Thứ tư, chi trả dựa vào kết quả, chứng minh
tính bổ sung, giá trị gia tăng và tính điều kiện
(người sử dụng dịch vụ chỉ trả cho người cung
ứng dịch vụ môi trường và hệ sinh thái nếu họ
cung cấp đúng và đủ dịch vụ) là yếu tố quan
trọng trong cả 6 cơ chế tài chính mới. Tất cả các
cơ chế tài chính, trong đó cơ chế và chính sách
chi trả dịch vụ môi trường (PES) có hai ưu
điểm vượt trội hơn các giải pháp chính sách
khác, cụ thể: i) Tính điều kiện: người cung cấp
dịch vụ chỉ được nhận tiền chi trả khi chứng
minh được họ đã cung cấp đúng dịch vụ đang
bán; và ii) Tính bổ sung: chỉ trả cho giá trị tăng
thêm mà dịch vụ được tạo ra so với trường hợp
không có PES. Xây dựng hệ thống giám sát và
đánh giá, nâng cao năng lực của các bên có liên
quan trong việc đánh giá tính bổ sung và tính
điều kiện đóng vai trò rất quan trọng trong việc
khẳng định niềm tin của người mua dịch vụ môi
trường và đảm bảo tính bền vững của cơ chế tài
chính mới.
Thứ năm, với mỗi cơ chế tài chính, cần xem
xét và xây dựng cả hệ thống nguồn thu và hệ
thống quản lý tài chính cũng như chia sẻ lợi ích.
Hiện nay, phần lớn các quốc gia trên thế giới,
trong đó có Việt Nam, đang tập trung nguồn lực
vào việc thiết kế hệ thống mở rộng và quản lý
nguồn thu trong khi sử dụng nguồn tài chính
này ra sao, các giải pháp tái đầu tư và chia sẻ
lợi ích như thế nào lại chưa nhận được sự quan
tâm tương xứng. Điều này không chỉ dẫn tới
nhiều rào cản trong thực thi chính sách và cơ
chế khi các bên liên quan cho rằng chia sẻ lợi
ích không công bằng, trong khi bên sử dụng
dịch vụ đòi hỏi minh bạch về nguồn thu và chi.
Xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích cho nhiều hạng
mục và đối tượng khác nhau sẽ giúp tạo ra động
lực cho các doanh nghiệp và cộng đồng địa
phương tham gia tích cực hơn vào việc quản lý
tài nguyên bền vững.
Việc thúc đẩy và mở rộng 6 cơ chế tài chính
yêu cầu những thay đổi tổng thể về mặt hệ
thống chính sách hiện hành cũng như sự tham
gia trong quá trình ra quy định của các bên có
liên quan.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 231 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ hội và thách thức cho các cơ chế tài chính mới trong việc thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2050, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 1-9
1
Original Article
Opportunities and Challenges for Innovative Financing
Mechanisms for Climate Change Adaptation
and Mitigation, 2021-2050
Pham Thu Thuy1,*, Nguyen Dinh Tien2, Nguyen Thuy Anh1,
Nguyen Van Anh1, Dao Thi Linh Chi1, Hoang Tuan Long1
1Center for International Forestry Research, Bogor, Indonesia
2VNU University of Economics and Business, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Received 18 November 2020
Revised 12 December 2020; Accepted 12 December 2020
Abstract: Sustainable finance is essential for the implementation of adaptation and mitigation
policies on natural sources and climate change. However, global and domestic finance for
sustainable natural resources and forest management has been scared and unable to meet the
practical needs for the last decades. Identifying innovative financing mechanism for sustainable
natural resources management and climate adaptation and mitigation has been considered by
globally communities as well as Vietnamese government as an important priority. This paper
analyses new and innovative financing mechanisms for 2021- 2050, that are being considered and
developed by a large number of countries, discusses opportunities and constraints for translating
these mechanisms to the ground, and proposes policy recommendations for Vietnam to better
access to these new funding sources.
Keywords: Financing mechanism, climate change, natural resources.
D*
_______
* Corresponding author.
E-mail address: t.pham@cgiar.org
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4447
P.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 1-9
2
Cơ hội và thách thức cho các cơ chế tài chính mới trong việc
thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2050
Phạm Thu Thủy1,*, Nguyễn Đình Tiến2, Nguyễn Thủy Anh1,
Nguyễn Vân Anh1, Đào Thị Linh Chi1, Hoàng Tuấn Long1
1Tổ chức Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR), Bogor, Indonesia
2Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 18 tháng 11 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 12 tháng 12 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 12 tháng 12 năm 2020
Tóm tắt: Đảm bảo nguồn tài chính bền vững là yêu cầu thiết yếu cho việc thực hiện các chính
sách quản lý bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và ứng phó, thích ứng với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên,
trong nhiều thập kỷ qua, tài chính dành cho việc quản lý thiên nhiên và tài nguyên rừng bền vững
trên toàn cầu nói chung và tại Việt Nam nói riêng còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.
Xác định các cơ chế tài chính mới giúp các quốc gia có thể thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí
hậu cũng như quản lý tài nguyên thiên nhiên bền vững đang trở thành ưu tiên hàng đầu của cộng
đồng quốc tế và Chính phủ Việt Nam. Bài viết này phân tích các mô hình tài chính mới đang được
nhiều quốc gia xem xét và phát triển trong giai đoạn 2021-2050, thảo luận những cơ hội và thách
thức trong việc thực hiện các cơ chế này, đồng thời đưa ra các khuyến nghị chính sách cho Việt
Nam để có thể tiếp cận hiệu quả hơn với các cơ chế tài chính mới.
