- Xây dựng cơ chế tham khảo ý kiến trước
Hiện nay, Cục quản lý cạnh tranh mới chỉ
được quy định chức năng tham vấn đối với
những văn bản đã ban hành tại Khoản 3, Điều
2 Nghị định số 06/2006/NĐ-CP của Chính
phủ. Chúng tôi cho rằng, nên xây dựng thêm
cơ chế tham khảo ý kiến trước (đối với những
văn bản pháp luật sắp ban hành) trước khi các
cơ quan Chính phủ có kế hoạch ban hành hay
sửa đổi các luật và quy định có ảnh hưởng đến
cạnh tranh, kể cả khi các cơ quan này muốn
áp dụng các biện pháp hành chính có bản chất
tương tự. Trong quá trình tham khảo ý kiến, cơ
quan cạnh tranh chủ yếu xem xét các khía cạnh
liên quan đến các hạn chế gia nhập thị trường,
duy trì giá bán, các hoạt động của cartel,
cũng như đề xuất ý kiến, giải quyết các hạn chế
trong dự thảo và chính sách này. Có thể thấy,
cơ chế này sẽ giúp hạn chế tình trạng các văn
bản, chính sách trái/không phù hợp với pháp
luật cạnh tranh cũng như tiết kiệm thời gian,
tài chính để không phải khắc phục, giải quyết
các hậu quả do các văn bản này gây ra sau khi
được ban hành.
- Xây dựng cơ chế hoạt động nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động và tiết kiệm chi phí,
nhân lực cho bộ phận điều tra
Có thể thấy, đội ngũ điều tra viên là yếu
tố rất quan trọng cho hiệu quả của công tác
điều tra của cơ quan quản lý cạnh tranh. Hoạt
động của họ mang nhiều yếu tố đặc thù (thời
gian điều tra một vụ việc có thể kéo dài từ sáu
tháng đến hai năm, các vụ việc mang tính đa
ngành cao, ). Vì vậy, pháp luật nên quy định
trước khi ra quyết định điều tra chính thức một
hành vi cạnh tranh, điều tra viên phải đưa ra
lập luận của mình trước các thành viên của bộ
phận điều tra của cơ quan quản lý cạnh tranh
và người phụ trách quản lý hành chính về lĩnh
vực vụ việc cạnh tranh. Điều đó sẽ giảm thiểu
được các trường hợp xin điều tra bổ sung hay
kịp thời đình chỉ điều tra các trường hợp cần
thiết. Quy định này sẽ tiết kiệm kinh phí, thời
gian, mang lại sự hiệu quả cao cho bộ phận
điều tra cũng như nâng cao vai trò của điều
tra viên15. Hơn nữa, nó cũng nhằm tạo ra sự
gắn bó, theo sát vụ việc của bộ phận điều tra
và bộ phận xử lý nhằm làm cho hiệu quả của
việc xử lý được nâng cao. Để đạt được điều
này, phải thay đổi pháp luật cạnh tranh một
cách toàn diện, chú trọng đào tạo điều tra viên
và hoàn thiện quy chế tài chính đối với hoạt
động điều tra.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 252 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam: Những bất cập và phương hướng hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 6(191) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 473
2011
THỰC TIẾN PHÁP LUẬT
Cơ QUAN QUẢN LÝ CạNH TRANH Ở VIỆT NAM:
NHỮNG BẤT CẬP VÀ PHƯơNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
1. Sự ra đời cơ quan quản lý cạnh tranh tại
Việt Nam
Vào giữa thập niên thứ hai của quá trình
đổi mới, các nhà làm luật Việt Nam đã đặt ra
nhiệm vụ trọng yếu là phải xây dựng một đạo
luật cạnh tranh mang tầm vóc của một đạo luật
căn bản trong cấu trúc của pháp luật thương
mại1. Do đó, trên cơ sở tiếp thu những kinh
nghiệm xây dựng Luật Cạnh tranh ở các nước,
Luật Cạnh tranh Việt Nam đã được ban hành
năm 2004. Gắn liền với quá trình hình thành
pháp luật cạnh tranh, cơ quan quản lý cạnh
tranh của Việt Nam cũng được ra đời trên tinh
thần xây dựng và bảo vệ các thiết chế kinh tế,
thúc đẩy, giám sát các hoạt động kinh tế để tạo
môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh,
bình đẳng. Năm 2003, Bộ Thương mại đã thành
lập Ban Quản lý cạnh tranh. Ngày 26/02/2004,
để triển khai Nghị định số 29/2004/NĐ-CP
của Chính phủ quy định chức năng nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Thương
mại, Bộ trưởng Bộ Thương mại đã ban hành
Quyết định số 0235/2004/QĐ-BTM thành lập
Cục Quản lý cạnh tranh trên cơ sở Ban Quản
lý cạnh tranh. Theo Quyết định số 1808/2004/
QĐ-BTM ngày 06/12/2004 của Bộ trưởng Bộ
Thương mại thì Cục Quản lý cạnh tranh là
cơ quan thuộc Bộ Thương mại có chức năng
giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước
về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ
cấp, tự vệ và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Năm 2004, Luật Cạnh tranh đã được Quốc hội
thông qua và chính thức có hiệu lực vào ngày
01/07/2005. Ngày 09/01/2006, Chính phủ ban
hành Nghị định số 06/2006/NĐ-CP quy định
chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Cục Quản lý cạnh tranh.
