Kiến nghị
Dự thảo Luật cần phân định rạch ròi
mô hình quản trị của một đơn vị sự nghiệp
công lập chưa tự chủ tài chính với quản trị
một đơn vị sự nghiệp công lập đã tự chủ
tài chính. Tiểu mục 3, Mục III, Nghị quyết
19-NQ/TW xác định “Đổi mới cơ chế xác
định và giao biên chế theo hướng quản lý,
giám sát chặt chẽ biên chế của các đơn vị
sự nghiệp công lập do ngân sách nhà nước
bảo đảm toàn bộ hoặc một phần chi thường
xuyên; đẩy mạnh thí điểm việc thi tuyển và
thực hiện thuê giám đốc điều hành tại các
đơn vị sự nghiệp công lập”. Như vậy, với
vai trò điều hành, Hiệu trưởng sẽ như một
giám đốc điều hành. Mặt khác, Nghị quyết
19-NQ/TW cũng đã xác định “Áp dụng mô
hình quản trị đối với các đơn vị sự nghiệp tự
bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư như
mô hình quản trị doanh nghiệp”.
Cần bỏ những quy định cứng nhắc
về nhiệm kỳ, về các điều kiện cứng áp dụng
với chức vụ Hiệu trưởng trường công lập, kể
cả quy trình bổ nhiệm và công nhận - nhất
là đối với các trường tự chủ. Các trường đại
học tự chịu trách nhiệm trước pháp luật và
trước Nhà nước về chất lượng và hiệu quả
điều hành. Nhà nước kiểm soát bộ máy điều
hành thông qua Hội đồng trường. Từng
thành viên trong Hội đồng trường phải chịu
trách nhiệm trước Nhà nước và pháp luật về
các quyết định của mình, trong đó có việc
lựa chọn và bổ nhiệm Hiệu trưởng. Nếu
chúng ta tự tin với cơ chế tự chủ thì chúng ta
phải tự tin xây dựng cơ chế chịu trách nhiệm
đối với các trường đại học và cụ thể là cơ
chế chịu trách nhiệm của các thành viên Hội
đồng trường. Do đó, vấn đề cần giải quyết
là xây dựng một cơ chế mạnh cho Hội đồng
trường cả về thẩm quyền và trách nhiệm.
Đồng thời, phải mạnh mẽ mở rộng và làm
thông thoáng cho các quy định khác theo
hướng giao trách nhiệm hơn nữa cho các
trường đại học trong việc lựa chọn, quyết
định Hiệu trưởng. Vì thế, sẽ không còn quy
định về tiêu chuẩn mà sẽ do từng Trường đại
học tự đặt ra các tiêu chuẩn về Hiệu trưởng.
Nghị quyết 19-NQ/TW và pháp luật
hiện hành đều không áp dụng chế độ công
chức cho bất kỳ chức danh nào trong các
trường đại học tự chủ hoàn toàn về tài chính.
Vì lẽ đó, sẽ không còn áp dụng các chế độ
kiểm soát và quản lý công chức dành cho
Hiệu trưởng và các thành viên khác trong
Ban giám hiệu. Mặt khác, Nghị quyết 19-
NQ/TW cũng đặt ra cơ chế thí điểm rất
thoáng dành cho các đơn vị sự nghiệp công
lập là cho phép thuê giám đốc. Một khi Nghị
quyết của Trung ương Đảng đã chấp nhận
cho thí điểm thuê giám đốc thì việc thuê
Hiệu trưởng hoàn toàn có thể áp dụng và
nên khuyến khích áp dụng cho các trường
đại học công lập đã tự chủ tài chính
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 344 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ cấu tổ chức trong các trường Đại học công lập theo dự thảo luật sửa đổi, bổ sung luật giáo dục Đại học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm
2012 hiện đang được soạn thảo. Một trong những cơ sở quan trọng
khi xây dựng Dự án luật này là những định hướng từ Nghị quyết số
19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao
chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập
được Ban Chấp hành trung ương thông qua ngày 25/10/2017 (Nghị
quyết 19-NQ/TW). Tuy nhiên, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật
Giáo dục đại học hiện chưa quán triệt đầy đủ, trọn vẹn các định hướng
ghi trong Nghị quyết 19-NQ/TW. Do vậy, Dự thảo Luật này cần phải
tiếp tục bổ sung, hoàn thiện.
Nguyễn Ngọc Sơn*
* TS. Trường Đại học Tôn Đức Thắng.
Abstract
The law on amendments of a number of articles under the Law on
Higher Education of 2012 is currently being developed. One of the
important grounds for this bill is the orientation in the Resolution No.