Từ khóa: Cơ chế tài chính, biến đổi khí hậu, tài nguyên thiên nhiên.
1. Mở đầu *
Thiếu hụt nguồn tài chính bền vững là một
trong những thách thức lớn trong việc đảm bảo
khả năng thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí
hậu đã được xác định bởi Ủy ban Liên Hợp
Quốc và hơn 197 quốc gia [1, 2]. Trên quy mô
toàn cầu, nguồn tài chính dành cho quản lý tài
nguyên thiên nhiên, thích ứng và giảm thiểu
biến đổi khí hậu nói chung và quản lý bảo vệ
rừng nói riêng tới từ 5 nguồn chủ yếu: cơ chế
tài chính quốc tế, cơ chế tài chính từ ngân sách
nhà nước, cơ chế tài chính tư nhân, cơ chế tài
chính cộng đồng và cá nhân, và liên kết công
tư. Tuy nhiên trong thực tế, dù các quốc gia
đang cố gắng đóng góp tài chính vào nỗ lực
chung này [3] thì 87% nguồn tài chính dành cho
ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu toàn
_______
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: t.pham@cgiar.org
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4447
cầu đến từ 5 quốc gia chủ chốt bao gồm Na Uy,
Đức, Anh, Mỹ và Australia [4].
Nguồn tài chính này thường không ổn định,
thay đổi theo chính sách phát triển và thể chế
chính trị của nước sở tại và phụ thuộc rất nhiều
vào mối quan hệ hợp tác giữa nước tài trợ và
nước nhận tài trợ [5]. Ngoài ra, nguồn tài chính
đóng góp cho việc hỗ trợ các quốc gia sẵn sàng
trong thiết kế, thực thi chính sách quản lý tài
nguyên bền vững và biến đổi khí hậu có hạn
mức nhất định, do đó các quốc gia đi chậm có
thể không thể tiếp cận vì nguồn tài chính đã
được các quốc gia tiên phong tiếp cận và sử
dụng gần hết [4]. Cùng lúc đó, mặc dù thế giới
kỳ vọng tài chính từ khối tư nhân sẽ trở thành
nguồn lực chính cho cuộc chiến biến đổi khí
hậu và đã có hàng nghìn cam kết từ khối tư
nhân trong một thập kỷ qua nhưng lại chưa hề
có số liệu thống kê và phân tích khoa học đáng
tin cậy về thực tế quy mô và đóng góp của
nguồn lực này [6, 7]. Trước thực trạng này, các
quốc gia trên thế giới đã nhấn mạnh sự cần thiết
P.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 1-9
3
và cấp thiết của việc xác định, thiết kế và thực
hiện các nguồn tài chính mới bền vững [8-10].
Do đó, bài viết này sẽ phân tích các mô hình tài
chính mới được Ủy ban Biến đổi Khí hậu Liên
Hợp Quốc cùng nhiều quốc gia đang xem xét
và phát triển trong giai đoạn 2021-2050, thảo
luận các cơ hội và thách thức trong việc thực
hiện các cơ chế này, đồng thời đưa ra các
khuyến nghị chính sách cho Việt Nam để có thể
tiếp cận với các cơ chế tài chính mới.
2. Phương pháp
Để xác định các cơ chế tài chính mới đang
được thế giới và các quốc gia đề xuất, xem xét,
thiết kế cũng như những cơ hội và thách thức
trong việc thiết kế, thực hiện các cơ chế này,
nhóm tác giả đã tiến hành rà soát tài liệu thứ
cấp, phỏng vấn 64 chuyên gia trên toàn cầu và
tổ chức 25 hội thảo quốc tế lấy ý kiến của 808
chuyên gia.
3. Kết quả
3.1. Tổng quan chung về cơ chế tài chính mới
Kết quả rà soát tài liệu thứ cấp, phỏng vấn
các chuyên gia quốc tế và hội thảo tham vấn
quốc tế cho thấy có 6 cơ chế tài chính mới được
đang Liên Hợp Quốc và các quốc gia trên thế
giới xem xét và xây dựng trong giai đoạn
2021-2050.
Thứ nhất là thị trường mua bán và thương
mại phát thải. Thị trường mua bán và thương
mại phát thải đã được hình thành ở nhiều khu
vực trên thế giới, nhưng phát triển nhất là 5 cơ
chế và thị trường phát thải của Cộng đồng Châu
Âu, Hàn Quốc, tỉnh Quảng Đông - Trung Quốc,
Ontario và Quebec - Canada và California -
Mỹ. Xây dựng cơ chế và thị trường mua bán
phát thải thương mại luôn được coi là một
chính sách quan trọng của các quốc gia trong
cuộc chiến đối mặt với biến đổi khí hậu. Tại
Califonia, thương mại phát thải được áp dụng
với các công ty nhiệt điện, các khu công nghiệp
lớn, các nhà máy sản xuất xi măng, dầu, gas,
thủy tinh, điện lưới, các chuỗi cung ứng và bán
dầu nhiên liệu. Khoảng 450 doanh nghiệp sản
xuất 85% lượng phát thải tại California buộc
phải thực thi chính sách này. Các công ty trong
bang hoặc khác bang có thể bồi hoàn tín chỉ
giảm phát thải thông qua việc mua từ các công
ty khác. Mua bán thương mại phát thải cũng tạo
ra các thị trường và ngân sách từ việc đấu giá,
do vậy có thể tái đầu tư vào các hoạt động giảm
phát thải khác [11]. Các công ty phải mua giấy
phép hoạt động hoặc quota từ nhà nước cho
từng tấn CO2 mà họ phát thải. Số lượng giấy
phép hoặc quota bị hạn chế sẽ giảm dần theo
các năm theo định hướng và cam kết phát thải
của nhà nước. Các công ty được phép bán quota
mà họ mua hoặc cố gắng phát thải dưới mức họ
phát thải để bán các quota còn thừa.
