b) Với Bộ Giáo dục và Đào tạo
(1) Tiếp tục rà soát, bổ sung, chỉnh
sửa các quy chế đào tạo SĐH phù hợp
điều kiện thực tiễn. Cụ thể, cho phép các
cơ sở đào tạo đào tạo thạc sĩ sử dụng
phương pháp đào tạo trực tuyến. Trong
bối cảnh hội nhập quốc tế, học viên SĐH
phần lớn lại là những người vừa học vừa
làm, với khung thời gian và công việc
khác nhau, nên việc áp dụng đào tạo trực
tuyến hợp lý và hiệu quả.
(2) Tăng cường thanh tra, giám sát
và đảm bảo chất lượng của đào tạo SĐH.
Cùng với việc giao toàn quyền thực hiện
quá trình đào tạo và cấp bằng cho các cơ
sở đào tạo, Bộ GDĐT thực hiện hướng
dẫn, thanh tra, kiểm tra các hoạt động
này, xử lý nghiêm các vi phạm, đảm bảo
sự cạnh tranh công bằng, lành mạnh trong
đào tạo SĐH và chất lượng đào tạo chung
của hệ thống giáo dục./.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 289 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ hội, thách thức và định hướng đào tạo sau Đại học trong điều kiện hội nhập quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
62Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
* Phó Chủ nhiệm Khoa Tài chính,
Trường ĐH KD&CN Hà Nội.
1. Bối cảnh
Hội nhập quốc tế tạo cơ hội cũng như
đặt ra yêu cầu tất yếu phải xây dựng nền
giáo dục hội nhập. Đào tạo nói chung và
đào tạo sau đại học (SĐH) nói riêng đứng
trước sự thay đổi lớn trong mục tiêu và
cách thức đào tạo:
- Quan hệ giữa người học và người
dạy thay đổi một cách cơ bản. Kiến thức
ngày nay không còn là độc quyền của
người thầy và người học có thể tự kiểm
chứng tất cả những điều mình học ngay
lập tức. Người dạy sẽ là người thiết kế,
xúc tác, cố vấn và tạo môi trường học tập.
Với nội dung học tập được số hóa, người
học có thể lựa chọn cho phù hợp với mục
tiêu đào tạo theo lộ trình riêng.
- Môi trường học tập thay đổi đáng
kể. Nếu trước đây trung tâm của trường
đại học là hệ thống thư viện và kho tư
liệu khổng lồ, thì nay việc tìm kiếm thông
tin phổ biến thông qua thư viện điện tử,
internet, facebook, tweeter, Việc học
tập không chỉ ở trường, mà ở bất cứ đâu.
- Môi trường nghiên cứu cũng thay đổi.
Nơi nghiên cứu đang dịch chuyển dần từ
các trường, viện nghiên cứu đến các doanh
nghiệp. Quỹ dành cho nghiên cứu khoa học
(NCKH) ở các doanh nghiệp ngày càng lớn,
trong khi đầu tư của nhà nước cho hoạt động
này ngày càng nhỏ. Trong lĩnh vực này, các
trường đại học có xu hướng trở thành “làm
thuê” cho các doanh nghiệp.
- Phạm vi tương tác trong hội nhập
quốc tế rất rộng lớn. Khoảng cách về địa
lý, không gian và thời gian bị xóa nhòa.
Môi trường giáo dục không chỉ diễn ra
trong khuôn viên trường, mà mở rộng
ra toàn cầu. Người học có thể chủ động
tương tác với giảng viên vào mọi thời
điểm, ở trong và ngoài nước, bằng máy
tính hoặc điện thoại thông minh.
CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
NCS.ThS. Hoàng Thị Ngọc Thủy *
Tóm tắt: Nội dung chính của bài viết là nhận diện, đánh giá cơ hội, thách thức và
định hướng đào tạo sau đại học của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế; thực
trạng đào tạo sau đại học của Việt Nam thời gian vừa qua; một số kiến nghị các cơ sở
đào tạo cần thay đổi, đáp ứng để phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế.
Từ khóa: Đào tạo sau đại học, Bối cảnh hội nhập quốc tế.
Abstract: The main content of the article is to identify, assess opportunities,
challenges and postgraduate education orientation of Vietnam in the context of
international integration; the situation of postgraduate education in Vietnam recently;
some recommendations that educating institutions need to change and adapt to suit
the context of international integration.
Keywords: Postgraduate education; the context of international integration.
Văn hóa - Xã hội NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
63Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
1. Cơ hội và thách thức đối với đào
tạo sau đại học tại Việt Nam
Việt Nam không đứng ngoài tiến
trình hội nhập quốc tế. Đào tạo nói chung
và đào tạo sau đại học tại Việt Nam nói
riêng đang đứng trước những thách thức
và cơ hội to lớn.
