Từ những phân tích và đánh giá trên,
chúng tôi cho rằng, mô hình Ủy ban QCN
là mô hình phù hợp nhất cho Việt Nam.
Theo đó, Ủy ban này sẽ là cơ quan đầu mối
tiếp nhận các khiếu nại hoặc yêu cầu về
QCN, trực tiếp xem xét các khiếu nại hoặc
yêu cầu đó và đề nghị hướng giải quyết đến
cơ quan có thẩm quyền, và cơ quan có thẩm
quyền này phải thông báo kết quả giải quyết
lại cho Ủy ban QCN. Nếu phát hiện có sai
phạm thì Ủy ban tiếp tục khiếu nại đến cơ
quan có thẩm quyền cao hơn. Hoặc nếu xét
thấy khiếu nại hoặc yêu cầu ngoài khả năng
giải quyết của Ủy ban thì Ủy ban chuyển cho
cơ quan có thẩm quyền xem xét và cơ quan
này cũng phải thông báo kết quả lại cho Ủy
ban. Trong trường hợp Ủy ban thấy các vi
phạm về nhân quyền nhưng không có khiếu
nại hoặc yêu cầu thì tự Ủy ban cũng có
quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem
xét. Bên cạnh đó, Ủy ban này nên có chức
năng tư vấn về sự ảnh hưởng đến QCN của
các dự luật hoặc các văn bản khác, đồng thời
cũng có quyền đề xuất các dự thảo luật hoặc
văn bản dưới luật có liên quan đến QCN.
Về tổ chức, cơ quan này nên tổ chức
thành một nhánh độc lập tương tự như hệ
thống Tòa án và Viện kiểm sát và được tổ
chức tương ứng với các cấp hành chính.
Đứng đầu là chủ tịch, dưới là các phó chủ
tịch và ủy viên. Ủy ban nhân quyền có trách
nhiệm báo cáo với Quốc hội về hoạt động
của cơ quan này và hoạt động vi phạm hoặc
không phối hợp của các cơ quan khác trong
việc bảo vệ và thúc đẩy QCN.
Cùng với việc xây dựng một cơ quan
chuyên trách bảo vệ QCN, Việt Nam cũng
nên cân nhắc về việc gia nhập Quy chế
Rome về Tòa án Hình sự quốc tế để đảm bảo
thực thi các QCN trong tố tụng hình sự cũng
như có những hình phạt đối với những tội ác
được quy định tại Quy chế Rome mà luật
hình sự quốc gia chưa điều chỉnh
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 319 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người và một số kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÚ CHÏË BAÃO VÏå VAÂ THUÁC ÀÊÍY QUYÏÌN CON NGÛÚÂI
VAÂ MÖÅT SÖË KIÏËN NGHÕ
nguyễn Võ Linh giang*
Việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người (QCN) không chỉ cần được quy định
trong các văn bản pháp luật mà còn được thể hiện qua tổ chức và hoạt động của
các cơ quan bảo vệ các QCN. Các văn bản pháp luật và các cơ quan này tạo
thành cơ chế bảo vệ và thúc đẩy QCN. Cơ chế này bao gồm cả ở cấp độ quốc tế,
khu vực và quốc gia. Bài viết giới thiệu về cơ chế bảo vệ và thúc đẩy QCN ở các
cấp độ và nêu các kiến nghị xây dựng cơ chế bảo vệ và thúc đẩy QCN ở Việt Nam.
1. Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người ở các cấp độ
Quyền con người, từ lâu đã được pháp
luật nhiều quốc gia ghi nhận. Văn bản đầu
tiên về QCN là Luật về các Quyền, ra đời
năm 1689, như một thành quả của cuộc cách
mạng tư sản Anh. Gần một thế kỷ sau, ngày
04/7/1776, Đại hội các đại biểu 13 bang của
Hợp chúng quốc Hoa Kỳ đã thông qua bản
Tuyên ngôn Độc lập mà sau này được xem
là văn kiện lịch sử đầu tiên ghi nhận về
QCN. Tuyên ngôn Độc lập khẳng định một
chân lý hiển nhiên rằng, “mọi người sinh ra
đều bình đẳng, tạo hóa đã ban cho họ những
quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong
đó có quyền được sống, quyền được tự do
và mưu cầu hạnh phúc”. Ngày 14/7/1789,
cách mạng tư sản Pháp thành công, Tuyên
ngôn về Nhân quyền và Dân quyền ra đời,
trong đó có ghi nhận các quyền cá nhân và
quyền tập thể của tất cả giai cấp bình đẳng.
