Kết luận và kiến nghị
Trên cơ sở phân tích sơ bộ các quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
cơ chế giải quyết TCLĐ cá nhân và trên cơ
sở phân tích so sánh với hai hệ thống pháp
luật tương đối có nhiều tương đồng với Việt
Nam (về nguồn gốc, về lịch sử và về văn
hoá), chúng tôi cho rằng, cần thiết phải tiếp
tục hoàn thiện các quy định của pháp luật
Việt Nam để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của
người lao động khi xảy ra tranh chấp, đồng
thời tiến tới xây dựng một hệ thống tố tụng
hợp lý. Cụ thể là:
Thứ nhất, cho phép các bên tranh
chấp có thể bỏ qua giai đoạn hoà giải khi
họ không có nhu cầu. Quy định hiện tại bắt
buộc phải thông qua hoà giải (ngoại trừ một
số các trường hợp được phép bỏ qua) trong
khi vụ kiện TCLĐ cá nhân phải tiến hành
theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự thông
thường, nghĩa là đầy đủ các bước sơ thẩm,
phúc thẩm và xem xét lại bản án theo trình
tự thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Như
vậy, một cách gián tiếp, trong điều kiện bình
thường, thời gian cho một tiến trình giải
quyết TCLĐ cá nhân (phải thông qua hoà
giải) sẽ dài hơn, mất thời gian hơn thủ tục
tố tụng dân sự khác. Điều này là bất hợp
lý với người lao động và cả người sử dụng
lao động vì tính chất cấp thiết của loại tranh
chấp này.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 397 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ chế giải quyết tranh chấp lao động cá nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam - Nhìn từ góc độ luật so sánh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đoàn Thị Phương Diệp*
Tranh chấp lao động (TCLĐ) cá nhân
là loại TCLĐ phổ biến nhất không chỉ ở Việt
Nam mà còn ở các quốc gia trên thế giới2
2 Theo thống kê của Ryuichi YAMAKAWA, đã có một sự gia tăng về số lượng các vụ TCLĐ cá nhân ở Nhật Bản từ năm
1991 đến nay, thực tế này đòi hỏi Chính phủ Nhật Bản phải xây dựng và ban hành Cơ chế thúc đẩy giải quyết TCLĐ cá
nhân (System for Promoting Resolution of Individual Labor Disputes),
Xem: Ryuichi YAMAKAWA, Keio University Law School,
ments/20051202/yamakawa.pdf, ngày truy cập 18/9/2018
bởi tính chất nhạy cảm của loại tranh chấp
này liên quan thiết thực đến quyền và nghĩa
vụ của người lao động và người sử dụng lao
CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM - NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LUẬT SO SÁNH1
1 Bài viết tham gia Hội thảo Vai trò của đại diện lao động và giải quyết TCLĐ - Thực trạng và giải pháp, do Viện Nghiên
cứu Lập pháp tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh ngày 16-17/10/2018
Tóm tắt:
Trên cơ sở phân tích sơ bộ các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về cơ chế giải quyết tranh chấp lao động cá nhân và trên
cơ sở phân tích so sánh với hai hệ thống pháp luật tương đối có
nhiều tương đồng với Việt Nam (về nguồn gốc, lịch sử và về văn
hoá), chúng tôi cho rằng, cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện các quy
định của pháp luật Việt Nam để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người
lao động khi xảy ra tranh chấp, đồng thời tiến tới xây dựng một hệ
thống tố tụng hợp lý.