Bên cạnh đó, theo quy định của Luật này,
đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh, Cục
Quản lý cạnh tranh chỉ đảm nhận vai trò điều
Cơ quan quản lý cạnh tranh là một thiết chế kinh tế đặc biệt, được xây dựng để thực thi pháp luật cạnh
tranh của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, cùng với sự ra đời của Luật Cạnh tranh là sự hình thành Cục quản lý cạnh
tranh và Hội đồng cạnh tranh. Mặc dù mới được thành lập nhưng cơ quan quản lý cạnh tranh của chúng ta
đã bộc lộ nhiều bất cập về mặt lý luận cũng như thực tiễn tổ chức và hoạt động. Vì vậy, việc nghiên cứu thực
trạng và đề xuất phương hướng hoàn thiện mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh cho Việt Nam là điều cần
thiết trong điều kiện nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và có sự
hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
TRƯơNG HỒNG QUANG *
(*) Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp.
(1) Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Pháp luật Cạnh tranh tại Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
48 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 6(191) 32011
THỰC TIẾN PHÁP LUẬT
tra, thu thập, tìm kiếm các chứng cứ có liên
quan đến vụ việc, còn việc xét xử, xử lý, đưa
ra các quyết định, giải quyết khiếu nại có liên
quan đến vụ việc cạnh tranh thì do Hội đồng
cạnh tranh (Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh)
đảm nhận. Hội đồng cạnh tranh là cơ quan do
Chính phủ thành lập gồm từ 11 đến 15 thành
viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn
nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương
mại (nay là Bộ Công thương). Chủ tịch Hội
đồng cạnh tranh cũng được Thủ tướng bổ
nhiệm, miễn nhiệm trong số thành viên của Hội
đồng cạnh tranh theo đề nghị của Bộ trưởng
Bộ Thương mại. Ngày 09/01/2006, Chính phủ
ban hành Nghị định số 05/2006/NĐ-CP về
việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng
cạnh tranh. Ngày 12/06/2006, theo đề nghị
của Bộ trưởng Bộ Thương mại, Thủ tướng
Chính phủ đã ký Quyết định số 843/QĐ-TTg
bổ nhiệm 11 thành viên Hội đồng cạnh tranh.
Thành viên Hội đồng cạnh tranh là đại diện
của các bộ: Bộ Thương mại, Bộ Tư pháp, Bộ
Tài chính, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Hội đồng
cạnh tranh gồm Chủ tịch, giúp việc cho Chủ
tịch có 02 Phó Chủ tịch. Để giúp việc cho Hội
đồng, ngày 28/08/2006, Bộ trưởng Bộ Thương
mại đã có Quyết định số 1378/QĐ-BTM thành
lập Ban Thư ký Hội đồng cạnh tranh. Ban Thư
ký gồm 8 người làm việc chuyên trách. Tháng
01/2009, Thủ tướng Chính phủ đã bổ nhiệm
thêm 5 thành viên nâng tổng số thành viên Hội
đồng cạnh tranh lên 16 người.