Tuyên ngôn theo học thuyết về quyền tự
nhiên, theo đó, Điều 1 Tuyên ngôn khẳng
định “Người ta sinh ra đều tự do và bình
đẳng về quyền lợi, và phải luôn được tự do
và bình đẳng về quyền lợi”.
Các văn bản trên dù mới chỉ ghi nhận
một cách khái quát về QCN và chưa có
những đề cập về quyền của những người dễ
bị tổn thương, nhưng có thể thấy, vấn đề
QCN đã được ghi nhận từ rất lâu trong các
văn bản quan trọng nhất của lịch sử phát
triển của loài người.
Trên nền tảng đó, khi Liên hợp quốc
(LHQ) ra đời, hệ thống các QCN được ghi
nhận trong cả luật quốc tế và luật quốc gia.
Đầu tiên và quan trong nhất là Tuyên ngôn
toàn thế giới về Nhân quyền năm 1948
(UDHR). Tuyên ngôn này tuy không phải là
nguồn bắt buộc của LHQ nhưng lại được
các quốc gia ngầm công nhận như là một
nguồn chính thức cùng với các điều ước
quốc tế về QCN. Đến năm 1966, LHQ đã
thông qua Công ước về các Quyền dân sự
và chính trị (ICCPR) và Công ước về các
Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR)
* ThS, Khoa Luật - Đại học Cần Thơ.
10
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 24 (328) T12/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
quy định gần như hoàn chỉnh các QCN. Hai
công ước này đã được phê chuẩn bởi hầu hết
các quốc gia thành viên.
QCN được ghi nhận trong nhiều văn
bản và được thực thi bởi nhiều chủ thể thông
qua nhiều biện pháp thúc đẩy. Do đó, các
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể đó cũng
được quy định bên cạnh các quy định về
QCN để đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt
động bảo vệ QCN. Theo đó, cơ chế bảo vệ
và thúc đẩy QCN cần hoạt động hiệu quả cả
ở cấp độ quốc tế, khu vực và quốc gia để
QCN được bảo vệ toàn vẹn.
Ở cấp độ quốc tế, cơ chế bảo vệ và thúc
đẩy QCN thể hiện ở bộ máy các cơ quan và
các quy tắc, thủ tục về thúc đẩy, bảo vệ QCN
trong hệ thống LHQ1. Cơ chế này được chia
thành hai dạng: thứ nhất là cơ quan được
thành lập theo hoặc dựa trên Hiến chương
hay còn được gọi là cơ chế dựa trên Hiến
chương; thứ hai là cơ quan được thành lập
hoặc dựa trên một số điều ước quan trọng về
QCN hay còn được gọi là cơ chế dựa trên
điều ước.
Theo cơ chế dựa trên Hiến chương thì
bảo vệ và thúc đẩy QCN do cả sáu cơ quan
chính của LHQ thực hiện2. Các cơ quan
chính này sẽ lập ra các cơ quan chuyên môn
và cơ quan giúp việc để tiến hành bảo vệ và
thúc đẩy QCN. Trong số các cơ quan này,
quan trọng nhất là Hội đồng Quyền con
người của LHQ (thay thế Ủy ban Quyền con
người, do Ủy ban này hoạt động không hiệu
quả), Ủy ban về Vị thế của phụ nữ, Cơ chế
Đánh giá Định kỳ toàn thể, Ủy ban Tư vấn.
Bên cạnh đó, LHQ còn ban hành các cơ chế
giải quyết khiếu nại vi phạm QCN và cơ chế
giải quyết những tình huống vi phạm QCN.
Theo cơ chế dựa trên điều ước, thì các
ủy ban giám sát được thành lập để giám sát
việc thực hiện các công ước cơ bản về QCN.
