuẫn vì những cổ
đông hoặc nhóm cổ đông nắm giữ rất ít cổ
phần thì rất khó đủ điều kiện để trở thành
thành viên của HĐQT. Vì với nguyên tắc ưu
tiên số phiếu bầu, nên thông thường những
cổ đông được tham gia vào HĐQT chủ yếu
lại là các cổ đông hoặc nhóm cổ đông lớn.
Cho dù các cổ đông lớn này không giữ các
chức vụ của công ty và chỉ tham gia vào Ban
kiểm toán nội bộ trực thuộc HĐQT nhưng
ít nhiều họ vẫn mong muốn các điều mang
lại lợi ích cho họ hoặc cho nhóm quyền lợi
của họ. Vì thế, theo chúng tôi, mô hình Ban
kiểm toán nội bộ trực thuộc HĐQT rất có thể
tiếp tay cho các thành viên đang giữ chức
24 Friedrich Fubler, Jurgen Simon (1992), Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, sđd, tr. 50.
25 Friedrich Fubler, Jurgen Simon (1992), Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, sđd, tr. 47.
vụ trong HĐQT dễ dàng thao túng công ty.
Điều này càng làm cho các cổ đông thiểu số
sẽ rất khó khăn khi muốn tiếp cận và giám
sát hoạt động của HĐQT. Hơn nữa, mô hình
CTCP tại Việt Nam hiện nay đang ưu tiên
khá nhiều quyền hạn cho HĐQT. Ngược lại,
đã có nhận xét cho rằng, pháp luật Đức với
“cơ cấu ba cơ quan của CTCP hướng tới sự
phân chia đồng đều về quyền lãnh đạo và
quản lý giữa các cơ quan”25. Chính vì vậy,
nếu mô hình CTCP của Việt Nam hoạt động
giống như mô hình tại Đức hiện nay thì Ban
kiểm soát mới có thể độc lập với HĐQT và
có quyền hạn cần thiết để kiểm tra, giám sát
các hoạt động của HĐQT. Như vậy mới có
thể bảo vệ tốt nhất cho các cổ đông hoặc
nhóm cổ đông thiểu số
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo điện tử Vneconomy.vn, Ban kiểm soát bị vô hiệu hóa như thế nào?, nguồn truy cập: http://
vneconomy.vn/doanh-nhan/ban-kiem-soat-bi-vo-hieu-hoa-nhu-the-nao-20100330111055423.htm, truy cập
ngày: 06/4/2019.
2. Friedrich Fubler, Jurgen Simon (1992), Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, Nhà xuất
bản Pháp lý.
3. Nguyễn Thị Khế (2007), Pháp luật về tổ chức các hình thức kinh doanh, Nxb. Tư pháp.
4. Nguyễn Thị Lan Hương (2009), Một số so sánh về CTCP theo Luật công ty Nhật Bản và Luật doanh
nghiệp Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 25 (2009).
5. Lê Học Lâm và Lê Ngọc Đức (2010), Luật Kinh doanh, Nxb. Thống kê.
6. Khoa Luật - Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (1998), Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Phạm Duy Nghĩa (2009), Luật Doanh nghiệp - Tình huống - Phân tích - Bình luận, Nhà Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội.
8. Nguyễn Như Phát (2011), Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam, Viện Đại học Mở Hà Nội, Nxb. Công an
nhân dân.
9. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp.
10. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp.
11. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật thương mại Việt Nam tập I, Nxb. Công an nhân dân.
12. Lê Minh Toàn (chủ biên 2006), Luật Kinh tế Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
28 Số 24(400) T12/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_cau_to_chuc_cua_cong_ty_co_phan_theo_luat_doanh_nghiep_na.pdf