Thứ hai là thuế và thuế giá trị gia tăng của
hệ sinh thái rừng. Xây dựng cơ chế chính sách
thuế và thuế giá trị gia tăng cho dịch vụ hệ sinh
thái đã được đề cập từ những năm đầu của thế
kỷ XX [12], tuy nhiên thực tế hiện nay chỉ có
một vài quốc gia xây dựng thành công, trong đó
nổi bật nhất là Brazil, Đức, Đan Mạnh và Ấn
Độ. Bằng việc xây dựng các tiêu chí đánh giá
dựa trên các chỉ tiêu về môi trường như diện
tích, độ che phủ rừng, chất lượng rừng, số
lượng và chất lượng các dịch vụ hệ sinh thái để
phân bổ nguồn ngân sách nhà nước thu được từ
thuế đã tạo ra động lực kinh tế mạnh mẽ cho
các bang và các tỉnh đầu tư vào bảo vệ môi
trường bền vững.
Thứ ba là thị trường chứng khoán, cổ
phiếu, trái phiếu rừng. Dự đoán về sự khan
hiếm và phát triển của các dịch vụ môi trường
trong tương lai, nhiều quốc gia đã xây dựng thị
trường chứng khoán, cổ phiếu và trái phiếu
rừng. Trong đó nổi bật nhất có lẽ là Chile, chỉ
trong vài năm quốc gia này đã giao dịch gần 13
triệu đô la Mỹ trái phiếu rừng. Các trái phiếu
này được các nhà đầu tư lớn như quỹ hưu trí,
các ngân hàng và các công ty bảo hiểm mua.
Khi bán các trái phiếu này, tiền thu được sẽ
được sử dụng để mua các cây non mới trồng
cũng như chi trả cho phí quản lý và tái sinh
P.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 1-9
4
rừng tại các khu vực này. Các nhà đầu tư có thể
mua lại các rừng mới trồng, các rừng non mà
nếu không có người mua sẽ bị chặt bỏ và đầu tư
vào những diện tích rừng trồng đó. Khi đầu tư
như vậy thì cả người sở hữu trái phiếu và chủ
rừng sẽ cùng chia sẻ lợi nhuận trong việc quản
lý và bảo vệ diện tích rừng này [13].
Thứ tư là sản xuất, kinh doanh không liên
quan đến phá rừng. Sản xuất nông nghiệp và
xây dựng cơ sở hạ tầng là nguyên nhân chính
dẫn đến 87% diện tích rừng trên thế giới bị phá.
Giải quyết các nguyên nhân phá rừng và suy
thoái rừng không thể chỉ được thực hiện bởi
ngành lâm nghiệp, mà cần có sự tham gia của
các ngành khác. Tuy nhiên, theo các chuyên gia
phỏng vấn và tại 25 hội thảo tham vấn, một
nghịch lý hiện nay trên toàn cầu là tài chính hỗ
trợ phát triển nông nghiệp ngày càng tăng, tối
thiểu gấp 30 lần so với nguồn tài chính đầu tư
hỗ trợ bảo vệ rừng. Khi các cơ chế khuyến
khích tài chính bảo vệ rừng cao hơn so với sản
xuất nông nghiệp thiếu bền vững thì hệ sinh
thái rừng vốn là ngôi nhà của hệ thống đa dạng
sinh học mới được đảm bảo. Nhằm hướng tới
mục tiêu này, sáng kiến và cơ chế tài chính liên
quan đến cam kết sản xuất, kinh doanh không
liên quan tới phá rừng đã được thiết lập. Hiện
nay, sản xuất và kinh doanh không liên quan
đến phá rừng là yêu cầu của thị trường toàn cầu
và được kỳ vọng sẽ thay đổi cơ cấu sản xuất và
cung cấp nguồn tài chính dồi dào cho bảo vệ
phát triển rừng tới năm 2030. Có 3 giải pháp
liên quan đến cam kết kinh doanh không phá
rừng: từng công ty hoặc nhóm công ty áp dụng
tiêu chuẩn tự nguyện, can thiệp từng bước vào
chuỗi cung ứng ngành và kết hợp giữa tiêu
chuẩn quốc gia và tiêu chuẩn cấp tỉnh.
Thứ năm là thị trường carbon tự nguyện và
thị trường carbon bắt buộc. Có nhiều giả thuyết
về thị trường carbon nhưng cho tới nay, báo cáo
của Hamrick và Gallant (2018) được coi là bản
tổng hợp thông tin cập nhật và đầy đủ nhất về
thị trường carbon [14]. Báo cáo đã chỉ ra có 3
xu thế chính liên quan đến việc vận thành thị
trường carbon trong tương lai: i) Cho phép bồi
hoàn carbon tự nguyện được trao đổi với thị
trường bắt buộc trong nước; ii) Cho phép tín chỉ
carbon tự nguyện được trao đổi trên thị trường
quốc tế và thị trường tự nguyện trao quyền cho
các quốc gia theo quy định của Điều 6, Thỏa
thuận Paris; và iii) Cho phép tín chỉ carbon tự
nguyện được thương mại và trao đổi trên thị
trường CORSIA.