Hiện nay, có chín công ước được xem là cơ
bản về QCN, theo đó, có các Ủy ban giám
sát như sau: Ủy ban về Xóa bỏ sự phân biệt
chủng tộc (thành lập theo Công ước về Xóa
bỏ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc,
1965); Ủy ban về Quyền con người (thành
lập theo Công ước về các Quyền dân sự,
chính trị, 1966); Ủy ban về Xóa bỏ sự phân
biệt đối xử với phụ nữ (thành lập theo Công
ước quốc tế về Xóa bỏ tất cả các hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ, 1979); Ủy ban
Chống tra tấn (thành lập theo Công ước về
Chống tra tấn và các hình thức đối xử tàn
bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục khác, 1987);
Ủy ban về các Quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa (thành lập theo một nghị quyết của
ECOSOC); Ủy ban về Quyền trẻ em (thành
lập theo Công ước về Quyền trẻ em, 1989);
Ủy ban về Bảo vệ quyền của tất cả những
người lao động nhập cư và các thành viên
trong gia đình họ (thành lập theo Công ước
về Bảo vệ quyền của tất cả những người lao
động nhập cư và các thành viên trong gia
đình họ, 1990); Ủy ban về Quyền của người
khuyết tật (thành lập theo Công ước về
Quyền của người khuyết tật, 2007); Ủy ban
về Các vụ mất tích cưỡng bức (thành lập
theo Công ước quốc tế về Bảo vệ tất cả mọi
người khỏi bị cưỡng bức đưa đi mất tích,
2006)3.
Các Ủy ban được thành lập để xem xét
báo cáo của các quốc gia thành viên, xem
xét khiếu nại của các cá nhân, đưa ra các
bình luận hoặc kiến nghị chung để giải thích
nội dung và các biện pháp thực hiện công
ước. Thủ tục xem xét báo cáo của các quốc
gia thành viên được bắt đầu bằng việc đệ
trình báo cáo đầu tiên của các quốc gia thành
1 Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình lý luận và pháp luật về QCN, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 328.
2 6 cơ quan chính của LHQ bao gồm: Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng Kinh tế - Xã hội, Hội đồng Quản thác, Tòa
án Quốc tế và Ban Thư ký LHQ (Điều 7 Hiến chương LHQ).
3 Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình lý luận và pháp luật về QCN, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 360.
11
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 24 (328) T12/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
viên, tiếp theo nhóm làm việc trước phiên
họp được thành lập để xem xét báo cáo của
quốc gia thành viên, sau đó sẽ tiến hành đối
thoại xây dựng giữa Ủy ban và quốc gia
thành viên và cuối cùng, Ủy ban sẽ đưa ra
những bình luận và nhận xét4.
Bên cạnh các cơ chế trên, LHQ còn
thành lập Tòa án Hình sự quốc tế (ICC). Tòa
án này có nhiệm vụ xem xét trách nhiệm
hình sự của những cá nhân phạm các tội ác
quốc tế nghiêm trọng nhất như tội diệt
chủng, tội chống nhân loại, tội ác chiến
tranh và tội xâm lược5. ICC làm việc dựa
trên Quy chế Rome6. Theo đó, ICC sẽ tuân
thủ các nguyên tắc quy định trong Quy chế
Rome. Các quy tắc này là cơ sở quan trọng
cho việc bảo vệ QCN. Một số nguyên tắc
quan trọng như nullum crimen sine lege -
không có tội khi không có luật7, nguyên tắc
nulla poena sine lege - không có hình phạt
khi không có luật8, nguyên tắc không hồi tố,
nguyên tắc loại trừ quyền tài phán đối với
người dưới mười tám tuổi, nguyên tắc bình
đẳng trước pháp luật, nguyên tắc không áp
dụng thời hiệu9. Ngoài ra, ICC còn bảo vệ
QCN thông qua thẩm quyền tài phán cũng
như thông qua các hoạt động tố tụng theo
Quy chế Rome - trong đó tiêu biểu là quy
định trực tiếp quyền im lặng trong tố tụng
hình sự của tòa án10 - điều mà chưa được ghi
nhận trực tiếp trong các văn kiện quốc tế
khác về QCN. Tuy ICC do LHQ thành lập
nhưng ICC hoạt động độc lập với LHQ và
vẫn hỗ trợ LHQ trong hoạt động bảo vệ
nhân chứng khi cung cấp nhà ở và các biện
pháp bảo vệ khẩn cấp mang tính lâm thời,
vì LHQ không có nhiệm vụ bảo vệ nhân
chứng. Mối liên hệ giữa LHQ và ICC còn
thể hiện ở mối liên hệ về thành viên, các
quốc gia thành viên của Quy chế Rome hầu
hết đều là thành viên của LHQ11. Có thể nói,
tuy độc lập với LHQ nhưng ICC vẫn là một
thiết chế hoạt động hiệu quả bên cạnh các
cơ chế của LHQ trong việc bảo vệ QCN.