* TS. Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Abstract
This article provides analysis of the Vietnam’s current regulations
on resolution of individual labor dispute and comparative analysis
of the two legal systems that are relatively similar to Vietnam
(in terms of origin, history and culture). It is believed that it is
necessary to review for further improvement of the provisions
of Vietnamese law for better protection of the rights of workers
once disputes arise and, at the same time, for establishment of a
reasonable procedural system.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: giải quyết tranh chấp lao
động cá nhân
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 26/10/2018
Biên tập : 17/11/2018
Duyệt bài : 21/11/2018
Article Infomation:
Keywords: Individual labor dispute
resolution
Article History:
Received : 26 Oct. 2018
Edited : 17 Nov. 2018
Approved : 21 Nov. 2018
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
32 Số 6(382) T3/2019
động. Ở nước ta hiện nay, số lượng các vụ
TCLĐ ngày càng tăng, tập trung chủ yếu
vào các TCLĐ cá nhân3. Điều này dẫn đến
nhu cầu rà soát các quy định của pháp luật
về trình tự, thủ tục giải quyết TCLĐ cá nhân
để kịp thời khắc phục những hạn chế, bất
cập, tạo điều kiện cho việc giải quyết nhanh
chóng, thỏa đáng các tranh chấp phát sinh,
bảo đảm sự phát triển lành mạnh, ổn định
quan hệ lao động.
1. Quan niệm về tranh chấp lao động cá
nhân và giải quyết tranh chấp lao động
cá nhân
TCLĐ cá nhân được định nghĩa cùng
với TCLĐ nói chung tại Điều 7 Bộ luật Lao
động năm 2012 (BLLĐ) như sau:
“TCLĐ là tranh chấp về quyền, nghĩa
vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong
quan hệ lao động.
TCLĐ bao gồm TCLĐ cá nhân giữa
người lao động với người sử dụng lao động
và TCLĐ tập thể giữa tập thể lao động với
người sử dụng lao động”.
Quy định trên cho thấy, pháp luật Việt
Nam căn cứ vào chủ thể của tranh chấp để
xác định loại hình TCLĐ. Nếu tranh chấp
diễn ra giữa người lao động với người sử
dụng lao động thì đó là TCLĐ cá nhân. Mặc
dù không đề cập đến số lượng, tuy nhiên, có
thể hiểu rằng, tranh chấp phải diễn ra giữa
một người lao động và người sử dụng lao
động thì đó mới là TCLĐ cá nhân. Điểm
khác biệt giữa luật Việt Nam và luật của Nhật
Bản hay Cộng hoà Pháp đó là nội dung của
tranh chấp không được dùng như một tiêu
chí để xác định loại tranh chấp là TCLĐ cá
nhân hay tập thể. Cụ thể là cũng giống như
pháp luật Việt Nam, các TCLĐ và việc làm
3 Thống kê từ Hội thảo về Giải quyết TCLĐ tại tòa án, trong khuôn khổ xây dựng nội dung tố tụng lao động trong Dự thảo Bộ
luật Tố tụng dân sự. Theo thống kê này “Năm 2012 có 3.117 vụ TCLĐ cá nhân được thụ lý, năm 2013 có 4.470 vụ, năm 2014
có 4.682 vụ”,
4 Isabelle Beyneix, Droit du travail, Les Indispensables Vibert, trang 157
5 Thống kê tại Pháp cho thấy trong năm 2017 có 127.000 lượt tranh chấp phát sinh, Xem Thời báo Kinh tế Le Figaro, truy
cập tại website
saisissent-de-moins-en-moins-les-prud-hommes.php, ngày truy cập 25/9/2018
tại Nhật Bản được phân loại thành TCLĐ cá
nhân và TCLĐ tập thể. Trong đó, TCLĐ cá
nhân được xác định một cách cụ thể là tranh
chấp về điều kiện làm việc, tình trạng việc
làm và các vấn đề khác của cá nhân người
lao động, chẳng hạn như sa thải và trả tiền
lương. Nhóm những TCLĐ này chiếm phần
lớn các TCLĐ và việc làm tại Nhật Bản.