19-NQ/TW on continuation for renovation of the organization and
management system of, improvement of the quality and efficiency
of the performance of the public service units approved by the
Central Committee on 25 Oct. 2017 (the Resolution 19-NQ/TW).
However, it does not seem that the bill of law to amend the Law on
Higher Education is not fully undertaken and fully described in the
Resolution 19-NQ / TW. Therefore, this draft law needs to receive
further improvements.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Dự thảo Luật sửa đổi, bổ
sung Luật Giáo dục đại học; bất
cập; tổ chức quản lý trường đại
học; Hội đồng trường; Hiệu trưởng.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 30/06/2018
Biên tập : 28/07/2018
Duyệt bài : 03/08/2018
Article Infomation:
Keywords: The bill of law on
amendments of the Law on
Higher Education; shortcomings;
university organization and
management; university council;
the university principal.
Article History:
Received : 30 Jun. 2018
Edited : 28 Jul. 2018
Approved : 03 Aug. 2018
CƠ CẤU TỔ CHỨC TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
THEO DỰ THẢO LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
1. Mô hình tổ chức quản lý trường đại học
1.1 Bất cập trong quy định về mô hình tổ
chức quản lý trường đại học
Cơ cấu tổ chức của trường đại học
được quy định tại Điều 14 Dự thảo Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
29Số 16(368) T8/2018
dục đại học (GDĐH) năm 20121 (Dự thảo
Luật). So sánh quy định của Dự thảo Luật
và Điều 14 Luật GDĐH hiện hành, chúng
tôi nhận thấy, quy định về cơ cấu tổ chức của
trường đại học công lập theo Khoản 1 gần
như không có thay đổi so với Luật GDĐH
hiện hành. Sự thay đổi chỉ là bổ sung thêm
mô hình quản lý của trường đại học tư thục
và đại học có vốn nước ngoài. Đồng thời,
từ Khoản 1 đến Khoản 3 Điều 14 của Dự
thảo Luật, Ban soạn thảo đã có sự phân loại
trường đại học theo vốn sở hữu và thiết kế
mô hình quản trị khác nhau. Trong đó có ba
mức độ khác nhau về bộ máy quản lý của
trường đại học:
- Với trường đại học công lập, mô hình
quản lý được thiết kế bao gồm: Hội đồng
trường; Hiệu trưởng và các Phó hiệu trưởng;
Phòng, Ban chức năng và Khoa, Bộ môn.
- Với các trường tư thục, mô hình
quản lý bao gồm: Đại hội đồng cổ đông
(hoặc Chủ tịch trường hoặc Hội đồng quản
trị); Hội đồng quản trị; Hiệu trưởng và các
Phó hiệu trưởng; Phòng, Ban chức năng và
Khoa, Bộ môn; và Ban kiểm soát.
- Trường đại học có từ 51% vốn đầu
tư nước ngoài trở lên được tự quyết định cơ
cấu tổ chức.
Chúng tôi cho rằng, cách quy định này
là lỗi thời, bất bình đẳng và không phù hợp
với tinh thần của Nghị quyết 19-NQ/TW.
Sự lỗi thời thể hiện ở việc phân chia
mô hình quản lý theo vốn góp. Ngay từ năm
2005, Quốc hội đã ban hành Luật Doanh
nghiệp trên tinh thần xóa bỏ sự phân biệt về
vốn góp khi quản lý các doanh nghiệp, dù
đó là vốn Nhà nước, vốn tư nhân hay vốn
nước ngoài. Nhưng, Dự thảo Luật lại tạo
ra sự phân biệt rõ ràng, mỗi loại trường đại
học có cơ cấu quản lý khác nhau tùy theo
nguồn vốn đầu tư. Rõ ràng, sự phân biệt
này hoàn toàn chưa thoát được tư duy “bao
1 Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH (Dự thảo lần thứ ba) tại:
DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=1394&LanID=1524&TabIndex=1
cấp” và “hành chính hóa” trong quản lý giáo
dục, nhất là quản lý các cơ sở đào tạo công
lập. Cho đến nay, với tinh thần đổi mới cơ
chế quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập
theo Nghị quyết 19/NQ-TW, các đơn vị sự
nghiệp sẽ được quản lý theo mô hình doanh
nghiệp. Chỉ khi các đơn vị sự nghiệp (trong
đó có các trường đại học) được quản lý theo
mô hình doanh nghiệp, Nhà nước mới có cơ
hội giảm bớt sự bao cấp và gánh nặng tài
chính, gánh nặng nhân sự và các đơn vị sự
nghiệp có cơ hội hoạt động hiệu quả trong
môi trường cạnh tranh.