Ở cấp độ khu vực, mỗi khu vực có một
cơ chế bảo vệ và thúc đẩy QCN riêng, ngoại
trừ châu Á. Châu Âu, nơi được coi là có
những cơ sở nền tảng cho sự phát triển pháp
lý về QCN, có nhiều văn kiện quan trọng
trong việc bảo vệ QCN. Trong các văn kiện
đó, nòng cốt là Công ước châu Âu về bảo vệ
QCN và tự do cơ bản năm 1950. Công ước
quy định hai loại khiếu nại về những vi
phạm QCN có thể được tiếp nhận và xem
xét là khiếu nại của các cá nhân và của các
quốc gia với nhau12. Tham gia Công ước này
là điều kiện bắt buộc đối với mọi quốc gia
muốn trở thành thành viên của Hội đồng
châu Âu. Cơ chế giải quyết các khiếu kiện
về tình trạng vi phạm QCN ở châu Âu được
thực hiện thông qua cơ chế giải quyết trực
tiếp theo thẩm quyền của Công ước, hoặc
trực tiếp tại Tòa án Nhân quyền châu Âu
được thành lập theo Nghị định thư số 11 của
12
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 24 (328) T12/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Về cụ thể các cơ chế bảo vệ và thúc đẩy QCN của LHQ, xem thêm: Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình lý
luận và pháp luật về QCN, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 327-366.
5 Xem Điều 1 và Điều 5 Quy chế Rome
6 Quy chế Rome về Tòa án Hình sự quốc tế được thông qua ngày 17/7/1998, tại Hội nghị ngoại giao về việc thiết lập Tòa
án Hình sự quốc tế do LHQ tổ chức.
7 Khoản 1 Điều 22 Quy chế Rome quy định: “Không ai phải chịu trách nhiệm hình sự theo Quy chế này, trừ khi hành vi của
người đó cấu thành một tội phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án vào thời điểm thực hiện hành vi đó”.
8 Điều 23 Quy chế Rome quy định: “Người bị kết án có thể bị xử phạt chỉ khi tương ứng với những quy định của Quy chế
này”.
9 Xem Điều 24, 26, 27, 29 Quy chế Rome.
10 Xem điểm b, khoản 2 Điều 55 Quy chế Rome.
11 Việt Nam chưa là thành viên của Quy chế Rome.
12 Các cơ chế nhân quyền khu vực,
truy cập ngày 06/02/2016.
Công ước13. Về cơ quan bảo vệ và thúc đẩy
nhân quyền14 tại châu Âu, tiêu biểu nhất là
Tòa án QCN châu Âu được thành lập năm
1959 - nơi tiếp nhận các khiếu kiện cá nhân
hoặc tổ chức chống lại tại quốc gia thành
viên. Bên cạnh đó, còn có Ủy ban QCN
(thuộc Hội đồng châu Âu, nhưng đã kết thúc
hoạt động từ năm 1990), Ủy ban các Bộ
trưởng của Hội đồng châu Âu và Ủy ban
Chống tra tấn.
Ở châu Mỹ, hệ thống các văn bản về
QCN ra đời từ rất sớm. Đầu tiên nhất là
Tuyên bố châu Mỹ về các Quyền và nghĩa
vụ của con người, ra đời vào tháng 4 năm
1948 (trước Tuyên ngôn toàn thế giới về
Nhân quyền 6 tháng) mà sau này làm cơ sở
cho Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân
quyền. Đến năm 1959, Ủy ban QCN châu
Mỹ được thành lập. Năm 1969, Công ước
châu Mỹ về QCN xác định các QCN mà các
quốc gia thành viên có nghĩa vụ tuân thủ và
bảo đảm. Bên cạnh đó, Công ước còn thiết
lập Tòa án QCN châu Mỹ. Tòa án QCN
châu Mỹ cùng với Ủy ban QCN châu Mỹ là
hai bộ phận quan trọng và cốt lõi của cơ chế
bảo vệ và thúc đẩy QCN ở khu vực này15.
Tuy nhiên, khác với Tòa án QCN châu Âu,
Tòa án QCN châu Mỹ chỉ nhận các vụ việc
thông qua Ủy ban QCN hoặc bởi một quốc
gia thành viên của Tổ chức Các quốc gia
châu Mỹ. Khi một cá nhân thấy rằng, quyền
của mình bị chính phủ vi phạm thì có thể gửi
khiếu nại đến Ủy ban QCN châu Mỹ. Để
xem xét khả năng thụ lý, Ủy ban QCN châu
Mỹ sẽ gửi cho quốc gia liên quan một số
khuyến nghị. Chỉ khi quốc gia liên quan
không tuân theo các khuyến nghị này, và
nếu Ủy ban thấy rằng vụ việc này có ý nghĩa
quan trọng, thì Ủy ban sẽ chuyển vụ việc lên
Tòa án châu Mỹ về QCN để giải quyết16.