Như vậy, hiện nay hệ thống cơ quan quản lý
cạnh tranh của nước ta đã được thành lập và tổ
chức với hai cơ quan riêng biệt là Cục quản lý
cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh.
2. Những bất cập trong tổ chức và hoạt
động của cơ quan quản lý cạnh tranh
Việt Nam
2.1. Đối với Cục quản lý cạnh tranh
Thứ nhất, trong điều kiện mới được thành
lập chưa lâu, số lượng chuyên gia cạnh tranh
còn ít thì việc đào tạo, bồi dưỡng điều tra viên,
chuyên gia, chỉ mới đáp ứng được nhu cầu
trước mắt và chất lượng vẫn còn hạn chế. Số
lượng các điều tra viên của Cục chưa đủ để đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng của cộng đồng
doanh nghiệp, hiệp hội và người tiêu dùng.
Thứ hai, qua gần 5 năm hoạt động, Cục
quản lý cạnh tranh vẫn chưa có nhiều động
thái nhằm thể hiện vai trò của mình trong đời
sống xã hội và chức năng chuyên biệt của nó
trong hệ thống cơ quan nhà nước. Theo một
khảo sát gần đây của Cục Quản lý cạnh tranh
được thực hiện từ 01/11/2008 đến 31/12/2008
cho thấy, hiểu biết của cộng đồng đối với Luật
Cạnh tranh dừng lại ở mức “biết Luật Cạnh
tranh mới ra đời” và nhận thức về cơ quan quản
lý cạnh tranh cũng không khả quan hơn. Điều
này xuất phát từ nguyên do kết quả hoạt động
của Cục Quản lý cạnh tranh chưa tạo được con
số ấn tượng2.
Thứ ba, hiện nay, Cục Quản lý cạnh tranh
được quy định “ôm đồm” quá nhiều chức năng,
từ điều tra xử lý các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh, điều tra các hành vi hạn chế cạnh
tranh, bảo vệ người tiêu dùng đến quản lý nhà
nước về chống bán phá giá, chống trợ cấp và
áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại
quốc tế. Có một thực tế là không một cơ quan
quản lý cạnh tranh nào trên thế giới được quy
định nhiều chức năng, đặc biệt là bao gồm cả
các chức năng thực thi pháp luật về các biện
pháp đảm bảo công bằng trong thương mại
quốc tế như Việt Nam. Điều này đã dẫn đến
tình trạng quá tải cho hoạt động của Cục quản
lý cạnh tranh trong thời gian qua.
2.2. Đối với Hội đồng Cạnh tranh
Thứ nhất, xét về mặt tổ chức, chúng ta chưa
xác định được Hội đồng cạnh tranh trực thuộc
Chính phủ hay Bộ Công thương. Nghị định số
05/2006/NĐ-CP chỉ quy định Hội đồng cạnh
tranh là cơ quan thực thi quyền lực nhà nước
độc lập mà chưa khẳng định rõ ràng nó trực
thuộc cơ quan nào trong bộ máy hành pháp.
Với tình trạng lấp lửng này, những cuộc tranh
(2) Xem thêm: Cục quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương), Bản tin Cạnh tranh, số 03/2009, tr. 23.
Số 6(191) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 493
2011
THỰC TIẾN PHÁP LUẬT
luận về tổ chức của Hội đồng cạnh tranh đến
nay vẫn chưa thể kết thúc .
