Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà nước theo cam kết nội khối Asean: Những thách thức đạt ra đối với Việt Nam và các quốc gia thành viên Asean khác

Thứ nhất, khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của nước tiếp nhận đầu tư trong ISDS. Tuy nhiên, để thực hiện được việc này, các quốc gia phải cải thiện hệ thống toà án, trọng tài trong nước theo hướng hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả, khách quan, minh bạch và hiện đại. Thứ hai, trong trường hợp các bên tranh chấp chọn ISDS tại trọng tài quốc tế, thì việc sử dụng trọng tài của khu vực ASEAN sẽ giảm đáng kể các chi phí giải quyết tranh chấp do lợi thế về khoảng cánh, văn hóa, ngôn ngữ. Tuy nhiên, điều này cũng đòi hỏi ASEAN và các nước thành viên phải có biện pháp hỗ trợ hiệu quả việc nâng cao năng lực của các thiết chế trọng tài trong khu vực ASEAN, nhất là các thiết chế có chức năng hòa giải tranh chấp đầu tư quốc tế. Thứ ba, tiến tới, rà soát bổ sung các mô hình về cơ chế ISDS mới thuận lợi và hiệu quả hơn cho các bên tranh chấp đang được đề xuất tại các điều ước quốc tế có quy định về đầu tư thế hệ mới, ví dụ: cơ chế ISDS theo Hiệp định hợp tác kinh tế và thương mại toàn diện giữa Canada và EU, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU. Bên cạnh đó, cũng cần nghiên cứu, tiếp thu các ý tưởng mới liên quan tới phương thức ISDS như việc công nhận các thỏa thuận hòa giải tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế mà Ủy ban Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế hiện nay đang thảo luận.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 292 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà nước theo cam kết nội khối Asean: Những thách thức đạt ra đối với Việt Nam và các quốc gia thành viên Asean khác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHAÙP LUAÄT THEÁ GIÔÙI 94 CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀ NHÀ NƯỚC THEO CAM KẾT NỘI KHỐI ASEAN: NHỮNG THÁCH THỨC ĐẠT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM VÀ CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN ASEAN KHÁC Trần Anh Tuấn1 Tóm tắt: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập vào năm 1967 và ngày càng đẩy mạnh tự do hóa, tăng cường mối quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực giữa các quốc gia thành viên. Trong quá trình đó, để điều chỉnh tất cả các hoạt động đầu tư thuộc khối ASEAN, Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) đã được soạn thảo và được các quốc gia tham gia ký kết. Một trong những nội dung quan trọng của Hiệp định này là cam kết về giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước (ISDS). Bài viết này sẽ làm rõ sự hình thành, phát triển, thực tiễn ISDS của ASEAN và những thách thức đặt ra cho Việt Nam cũng như các quốc gia ASEAN khác từ đó đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả của cơ chế ISDS trong khuôn khổ ASEAN. Từ khóa: nhà đầu tư nước ngoài, nhà nước, tranh chấp, hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Nhận bài: 05/5/2017; Hoàn thành biên tập: 28/6/2017; Duyệt đăng: 01/8/2017 Abstract: The Association of Southeast Asian Nations (ASEAN) is established in 1967 and it is speeding liberalization, promoting relationship in all fields between its members. In that process, to adjust all investment activities in ASEAN block, the ASEAN Comprehensive Investment Agreement (ACIA) has been developed and signed by its members. One of the agreement’s important contents is commitement to investors-State