1.1. Cơ hội
Công nghệ thông tin (CNTT) lan
tỏa mạnh mẽ giúp các cơ sở đào tạo, đội
ngũ giảng dạy tiếp cận và cập nhật lượng
kiến thức phong phú, môi trường học tập
nghiên cứu chuyên nghiệp và hiện đại
hơn. Nền giáo dục Việt Nam có điều kiện
thuận lợi liên kết với các nền giáo dục
phát triển trên thế gới, từ đó có thể học
hỏi, tiếp thu và xây dựng cho mình một
hệ thống giáo dục đáp ứng nhu cầu hội
nhập. Việt Nam đã và đang hợp tác với
nhiều quốc gia trên thế giới. Tư duy về
giáo dục thay đổi để có thể đáp ứng được
quy trình đào tạo chuẩn quốc tế.
Hội nhập quốc tế giúp nguồn nhân lực
đào tạo sau đại học nâng cao chất lượng,
tạo cơ hội lớn cho vấn đề việc làm và thu
nhập trong tương lai. Thay vì người lao
động phải đi khắp nơi để tìm công việc phù
hợp và thu nhập xứng đáng, thì giờ đây các
nhà tuyển dụng sẽ phải tìm đến họ.
1.2. Thách thức
Sức ép cạnh tranh trong thị trường
dịch vụ đào tạo, cũng như thị trường lao
động chất lượng cao, đòi hỏi chất lượng
đào tạo của các trường đại học, học viện
phải nhanh chóng nâng cao. Số lượng các
cơ sở đào tạo trong nước đủ điều kiện đào
tạo SĐH ngày càng tăng (hiện nay khoảng
180/600 cơ sở), chưa kể sự gia nhập mạnh
mẽ của các cơ sở đào tạo nước ngoài thời
gian tới.
Đầu tư vốn cho công tác nghiên cứu
và đào tạo SĐH còn ở mức thấp. Xu thế
chung của thế giới là đánh giá chất lượng
giáo dục thông qua chất lượng NCKH. Số
lượng các công trình NCKH của Việt Nam
mặc dù nhiều, nhưng chất lượng còn thấp,
công bố quốc tế rất ít. Để có được một
công trình NCKH chất lượng tốn rất nhiều
nguồn lực, trước hết là vốn. Đầu tư tài
chính cho hoạt động NCKH của Việt Nam
giai đoạn 2011-2015 chỉ chiếm khoảng
0,4% GDP, thấp hơn Singapore (2,2%),
Thái Lan (0,48%), Malaysia (1,26%).
Sức ép về nâng cao chất lượng, số
lượng đội ngũ các nhà khoa học đáp ứng
yêu cầu của hội nhập quốc tế. Chất lượng
và số lượng đội ngũ này là một trong các
thước đo về năng lực cạnh tranh của các
cơ sở đạo tạo. Việc thu hút, tuyển dụng và
giữ chân các nhà khoa học có chất lượng
cao đang là thách thức rất lớn.
Sức ép trong việc áp dụng CNTT trong
nghiên cứu giảng dạy. Nó cũng là công cụ
đắc lực hỗ trợ đổi mới nội dung, phương
pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng giáo
dục. Tuy nhiên, cách dạy học kiểu truyền
thống nặng về truyền thụ một chiều đã ăn
sâu vào tư tưởng người dạy. Làm sao để
người học và người dạy sử dụng triệt để
lợi ích của internet và CNTT là một thách
thức không nhỏ.
Mối quan hệ giữa chất lượng và số
lượng. Trong bối cảnh tự chủ tài chính,
trước áp lực đảm bảo thu nhập cho đội ngũ
lao động, các trường đại học phải gia tăng
quy mô tuyển sinh, trong đó có đào tạo
SĐH. Trong khi cơ sở vật chất, đội ngũ các
nhà khoa học, giảng viên, chương trình đào
tạo, một số trường còn hạn chế, điều này
ắt dẫn đến chất lượng đào tạo sẽ giảm.
2. Thực trạng
2.1. Những mặt tích cực
Quyền tự chủ của các trường đại học
ngày càng tăng. Các trường chủ động hơn
trong hầu hết các hoạt động, từ học thuật
đến tổ chức, tài chính.
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
64Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
Nhiều cơ sở đào tạo mới được phép
tham gia đào tạo SĐH. Hiện cả nước có
khoảng 180/600 cơ sở đủ điều kiện đào
tạo SĐH. Số lượng cơ sở đào tạo SĐH
liên kết với nước ngoài, cũng như các
cơ sở của nước ngoài tại Việt Nam ngày
càng tăng.