Thứ hai, các luận thuyết nền tảng của pháp
luật cạnh tranh đã khẳng định rằng tính độc
lập và tự quyết tạo nền tảng vững chắc cho các
cơ quan quản lý cạnh tranh hoạt động độc lập
và có hiệu quả4. Dựa vào nội dung của Nghị
định số 05/2006/NĐ-CP khó có thể khẳng định
được sự độc lập của Hội đồng cạnh tranh. Việc
Bộ trưởng Bộ Công thương có khả năng: đề
nghị Thủ tướng bổ nhiệm, miễn nhiệm thành
viên và Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh; quy định
chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của
Ban thư ký Hội đồng cạnh tranh - bộ phận giúp
việc cho Hội đồng; phê duyệt quy chế tổ chức
và hoạt động của Hội đồng cạnh tranh sẽ dẫn
đến khả năng chi phối đối với việc tổ chức và
hoạt động của cơ quan này. Ngoài ra, kinh phí
hoạt động của Hội đồng cạnh tranh được bố trí
theo dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công
thương5. Với những ràng buộc này, các ý định
đưa Hội đồng cạnh tranh thoát khỏi vòng kiềm
tỏa của Bộ Công thương là rất mong manh. Dù
biết rằng, do sự hạn chế về khả năng lựa chọn
nhân sự và những non kém về kinh nghiệm
trong việc thực thi pháp luật cạnh tranh đã làm
chúng ta không có nhiều khả năng lựa chọn
những phương án tối ưu, song điều đó không
thể là cơ sở để trao toàn bộ khả năng thi hành
đạo luật này cho Bộ Công thương. Nhất là
trong điều kiện hiện nay, Bộ này vẫn còn đóng
vai trò chủ quản của một số công ty nhà nước
quan trọng và những nghi ngờ về tính khách
quan trong hoạt động của các cơ quan quản lý
cạnh tranh vẫn còn cơ sở6.
Thứ ba, về sự phân định thẩm quyền giữa
Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh
tranh. Vấn đề này có nhiều điểm chưa thực
sự hợp lý. Căn cứ vào các quy định tại Mục
4 và 5 Chương V của Luật Cạnh tranh 2004
có thể thấy rằng, trong một vụ việc về hành
vi lạm dụng, cơ quan có thẩm quyền xử lý là
Hội đồng cạnh tranh, song gần như tất cả các
hoạt động tố tụng đều do Cục quản lý cạnh
tranh tiến hành. Hội đồng cạnh tranh chỉ có
thẩm quyền tổ chức phiên điều trần và ra quyết
định xử lý vụ việc, giải quyết các khiếu nại các
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh về hành
vi hạn chế cạnh tranh. Như vậy, cho dù là cơ
quan có quyền cao nhất, nhưng kết quả xử lý
của Hội đồng cạnh tranh gần như phải lệ thuộc
vào kết quả của các hoạt động tố tụng trước đó
của Cục quản lý cạnh tranh. Nếu có bất cứ nghi
ngờ gì về kết quả điều tra thì phải trả lại hồ sơ
để cơ quan điều tra tiến hành điều tra lại. Rõ
ràng, cách thiết kế cơ chế phân quyền theo các
quy định hiện hành có vẻ đảm bảo sự chuyên
môn hoá cao độ song lại làm mờ nhạt đi vai trò
rất quan trọng của Hội đồng cạnh tranh là xử lý
vụ việc7. Điều này đặt ra cho chúng ta yêu cầu
phải xây dựng lại cơ chế phân quyền này.
Thứ tư, trên thực tế, hoạt động của Hội
đồng cạnh tranh trong thời gian qua khá mờ
nhạt, dường như trở thành “cái bóng” của Cục
Quản lý cạnh tranh. Số lượng vụ việc hạn chế
cạnh tranh đã xử lý dừng ở mức khiêm tốn:
một vụ (điều đó còn phụ thuộc vào số lượng hồ
sơ vụ việc mà Cục Quản lý cạnh tranh chuyển
sang và Hội đồng chỉ có chức năng xử lý chứ
không có chức năng điều tra). Hội đồng cạnh
tranh cũng gặp những khó khăn như: hầu hết
các thành viên đều kiêm nhiệm, bộ máy còn
chưa hoàn chỉnh về nhân sự và biên chế. Bên
cạnh đó, Hội đồng chưa có những hoạt động
nổi bật về các chức năng còn lại (quảng bá,
tuyên truyền pháp luật cạnh tranh, học hỏi kinh
(3) Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Một số ý kiến về địa vị pháp lý của Hội đồng Cạnh tranh tại Việt Nam trong điều kiện hiện nay, Tạp chí
Khoa học pháp lý, ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.
(4) Tổng hợp từ các học thuyết liên quan đến pháp luật cạnh tranh tại một số quốc gia và khu vực tiêu biểu trên thế giới (Hoa Kỳ,
Canada, Liên minh Châu Âu,)
(5) Điều 49, 53, 54, Luật Cạnh tranh và Điều 3, Nghị định số 05/2006/NĐ-CP.
(6) Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Một số ý kiến về địa vị pháp lý của Hội đồng Cạnh tranh tại Việt Nam trong điều kiện hiện nay, Tạp chí
Khoa học pháp lý, ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.