Trong khi đó, theo quy định của pháp
luật Pháp “TCLĐ cá nhân là những tranh
chấp phát sinh liên quan đến hợp đồng lao
động giữa một bên là người lao động và
một bên là người sử dụng lao động”4. Cũng
giống như thực tiễn tại Việt Nam hay tại
Nhật Bản, các TCLĐ cá nhân ở Pháp luôn là
những tranh chấp xảy ra phổ biến5, đa dạng
và phức tạp, nó đòi hỏi cơ chế giải quyết
với những đặc thù riêng. Cơ chế giải quyết
TCLĐ cá nhân trong quy định của luật Cộng
hoà Pháp được xây dựng trên tinh thần làm
đơn giản hoá thủ tục tố tụng để tránh tình
trạng người lao động bị thiệt thòi khi phải
từ bỏ quyền khởi kiện do sự phức tạp trong
cơ chế giải quyết tranh chấp. Trên tinh thần
đó, thiết chế giải quyết tranh chấp phải thân
thiện với người lao động và giúp họ không
ngần ngại trong việc tiến hành việc khởi
kiện chủ sử dụng lao động.
Từ phân tích nói trên, chúng tôi cho
rằng, bản chất của yêu cầu nên được công
nhận, dù ở góc độ thực tiễn để giúp phân
định TCLĐ cá nhân hay tranh chấp tập thể,
một cách rất rõ ràng, những tranh chấp liên
quan đến hợp đồng lao động hay vấn đề sa
thải luôn là những TCLĐ cá nhân.
Về giải quyết TCLĐ cá nhân. Điểm
chung trong cả ba cơ chế giải quyết TCLĐ
cá nhân ở Việt Nam, Pháp và Nhật Bản đó
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
33Số 6(382) T3/2019
là đều xem Toà án là cơ chế giải quyết tranh
chấp hiệu quả. Ngoài điểm chung này, sự
khác biệt có thể thấy khá rõ ràng khi pháp
luật Việt Nam xây dựng một cơ chế giải
quyết tranh chấp cá nhân duy nhất và bao
gồm kết hợp hai loại thủ tục tố tụng, tố tụng
ngoài Toà án (được tiến hành bởi hoà giải
viên lao động - Điều 200 khoản 1 BLLĐ) và
tố tụng dân sự tại Toà án. Trong khi đó, trong
quy định của pháp luật Nhật Bản, các bên
tranh chấp có thể chọn để giải quyết TCLĐ
cá nhân theo thủ tục một vụ kiện dân sự tại
Toà án hoặc một vụ kiện về lao động tại Toà
án hoặc chọn thủ tục hoà giải tại cơ quan hoà
giải TCLĐ (Conciliation proceedings)6. Về
vấn đề cho nhiều sự lựa chọn hay chỉ có một
cơ chế giải quyết tranh chấp duy nhất, chúng
tôi cho rằng, điều kiện thực tiễn và văn hoá
pháp lý cũng đóng vai trò quyết định. Đây
cũng là lý do Pháp chọn mô hình giải quyết
tranh chấp cá nhân như hiện nay - chỉ giải
quyết thông qua cơ quan tư pháp (Toà án)7.
Đây chính là điểm đặc biệt trong cơ chế giải
quyết TCLĐ cá nhân trong luật của Pháp so
với luật Việt Nam và Nhật Bản.
2. Cơ chế giải quyết tranh chấp lao động
cá nhân theo pháp luật Việt Nam hiện
hành nhìn từ góc độ so sánh
Theo quy định của pháp luật Việt Nam,
cơ chế giải quyết TCLĐ cá nhân được thực
hiện bởi hoà giải viên lao động và Toà án
nhân dân. Theo cơ chế này, khi một TCLĐ
cá nhân phát sinh, các bên sẽ được quyền:
- Bước 1. Yêu cầu hoà giải tại hoà giải
viên lao động trong thời hạn 06 tháng, kể từ
ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh
chấp cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình
bị vi phạm (khoản 1 Điều 202 BLLĐ 2012).