Quy mô đào tạo SĐH tăng. Theo
số liệu thống kê từ Bộ GDĐT, năm học
2016-2017, quy mô đào tạo tiến sĩ cả
nước là 13.587 người, tăng 25% so với
năm học 2015-2016, thạc sĩ là 105.801
người, tăng 12,8%. Đội ngũ tiến sĩ, thạc
sĩ phần lớn nằm trong các trường đại học,
viện nghiên cứu.
Chương trình đào tạo SĐH dần được
hoàn thiện; số lượng các ngành, chuyên
ngành trong mỗi cơ sở đào tạo ngày càng
tăng; phát triển một số chương trình mới,
chất lượng cao,
2.2. Hạn chế
Về chương trình đào tạo, nhiều cơ
sở đào tạo SĐH chưa quyết liệt, triệt để
chuyển đổi từ đào tạo niên chế (nặng về
về lý thuyết, bộc lộ nhiều lạc hậu) sang
đào tạo tín chỉ (cắt giảm những môn học
trùng lặp, giảm thời gian đào tạo, tăng thời
gian tự học, tự nghiên cứu, tăng thời gian
thực hành, tiếp xúc thực tế cho người học).
Chương trình chưa liên thông giữa chuẩn
mực đào tạo SĐH trong nước và quốc tế,
chưa được linh hoạt, nội dung chưa phù
hợp, chưa cập nhật nhu cầu và xu thế thị
trường lao động. Hầu hết các chương trình
đào tạo đều sử dụng tiếng Việt để giảng
dạy. Đây cũng là điểm nghẽn lớn khi hội
nhập và cạnh tranh toàn cầu. Các trường
đại học ở Việt Nam thu hút được rất ít sinh
viên quốc tế đến học sau đại học
Về tổ chức đào tạo, tuyển sinh đầu
vào, chất lượng còn hạn chế. Đối tượng
tuyển sinh hầu hết là sinh viên mới tốt
nghiệp, thiếu kiến thức thực tế. Một số cơ
sở đào tạo thu hút học viên vượt quá năng
lực thực tế. Tổ chức quản lý quá trình đào
tạo còn bộc lộ nhiều hạn chế. Phương thức
chuyển tải nội dung chương trình đào tạo
đến người học còn nặng theo cách truyền
thống. Hội nhập quốc tế đòi hỏi phương
thức và phương pháp đào tạo phải thay
đổi, ứng dụng mạnh mẽ của CNTT, công
nghệ kỹ thuật số và hệ thống mạng. Các
hình thức đào tạo online, mô phỏng, số
hóa bài giảng,.. sẽ là xu hướng đào tạo
trong tương lai.
Quy mô và cơ cấu đào tạo chưa
đồng nhất với sự phát triển của đất nước.
Theo Tổng cục Thống kê, hiện Việt Nam
có khoảng 24.000 tiến sĩ. Số liệu từ Bộ
GDĐT cho biết năm học 2016-2017 có
khoảng 16.500 tiến sĩ (21,4%) trong tổng
số 72.792 giảng viên đại học. Năm 2007
tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ ở các
trường đại học của Malaysia là 30% và họ
có ý định phấn đấu tăng lên 75%. Nhiều
nước, như Úc, Nhật Bản, Anh, đều tăng
quy mô đào tạo tiến sĩ từ 46% lên 82%
(Hàn Quốc: 166%, Đài Loan: 379%). Như
vậy, so với các nước, quy mô và tốc độ
đào tạo tiến sĩ của Việt Nam còn nhỏ và
chậm. Cơ cấu đào tạo SĐH chưa thực sự
phù hợp. Nhân lực có trình độ tiến sĩ giảm
dần theo độ tuổi. Nhóm trên 50 tuổi chiếm
tỷ lệ 62,29%, nhóm 40-49 tuổi chiếm
21,03%, nhóm 30-29 tuổi chiếm 15,8%,
nhóm dưới 30 tuổi chỉ chiếm 2,81%. Cơ
cấu theo ngành cũng chưa thực sự hợp lý.
Các ngành kinh tế, tin học, luật chiếm tỷ
lệ cao hơn các ngành khác.
Chất lượng đào tạo SĐH còn nhiều
hạn chế. Nhu cầu đào tạo tăng lên gây sự
quá tải đối với đội ngũ cán bộ giảng dạy,
hướng dẫn khoa học và điều kiện học tập.