Thứ sáu là chi trả dịch vụ môi trường/chi
trả dịch vụ hệ sinh thái. Chi trả dịch vụ môi
trường hay Chi trả dịch vụ hệ sinh thái (PES) ra
đời vào những năm 1970 tại châu Âu trước khi
thực sự phát triển tại Costa Rica và châu Mỹ
Latinh vào năm 1993. Tuy đây không phải là
một cơ chế tài chính mới cho tới thời điểm này
nhưng PES vẫn đang là ưu tiên chính sách hàng
đầu của nhiều quốc gia trên thế giới. Kết quả rà
soát tài liệu thứ cấp, phỏng vấn với chuyên gia
và hội thảo tham vấn toàn cầu cho thấy trên
80% các quốc gia đã đệ trình Cam kết tự
nguyện quốc gia (NDC) đề cập đến việc xây
dựng chính sách PES như trụ cột tài chính cho
quản lý tài nguyên bền vững của quốc gia mình.
3.2. Cơ hội và thách thức cho các cơ chế tài
chính mới
Bảng 1 thể hiện kết quả thống nhất giữa 64
chuyên gia quốc tế được phỏng vấn và 808 đại
biểu tham gia hội thảo quốc tế về những cơ hội
và thách thức trong việc thiết kế và thực hiện 6
cơ chế tài chính mới. Tất cả các chuyên gia
phỏng vấn và kết quả của hội thảo quốc tế cho
thấy việc áp dụng riêng lẻ từng cơ chế tài chính
hay kết hợp tổng thể cả 6 cơ chế phụ thuộc vào
mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, thể chế
chính trị, khả năng thực thi pháp luật, tính giải
trình trách nhiệm và minh bạch hóa, trình độ
dân trí và mức thu nhập của mỗi quốc gia. Tuy
nhiên, việc mở rộng thực hiện 6 cơ chế tài
chính này cho nhiều loại hình dịch vụ hệ sinh
thái mới, với nhiều người sử dụng dịch vụ môi
trường mới, bằng các công cụ tài chính mới
được kỳ vọng sẽ tạo ra nguồn lực dồi dào cho
quản lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên thiên
nhiên bền vững.
P.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 1-9
5
Bảng 1. Cơ hội và thách thức cho các cơ chế tài chính mới
Cơ chế Cơ hội Thách thức
Thị trường
mua bán và
thương mại
phát thải
Đã có nhiều giao dịch được thực hiện với ví
dụ điển hình tại thị thường của California.
Chính sách giảm phát thải, hạn chế quota
phát thải và áp lực của thị trường về các
biện pháp đảm bảo an toàn môi trường tạo
ra nhu cầu lớn của thị trường.
Do hiện nay Điều 6 của Thỏa thuận Paris chưa
được thông qua và còn đang nằm trong hạng
mục cần được thông qua tại hội nghị COP đầu
năm 2021, các nhà đầu tư đang chờ đợi tiêu
chuẩn quốc tế và hệ thống đăng kiểm tín chỉ
carbon để đảm bảo khi đầu tư vào lĩnh vực này
thì có thể bán được tín chỉ phát thải.
Thuế và
thuế giá trị
gia tăng của
hệ sinh thái
Tạo ra động lực kinh tế và động lực chính
trị cho chính quyền địa phương tham gia
vào bảo vệ tài nguyên bền vững.
Cần phải có những thay đổi đồng bộ và toán
diện về chính sách và do vậy thường mất
nhiều thời gian để các cơ quan nhà nước thông
qua. Ví dụ, trước đây tại nhiều quốc gia, thuế
hệ sinh thái được đánh vào thuế thu nhập của
tất cả người dân. Tuy nhiên, thuể hệ sinh thái
hướng tới đánh thuế mạnh và thuế cao với các
bên gây ô nhiễm môi trường và phát thải cao
thay vì đánh thuế tất cả mọi người. Điều này
gặp phải sự phản đối dữ dội của các doanh
nghiệp lớn trên toán cầu
Thị trường
chứng
khoán, cổ
phiếu, trái
phiếu rừng
và hệ sinh
thái
Giúp công ty bồi hoàn phát thải nhà kính
của doanh nghiệp thông qua việc trực tiếp
đầu tư vào bảo vệ rừng.
Có đầy đủ sự bảo vệ và bảo đảm về mặt tài
chính lâu dài.
Không phát sinh thêm chi phí thẩm định dự
án được hỗ trợ bởi trái phiếu rừng.
Khả năng được nhận lãi tức dưới dạng tín
chỉ carbon được phát hành từ dự án giảm
phát thải từ phá rừng và suy thoái rừng
(REDD+).
Khả năng đa dạng hồ sơ đầu tư trách nhiệm
xã hội.
Lợi nhuận xã hội và môi trường có thể đo
lường dự kiến từ đánh giá và thẩm định dự
án được hỗ trợ hằng năm.