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể
từ ngày nhận được yêu cầu hoà giải, hòa
giải viên lao động phải kết thúc việc hòa
giải bằng biên bản hoà giải thành hoặc biên
6 Nobuhito Sawasaki, The Labour and Employment Disputes Review – Edition 1, Law Business Research, 2018, trang 67
7 Yves Doutriaux, Christian Lequesne, les Institutions de l’Union européenne,La documentation francais, 1998, trang 34.
bản hoà giải không thành, tuỳ từng trường
hợp (Khoản 3 Điều 201 BLLĐ 2012). Điều
201 còn đặt ra yêu cầu, hoà giải viên lao
động phải có nghĩa vụ tiến hành cho các
bên thương lượng trước khi tiến hành hoà
giải. Chúng tôi cho rằng, đây là một quy
định phù hợp về mặt thực tiễn cũng như quy
định của pháp luật lao động, bởi lẽ, nguyên
tắc đầu tiên trong giải quyết TCLĐ là: “Tôn
trọng, bảo đảm để các bên tự thương lượng,
quyết định trong giải quyết TCLĐ”. Với cơ
chế hiện hành, hoà giải viên lao động là chủ
thể duy nhất có nghĩa vụ hỗ trợ các bên tiến
hành thương lượng để giải quyết tranh chấp.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng cho rằng, nhiệm
vụ này lại nằm ngoài khuôn khổ chức năng,
nhiệm vụ của hoà giải viên lao động. Theo
quy định của Điều 198 BLLĐ 2012, “Hoà
giải viên lao động do cơ quan quản lý nhà
nước về lao động huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh cử để hoà giải TCLĐ và tranh
chấp về hợp đồng đào tạo nghề”. Với nội
dung quy định này, hòa giải viên lao động
không thể tổ chức cho các bên thương lượng
để hòa giải TCLĐ được.
Còn theo quy định của pháp luật Nhật
Bản, hoà giải được tiến hành như một cơ
chế giải quyết tranh chấp độc lập được lựa
chọn bởi các bên tranh chấp như đã trình
bày ở trên. Thủ tục hoà giải được tiến hành
bởi Phòng lao động (Labour bureau) thông
qua một Hội đồng mà các thành viên hoà
giải gồm một tập hợp các chuyên gia về lao
động, hòa giải tranh chấp giữa các bên, xác
nhận và phân tích các vấn đề chính trong các
lập luận của cả hai bên và điều phối, thúc
đẩy họ tham khảo ý kiến với nhau để giải
quyết tranh chấp. Các thành viên của ủy ban
điều phối tranh chấp thường là luật sư, giáo
sư của các trường đại học và tư vấn viên xã
hội được cấp phép. Trên thực tế, thủ tục tố
tụng hòa giải của Phòng lao động thường
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
34 Số 6(382) T3/2019
được sử dụng vì hai ưu điểm sau: thứ nhất,
không tốn phí; thứ hai, tính đơn giản của thủ
tục này so với thủ tục tố tụng dân sự giải
quyết TCLĐ cá nhân và thủ tục tố tụng lao
động cũng cho loại tranh chấp này.
Như vậy, cũng giống như pháp luật
lao động Việt Nam, cơ chế giải quyết TCLĐ
ở Nhật Bản cũng thiết lập thủ tục hoà giải
để giải quyết tranh chấp bên ngoài toà án.
Tuy nhiên, giữa hai cơ chế hoà giải này có
những khác biệt sau:
Thứ nhất, hoà giải trong pháp luật Việt
Nam là thủ tục bắt buộc trừ những trường
hợp không cần phải hoà giải theo quy định
của luật lao động8 trong khi đó pháp luật
Nhật Bản xem hoà giải là một thủ tục tố tụng
riêng biệt mà các bên tranh chấp có thể chọn
để giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, nếu pháp luật Việt Nam
xem thủ tục hoà giải như một bước khởi
đầu trong toàn bộ thủ tục tố tụng giải quyết
TCLĐ cá nhân thì hoà giải trong pháp luật
của Nhật Bản là một thủ tục tố tụng độc lập
cho phép bắt đầu và kết thúc việc giải quyết
tranh chấp.
Thứ ba, nếu hoà giải trong tố tụng lao
động ở Việt Nam chỉ được thực hiện bởi
8 Khoản 1 Điều 101 BLLĐ 2012 cho phép những loại TCLĐ cá nhân sau đây không cần phải qua thủ tục hoà giải “a)
Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động;
b) Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;
c) Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;
d) Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về
bảo hiểm y tế;
đ) Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng.