Dispute Setttment (ISDS). This article will clarify the formation, development, reality of ISDS and challenges set out for Viet Nam as well as other ASEAN countries to suggest some solutions to increase the effectiveness of ISDS mechanism in ASEAN. Keywords: Foreign investor, state, dispute, the Association of Southest Asian Nations (ASEAN)... Date of receipt: 05/5/2017; Date of revision: 28/6/2017; Date of approval: 01/8/2017 1. Tổng quan về quá trình hình thành, phát triển của cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà nước theo cam kết nội khối ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập vào năm 1967 gồm có 05 quốc gia: Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan với mục tiêu chủ yếu là hợp tác về chính trị và an ninh. Sau này, có thêm Brunei, Việt Nam, Lào, Mianma, Campuchia, nâng tổng số thành viên ASEAN lên 10 quốc gia với việc mở rộng hội nhập trong nội khối trên cơ sở Cộng đồng ASEAN với ba trụ cột là: Cộng đồng Chính trị - An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa – xã hội. Trong sự mở rộng hội nhập nội khối nêu trên, tự do hóa và thúc đẩy đầu tư giữa các quốc gia là một thành tố quan trọng. Ngay từ thời kỳ ASEAN mới có 06 thành viên (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan), năm 1987, các quốc gia ASEAN đã ký Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư ASEAN(IGA), trong đó có cam kết về giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước (sau đây gọi tắt theo tiếng Anh là ISDS). Theo đó, tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước trước hết được tự giải quyết giữa hai bên một cách thiện chí. Trong trường hợp giải quyết thiện chí giữa hai bên không thành công, thì các bên có thể giải quyết 1 Thạc sỹ, Vụ Pháp luật Quốc tế - Bộ Tư pháp Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 95 tranh chấp bằng hòa giải hoặc trọng tài tại Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư thành lập theo Công ước năm 1965 về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa quốc gia và công dân của các quốc gia khác (Trung tâm ICSID), trọng tài thành lập theo Quy tắc trọng tài của Ủy ban Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) hay Trung tâm trọng tài khu vục Kuala Lumpur hoặc bất cứ trung tâm trọng tài khác của khu vực ASEAN. Tiếp theo đó vào năm 1996, các quốc gia ASEAN (trong đó có Việt Nam) ký Nghị định thư sửa đổi IGA. Liên quan đến cơ chế ISDS, Nghị định thư chỉ sửa đổi tên Điều X của IGA là “Giải quyết tranh chấp giữa một bên và nhà đầu tư của bên khác” để phù hợp hơn, chứ không sửa đổi nội dung của điều này. Đến năm 1998, các quốc gia ASEAN (thời điểm đó gồm 09 nước: Brunei, Indonesia, Malaysia, Mianma, Lào, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam) lại ký Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA) với mục đích thiết lập khu vực đầu tư mang tính cạch tranh của khu vực ASEAN, từ đó thúc đẩy tự do hóa đầu tư nội khối. AIA là một bước ngoặt trong tư duy và tầm nhìn của các quốc gia ASEAN về vai trò của đầu tư khu vực. Cũng theo AIA, nhằm tăng cường thúc đẩy một dòng vốn đầu tư tự do hơn trong khu vực, tạo nên một khu vực hấp dẫn nhất, các nước đã quyết tâm hướng đến những quy định đầu tư được đơn giản hóa thông qua sự minh bạch các quy tắc, thủ tục cũng như các chính sách điều hành về đầu tư. Tuy nhiên, AIA không có quy định về ISDS và IGA vẫn tồn tại song song theo nguyên tắc những quy định về cùng một vấn đề trong hai điều ước này, thì quy định nào thuận lợi hơn cho các bên sẽ được ưu tiên áp dụng. Sau khi Hiến Chương ASEAN được ký kết vào năm 2007 với mục tiêu thức đẩy hình thành Cộng đồng ASEAN, trong đó có Cộng đồng Kinh tế ASEAN, để thực hiện mục tiêu cuối cùng của hội nhập kinh tế nhằm hình thành một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ, và vốn đầu tư sẽ được lưu chuyển tự do hơn, kinh tế phát triển đồng đều, đói nghèo và chênh lệch kinh tế-xã hội được giảm bớt vào năm 2020. Nhằm đạt mục tiêu này, trong lĩnh vực đầu tư, năm 2009, các quốc gia ASEAN (gồm 10 nước: Brunei, Campuchia, Indonesia, Malaysia, Mianma, Lào, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam) đã cùng nhau ký kết Hiệp định đầu tư toàn diện trong ASEAN (ACIA). ACIA được xây dựng dựa trên nền tảng của hai hiệp định đầu tư trước đó là AIA và IGA. Do đó, các quy định về ISDS của ACIA về cơ bản tiếp thu từ IAG, ngoại trừ một số nội dung được chỉnh sửa theo tiêu chuẩn mới về bảo hộ đầu tư và bổ sung việc ISDS tại thiết chế giải quyết tranh chấp của nước tiếp nhận đầu tư. Trong ACIA, cơ chế ISDS được quy định tại các Điều từ 21 đến 41, theo đó: Thứ nhất, về căn cứ khởi kiện ISDS: theo ACIA, nhà đầu tư nước ngoài có thể khởi kiện nhà nước tiếp nhận đầu tư dựa trên những hành vi của nước này được cho là vi phạm các nghĩa vụ sau đây: a) Vi phạm nghĩa vụ đối xử quốc gia (NT) theo Điều 5 của ACIA. Vi phạm điều này có nghĩa là nước tiếp nhận đầu tư đã đối xử với đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài nào đó kém thuận lợi hơn mức đối xử mà nước này đã dành cho đầu tư và nhà đầu tư trong nước trong những điều kiện tương tự. b) Vi phạm nghĩa vụ đối xử tối huệ quốc (MFN) theo Điều 6 của ACIA, tức là nước tiếp nhận đầu tư đã đối xử kém thuận lợi hơn so với mức đối xử mà nước tiếp nhận đầu tư dành cho đầu tư và nhà đầu tư của của nước thứ ba trong những điều kiện tương tự. c) Vi phạm cam kết liên quan đến nhân sự quản lý cao cấp và ban điều hành (Senior Management and Board of Directors) theo Điều 8 ACIA với nội dung là một nước thành viên không được yêu cầu: (i) một pháp nhân của nước đó bổ nhiệm vào các vị trí quản lý cấp cao những cá nhân cụ thể cho dù những người này mang bất kỳ quốc tịch nào; (ii) yêu cầu số lượng thành viên hội đồng quản trị của một pháp nhân của mình là những người có HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 96 quốc tịch hoặc cư trú trên lãnh thổ của nước này dẫn đến làm suy yếu đáng kể khả năng của chủ đầu tư để kiểm soát đầu tư. d) Vi phạm nghĩa vụ về đãi ngộ đầu tư (Treatment of Investment) theo Điều 11 ACIA, có nghĩa là nước tiếp nhận đầu tư không thực hiện hoặc không thực hiện không đúng các nghĩa vụ liên quan đến việc dành cho các khoản đầu tư của nước thành viên ASEAN khác sự đối xử công bằng và thỏa đáng, bảo vệ đầy đủ và an toàn. đ) Bồi thường trong trường hợp có xung đột (Compensation in Cases of Strife) quy định tại Điều12 ACIA, theo đó nước tiếp nhận đầu tư vi phạm nghĩa vụ bồi thường cho nhà đầu tư nước ngoài liên quan đến các khoản đầu tư được bảo hộ của họ bị thiệt hại trên lãnh thổ của mình do xung đột vũ trang, xung đột dân sự hoặc tình trạng khẩn cấp. e) Vi phạm nghĩa vụ về việc cho phép tự do chuyển tiền, thu nhập hợp pháp (Transfers) từ đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài theo quy định tại Điều 13 ACIA. g) Vi phạm nghĩa vụ về bồi thường và bồi hoàn (Expropriation and Compensation) trong trường hợp nước tiếp nhận đầu tư trưng thu, quốc hữu hóa khoản đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài theo Điều 14 ACIA. Thứ hai, về các phương thức ISDS: trước hết, việc giải quyết tranh chấp được thông qua tham vấn giữa hai bên với thời hạn 180 ngày kể từ ngày bên nhà nước tiếp nhận đầu tư nhận được yêu cầu tham vấn. Trong trường hợp không giải quyết được bằng tham vấn, thì các bên có thể đưa tranh chấp ra giải quyết tại: (i) Tòa án hoặc cơ quan hành chính có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư; (ii) Trung tâm ICSID và Quy tắc tố tụng của trung tâm này nếu đáp ứng yêu cầu về quy chế thành viên của ICSDS hoặc Quy tắc phụ trợ của ICSDS dành cho nước ký kết liên quan đến tranh chấp không phải là thành viên ICSID; (iii) Quy tắc trọng tài của Ủy ban Liên hợp quốc về thương mại quốc tế (UNCITRAL); (iv) Trung tâm trọng tài khu vực Kuala Lumpur hoặc trung tâm trọng tài khác của khu vực ASEAN hoặc (v) Bất kỳ một trung tâm trọng tài nào khác. Ngoài ra, hòa giải trong ISDS có thể thực hiện ở bất cứ giai đoạn nào trong quá trình giải quyết tranh chấp miễn là trước khi cơ quan tài phán đưa ra phán quyết về vụ việc ISDS. 2. Thực tiễn ISDS của ASEAN và những thách thức đặt ra cho Việt Nam cũng như các quốc gia ASEAN khác ASEAN đang là một khu vực đầu tư hấp dẫn nhất thế giới, theo một Báo cáo của Ban Thư ký ASEAN và Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD) vào năm 2016, thì tại thời điểm năm 2015, ASEAN thu hút khoảng 16% tổng số vốn đầu tư FDI toàn cầu vào các nước đang phát triển với tổng số vốn là 120 tỷ USD. Bên cạnh đó, đầu tư trong nội khối giữa các quốc gia ASEAN với nhau, trong những năm gần đây cũng tăng khá nhanh, ví dụ: chỉ trong giai đoạn 2015-2016 đã có khoảng 20 dự án tầm cỡ của các công ty/doanh nghiệp ASEAN đầu tư trực tiếp trong nội khối với số vốn tương đối lớn, có dự án lên tới hàng chục tỷ USD (dự án của nhà đầu tư Singapore, Thái Lan)2. Cùng với việc thu hút số lượng lớn dòng vốn đầu tư nước ngoài, thì các quốc gia ASEAN cũng phải đối mặt với nhiều vụ việc ISDS. Tính đến nay, số lượng các ISDS mà một bên là quốc gia thành viên ASEAN khá cao. Theo thống kế của UNCTAD3, cho đến ngày 10/05/2017, các quốc gia ASEAN phải đối mặt với 23 vụ việc ISDS tại trọng tài quốc tế và chủ yếu được phát sinh trong khoảng 05 năm trở lại đây (Brunei và Singapore không có vụ nào, Campuchia 01 vụ, Indonesia 07 vụ, Mianma 01 vụ, Lào 03 vụ, Malaysia 03 vụ, Philippines 05 vụ, Việt Nam 06 vụ). Tuy nhiên, trong số các vụ việc này chỉ có 03 vụ do nhà đầu tư có quốc 2 Xem The ASEAN Secretariat and United Nations Conference onTrade and Development (2016), ASEAN Investment Report 2016 Foreign Direct Investment and MSME Linkages, Jakarta. 3 Xem trên Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 97 tịch của các quốc gia ASEAN khởi kiện (01 vụ do nhà đầu tư quốc tịch Singapore kiện nhà nước Mianma và 02 vụ do nhà đầu tư quốc tịch Singapore kiện nhà nước Indonesia), còn lại là do các nhà đầu tư có quốc tịch của các quốc gia châu Âu, châu Úc, châu Mỹ hoặc Trung Đông khởi kiện. Đặc biệt, trong 03 vụ việc ISDS do nhà đầu tư có quốc tịch các nước ASEAN khởi kiện nêu trên, 02 vụ được khởi kiện dựa trên căn cứ vi phạm Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư ASEAN (IGA), 01 vụ căn cứ khởi kiện là Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương (Hiệp định giữa Singapore và Indonesia năm 2005). Đối với Việt Nam, trong những năm vừa qua, đầu tư từ các quốc gia ASEAN vào Việt Nam tăng nhanh đáng kể4 và ngược lại đầu tư từ Việt Nam sang các quốc gia ASEAN khác cũng có tiến triển, ví dụ: đầu tư của Hoàng Anh Gia Lai, Vietel, VNPT và một