Sự bất bình đẳng thể hiện ở chỗ, theo
Điều 14 của Dự thảo Luật, các trường đại
học có vốn nước ngoài từ 51% trở lên được
toàn quyền định đoạt mô hình quản lý. Các
trường đại học còn lại đều phải tuân theo mô
hình quản lý do luật định, bị áp dụng chế độ
kiểm soát không khác gì Luật GDĐH hiện
hành và các cơ quan quản lý nhà nước có
thể can thiệp khá sâu vào việc bổ nhiệm các
chức danh chủ chốt, nhất là Thành viên Hội
đồng trường và Hiệu trưởng. Như vậy, các
trường đại học công lập và tư thục phải có
cơ cấu quản lý chặt chẽ trong khi các trường
đại học có vốn nước ngoài lại “được thả nổi”
về mô hình quản trị. Điều này tạo nên “vùng
tự do” trong quản lý và vùng này dành riêng
cho các trường có vốn nước ngoài. Sự bất
bình đẳng này là mối nguy cơ lớn cho cả
một quá trình quản lý giáo dục và chắc chắn
tạo nên sự bất lợi cho các trường đại học
công lập và tư thục khi hoạt động ngay trên
lãnh thổ Việt Nam.
Hơn nữa, với các trường đại học có
vốn đầu tư nước ngoài từ 51% trở lên (lưu
ý chỉ là vốn đầu tư nước ngoài - chưa cần
chủ thể đầu tư là một trường danh tiếng
hoặc không danh tiếng, thậm chí có thể là
nhà đầu tư chưa có kinh nghiệm giáo dục),
pháp luật hoàn toàn không quy định về cơ
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
30 Số 16(368) T8/2018
cấu quản lý, tiêu chuẩn của người đứng đầu,
chức danh đại diện theo pháp luật, và cũng
chẳng quy trách nhiệm cho bất kỳ ai ngoài
nhà đầu tư. Điều này đặt ra hàng hoạt vấn đề
pháp lý (i) ai sẽ là người chịu trách nhiệm
chính về chương trình và chất lượng đào tạo;
(ii) trường đại học có vốn đầu tư nước ngoài
có là pháp nhân theo pháp luật Việt Nam
không; (iii) trong những trường hợp có sự
lừa đảo trong đào tạo, chúng ta sẽ quy trách
nhiệm cho ai và ai là người có trách nhiệm
giải trình?...
Chúng tôi cho rằng, sự khác biệt giữa
các trường đại học theo vốn sở hữu đơn giản
là chỉ khẳng định chủ sở hữu của trường đó
là ai. Do đó, sự khác biệt trong cơ cấu quản
lý giữa các trường đại học công lập, đại học
tư thục và đại học tư thục có vốn nước ngoài
chỉ đơn giản là cơ quan đại diện chủ sở hữu
là cơ quan nào và cách thức thành lập, cách
thức vận hành của cơ quan đó. Tất cả các
chế định khác như chế định về hiệu trưởng,
về bộ máy điều hành, bộ máy chuyên môn
là phải giống nhau. Phải có sự bình đẳng về
quản lý theo nguyên tắc đã tự do định đoạt
thì tất cả đều có cơ hội giống nhau hoặc đã
kiểm soát chặt thì việc kiểm soát chặt phải
áp dụng chung cho mọi trường đại học. Nếu
Ban soạn thảo cho rằng, có những quy định
chỉ có thể áp dụng cho các trường trong
nước mà không thể áp dụng cho các trường
có vốn đầu tư nước ngoài thì rõ ràng, phải
xem lại giá trị đích thực của quy định đó và
xác định có cần thiết áp dụng quy định đó
cho các trường đại học có vốn đầu tư trong
nước hay không.
Bên cạnh đó, Dự thảo Luật không phù
hợp với thực tiễn hoạt động của khối các
trường đại học công lập và chưa theo định
hướng của Nghị quyết 19-NQ/TW. Nghị
quyết 19-NQ/TW phân hóa rõ đơn vị sự
nghiệp công lập tự chủ hoàn toàn và chưa tự
chủ (ở đây là các cơ sở GDĐH tự chủ hoàn
toàn và cơ sở giáo dục đại học chưa tự chủ).
Đặc biệt, Nghị quyết nêu rõ các giải pháp
tổng thể, toàn diện trong cải cách bộ máy
quản lý của các cơ sở GDĐH tự chủ hoàn
toàn. Đối với tổ chức quản lý của các đơn vị
sự nghiệp tự chủ hoàn toàn, Nghị quyết 19-
NQ/TW có nêu định hướng tại tiểu mục 5,
mục III “Áp dụng mô hình quản trị đối với
các đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi thường
xuyên và chi đầu tư như mô hình quản trị
doanh nghiệp”. Rất tiếc, Dự thảo Luật chỉ
đặt ra một mô hình chung cho cả hai loại
hình đại học công lập (dù có tự chủ hay
không) mà chưa phân hóa mô hình quản lý
riêng cho các cơ sở GDĐH tự chủ hoàn toàn,
chưa thiết kế theo mô hình quản trị doanh
nghiệp đối với nhóm trường đại học tự chủ.
1.2 Kiến nghị sửa đổi
Từ các phân tích nêu trên, giải pháp
cần làm khi xây dựng cơ cấu quản lý của các
trường đại học theo Điều 14 trong Dự thảo
Luật là:
- Phải đảm bảo xây dựng được mô hình
quản trị chung và tối thiểu cho các trường đại
học. Trong đó, ngay cả các trường đại học có
vốn đầu tư nước ngoài (dù mức đầu tư là bao
nhiêu) cũng phải tuân thủ cơ cấu tối thiểu
trong quản lý và điều hành. Cơ cấu này gồm
các nội dung sau: những bộ phận quản trị
cơ bản (Hội đồng trường, Hội đồng quản trị,
Đại hội đồng cổ đông); chức danh điều
hành và nguyên tắc xác định người đại diện
theo pháp luật; xác định người (hoặc nhóm
người) có trách nhiệm cao nhất trước pháp
luật, trước người học và các đối tác
- Đối với các trường đại học công lập
đã tự chủ về tài chính hoàn toàn, mô hình
quản lý phải tuân thủ đúng định hướng: “Áp
dụng mô hình quản trị đối với các đơn vị sự
nghiệp tự bảo đảm chi thường xuyên và chi
đầu tư như mô hình quản trị doanh nghiệp”
tiểu mục 5, mục III của Nghị quyết 19-NQ/
TW. Các cơ quan, chức danh quản lý điều
hành (trừ Hội đồng trường) của trường đại
học công lập tự chủ tài chính được áp dụng
tương tự các trường tư thục. Các chức vụ
quản lý khác ngoài Hội đồng trường của
một trường đại học công lập tự chủ tài chính
phải được áp dụng theo các tiêu chuẩn, quy
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
31Số 16(368) T8/2018
trình theo quy định áp dụng cho trường tư
thục. Bởi theo quy định trong Dự thảo Luật,
mô hình quản lý của trường đại học tư thục
hoàn toàn giống với mô hình quản lý của
một doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp
2014. Chỉ khi quy định như vậy, chúng ta
mới đảm bảo: sự tuân thủ đúng định hướng
của Nghị quyết 19-NQ/TW; khuyến khích
các trường tự chủ và sự tạo sự bình đẳng
trong hoạt động giữa trường tư và trường
công tự chủ.
- Điều 14 nên phân chia thành các
nhóm nội dung trong cơ cấu quản lý và tổ
chức của một trường đại học để tránh nhầm
lẫn về chức năng, nhiệm vụ và vai trò của
từng bộ phận như sau: 1) Bộ máy quản lý,
các cơ quan và chức danh quản lý điều hành
bao gồm: cơ quan quản lý có thẩm quyền
cao nhất: Hội đồng trường của Trường công
lập (tương tự là Đại hội đồng cổ đông, Hội
đồng quản trị của Trường tư thục); cơ quan
điều hành (Hiệu trưởng); và Ban kiểm soát
(đối với Trường tư thục); 2) Cơ cấu tổ chức:
trường đại học ngoài trụ sở chính còn có thể
có các phân hiệu (giống chi nhánh của một
doanh nghiệp); cơ sở thực hành, tổ chức phục
vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển
giao công nghệ; văn phòng đại diện (việc
thành lập văn phòng đại diện là quyền cơ bản
của một tổ chức, đơn vị sự nghiệp); doanh
nghiệp, cơ sở kinh doanh khác do trường đại
học lập theo Luật Doanh nghiệp (nếu có). 3)
Tổ chức chuyên môn: các Khoa, Bộ môn, Tổ
chức khoa học và công nghệ; Hội đồng khoa
học và đào tạo; các Hội đồng tư vấn. Trên
cơ sở phân định này, chúng ta thiết kế rõ sự
phân bổ quyền lực và khả năng can thiệp vào
chuyên môn, quản lý và điều hành của từng
bộ phận. Đồng thời, Điều 14 sẽ tránh được sự
phức tạp, trộn lẫn các nội dung khác về bản
chất vào cùng một quy định.