Các dự án thường được yêu cầu phải đạt các
tiêu chuẩn nghiêm ngặt của IFC về môi
trường, xã hội và quản trị cũng như Tiêu
chuẩn kiểm chứng carbon tự nguyện và chất
lượng vàng của Tiêu chuẩn Khí hậu, Cộng
đồng và Đa dạng sinh học.
Cổ tức tiền mặt phù hợp với lãi suất hiện hành.
Cần hỗ trợ bởi các chính sách khuyến khích
đầu tư cả trong và ngoài nước cũng như nâng
cao năng lực cho các cơ quan nhà nước và
doanh nghiệp trong việc đánh giá tính khả thi
và bền vững của thị trường.
P.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 1-9
6
Sản xuất và
kinh doanh
không phá
rừng
Hơn 1.000 thể chế tài chính (ví dụ: ngân
hàng, quỹ ủy thác, nhà tài trợ) và 600 tập
đoàn đa quốc gia trên toàn cầu đã cam kết
sản xuất và cung cấp các sản phẩm nông sản
không liên quan đến phá rừng và đang xây
dựng quy trình kiểm tra, sàng lọc, cấp
chứng chỉ cho các bên cung ứng dịch vụ và
các nước sản xuất sản phẩm nông lâm sản.
Chính phủ của các nước khối châu Âu, châu
Mỹ và châu Úc cũng đang ráo riết xây dựng
hành lang pháp lý để kiểm duyệt và cấp
chứng chỉ cho các sản phẩm nhập khẩu vào
nước họ không liên quan tới phá rừng. Các
động thái này đã buộc rất nhiều tập đoàn đa
quốc gia đầu tư lớn vào thay đổi chuỗi cung
ứng toàn cầu đồng thời cung cấp nguồn kinh
phí lớn giúp các bên cung ứng này sản xuất và
quản lý tài nguyên rừng bền vững [20-22].
Tại Việt Nam, có 92 công ty trong và ngoài
nước kinh doanh trên 21 lĩnh vực và ngành
nghề đã ký cam kết vào lộ trình không phá
rừng cho tới năm 2030. 21 lĩnh vực gồm:
Thời trang - trang phục và giày dép; Nông
nghiệp; Xây dựng; Mỹ phẩm và chăm sóc cá
nhân; Chuỗi bán lẻ thực phẩm; Lâm nghiệp;
Nhà cửa - nội thất và sàn nhà - vật dụng sửa
chữa nhà cửa; Hàng tiêu dùng thực phẩm;
Giấy và bao bì, in ấn và xuất bản; Công
nghiệp ô tô - cao su - sản xuất ô tô.
Theo dõi và giám sát thực hiện cam kết này.
Xây dựng hệ thống pháp lý hướng dẫn các
doanh nghiệp tuân thủ [18, 19].
Các doanh nghiệp và chuỗi cung ứng sản
phẩm nông lâm sản tại Việt Nam chưa được
chuẩn bị cả về kiến thức, kỹ năng và quy trình
để đáp ứng với các đòi hỏi mới của thị trường.
Nếu hiện trạng này không được nghiên cứu và
có phương hướng chuẩn bị lâu dài, ngành
nông lâm sản của Việt Nam có nguy cơ không
còn cạnh tranh trong thị trường mới, dẫn đến
thiệt hại kinh tế to lớn cho nền kinh tế nước ta.
Thị thường
carbon bắt
buộc và tự
nguyện
Thị trường này đã tăng trưởng 140 lần và
được nhiều người mua, bán trên 83 quốc gia.
Trước yêu cầu thắt chặt chính sách giảm
phát thải trên toàn cầu, nhu cầu về thị
trường carbon là rất lớn, tuy nhiên lượng tín
chỉ carbon đang được giao dịch chỉ đáp ứng
một phần rất nhỏ so với yêu cầu của thị
trường [23].
Trong các lĩnh vực giảm phát thải, giảm
phát thải từ các dự án lâm nghiệp có nhu
cầu từ người mua lớn nhất trong thị trường
carbon tự nguyện (28%) và có nhiều bằng
chứng cho thấy nhu cầu này sẽ còn cao hơn
trong tương lai [14].
Khi muốn tiếp cận thị trường này, các quốc
gia và nhà đầu tư cần xem xét cẩn trọng các
thách thức bao gồm chi phí thẩm định cao,
thiếu các chính sách hỗ trợ tài chính cho khối
tư nhân phù hợp, giá thành thiếu ổn định và
cần có đăng ký mã số truy xuất nguồn gốc tín
chỉ carbon.
Chi trả dịch
vụ môi
trường/Chi
trả dịch vụ
hệ sinh thái
(PES)
Tạo ra cơ chế tài chính dựa vào thị trường.
Khác với các cơ chế chính sách khác, đó là
chỉ khi các dịch vụ được đảm bảo và cung
cấp thì người cung cấp dịch vụ mới nhận
được tiền.
Chỉ rõ sự thiếu hụt về bằng chứng khoa học
chứng minh tính hiệu quả của PES.
Chi phí giao dịch cao, thiếu hệ thống giám sát
đánh giá và hệ thống chia sẻ lợi ích công bằng
là rào cản mà nhiều quốc gia đang gặp phải
khi thực hiện cơ chế tài chính này [24].
Chưa có PES hiệu quả cho rừng ngập mặn.
Nguồn: Tổng hợp của các tác giả.