số doanh nghiệp khác sang các quốc gia ASEAN. Tuy nhiên, cho đến nay, cả phía Nhà nước và các cá nhân, doanh nghiệp của Việt Nam hầu như vẫn chưa sử dụng đến cơ chế ISDS, nhất là việc ISDS tại trọng tài quốc tế theo các hiệp định đầu tư trong ASEAN. Thực tiễn ISDS trên thế giới cho thấy, cơ chế ISDS tại trọng tài quốc tế thường là lựa chọn ưu tiên của các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, kể từ khi có các hiệp định đầu tư khu vực ASEAN (năm 1987), cơ chế ISDS tại trọng tài quốc tế theo các hiệp định này rất ít được sử dụng. Hiện tượng các nhà đầu tư của các quốc gia ASEAN ít sử dụng cơ chế ISDS có thể được lý giải bởi một trong các lý do sau đây: (1) Có thể các hiệp định đầu tư trong khuôn khổ ASEAN trong thời gian vừa qua không phát huy hiệu quả, dẫn đến quá trình tự do hóa về đầu tư trong nội khối diễn ra chậm chạp nên ít có các dự án đầu tư nước ngoài từ các quốc gia nội khối; hoặc (2) Hiệp định đầu tư trong khuôn khổ ASEAN đã làm tốt vai trò thúc đẩy đầu tư trong nội khối và cải thiện môi trường đầu tư tại mỗi quốc giai ASEAN nên môi trường đầu tư vận hành “trơn tru”, không có tranh chấp đầu tư quốc tế xảy ra; hoặc (3) Hiệp định đầu tư trong khuôn khổ ASEAN đã cải thiện tốt môi trường đầu tư nội khối nhưng do văn hóa, thói quan không muốn kiện tụng của người châu Á, nhất là Đông Nam Á mà vụ việc về ISDS mà nguyên đơn là công dân của các quốc gia ASEAN là rất hãn hữu. (4) Quy mô của các dự án đầu tư quốc tế giữa các quốc gia ASEAN còn nhỏ, lẻ nên ít nhà đầu tư nước ngoài đủ tiền lực để theo nhưng vụ việc ISDS rất tốn kém tại trọng tài quốc tế. Tuy nhiên, với việc các vụ ISDS mà bị đơn là quốc gia ASEAN tăng khá nhanh trong những năm gần đây, nhưng nguyên đơn chủ yếu lại không phải do nhà đầu tư của các quốc gia ASEAN khởi kiện như trên đã nêu; trong khi đó, sự tăng trưởng đầu tư nội khối ASEAN trong khoảng hơn một thập niên trở lại đây là khá nhanh, thì có thể đưa ra kết luận là việc ít sử dụng cơ chế ISDS trong khuôn khổ các hiệp định về đầu tư khu vực ASEAN là có thể do nguyên nhân (3) và nguyên nhân (4) đã nêu ở trên. 3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của cơ chế ISDS trong khuôn khổ ASEAN 3.1. Đối với các quốc gia ASEAN Xuất phát từ đặc điểm về quy mô đầu tư của các nhà đầu tư ASEAN (trừ một số dự án của nhà đầu tư Singapore và Thái Lan) thường là nhỏ, chỉ có số vốn đầu tư khoảng dưới 550 triệu USD đến bảy tám chục triệu USD5 nên 4 Theo thông tin của Cục Đầu tư nước ngoài trên thì tính đến cuối tháng 03/2015, chỉ riêng nguồn vốn FDI từ các quốc gia ASEAN đầu tư vào Việt Nam đã lên tới 3.219 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 61,65 tỷ USD, trong khi đó ở thời điểm tháng 07/2015 mới chỉ có 2.632 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký 54,6 tỷ USD. 5 ASEAN Secretariat and United Nations Conference onTrade and Development (2016), ASEAN Investment Report 2016 Foreign Direct Investment and MSME Linkages, Jakarta, tr 27-33. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 98 khó có khả năng theo kiện những vụ việc ISDS có chi phí lớn. Do đó, để nâng cao hiệu quả sử dụng cơ chế ISDS trong ACIA và hiệp định đầu tư song phương giữa các quốc gia ASEAN, điều quan trọng là phải tạo thuận lợi trong việc tiếp cận và giảm thiểu chi phí ISDS. Trên cơ sở đó, các giải pháp về vấn đề này được đề xuất như sau: Thứ nhất, khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của nước tiếp nhận đầu tư trong ISDS. Tuy nhiên, để thực hiện được việc này, các quốc gia phải