Chất lượng luận văn, luận án bộc lộ nhiều
bất cập. Việc bảo vệ báo cáo tổng quan,
báo cáo chuyên đề tại một số cơ sở đào tạo
Văn hóa - Xã hội NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
65Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
còn mang tính hình thức. Nghiên cứu sinh
chưa coi trọng phương pháp nghiên cứu,
khả năng tin học, ngoại ngữ còn nhiều hạn
chế. Việc nghiên cứu sinh sinh hoạt ở các
bộ môn còn mang tính hình thức.
Hạn chế về khả năng nghiên cứu và
công bố các kết quả nghiên cứu. Số lượng
và chất lượng các công trình công bố trên
các ấn phẩm khoa học quốc tế là thước
đo quan trọng, không chỉ phản ánh sự
phát triển khoa học - công nghệ, hiệu suất
khoa học, mà cả trình độ và chất lượng
giáo dục thực tế của mỗi quốc gia. Tại
Việt Nam, những năm gần đây, mặt dù
đã có sự quan tâm của nhiều cơ sở giáo
dục trong việc tạo cơ chế khuyến khích
các nhà khoa học tập trung nghiên cứu
và công bố các kết quả nghiên cứu trong
nước và quốc tế, nhưng kết quả vẫn còn
hạn chế, thậm chí có xu hướng ngày càng
tụt hậu xa hơn so với nhiều quốc gia trong
khu vực và trên thế giới. Việt Nam hiện
nay có khoảng 9.000 giáo sư và phó giáo
sư, 24.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ.
Theo thống kê của Viện Thông tin khoa
học (ISI), trong giai đoạn 1996/2011, Việt
Nam mới có 13.172 công trình khoa học
công bố trên các tập san quốc tế có bình
duyệt, bằng khoảng 1/5 của Thái Lan
(69.637), 1/6 của Mlaysia (75.530) và
1/10 của Singapore (126.881), trong khi
dân số Việt Nam gần gấp rưỡi dân số Thái
Lan, 3 lần dân số Malaysia và 17 lần dân
số Singapore. Không chỉ ít về số lượng,
chỉ số ảnh hưởng của các công trình
nghiên cứu khoa học của Việt Nam cũng
thấp nhất so với các nước trong khu vực.
Thiếu cả về số lượng và chất lượng
giảng viên, các nhà khoa học. Một số cơ
sở đào tạo thiếu giảng viên cơ hữu. Xuất
hiện xu hướng theo đuổi mục tiêu hiệu quả
tài chính bằng cắt giảm chương trình, thu
hút học viên vượt quá năng lực thực tế.
3. Định hướng và kiến nghị
3.1. Định hướng
Nhận diện sâu sắc về cơ hội, thách
thức và xu hướng đào tạo SĐH trong
bối cảnh hội nhập quốc tế, các cơ sở đào
tạo cần hành động cụ thể, quyết liệt để
chuyển từ một nền giáo dục nặng về trang
bị kiến thức, kỹ năng cho người học sang
một nền giáo dục giúp phát triển năng
lực, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, đáp ứng
những yêu cầu của đất nước và thời đại.
3.2. Kiến nghị
a) Với các cơ sở đào tạo sau đại học
(1) Hoàn thiện chương trình đào tạo.
Thứ nhất, chương trình đào tạo SĐH cần
được thiết kế theo hướng chuyên biệt,
chuyên sâu, phù hợp với từng nhóm người
học. Hiện nay, với sự tiến bộ về công
nghệ, các cơ sở đào tạo có thể thiết kế lộ
trình học tập riêng biệt, phù hợp cho từng
trường hợp cụ thể. Thứ hai, thay đổi cơ cấu
chương trình đào tạo theo hướng tăng tỷ lệ
nội dung về tự nghiên cứu, khả năng hoạt
động thực tế của người học, không chỉ chú
trọng về giảng dạy các chủ đề và các môn
học chung, mà còn mở rộng, phát triển kỹ
năng nghiên cứu, thuyết trình, bảo vệ các
chủ đề nghiên cứu, khả năng ứng dụng
thực tiễn của các đề tài nghiên cứu.
(2) Về tổ chức đào tạo. Thứ nhất, rà
soát và hoàn thiện các khâu trong quá trình
đào tạo SĐH. Chú trọng ưu tiên chất lượng
khâu tuyển sinh để tuyển được các học
viên, nghiên cứu sinh tốt. Thứ hai, thay
đổi mô hình và phương pháp đào tạo. Các
hình thức đào tạo online, số hóa bài giảng,
mô phỏng, đạo tạo ảo sẽ là xu hướng đào
tạo nghề trong tương lai, bởi linh hoạt, phù
hợp về không gian, điều kiện và nhu cầu
của từng cá nhân. Thứ ba, tổ chức đánh
giá báo cáo tổng quan, báo cáo chuyên đề
chặt chẽ hơn và theo chuẩn mực quốc tế.