2. Hội đồng trường
2.1 Bất cập trong quy định về Hội đồng
trường
Những điểm mới trong quy định về
Hội đồng trường trong Dự thảo Luật không
làm thay đổi bản chất trong tổ chức và hoạt
động của Hội đồng trường. Dự thảo Luật
đang lặp lại nguyên văn Khoản 2 Điều 16
Luật GDĐH hiện hành, “Hội đồng trường
là tổ chức quản trị, đại diện quyền sở hữu
của nhà trường”. Nếu theo tinh thần Nghị
quyết 19-NQ/TW (tiểu mục 5, Mục III), có
thể thấy, Dự thảo Luật chưa tiếp thu nguyên
tắc đã đặt ra là “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả
cơ chế Hội đồng trường trong các Trường đại
học theo hướng, Hội đồng trường là cơ quan
thực quyền cao nhất của Trường đại học”.
Dự thảo Luật có nhiều thay đổi về
thẩm quyền cho Hội đồng trường. Tuy nhiên,
điểm đ Khoản 2 Điều 16 Dự thảo Luật đặt ra
cơ chế khá phức tạp và chưa mạnh dạn giao
quyền tự chủ cho các trường đại học công
lập khi Hội đồng trường “quyết định nhân
sự Hiệu trưởng và các Phó hiệu trưởng trình
cơ quan quản lý có thẩm quyền công nhận”.
Quy định này chưa hợp lý và chưa đảm bảo
tinh thần tự chủ mà Nghị quyết 19-NQ/TW
đã đặt ra. Theo đó, (1) Dự thảo Luật giao
quyền quyết định nhân sự Ban Giám hiệu
cho Hội đồng trường nhưng lại đặt ra cơ chế
“công nhận” và giao quyền “công nhận” cho
cơ quan quản lý có thẩm quyền. Hội đồng
trường hoàn toàn không là cơ quan có quyền
cao nhất về nhân sự của trường đại học. Mặc
dù Dự thảo Luật không sử dụng từ “cơ quan
chủ quản”, song với sự xuất hiện của cụm
từ “cơ quan quản lý có thẩm quyền” cho
thấy, “cơ quan chủ quản” vẫn tiếp tục tồn
tại trong việc quản lý một trường đại học
công lập; (2) Vấn đề phát sinh là khi tiếp
tục tồn tại mô hình quản lý “cơ quan chủ
quản” thì Luật GDĐH cũng cần phải định
rõ thẩm quyền, phạm vi, khả năng và cách
thức can thiệp vào hoạt động của cơ quan
chủ quản đối với trường đại học. Trường đại
học chỉ có thể tự chủ theo đúng định hướng
của Nghị quyết 19-NQ/TW khi xác định rõ
thẩm quyền, cách thức cũng như phạm vi
quản lý của cơ quan chủ quản. Rất tiếc, Dự
thảo Luật hoàn toàn không có quy định về
giới hạn quản lý của cơ quan chủ quản đối
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
32 Số 16(368) T8/2018
với các trường đại học. Hạn chế này có thể
tạo ra cơ hội cho sự quản lý và can thiệp của
các cơ quan quản lý một cách tùy tiện, sâu
rộng vào các trường và phá vỡ hoàn toàn kế
hoạch xây dựng mô hình tự chủ đối với các
cơ sở đào tạo đại học công lập.
2.2 Kiến nghị sửa đổi
Thứ nhất, thay đổi cách quản lý các cơ
sở đào tạo đại học bằng việc tăng cường sự
tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở
này. Vấn đề tự chủ không thể là “khẩu hiệu”
và chỉ được thể hiện trong các “chính sách,
chủ trương” mà phải là thể hiện bằng pháp
luật. Trong đó, việc tự chủ phải thể hiện dứt
khoát và mạnh mẽ trong mô hình quản lý.
Luật GDĐH phải được sửa đổi triệt để về
mô hình quản trị theo đúng định hướng của
Nghị quyết 19-NQ/TW. Về mô hình quản
trị, chúng ta nên xây dựng Dự thảo Luật sửa
đổi, bổ sung Luật GDĐH theo cách thức sau:
Một là, đối với các trường đại học công
lập, Nhà nước quản lý thông qua Hội đồng
trường. Do đó, cơ chế duy nhất để thực hiện
quyền sở hữu nhà nước đối với Trường đại
học là Hội đồng trường. Theo đó, Nhà nước
cử đại diện quản lý bằng cách bổ nhiệm các
thành viên của Hội đồng trường. Đối chiếu
với mô hình quản trị các doanh nghiệp, chủ
sở hữu các công ty quản trị thông qua bộ
máy đại diện (cổ đông quản lý qua việc bầu
Hội đồng quản trị); khi đã cử đại diện, chủ
sở hữu trao quyền quyết định cho Hội đồng
quản trị để quyết định việc quản lý doanh
nghiệp. Mô hình này đã và đang áp dụng
cho các doanh nghiệp nhà nước. Áp dụng
tương tự với các trường đại học công lập,
Nhà nước cần phải quản lý thông qua Hội
đồng trường. Tuy nhiên, có các vấn đề cần
phải thể hiện rõ:
- Phải có quy định khẳng định vai trò
của Hội đồng trường theo đúng tinh thần của
Khoản 5 Tiểu mục III, Nghị quyết 19-NQ/
TW là “Hội đồng trường là cơ quan thực
quyền cao nhất của Trường đại học; Bí thư
Đảng uỷ kiêm Chủ tịch Hội đồng trường”.