Ngoài chức năng xét xử, Tòa án QCN châu
Mỹ còn có chức năng tư vấn cho Ủy ban
QCN và các quốc gia thành viên của Tổ
chức Các quốc gia châu Mỹ về các vấn đề
liên quan đến áp dụng Công ước châu Mỹ
về QCN và các văn kiện khác về QCN của
khu vực; về tính phù hợp của các văn bản và
dự thảo văn bản pháp luật của các quốc gia
với Công ước châu Mỹ về QCN17.
Tại châu Phi, văn kiện cơ bản về các
QCN là Hiến chương châu Phi về QCN và
Quyền các dân tộc năm 1981. Cơ quan bảo
vệ và thúc đẩy QCN gồm Ủy ban QCN và
Quyền các dân tộc châu Phi và Tòa án châu
Phi về QCN. Khác với chức năng của tòa án
nhân quyền ở khu vực châu Âu và châu Mỹ,
chức năng của Tòa án châu Phi về QCN là
tham vấn. Tuy nhiên, cơ chế bảo vệ và thúc
đẩy QCN tại châu Phi ghi nhận và cổ vũ
quyền phát triển. Đồng thời, Hiến chương
châu Phi về QCN và Quyền các dân tộc
châu Phi cũng quy định một số quyền tập thể
khác như quyền được sống trong hòa bình
(Điều 23), quyền được sống trong môi
trường trong sạch (Điều 24) - điều mà chưa
tìm thấy ở các văn kiện QCN của các khu
vực khác18.
13
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 24 (328) T12/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13 Cơ chế nhân quyền khu vực: Thúc đẩy cơ chế nhân quyền chung của LHQ,
luan/1029/Co-che-nhan-quyen-khu-vuc-Thuc-day-co-che-nhan-quyen-chung-cua-Lien-hop-quoc, truy cập ngày
06/02/2016.
14 Human rights có thể được dịch là QCN theo nghĩa thuần Việt hoặc nhân quyền theo nghĩa Hán - Việt. Vì vậy, nhân quyền
và QCN được sử dụng như từ đồng nghĩa trong bài viết này.
15 Cơ chế nhân quyền khu vực: Thúc đẩy cơ chế nhân quyền chung của LHQ,
luan/1029/Co-che-nhan-quyen-khu-vuc-Thuc-day-co-che-nhan-quyen-chung-cua-Lien-hop-quoc, [truy cập ngày
06/02/2016].
16 Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình lý luận và pháp luật về QCN, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.371.
17 Các cơ chế nhân quyền khu vực,
[truy cập ngày 06/02/2016].
18 Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình lý luận và pháp luật về QCN, Sđd, tr. 374.
14
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 24 (328) T12/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Ở cấp độ quốc gia, các cơ quan quốc gia
về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền có thể
được tổ chức và hoạt động khác nhau. Các
cơ quan này thường là các cơ quan hành
chính bên cạnh hệ thống tòa án, phối hợp
cùng nhau để hoạt động bảo vệ và thúc đẩy
QCN. Các cơ quan này có thể phân thành hai
nhóm chính là Ủy ban Nhân quyền - gồm đại
diện thành viên của nhiều nhóm xã hội khác
nhau và Thanh tra Quốc hội - làm việc với
tư cách cá nhân. Mô hình Ủy ban Nhân
quyền được tổ chức phổ biến ở các quốc gia
như Úc, Ấn Độ, Indonesia, Hàn Quốc,
Malaysia, Thái Lan. Mô hình Thanh tra
Quốc hội phổ biến ở các quốc gia như Thụy
Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Canada. Ngoài
hai cơ chế phổ biến trên, tại Liên bang Nga,
cơ chế giám sát Hiến pháp là cơ chế pháp lý
để bảo vệ QCN một cách hiệu quả, đề cao
vai trò của Tòa án Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ
và thúc đẩy QCN ở cấp độ quốc gia có thể
khác nhau ở các quốc gia khác nhau.
2. Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người tại Việt nam
Chúng ta đã thay đổi nhận thức về tầm
quan trọng của QCN khi đưa các quyền con
người vào một chương riêng của Hiến pháp
năm 2013 và đặt ở Chương 2, ngay sau
chương về chế độ chính trị. Cùng với những
thay đổi về nhận thức đó, thì các quy định
về bảo vệ và thúc đẩy QCN được cụ thể hóa
trong Bộ luật Dân sự (BLDS), Bộ luật Hình
sự (BLHS), Bộ luật Tố tụng hình sự (BLT-
THS), Bộ luật Lao động (BLLĐ) Tuy
nhiên, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có
một cơ quan chuyên trách nào thực hiện
chức năng bảo vệ QCN.
Hiến pháp năm 2013 đã quy định tương
đối đầy đủ các QCN tương ứng với quy định
tại các công ước quốc tế về QCN. Về các
quyền dân sự và chính trị, Hiến pháp đã
dành chín điều quy định về các quyền này.
Theo đó, quyền sống được quy định tại Điều
19; quyền không bị tra tấn, đối xử hay trừng
phạt tàn ác, vô nhân đạo hay bị hạ nhục
được quy định tại khoản 1 Điều 20; quyền
được suy đoán vô tội được quy định tại
khoản 1 Điều 31; quyền được bào chữa và
được sự trợ giúp của luật sư ngay khi bị bắt
và giam giữ được quy định tại khoản 4 Điều
31; quyền được xét xử công bằng và công
khai bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập
và không thiên vị được quy định tại khoản
2 Điều 31; quyền được xét xử trong thời
gian hợp lý và không bị trì hoãn cũng được
quy định tại khoản 2 Điều 31; quyền bình
đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo
vệ một cách bình đẳng được quy định tại
Điều 16; quyền không bị bắt làm nô lệ, nô
dịch hay bị cưỡng bức lao động được quy
định tại Điều 20; quyền tự do đi lại được quy
định tại Điều 22 và Điều 23; quyền tự do tư
tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo được quy định
tại Điều 24; quyền tự do ngôn luận, báo chí
và thông tin và quyền tự do hội họp, lập hội
cùng được quy định tại Điều 25; quyền được
bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý nhà nước
được quy định tại Điều 27.
Tương ứng với những quy định trên của
Hiến pháp là các quy định trong các luật
chuyên ngành nhằm cụ thể hóa Hiến pháp.
Cụ thể, quyền sống được quy định tại khoản
1 Điều 33 BLDS năm 2015, Chương XIV
BLHS năm 2015; quyền không bị tra tấn,
đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo
hay bị hạ nhục được quy định tại Điều 10
BLTTHS năm 2015, quyền được suy đoán
vô tội được quy định tại Điều 13 BLTTHS
năm 2015, quyền được thông báo lời buộc
tội không chậm trễ, được sử dụng và hỗ trợ
sử dụng ngôn ngữ thích hợp trong tố tụng
được quy định tại Điều 29 BLTTHS năm
2015, quyền được bào chữa và được sự trợ
giúp của luật sư ngay khi bị bắt hoặc bị giam
giữ được quy định tại Điều 16 BLTTHS năm
2015, quyền không bị buộc phải chứng minh
chống lại chính mình được quy định tại Điều
58, Điều 61 BLTTHS năm 2015, quyền
được xét xử công bằng và công khai bởi một
tòa án có thẩm quyền, độc lập và không
thiên vị, được lập ra theo pháp luật được quy
định tại Điều 25 BLTTHS năm 2015, quyền
được xét xử trong thời gian hợp lý và không
bị trì hoãn được quy định tại Điều 25 BLT-
THS năm 2015, quyền bình đẳng trước pháp
luật được quy định tại khoản 1 Điều 3 BLDS
năm 2015, điểm b khoản 1 Điều 3 BLHS
năm 2015, Điều 9 BLTTHS năm 2015,
quyền không bị bắt làm nô lệ, nô dịch hay
cưỡng bức lao động được quy định tại Điều
8 BLLĐ năm 2012, quyền tự do tư tưởng, tín
ngưỡng và tôn giáo được quy định tại Điều
164 BLHS năm 2015, quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí và thông tin được quy
định tại Điều 167 BLHS năm 2015, quyền tự
do hội họp, lập hội được quy định tại Điều
163 BLHS năm 2015, quyền được bầu cử,
ứng cử và tham gia quản lý nhà nước được
quy định tại Điều 160 BLHS năm 2015.