9 TCLĐ cá nhân phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu tòa án giải quyết, trừ các
TCLĐ sau đây không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải:
a) Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động;
b) Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;
c) Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;
d) Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về
bảo hiểm y tế;
đ) Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng.
một chủ thể duy nhất đó là hoà giải viên lao
động được bổ nhiệm bởi Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh với những yêu cầu về điều
kiện và tiêu chuẩn bổ nhiệm (Điều 4, 5 Nghị
định 46/2013/CP hướng dẫn một số điều của
BLLĐ 2012 về giải quyết TCLĐ) thì hoà giải
TCLĐ ở Nhật Bản được tiến hành bởi một
Hội đồng hoà giải ngoài Toà án, bao gồm một
tập hợp các chuyên gia về lao động. Sự đa
dạng về thành phần với số lượng nhiều hơn 1
của Hội đồng hoà giải cho phép thủ tục hoà
giải có sự khách quan hơn đồng thời phương
án hoà giải vừa đảm bảo tính hợp pháp và
tính hợp lý cần có của một phương án giải
quyết tranh chấp (do có sự tham gia của tư
vấn viên xã hội được cấp phép).
- Bước 2. Hoà giải là thủ tục bắt buộc
đối với các TCLĐ cá nhân trừ những trường
hợp được liệt kê theo khoản 1 Điều 201
BLLĐ 20129. Trong trường hợp hoà giải
không thành hoặc một trong hai bên không
thực hiện các thỏa thuận trong biên bản hòa
giải thành hoặc hết thời hạn giải quyết theo
quy định tại khoản 2 Điều này mà hoà giải
viên lao động không tiến hành hoà giải thì
mỗi bên tranh chấp có quyền yêu cầu Toà án
giải quyết (Khoản 4 Điều 201 BLLĐ 2012).
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
35Số 6(382) T3/2019
Tuy nhiên, để đảm bảo vụ kiện lao
động được Toà án giải quyết, theo quy định
tại khoản 2 Điều 202 BLLĐ 2012 “Thời hiệu
yêu cầu Toà án giải quyết TCLĐ cá nhân là
01 năm, kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà
mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền, lợi ích
hợp pháp của mình bị vi phạm”. Quy định
này về thời hiệu khởi kiện trong BLLĐ có
tác dụng thiết lập thời hiệu khởi kiện riêng
cho các TCLĐ cá nhân so với thời hiệu khởi
kiện các vụ án dân sự. Tuy nhiên, chúng tôi
cho rằng, có sự không rõ ràng trong quy định
này khi đặt trong mối quan hệ với thời hiệu
yêu cầu hoà giải các TCLĐ cá nhân. Cụ thể
là, đối với yêu cầu hoà giải TCLĐ cá nhân,
theo quy định tại Khoản 1 Điều 202 thời
hiệu yêu cầu là 06 tháng “kể từ ngày phát
hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho
rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị
vi phạm”. Trong khi đó, thời hiệu khởi kiện
yêu cầu giải quyết TCLĐ là 01 năm “kể từ
ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh
chấp cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của
mình bị vi phạm”. Như vậy, với hai quy định
này, thời hiệu khởi kiện đã bao gồm cả thời
hiệu yêu cầu hoà giải TCLĐ. Điều này có
nghĩa là, các bên tranh chấp sẽ phải nhanh
chóng trong việc thực hiện quyền yêu cầu
hoà giải TCLĐ của mình. Bởi vì, nếu không
xử lý kịp thời, càng kéo dài yêu cầu hoà giải
TCLĐ thì thời hiệu khởi kiện sẽ càng rút
ngắn. Theo chúng tôi, quy định này khá bất
lợi đối với người lao động không có nhiều
sự am hiểu về luật pháp. Do vậy, một mặt,
thời hiệu khởi kiện đối với các TCLĐ nói
chung, TCLĐ cá nhân nói riêng không nên
kéo dài do đặc thù của loại tranh chấp này
liên quan đến đời sống của người lao động;
mặt khác, cần đảm bảo người lao động có
10 Đây cũng là chủ thể khởi kiện chủ yếu các TCLĐ cá nhân ở Cộng hoà Pháp. Xem:
conflit-et-contentieux-en-droit-du-travail-a121610830
thời hiệu đủ để thực hiện quyền khởi kiện
của mình. Chúng tôi cho rằng, thời hiệu
khởi kiện hợp lý là “18 tháng kể từ kể từ
ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh
chấp cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của
mình bị vi phạm”. Với cách quy định như
vậy các bên sẽ vẫn còn thời hiệu khởi kiện ít
nhất là 01 năm kể từ thời điểm hết thời hiệu
yêu cầu hoà giải hoặc nhiều hơn 01 năm nếu
họ yêu cầu việc hoà giải sớm hơn thời hiệu
tối đa cho phép. Quy định này đảm bảo hơn
việc thực hiện quyền của các bên, đặc biệt là
bên người lao động - chủ thể phổ biến trong
các vụ kiện về TCLĐ cá nhân10.