cải thiện hệ thống toà án, trọng tài trong nước theo hướng hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả, khách quan, minh bạch và hiện đại. Thứ hai, trong trường hợp các bên tranh chấp chọn ISDS tại trọng tài quốc tế, thì việc sử dụng trọng tài của khu vực ASEAN sẽ giảm đáng kể các chi phí giải quyết tranh chấp do lợi thế về khoảng cánh, văn hóa, ngôn ngữ... Tuy nhiên, điều này cũng đòi hỏi ASEAN và các nước thành viên phải có biện pháp hỗ trợ hiệu quả việc nâng cao năng lực của các thiết chế trọng tài trong khu vực ASEAN, nhất là các thiết chế có chức năng hòa giải tranh chấp đầu tư quốc tế. Thứ ba, tiến tới, rà soát bổ sung các mô hình về cơ chế ISDS mới thuận lợi và hiệu quả hơn cho các bên tranh chấp đang được đề xuất tại các điều ước quốc tế có quy định về đầu tư thế hệ mới, ví dụ: cơ chế ISDS theo Hiệp định hợp tác kinh tế và thương mại toàn diện giữa Canada và EU, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU. Bên cạnh đó, cũng cần nghiên cứu, tiếp thu các ý tưởng mới liên quan tới phương thức ISDS như việc công nhận các thỏa thuận hòa giải tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế mà Ủy ban Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế hiện nay đang thảo luận. 3.2. Đối với Việt Nam Đối với Việt Nam, bên cạnh việc là thành viên của ACIA, thì Việt Nam cũng có các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương đang có hiệu lực với 07/10 quốc gia thành viên ASEAN (Campuchia, Indonesia, Malaysia, Lào, Philippines, Singapore và Thái Lan). Đa số các hiệp định này được ký trong thập niên 90 của thế kỷ XX và có quy định về cơ chế ISDS tương tự như ACIA. Thực hiện các cam kết quốc tế về đầu tư nói chung, cam kết về ISDS trong nội khối ASEAN nói riêng, các văn bản pháp luật của Việt Nam liên quan như: Bộ luật tố tụng dân sự, Luật đầu tư, Luật trọng tài thương mại và các văn bản hướng dẫn các luật, bộ luật này đều quy định về việc nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có thể khởi kiện nhà nước Việt Nam liên quan đến các vi phạm nghĩa vụ về bảo hộ đầu tư tại các thiết chế giải quyết tranh chấp trong nước và trọng tài quốc tế. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả sử dụng cơ chế ISDS trong khuôn khổ ASEAN, Việt Nam cần thực hiện những giải pháp sau đây: - Tiếp tục hoàn thiện thể chế liên quan đến ISDS và nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế của hệ thống tòa án, trọng tài Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp, minh bạch và hiện đại; - Nâng cao năng lực tham gia ISDS của các cơ quan nhà nước Việt nam, cùng với đó dần hình thành đội ngũ chuyên gia cả ở khu vực nhà nước và ngoài nhà nước (luật sư, trọng tài viên) về giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà nước; - Đối với các doanh nghiệp Việt Nam có đầu tư tại các quốc gia ASEAN cũng cần được nâng cao nhận thức, hiểu biết về ISDS để có thể bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình tại nước ngoài. Cùng với quá trình thực hiện Cộng đồng ASEAN, dòng đầu tư lưu chuyển giữa các quốc gia ASEAN ngày càng thuận lợi và phát triển, nhằm tận dụng lợi thế của từng nước thành viên. Do đó, hoàn thiện cơ chế ISDS trong khuôn khổ nội khối ASEAN cũng là một biện pháp thúc đẩy nhanh, mạnh hơn dòng lưu chuyển này. Đây là một trong những thách thức mà các quốc gia ASEAN cần phải tính tới trong quá trình thực hiện Cộng đồng ASEAN những năm tới đây./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfco_che_giai_quyet_tranh_chap_giua_nha_dau_tu_nuoc_ngoai_va_n.pdf