- Hội đồng trường là cơ quan bắt buộc
trong các Trường đại học công lập, bao gồm
trường tự chủ và trường chưa tự chủ.
- Phải có quy định rõ cơ quan nào có
thẩm quyền bổ nhiệm Thành viên Hội đồng
trường;
- Chủ tịch Hội đồng trường là chức vụ
quản lý chứ không phải là chức danh như
Dự thảo Luật đang quy định tại Khoản 7
Điều 16.
Hai là, một khi Hội đồng trường được
xác lập là cơ quan đại diện chủ sở hữu và là
cơ quan thực thi quyền cao nhất của Trường
đại học thì tất yếu bộ máy điều hành (các
thành viên Ban giám hiệu, Trưởng phó
Phòng, Ban, Khoa) phải được tạo lập theo
đúng nguyên tắc tự chủ của đơn vị sự nghiệp
công lập. Đối với các trường đại học công
lập đã tự chủ về tài chính hoàn toàn, ngoài
việc đảm bảo áp dụng đúng mô hình quản
trị doanh nghiệp cho nhóm các trường đại
học này, chúng tôi cho rằng, Ban soạn thảo
cần soạn lại các quy định của Dự thảo Luật
như sau:
- Về nguyên tắc, một trường đại học
công lập tự chủ hoàn toàn về tài chính không
phải và không bao giờ còn là một đơn vị sự
nghiệp công lập bao cấp, nên khung pháp
luật áp dụng cho mô hình này tuyệt đối
không còn là cơ chế quản lý hành chính và
cơ chế quản lý bao cấp.
- Đại học công lập tự chủ hoàn toàn
được quản trị như doanh nghiệp và không áp
dụng chế độ "công chức" đối với mọi chức
vụ quản lý và người lao động. Vì thế, không
áp dụng bất cứ quy định về công chức nào
đối với bất kỳ nhân sự nào của trường (bao
gồm và không giới hạn ở các thành viên
Ban giám hiệu - kể cả Hiệu trưởng, Trưởng,
phó các Phòng, Ban, Khoa, Giảng viên,
Viên chức). Trong cơ chế này, chúng ta
không định tuổi bổ nhiệm, nhiệm kỳ, tuổi về
hưu (nếu còn làm việc tốt và còn được nhà
trường tín nhiệm và ký hợp đồng thuê làm
việc)...;
- Hội đồng trường của một trường đại
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
33Số 16(368) T8/2018
học nói chung và trường đại học tự chủ hoàn
toàn chỉ có thực quyền khi pháp luật và Nhà
nước mạnh dạn thực hiện cơ chế “bỏ Bộ
chủ quản và bỏ cơ chế chủ quản”. Hội đồng
trường chọn Hiệu trưởng và quyết nghị bổ
nhiệm. Hiệu trưởng chọn Phó hiệu trưởng
trở xuống và quyết định bổ nhiệm.
- Đã được quản trị như doanh nghiệp
thì đại học công lập tự chủ hoàn toàn phải
được quản trị theo Luật Doanh nghiệp (về
bộ máy quản lý, về sáp nhập, chia tách, giải
thể, thành lập...). Dự thảo Luật không nên
quy định bên trong đại học công lập tự chủ
có bao nhiêu cấp tổ chức. Đó là quyền của
Hội đồng trường. Tùy theo tình hình phát
triển của trường và nhu cầu xã hội, Hội đồng
trường quyết định nhà trường có mấy cấp
quản lý. Bên trong đại học có thể có Trường
trực thuộc, Khoa, Phân hiệu, Cơ sở, Phòng,
Ban, đơn vị sản xuất, công ty... Việc Dự thảo
Luật tự chế định các cấp quản lý nội bộ của
một đơn vị tự chủ là đi ngược với xu thế
tự chủ và ngược lại với định hướng cụ thể
của Nghị quyết 19-NQ/TW. Pháp luật giao
quyền quyết định về các cấp quản lý nội bộ
của trường cho Hội đồng trường. Hội đồng
trường còn có quyền chọn và quyết định
Hiệu trưởng thì việc quyết định cơ cấu quản
lý và tổ chức nội bộ của trường phải giao
cho Hội đồng trường thì Hội đồng trường
mới có thực quyền và là cơ quan có quyền
cao nhất trong Trường theo đúng tinh thần
của Nghị quyết 19-NQ/TW.