Cũng liên quan đến vai trò của hoà
giải viên lao động, theo quy định của Khoản
2 Điều 200 BLLĐ 2012, “trong thời hạn 05
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu
cầu hoà giải, hòa giải viên lao động phải kết
thúc việc hòa giải”. Tuy nhiên, cũng cần lưu
ý rằng, để có thể tiến hành việc hoà giải,
hoà giải viên lao động một mặt cần có thời
gian cho việc tìm hiểu nội dung thực tế của
tranh chấp, từ việc nắm rõ tình hình tranh
chấp mới có thể áp dụng các quy định của
pháp luật lao động để từ đó có phương án
hiệu quả trong việc hỗ trợ các bên thương
lượng hay đưa ra phương án hoà giải; mặt
khác, hoà giải viên lao động cũng cần thời
gian để tiến hành các thủ tục triệu tập các
bên tranh chấp, vì theo yêu cầu thì “trường
hợp hai bên không chấp nhận phương án hoà
giải hoặc một bên tranh chấp đã được triệu
tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt
không có lý do chính đáng, thì hoà giải viên
lao động lập biên bản hoà giải không thành”
và kết thúc việc hoà giải.
Như vậy, có thể thấy rằng, khoảng thời
gian 05 ngày này để kết thúc hoà giải theo
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
36 Số 6(382) T3/2019
yêu cầu của quy định tại Điều 201 khoản 2
là không đủ để tiến hành tất cả các công việc
này. Do đó, theo chúng tôi, cần có sự quy
định thời hạn hợp lý, có thể là 10 ngày cho
việc kết thúc hoà giải. Sở dĩ cần phải kéo
dài thời hạn hoà giải như vậy không những
vì nguyên nhân của tính bất hợp lý trong
thực tiễn thực hiện quy định mà còn vì vai
trò quan trọng của hoà giải TCLĐ cá nhân.