Các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
cũng được quy định khá hoàn chỉnh. Quyền
làm việc và được bảo đảm các điều kiện lao
động thích đáng được quy định tại Điều 35
Hiến pháp năm 2013; quyền học tập được
quy định tại Điều 39; quyền được chăm sóc
sức khỏe được quy định tại Điều 38. Các
quyền này cũng được cụ thể hóa tại các luật
chuyên ngành như BLLĐ năm 2012, Luật
Giáo dục năm 2005.
Bên cạnh việc ghi nhận các QCN nói
chung, pháp luật Việt Nam còn quy định về
quyền của những nhóm dễ bị tổn thương bao
gồm phụ nữ19, trẻ em20, quyền của người
sống chung với HIV/AIDS21, người khuyết
tật22. Việc ghi nhận các quyền của các nhóm
người dễ bị tổn thương tạo điều kiện cho họ
thực hiện quyền và không bị xâm phạm
quyền bởi các chủ thể khác.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc ghi
nhận các quyền trong các văn bản luật thì cơ
chế thực thi quyền chưa thật sự đầy đủ. Để
các quyền được bảo vệ toàn vẹn, cần có cơ
quan bảo vệ và thực thi các quyền. Ở Việt
Nam hiện nay, các cơ quan bảo vệ và thúc
đẩy nhân quyền chưa tập trung vào một cơ
quan cụ thể mà nhiệm vụ này được quy định
cho nhiều cơ quan khác nhau thuộc bộ máy
nhà nước, bao gồm Quốc hội, Chính phủ,
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân.
Việc giao chức năng bảo vệ QCN cho nhiều
cơ quan nhà nước có ưu điểm là giúp bảo vệ
toàn diện QCN, nhưng lại gây ra hạn chế
cho việc xác định đầu mối có nhiệm vụ
chính trong các cơ quan này và cũng gây
khó khăn khi một cá nhân muốn khiếu nại
về các vi phạm nhân quyền.
Bên cạnh đó, quá trình bảo vệ và thúc
đẩy nhân quyền còn có sự tham gia của
Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp. Có thể nêu một số tổ chức cơ bản
như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội
Bảo trợ người tàn tật, Liên minh các Hợp tác
xã Việt Nam v.v..
3. Các kiến nghị về cơ chế bảo vệ và thúc
đẩy nhân quyền của Việt nam
Như vậy, cơ chế bảo vệ và thúc đẩy
nhân quyền tại Việt Nam là khá đầy đủ về
văn bản pháp lý quy định các quyền. Về
tổng thể thì hệ thống các cơ quan bảo vệ và
thực thi quyền cũng khá toàn diện và việc
bảo vệ QCN thuộc trách nhiệm của tất cả
các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, nếu xét về
chi tiết thì Việt Nam lại thiếu hẳn một cơ
quan chuyên trách trong việc bảo vệ và thúc
đẩy QCN.
Đặt cơ chế này trong tương quan với cơ
chế quốc tế và cơ chế ở các quốc gia khác,
có thể thấy cơ chế của chúng ta còn chưa
toàn diện trong bảo vệ nhân quyền. Trong
15
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 24 (328) T12/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19 Được quy định tại Luật Bình đẳng giới năm 2006, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật Phòng chống bạo lực gia
đình năm 2007.
20 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.
21 Luật Phòng chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2006.
22 Luật Người khuyết tật năm 2010.
khi nhận thức về tầm quan trọng của QCN
đã được nâng lên một mức đáng kể thì việc
thực thi hay cụ thể là việc hình thành nên
một cơ quan chuyên trách về bảo vệ và thúc
đẩy nhân quyền chưa thật sự được quan tâm
đầy đủ.
Vì vậy, để xây dựng một cơ quan
chuyên trách bảo vệ và thúc đẩy nhân
quyền, Việt Nam cần tham khảo pháp luật
và thực tiễn hoạt động về tổ chức cơ quan
nhân quyền ở các quốc gia trên thế giới. Như
đã phân tích, các cơ quan chuyên trách bảo
vệ nhân quyền ở các nước thường bao gồm
Ủy ban Nhân quyền, Thanh tra Quốc hội, cơ
chế Giám sát Hiến pháp, do đó chúng ta nên
cân nhắc lựa chọn để xây dựng một cơ quan
phù hợp với tình hình quốc gia.
Thứ nhất, mô hình Ủy ban Nhân quyền.