- Tất cả những vấn đề còn lại: đầu tư,
mua sắm, quy chế chi tiêu, liên kết nước
ngoài, liên doanh, liên kết, quyết định cho
nhân sự đi nước ngoài, tổ chức hội thảo
quốc tế, việc tổ chức Đảng - Đoàn thể trong
Nhà trường... đều áp dụng theo Luật Doanh
nghiệp hoặc áp dụng theo các Quy định đối
với đại học tư thục, đại học có vốn đầu tư
nước ngoài.
- Là doanh nghiệp đặc biệt, thuộc sở
hữu nhà nước trong lĩnh vực giáo dục dù là
tự chủ hoàn toàn; nên đại học tự chủ phải
được hưởng các ưu đãi về thuế: phải miễn
thuế thu nhập doanh nghiệp (hiện nay các
trường đều đang bị áp loại thuế này); miễn
thuế trị giá gia tăng đối với các hoạt động
kinh doanh, miễn thuế thu nhập từ tiền lãi
do Ngân hàng trả (hiện nay các trường đều
đang bị áp loại thuế này)... nhằm có nguồn
tài chính tài trợ học bổng cho con em nghèo
và con em diện chính sách (Ngân sách Nhà
nước không cần tài trợ nữa); được giao đất
không qua đấu giá, miễn tiền thuê và tiền sử
dụng đất...
3. Quy định về Hiệu trưởng
3.1 Bất cập trong các quy định về
Hiệu trưởng
Các quy định về Hiệu trưởng được đề
cập tại Điều 20 của Dự thảo Luật. Nếu so
sánh Điều 20 của Dự thảo Luật với Điều 20
Luật GDĐH hiện hành, có thể thấy, những
quy định mới về Hiệu trưởng của trường
đại học chỉ áp dụng cho các trường đại
học ngoài công lập. Các quy định về Hiệu
trưởng của trường đại học công lập không
có bất kỳ sự thay đổi nào so với quy định
của Luật GDĐH, cụ thể: 1) Hiệu trưởng
trường đại học công lập vẫn do cơ quan
quản lý có thẩm quyền công nhận sau khi
Hội đồng trường quyết định. Điều này cho
thấy, Ban soạn thảo chưa sẵn sàng bỏ cơ chế
quản lý đối với các trường đại học công lập.
Do đó, cơ quan chủ quản vẫn là cơ quan có
quyền cao nhất trong việc quản lý trường đại
học. Trong đó, chức danh điều hành do cơ
quan chủ quản công nhận. 2) Các tiêu chuẩn
của Hiệu trưởng và giới hạn hai nhiệm kỳ
của Hiệu trưởng trường đại học công lập
hoàn toàn không có sự khác biệt so với Luật
GDĐH hiện hành.
Về quản lý các đơn vị sự nghiệp công
lập, Nghị quyết 19-NQ/TW đã nêu ra nhiều
giải pháp mang tính toàn diện, tổng thể và
hệ thống để đổi mới cơ chế và bộ máy quản
lý. Trong đó, có 07 vấn đề quan trọng có thể
áp dụng cho các cơ sở GDĐH, bao gồm: (1)
“đẩy mạnh cơ chế tự chủ, xã hội hóa, trước
hết là các cơ sở GDĐH” (mục III.4); (2) áp
dụng mô hình quản trị đối với các đơn vị sự
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
34 Số 16(368) T8/2018
nghiệp tự bảo đảm chi thường xuyên và chi
đầu tư như mô hình quản trị doanh nghiệp
(mục III.4 và 5); (3) Nâng cao hiệu lực,
hiệu quả cơ chế Hội đồng trường trong các
Trường đại học theo hướng Hội đồng trường
là cơ quan quyền lực cao nhất của Trường
đại học; Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch Hội
đồng trường (mục III.5); (4) Chuyển các
đơn vị sự nghiệp công lập có tính chất cung
cấp dịch vụ sự nghiệp công của bộ, ngành
về chính quyền địa phương quản lý. Bộ chỉ
thực hiện chủ quản đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập phục vụ nhiệm vụ quản lý
nhà nước của bộ và các đơn vị trọng điểm,
chuyên sâu (mục III.7); (5) Thí điểm thuê
giám đốc điều hành tại các đơn vị sự nghiệp
công lập (mục III.3); (6) thực hiện hợp đồng
viên chức có thời hạn (mục III.3); (7) không
thực hiện chế độ công chức trong đơn vị sự
nghiệp công lập (mục III.3).