Loại tranh chấp này liên quan mật thiết đến
quyền lợi và đời sống của người lao động và
gia đình họ, vì thế nếu như có thể giải quyết
tranh chấp một cách nhanh, gọn thông qua
con đường hoà giải thì sẽ rất hữu ích cho
cả hai bên tranh chấp, đồng thời đảm bảo
được việc tuân thủ các nguyên tắc giải quyết
TCLĐ được quy định tại Điều 194 khoản 1,
2 BLLĐ.
Như vậy, có thể thấy rằng, theo quy
định của pháp luật Việt Nam, TCLĐ cá nhân
chỉ được giải quyết tại Toà án theo thủ tục
tố tụng dân sự như là cơ chế giải quyết duy
nhất. Trong khi đó, theo luật Nhật Bản, để
giải quyết TCLĐ cá nhân tại Toà án, các bên
tranh chấp có thể lựa chọn một trong hai thủ
tục tố tụng sau đây:
- Giải quyết theo thủ tục một vụ kiện
dân sự (Civil litigation)
Với việc tiến hành vụ kiện dân sự để
giải quyết TCLĐ cá nhân, các quy định của
bộ luật tố tụng dân sự Nhật Bản sẽ được
áp dụng. Thủ tục tố tụng dân sự Nhật Bản
hiện nay gồm ba cấp, cấp xét xử thứ nhất
(first instance) được tiến hành bởi toà án cấp
quận, huyện (District Court), cấp xét xử thứ
hai (second instance - koso appeal), cấp xét
xử thứ ba (Jokoku appeal) cho trường hợp
11 Theo quy định tại các Điều 83, 84, 85 Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản (1996), chi phí khởi kiện bao gồm cả các khoản
phí mời nhân chứng, các khoản chi cần thiết cho việc Toà án giải quyết tranh chấp, tổng các chi phí này được tuyên bố
sau khi có phán quyết và trong trường hợp cần thiết được sự sẽ phải tiến hành các biện pháp bảo đảm thanh toán chi phí
kiện. Nếu đương sự có tình hình tài chính khó khăn có thể xin hỗ trợ từ Chính phủ (Điều 82 BLTTDS Nhật Bản).
12 Nobuhito Sawasaki, tlđd trang 67
phán quyết cấp xét xử thứ hai bị kiện bởi
ít nhất là một bên đương sự. Trường hợp
các bên chọn phương án giải quyết TCLĐ
cá nhân bằng thủ tục tố tụng dân sự thì vụ
kiện này sẽ được giải quyết như một thủ
tục tố tụng dân sự bình thường với chi phí
khởi kiện không được xác định trước11 và
thời gian tố tụng kéo dài khoảng 1,5 năm
tính đến thời điểm có phán quyết sơ thẩm,
trường hợp có bên kháng cáo thì cần thêm 6
tháng nữa cho cấp xét xử thứ hai12. Do vậy,
thủ tục tố tụng dân sự ít khi được bên khởi
kiện lựa chọn trừ phi để giải quyết những
TCLĐ phức tạp như các tranh chấp về tai
nạn lao động hoặc những trường hợp tranh
chấp căng thẳng khó có thể đạt được kết quả
thông qua tham vấn hoặc hoà giải.
- Giải quyết theo thủ tục là một vụ kiện
về lao động (Labour Tribunal proceedings).
Như đã trình bày ở trên, khi TCLĐ cá
nhân xảy ra, bên yêu cầu giải quyết tranh
chấp, căn cứ vào thực trạng tranh chấp và
điều kiện riêng, có thể chọn một trong các
phương thức giải quyết tranh chấp. Nếu
không thích sự kéo dài của thủ tục tố tụng
có thể lựa chọn phương thức thứ hai để giải
quyết tranh chấp, đó là tiến hành một vụ
kiện về lao động tại Toà án. Các thủ tục tố
tụng lao động tại Toà án được thiết kế để giải
quyết nhanh chóng, thích hợp và hiệu quả
các trường hợp TCLĐ giữa người sử dụng
lao động và người lao động, chẳng hạn như
tranh chấp về sa thải thực hiện hợp đồng lao
động. Nói chung, các thủ tục tố tụng này tạo
thành một sự kết hợp giữa hoà giải và giải
quyết tranh chấp chính thức bởi Toà án. Vì
vậy, thủ tục tố tụng này thường được sử dụng
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
37Số 6(382) T3/2019
bởi các bên muốn giải quyết TCLĐ một cách
thân thiện và kịp thời, với mục đích rằng sau
khi giải quyết tranh chấp họ vẫn có thể tiếp
tục quan hệ lao động với nhau.