P.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 1-9
7
4. Đề xuất
Để có thể tiếp cận và đảm bảo tính hiệu
quả, hiệu ích và công bằng của các cơ chế này,
Việt Nam cần có sự đồng hành của nhiều chính
sách khác cũng như các giải pháp hài hòa hóa
giữa bảo tồn và phát triển. Ngoài ra, 5 yếu tố
mà chính phủ Việt Nam cần xem xét trong việc
thiết kế, thực hiện và nhân rộng 6 mô hình tài
chính này gồm:
Thứ nhất, các lợi ích liên quan đến carbon
không nên được coi là ưu tiên duy nhất, mà
phải đảm bảo kết hợp giữa lợi ích carbon và lợi
ích phi carbon. Hiện nay các cơ chế tài chính
đều hướng tới mục tiêu giảm phát thải và hướng
tới thị trường carbon. Điều này dẫn đến những
rủi ro nghiêm trọng bao gồm các chính sách sẽ
chỉ ưu tiên các khu rừng có trữ lượng carbon
cao mà bỏ qua các khu rừng carbon thấp, trong
khi đây có thể là nơi có mức độ đa dạng sinh
học cao [25] cũng như việc đánh giá thấp hệ
sinh thái phi tiền tệ như dịch vụ nước, điều hòa
khí hậu và văn hóa [26]. Một ví dụ khác là khi
quá tập trung vào dịch vụ carbon, nhiều quốc
gia chỉ tập trung phát triển rừng trồng, trong khi
không lưu tâm tới việc bảo tồn đa dạng sinh học
và cải thiện chất lượng rừng. Do vậy, Việt Nam
cần xây dựng và thực thi các biện pháp đảm bảo
an toàn cũng như các chính sách liên quan đến
lợi ích phi carbon nếu muốn tiếp cận nguồn tài
chính từ các cơ chế tài chính này.
Thứ hai, các cơ chế tài chính phải đi kèm
với hành pháp và hệ thống theo dõi, giám sát,
đánh giá và thực thi pháp luật hiệu quả. Mặc
dù các cơ chế tài chính được xây dựng nhằm
khuyến khích các bên có liên quan, đặc biệt là
khối tư nhân tham gia tích cực vào việc chi trả
để bảo vệ và quản lý tài nguyên thiên nhiên bền
vững, các nghiên cứu trên toàn cầu chỉ ra rằng
khuyến khích tài chính phải đi đôi với hệ thống
giám sát, đánh giá và thực thi pháp luật. Nếu
chỉ tạo ra cơ chế tài chính khuyến khích mà
không có hệ thống thực thi pháp luật và giám
sát đi kèm, hiệu quả thực thi của các cơ chế tài
chính sẽ rất thấp, điển hình như trường hợp của
Brazil [27].
Thứ ba, gắn kết quyền lợi và trách nhiệm
của các bên có liên quan, đặc biệt khối tư nhân
là cần thiết để đảm bảo tính công bằng và hiệu
quả của cơ chế tài chính. Hiện nay, với các quy
định và khung luật pháp về bảo vệ môi trường,
các công ty phải có trách nhiệm và buộc phải
giảm phát thải bằng việc thay đổi công nghệ sản
xuất, đầu tư vào công nghệ sạch, giảm và phòng
tránh việc sản xuất kinh doanh gắn liền với phá
rừng, suy thoái rừng và các hoạt động phát thải
khác. Với việc chi trả cho dịch vụ carbon đề
xuất trong dự thảo tại Việt Nam (và thực tế
cũng đã được rất nhiều tập đoàn lớn trên thế
giới vận động hàng lang ở châu Âu và Brazil),
các doanh nghiệp có xu thế thay vì tập trung
vào đầu tư thay đổi phương thức hoạt động (bao
gồm thay đổi trang thiết bị, công nghệ sản xuất)
để giảm phát thải thì hoàn toàn có thể tiếp tục
các hoạt động phát thải, thậm chí có thể gia
tăng lượng phát thải, miễn sao họ tiếp tục trả
tiền cho lượng CO2 phát thải của họ bởi trong
trường hợp này, chi phí mà doanh nghiệp phải
bỏ ra để thay đổi lại hoàn toàn hệ thống vận
hành sẽ lớn hơn nhiều so với chi phí chi trả dịch
vụ carbon. Để tránh trường hợp các công ty “trả
tiền để tiếp tục phát thải”, nhiều nước như
Brazil không thông qua chính sách chi trả dịch
vụ hấp thụ và lưu giữ carbon bằng cách thu phí
phát thải carbon, mà tăng cường hành lang pháp
lý và thực thi pháp luật trong việc yêu cầu thay
đổi triệt để bộ máy và quy trình sản xuất để
đảm bảo các công ty này giảm phát thải triệt
để Mặt khác, để khuyến khích sự tham gia
của khối tư nhân, các quốc gia cần đảm bảo
hành lang pháp lý bao gồm làm rõ quyền
carbon và quyền sở hữu đất, đất rừng [4]. Để
khuyến khích doanh nghiệp và người dân tham
gia giảm phát thải và nghiêm túc thực hiện
chính sách chi trả carbon, Nhà nước cần có các
chính sách cho vay vốn ưu đãi, các khoản miễn
trừ thuế, vốn vay với lãi suất thấp để khuyến
khích khối tư nhân đầu tư vào lĩnh vực bán tín
chỉ carbon và dịch vụ môi trường. Nguồn tài
P.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 1-9
8
chính từ các cơ chế này đem lại cũng có thể
dùng để tái đầu tư và khuyến khích khối tư
nhân đầu tư bảo vệ dịch vụ môi trường.