Mời các chuyên gia, nhà khoa học nước
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Văn hóa - Xã hội
66Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 07/2020
ngoài giảng dạy, hướng dẫn và đánh giá
chất lượng đào tạo. Thứ tư, phát triển đội
ngũ cán bộ khoa học. Các cơ sở đào tạo đại
học, SĐH cần có chính sách hỗ trợ, khuyến
khích nâng cao năng lực chuyên môn của
đội ngũ cán bộ giảng dạy theo tiêu chuẩn
quốc tế, tăng cường giao lưu, hợp tác quốc
tế về đào tạo và NCKH.
(3) Tăng đầu tư vốn cho NCKH và
đào tạo SĐH. Để có được các công trình
NCKH có chất lượng, đăng trên các tạp
chí có uy tín như ISI hay Scopus phải tiêu
tốn rất nhiều nguồn lực, trong đó đầu tiên
phải kể là nguồn tài chính.
(4) Đẩy mạnh áp dụng CNTT trong
nghiên cứu và giảng dạy. Trước hiện tượng
học viên bỏ học, đối phó điểm danh giờ
học, sao chép các nghiên cứu, các cơ sở
đào tạo cần sử dụng trang thiết bị hiện đại
ở các giảng đường để theo dõi tình hình; áp
dụng phần mềm sao chép để tạo thuận lợi
trong phát hiện và xử lý những trường hợp
gian lận trong làm luận văn và luận án.
(5) Chủ động, tích cực liên kết quốc
tế trong đào tạo SĐH giúp các cơ sở đào
tạo chia sẻ kinh nghiệm quản lý, chương
trình, nội dung và phương pháp đào
tạo,. Bên cạnh các chương trình đào tạo
SĐH thuần Việt, các chương trình SĐH
liên kết với nước ngoài đang trở thành xu
hướng, giúp người học không cần ra nước
ngoài cũng có thể theo học các chương
trình tiên tiến quốc tế.
b) Với Bộ Giáo dục và Đào tạo
(1) Tiếp tục rà soát, bổ sung, chỉnh
sửa các quy chế đào tạo SĐH phù hợp
điều kiện thực tiễn. Cụ thể, cho phép các
cơ sở đào tạo đào tạo thạc sĩ sử dụng
phương pháp đào tạo trực tuyến. Trong
bối cảnh hội nhập quốc tế, học viên SĐH
phần lớn lại là những người vừa học vừa
làm, với khung thời gian và công việc
khác nhau, nên việc áp dụng đào tạo trực
tuyến hợp lý và hiệu quả.
(2) Tăng cường thanh tra, giám sát
và đảm bảo chất lượng của đào tạo SĐH.
Cùng với việc giao toàn quyền thực hiện
quá trình đào tạo và cấp bằng cho các cơ
sở đào tạo, Bộ GDĐT thực hiện hướng
dẫn, thanh tra, kiểm tra các hoạt động
này, xử lý nghiêm các vi phạm, đảm bảo
sự cạnh tranh công bằng, lành mạnh trong
đào tạo SĐH và chất lượng đào tạo chung
của hệ thống giáo dục./.
Tài liệu tham khảo
1, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018). Báo cáo tổng kết năm học 2016-2017.
2. PGS.TS. Doãn Kế Bôn. Đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam: Thực trạng và một số kiến
nghị. Trường Đại học Thương mại.
3. Nguyễn Tấn Đại (2017). Đào tạo tiến sĩ nhìn từ số liệu thực tế.
4. PGS. TS. Nguyễn Hoàng (2018). Đào tạo sau đại học Việt Nam, xu hướng và
thách thức.
5. Phạm Thị Ly (2014). Giáo dục toàn cầu – một bức tranh không ngừng thay đổi.
Tạp chí Khoa học giáo dục, số 11/2014.
6. TS. Đỗ Đức Minh. Thành tựu và một số hạn chế của đào tạo sau đại học ở nước
ta. Đại học quốc gia Hà Nội.
7. Ngân hàng thế giới (2016). Báo cáo hoạt động năm 2015.
8. ThS. Hoàng Thị Tâm. Đào tạo sau đại học đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế:
Thực trạng và giải pháp.
9. PGS.TS. Lê Xuân Trường (2018). Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo sau
đại học ở các trường sau đại học, học viện của Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Ngày nhận bài: 09/01/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_hoi_thach_thuc_va_dinh_huong_dao_tao_sau_dai_hoc_trong_di.pdf