Theo thủ tục này, một Hội đồng giải
quyết TCLĐ (gọi là Hội đồng xét xử) được
thành lập bởi Toà án, bao gồm một thẩm
phán và hai ủy viên hội đồng để giải quyết
những tranh chấp này. Ủy viên hội đồng xét
xử được lựa chọn trong số những công dân
có kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm
về các vấn đề lao động. Hội đồng sẽ kết
thúc thủ tục tố tụng vào cuối cuộc họp thứ
ba do Hội đồng xét xử triệu tập trừ khi Hội
đồng tìm thấy nguyên nhân đặc biệt để tiếp
tục. Theo thủ tục tố tụng này, đầu tiên Hội
đồng xét xử sẽ tiến hành hòa giải tranh chấp
giữa các bên. Nếu cả hai bên không đạt
được thỏa thuận bất chấp tham vấn của Hội
đồng, trong trường hợp này Hội đồng sẽ đưa
ra phán quyết nhân danh Tòa án lao động
để giải quyết tranh chấp trên cơ sở các quy
định của pháp luật và tình hình thực tế của
vụ việc. Các bên có thể nộp đơn phản đối
quyết định này trong vòng hai tuần. Nếu một
đơn phản đối được đệ trình, phán quyết đó
sẽ mất hiệu lực và vụ việc được chuyển sang
thủ tục tố tụng dân sự (như được giải thích
trong phần trên), trên cơ sở một yêu cầu này.
Trong trường hợp không có đơn phản đối
nào được nộp, thì phán quyết của Hội đồng
có hiệu lực bắt buộc như một bản án của
Toà án.
Như vậy, có thể nói rằng, pháp luật
Nhật Bản cho phép áp dụng hai loại thủ tục
tố tụng Toà án trong giải quyết TCLĐ, đó là
thủ tục tố tụng dân sự và thủ tục tố tụng lao
động. Tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của bên
khởi kiện mà có thể áp dụng một trong hai
thủ tục tố tụng này. Đây là điểm khác biệt
khá quan trọng với pháp luật Việt Nam về
giải quyết TCLĐ nói chung, TCLĐ cá nhân
nói riêng. Theo quy định của pháp luật Việt
Nam, thủ tục giải quyết TCLĐ tại Toà án
là thủ tục tố tụng dân sự giống như tất cả
các vụ kiện dân sự khác. Sự áp dụng chung
này không cho phép một thủ tục tố tụng linh
hoạt, nhanh chóng riêng như vốn dĩ khá cần
thiết cho lĩnh vực lao động.
3. Kết luận và kiến nghị
Trên cơ sở phân tích sơ bộ các quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
cơ chế giải quyết TCLĐ cá nhân và trên cơ
sở phân tích so sánh với hai hệ thống pháp
luật tương đối có nhiều tương đồng với Việt
Nam (về nguồn gốc, về lịch sử và về văn
hoá), chúng tôi cho rằng, cần thiết phải tiếp
tục hoàn thiện các quy định của pháp luật
Việt Nam để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của
người lao động khi xảy ra tranh chấp, đồng
thời tiến tới xây dựng một hệ thống tố tụng
hợp lý. Cụ thể là:
Thứ nhất, cho phép các bên tranh
chấp có thể bỏ qua giai đoạn hoà giải khi
họ không có nhu cầu. Quy định hiện tại bắt
buộc phải thông qua hoà giải (ngoại trừ một
số các trường hợp được phép bỏ qua) trong
khi vụ kiện TCLĐ cá nhân phải tiến hành
theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự thông
thường, nghĩa là đầy đủ các bước sơ thẩm,
phúc thẩm và xem xét lại bản án theo trình
tự thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Như
vậy, một cách gián tiếp, trong điều kiện bình
thường, thời gian cho một tiến trình giải
quyết TCLĐ cá nhân (phải thông qua hoà
giải) sẽ dài hơn, mất thời gian hơn thủ tục
tố tụng dân sự khác. Điều này là bất hợp
lý với người lao động và cả người sử dụng
lao động vì tính chất cấp thiết của loại tranh
chấp này.
Thứ hai, chuyên nghiệp hoá và cải tổ
để khích lệ việc hoà giải TCLĐ như một
sự lựa chọn hợp lý cho các bên nếu không
muốn giải quyết TCLĐ cá nhân tại Toà án.
(Xem tiếp trang 45)
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
38 Số 6(382) T3/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_che_giai_quyet_tranh_chap_lao_dong_ca_nhan_theo_quy_dinh.pdf