Mô hình này gồm đại diện các tổ chức xã hội
khác nhau, vì vậy sẽ rất thuận tiện cho việc
nắm bắt kịp thời nhu cầu được bảo vệ và thực
thi quyền của các nhóm đối tượng trong xã
hội. Mô hình này được sử dụng hiệu quả tại
Pháp và Ủy ban này có vai trò rất quan trọng
không chỉ trong việc thực thi mà còn trong
việc xây dựng chính sách bảo vệ và thúc đẩy
QCN. Hoạt động của Ủy ban Nhân quyền
mang tính tập thể và hoạt động của mỗi cá
nhân cũng mang tính đại diện cho quyết định
hoặc sự ủy quyền của tập thể. Xét về tổ chức
lẫn cách thức hoạt động, mô hình này khá
phù hợp với thực tế Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, mô hình Thanh tra Quốc hội.
Thanh tra Quốc hội hoạt động với tư cách cá
nhân nên khó có thể tạo ra cái nhìn toàn diện
về nhu cầu được bảo vệ của các nhóm đối
tượng trong xã hội. Bên cạnh đó, xét về tổng
thể, nước ta hiện nay ít có các tổ chức hoạt
động với tư cách cá nhân. Do đó, mô hình
này khó có thể áp dụng đối với nước ta.
Thứ ba, mô hình Giám sát Hiến pháp.
Mô hình này hoạt động gần như Tòa án và
có nhiệm vụ giám sát việc thực thi Hiến
pháp cũng như việc chi tiết hóa các quy định
của Hiến pháp. Các nhà lập pháp Việt Nam
cũng đã nghĩ đến hướng này và mô hình Tòa
án Hiến pháp đã từng được đưa vào Dự thảo
Hiến pháp năm 2013, nhưng chưa được
Quốc hội thông qua.
Từ những phân tích và đánh giá trên,
chúng tôi cho rằng, mô hình Ủy ban QCN
là mô hình phù hợp nhất cho Việt Nam.
Theo đó, Ủy ban này sẽ là cơ quan đầu mối
tiếp nhận các khiếu nại hoặc yêu cầu về
QCN, trực tiếp xem xét các khiếu nại hoặc
yêu cầu đó và đề nghị hướng giải quyết đến
cơ quan có thẩm quyền, và cơ quan có thẩm
quyền này phải thông báo kết quả giải quyết
lại cho Ủy ban QCN. Nếu phát hiện có sai
phạm thì Ủy ban tiếp tục khiếu nại đến cơ
quan có thẩm quyền cao hơn. Hoặc nếu xét
thấy khiếu nại hoặc yêu cầu ngoài khả năng
giải quyết của Ủy ban thì Ủy ban chuyển cho
cơ quan có thẩm quyền xem xét và cơ quan
này cũng phải thông báo kết quả lại cho Ủy
ban. Trong trường hợp Ủy ban thấy các vi
phạm về nhân quyền nhưng không có khiếu
nại hoặc yêu cầu thì tự Ủy ban cũng có
quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem
xét. Bên cạnh đó, Ủy ban này nên có chức
năng tư vấn về sự ảnh hưởng đến QCN của
các dự luật hoặc các văn bản khác, đồng thời
cũng có quyền đề xuất các dự thảo luật hoặc
văn bản dưới luật có liên quan đến QCN.
Về tổ chức, cơ quan này nên tổ chức
thành một nhánh độc lập tương tự như hệ
thống Tòa án và Viện kiểm sát và được tổ
chức tương ứng với các cấp hành chính.
Đứng đầu là chủ tịch, dưới là các phó chủ
tịch và ủy viên. Ủy ban nhân quyền có trách
nhiệm báo cáo với Quốc hội về hoạt động
của cơ quan này và hoạt động vi phạm hoặc
không phối hợp của các cơ quan khác trong
việc bảo vệ và thúc đẩy QCN.
Cùng với việc xây dựng một cơ quan
chuyên trách bảo vệ QCN, Việt Nam cũng
nên cân nhắc về việc gia nhập Quy chế
Rome về Tòa án Hình sự quốc tế để đảm bảo
thực thi các QCN trong tố tụng hình sự cũng
như có những hình phạt đối với những tội ác
được quy định tại Quy chế Rome mà luật
hình sự quốc gia chưa điều chỉnh
16
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 24 (328) T12/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_che_bao_ve_va_thuc_day_quyen_con_nguoi_va_mot_so_kien_ngh.pdf