Thứ tư, chi trả dựa vào kết quả, chứng minh
tính bổ sung, giá trị gia tăng và tính điều kiện
(người sử dụng dịch vụ chỉ trả cho người cung
ứng dịch vụ môi trường và hệ sinh thái nếu họ
cung cấp đúng và đủ dịch vụ) là yếu tố quan
trọng trong cả 6 cơ chế tài chính mới. Tất cả các
cơ chế tài chính, trong đó cơ chế và chính sách
chi trả dịch vụ môi trường (PES) có hai ưu
điểm vượt trội hơn các giải pháp chính sách
khác, cụ thể: i) Tính điều kiện: người cung cấp
dịch vụ chỉ được nhận tiền chi trả khi chứng
minh được họ đã cung cấp đúng dịch vụ đang
bán; và ii) Tính bổ sung: chỉ trả cho giá trị tăng
thêm mà dịch vụ được tạo ra so với trường hợp
không có PES. Xây dựng hệ thống giám sát và
đánh giá, nâng cao năng lực của các bên có liên
quan trong việc đánh giá tính bổ sung và tính
điều kiện đóng vai trò rất quan trọng trong việc
khẳng định niềm tin của người mua dịch vụ môi
trường và đảm bảo tính bền vững của cơ chế tài
chính mới.
Thứ năm, với mỗi cơ chế tài chính, cần xem
xét và xây dựng cả hệ thống nguồn thu và hệ
thống quản lý tài chính cũng như chia sẻ lợi ích.
Hiện nay, phần lớn các quốc gia trên thế giới,
trong đó có Việt Nam, đang tập trung nguồn lực
vào việc thiết kế hệ thống mở rộng và quản lý
nguồn thu trong khi sử dụng nguồn tài chính
này ra sao, các giải pháp tái đầu tư và chia sẻ
lợi ích như thế nào lại chưa nhận được sự quan
tâm tương xứng. Điều này không chỉ dẫn tới
nhiều rào cản trong thực thi chính sách và cơ
chế khi các bên liên quan cho rằng chia sẻ lợi
ích không công bằng, trong khi bên sử dụng
dịch vụ đòi hỏi minh bạch về nguồn thu và chi.
Xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích cho nhiều hạng
mục và đối tượng khác nhau sẽ giúp tạo ra động
lực cho các doanh nghiệp và cộng đồng địa
phương tham gia tích cực hơn vào việc quản lý
tài nguyên bền vững.
Việc thúc đẩy và mở rộng 6 cơ chế tài chính
yêu cầu những thay đổi tổng thể về mặt hệ
thống chính sách hiện hành cũng như sự tham
gia trong quá trình ra quy định của các bên có
liên quan.
5. Kết luận
Những cơ chế tài chính mới nêu trên đã tạo
ra nhiều cơ hội cho các quốc gia trong việc mở
rộng nguồn tài chính hỗ trợ thực thi chính sách
quản lý tài nguyên thiên nhiên bền vững. Tuy
nhiên, việc tối ưu hóa và đảm bảo tính hiệu quả,
hiệu ích và công bằng của các cơ chế chính
sách này đòi hỏi những thay đổi trong chính
sách về quyền sử dụng đất, cách tiếp cận trong
việc quản lý tài chính và chia sẻ lợi ích, kết hợp
giữa khuyến khích tài chính và khung pháp lý
thực thi pháp luật và giữa lợi ích carbon và lợi
ích phi carbon. Xây dựng hệ thống giám sát và
đánh giá cũng như thiết lập quy trình ra quyết
định có sự tham gia của các bên cũng là điều
kiện thiết yếu cho sự phát triển bền vững của
các chính sách này.
Tài liệu tham khảo
[1] T.T. Pham, M. Moeliono, A. Angelsen,
M. Brockhaus, P. Gallo, T.L. Hoang, T.L.C. Dao,
C. Ochoa, K. Bocanegra, “Strategic alignment:
Integrating REDD+ in NDCs and national climate
policies”, In A. Angelsen, C. Martius, V. De Sy,
A.E. Duchelle, A.M. Larson, T.T. Phạm, eds.,
Transforming REDD+: Lessons and new
directions, Bogor, Indonesia: CIFOR, 2018,
pp. 69-80.
[2] J. Hein, A. Guarin, E. Frommé, P. Pauw,
“Deforestation and the Paris climate agreement:
An assessment of REDD+ in the national climate
action plans”, Forest Policy and Economics 90
(2018) 7-11.
[3] G. Simonet, A.B. Bos, A.E. Duchelle, I.A.P.
Resosudarmo, J. Subervie, S. Wunder, “Forests
and carbon: The impacts of local REDD+
initiatives”, Transforming REDD+, Center for
International Forestry Research (CIFOR), 2018,
pp. 117-130.
[4] S.S. Atmadja, S. Arwida, C. Martius, T.T. Pham,
“Financing REDD+: A transaction among equals,
or an uneven playing field?”. In A. Angelsen, C.
Martius, V. De Sy, A.E. Duchelle, A.M. Larson,
T.T. Pham eds., Transforming REDD+: Lessons
P.T. Thuy et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 1-9
9
and new directions: Bogor, Indonesia: CIFOR,
2018, pp. 29-39.