Như vây, chúng ta thấy Dự thảo Luật
chưa tiếp thu những định hướng có tính
“cách mạng” trong quản trị trường đại học
của Nghị quyết 19-NQ/TW. Riêng các quy
định về Hiệu trưởng của Trường đại học, Dự
thảo Luật vẫn mang đậm màu sắc và nguyên
tắc của quản lý hành chính mà chưa phải là
quản trị đại học theo mô hình doanh nghiệp.
3.2 Kiến nghị
Dự thảo Luật cần phân định rạch ròi
mô hình quản trị của một đơn vị sự nghiệp
công lập chưa tự chủ tài chính với quản trị
một đơn vị sự nghiệp công lập đã tự chủ
tài chính. Tiểu mục 3, Mục III, Nghị quyết
19-NQ/TW xác định “Đổi mới cơ chế xác
định và giao biên chế theo hướng quản lý,
giám sát chặt chẽ biên chế của các đơn vị
sự nghiệp công lập do ngân sách nhà nước
bảo đảm toàn bộ hoặc một phần chi thường
xuyên; đẩy mạnh thí điểm việc thi tuyển và
thực hiện thuê giám đốc điều hành tại các
đơn vị sự nghiệp công lập”. Như vậy, với
vai trò điều hành, Hiệu trưởng sẽ như một
giám đốc điều hành. Mặt khác, Nghị quyết
19-NQ/TW cũng đã xác định “Áp dụng mô
hình quản trị đối với các đơn vị sự nghiệp tự
bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư như
mô hình quản trị doanh nghiệp”.
Cần bỏ những quy định cứng nhắc
về nhiệm kỳ, về các điều kiện cứng áp dụng
với chức vụ Hiệu trưởng trường công lập, kể
cả quy trình bổ nhiệm và công nhận - nhất
là đối với các trường tự chủ. Các trường đại
học tự chịu trách nhiệm trước pháp luật và
trước Nhà nước về chất lượng và hiệu quả
điều hành. Nhà nước kiểm soát bộ máy điều
hành thông qua Hội đồng trường. Từng
thành viên trong Hội đồng trường phải chịu
trách nhiệm trước Nhà nước và pháp luật về
các quyết định của mình, trong đó có việc
lựa chọn và bổ nhiệm Hiệu trưởng. Nếu
chúng ta tự tin với cơ chế tự chủ thì chúng ta
phải tự tin xây dựng cơ chế chịu trách nhiệm
đối với các trường đại học và cụ thể là cơ
chế chịu trách nhiệm của các thành viên Hội
đồng trường. Do đó, vấn đề cần giải quyết
là xây dựng một cơ chế mạnh cho Hội đồng
trường cả về thẩm quyền và trách nhiệm.
Đồng thời, phải mạnh mẽ mở rộng và làm
thông thoáng cho các quy định khác theo
hướng giao trách nhiệm hơn nữa cho các
trường đại học trong việc lựa chọn, quyết
định Hiệu trưởng. Vì thế, sẽ không còn quy
định về tiêu chuẩn mà sẽ do từng Trường đại
học tự đặt ra các tiêu chuẩn về Hiệu trưởng.
Nghị quyết 19-NQ/TW và pháp luật
hiện hành đều không áp dụng chế độ công
chức cho bất kỳ chức danh nào trong các
trường đại học tự chủ hoàn toàn về tài chính.
Vì lẽ đó, sẽ không còn áp dụng các chế độ
kiểm soát và quản lý công chức dành cho
Hiệu trưởng và các thành viên khác trong
Ban giám hiệu. Mặt khác, Nghị quyết 19-
NQ/TW cũng đặt ra cơ chế thí điểm rất
thoáng dành cho các đơn vị sự nghiệp công
lập là cho phép thuê giám đốc. Một khi Nghị
quyết của Trung ương Đảng đã chấp nhận
cho thí điểm thuê giám đốc thì việc thuê
Hiệu trưởng hoàn toàn có thể áp dụng và
nên khuyến khích áp dụng cho các trường
đại học công lập đã tự chủ tài chính■
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
35Số 16(368) T8/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_cau_to_chuc_trong_cac_truong_dai_hoc_cong_lap_theo_du_tha.pdf