[5] A. Angelsen, “REDD+ as result-based aid:
General lessons and bilateral agreements of
Norway”, Review of Development Economics,
Bogor Barat, Indonesia: CIFOR. 21(2) (2017)
237-264.
[6] I. Henderson, J. Coello, “REDD+ finance: What
do we know about the private sector
contribution?”, Washington, DC: Forest Trends.
https://www.ecosystemmarketplace.com/articles/r
edd-finance-what-do-we-know-br-about-the-
private-sector-contribution/, 2013 (accessed 22
November 2018).
[7] F. Haupt, H. Bakhtary, I. Schulte, H. Galt,
C. Streck, “Progress on Corporate Commitments
and their Implementation”, Amsterdam: Climate
Focus, 2018.
[8] World Economic Forum, The Global Risks Report
2020.b
al_Risk_Report_2020.pdf/, 2000 (accessed 22
November 2018).
[9] Organisation for Economic Cooperation and
Development, A Comprehensive Overview of
Global Biodiversity Finance, Final Report.
[10] M. Brockhaus, K. Korhonen-Kurki, J. Sehring,
M. Di Gregorio et al., “Policy progress with
REDD+ and the promise of performance-based
payments: A qualitative comparative analysis of
13 countries”, Working, Bogor, Indonesia:
CIFOR, 2015.
[11] Pacific Forest Trust, “California’s cap and trade
extension holds promise for forests”, 2020,
Available at: https://www.pacificforest.org/ca-
capandtrade-holds-promise-forests/, 2000
(accessed 22 November 2018).
[12] U.W. Ernst, J. Jochen, Exological Tax Reform: A
policy Proposal for Sustainable Development,
London, England: Zed Books, 1992.
[13] Ministry of Finance - The Republic of Chile,
Green Bond Framework, Santiago, Chile:
Ministry of Finance, 2019.
[14] K. Hamrick, M. Gallant, “Voluntary Carbon
Market Insights: 2018 Outlook and First-Quarter
Trends”, Forest Trends’ Ecosystem Marketplace:
Washington, D.C., 2018.
[15] A.L. Phillip, “Ecological Tax Reform: Many know
why but few know how”, Environment,
Development and Sustainability 2 (2000) 143-164.
[16] J. Klok, A. Larsen, A. Dahl, K. Hansen,
“Ecological Tax Reform in Denmark: History and
social acceptability”, Energy Policy 34(8) (2006)
905-916.
[17] D. Simon, D. Louise, C. Peter, B. Christiane,
“Social and political responses to ecological tax
reform in Europe: An introduction to the special
issue”, Energy Policy 34(8) (2006) 895-904.
[18] A. Sen, Pathways to deforestation-free food:
Developing supply chains free of deforestation
and exploitation in the food and beverage sector,
US: Oxfam, 2017.
[19] P. Pacheco, H. Bakhtary, M. Camargo,
S. Donofrio, I. Drigo, D. Mithöfer, “The private
sector: Can zero deforestation commitments save
tropical forests?”, In A. Angelsen, C. Martius,
V. De Sy, A.E. Duchelle, A.M. Larson,
T.T. Pham, eds. Transforming REDD+: Lessons
and new directions: Bogor, Indonesia: CIFOR,
2018, pp. 161-173.
[20] T.T. Pham, T.L.C. Dao, T.L. Hoang, M.H. Hoang
N.M.H. Tran, 31 global and regional trends that
Vietnam should consider for its Vietnam Forestry
Development Strategy 2021-2030. Ocassionaly
paper No. 259. Bogor, Indonesia: CIFOR, 2020.
[21] T.T. Pham, H.C. Ngo, N.K.N. Nong, 10 global
forestry outlooks that Vietnam should consider for
its development of Vietnam Forestry
Development Strategy, 2020-2030. Occasional
paper No. 256. Bogor, Indonesia: CIFOR, 2019.
[22] T.T. Pham, D.T. Nguyen, T.L.C. Dao, T.L.
Hoang, Preparing for Vietnam to meet new
international market rules - zero deforestation
commitment. Occasional paper No. 253. Bogor,
Indonesia: CIFOR, 2019.
[23] D.J. Zarin, N.L. Harris, A. Baccini, D. Aksenov,
Hansen M.C., Azevedo-Ramos C., “Can carbon
emissions from tropical deforestation drop by
50% in 5 years?”, Global Change Biology 22(4)
(2016) 1336-1347.
[24] T.T. Pham, M. Brockhaus, G. Wong, L.N. Dung,
J.S. Tjajadi, L. Loft, C. Luttrell, S. Assembe
Mvondo, “Approaches to benefit sharing: A
preliminary comparative analysis of 13 REDD+
countries”, Working, Bogor, Indonesia:
CIFOR, 2013.
[25] J. Phelps, E.L. Webb, A. Agrawal, “Does REDD+
threaten to recentralize forest governance”,
Science 328(5976) (2010) 312-313.
[26] E. Ojea, M.L. Loureiro, M. Alló, M. Barrio,
“Ecosystem services and REDD: Estimating the
benefits of non-carbon services in worldwide
forests”, World Development 78 (2016) 246-261.
[27] B. Jan, M. Eduardo, W. Sven, Mixing Carrots and
Sticks to Conserve Forests in the Brazilian Amazon:
A Spatial Probabilistic Modeling Approach,
Francisco, California, USA: PLOS, 2015.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_hoi_va_thach_thuc_cho_cac_co_che_tai_chinh_moi_trong_viec.pdf