(7) Nguyễn Như Phát, Nguyễn Ngọc Sơn, Phân tích và luận giải các quy định của Luật Cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh,
vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr. 285.
50 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 6(191) 32011
THỰC TIẾN PHÁP LUẬT
nghiệm xây dựng, tổ chức của các nước trên
thế giới, hoàn thiện pháp luật cạnh tranh).
Vì vậy, mô hình tổ chức cũng như hoạt động
của Hội đồng cạnh tranh Việt Nam chỉ mới
dừng lại ở mức còn sơ khai, chưa hoàn thiện.
3. Phương hướng hoàn thiện mô hình cơ
quan quản lý cạnh tranh Việt Nam
3.1. Bản chất pháp lý của cơ quan quản lý
cạnh tranh
Việc xác định bản chất pháp lý của cơ quan
quản lý cạnh tranh có ý nghĩa quan trọng trong
vấn đề quyết định các yếu tố khác của cơ quan
này, như: tên gọi, mô hình tổ chức, vị trí, chức
năng, nhiệm vụ, Hiện nay, cơ quan quản lý
cạnh tranh của Việt Nam được xác định: Cục
quản lý cạnh tranh vừa mang tính “hành chính”,
vừa mang tính “tài phán”; Hội đồng cạnh tranh
mang tính xét xử hành chính. Chúng tôi cho
rằng, cơ quan quản lý cạnh tranh cần mang bản
chất pháp lý là sự kết hợp của đặc điểm “hành
chính” và “tài phán”. Việc xác định bản chất
pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh như
trên có ưu thế là, một mặt vừa đảm bảo vai
trò điều tiết của Chính phủ đối với nền kinh
tế, mặt khác sẽ tạo các điều kiện tối ưu để bảo
đảm các quyền và tự do của các doanh nghiệp
với tư cách là đối tượng áp dụng chủ yếu của
Luật Cạnh tranh. Vì vậy, bản chất “lưỡng tính”
(vừa là một cơ quan hành chính vừa là một cơ
quan tư pháp) tỏ ra là một phương án có thể
giải quyết được các bất cập của việc quy định
cơ quan quản lý cạnh tranh chỉ là cơ quan hành
chính hay chỉ là cơ quan tài phán.
3.2. Mô hình tổ chức cơ quan quản lý cạnh
tranh
Việc lựa chọn mô hình cơ quan quản lý
cạnh tranh là vấn đề quan trọng và có nhiều
quan điểm khác nhau tại các nước trên thế
giới. Hiện nay, có nhiều mô hình cơ quan quản
lý cạnh tranh trên thế giới, trong đó cơ quan
quản lý cạnh tranh thuộc Quốc hội, Chính phủ
hoặc bộ... Hiện nay, Việt Nam lựa chọn mô
hình cơ quan thuộc bộ. Chúng tôi cho rằng, với
thực trạng hoạt động của cơ quan quản lý cạnh
tranh cùng với xu hướng tối cao hóa cơ quan
quản lý cạnh tranh trên thế giới thì trong tương
lai, chúng ta nên xây dựng một cơ quan quản
lý cạnh tranh ngang bộ (trực thuộc Chính phủ)
để đáp ứng và thực hiện các mục tiêu sau đây:
- Đảm bảo tính độc lập trong hoạt động
của cơ quan này trong điều kiện bộ máy hành
chính nhà nước của Việt Nam còn nhiều bất
cập và còn tư tưởng “cục bộ”. Độc lập không
có nghĩa là phải đứng độc lập, riêng rẽ về mặt
tổ chức, không trực thuộc cơ quan chủ quản
nào mà là độc lập về hoạt động cũng như về
nhiệm vụ, quyền hạn. Hơn nữa, các nước trên
thế giới quan niệm độc lập, đầu tiên là phải
đứng độc lập với doanh nghiệp chứ không
phải là về mặt tổ chức trong hệ thống cơ quan
chính quyền. Ở nước ta, khi bộ vẫn là cơ quan
chủ quản của một số doanh nghiệp nhà nước
thì việc xây dựng cơ quan quản lý cạnh tranh
ngang cấp bộ ở Việt Nam là điều cần thiết để
thể hiện được vị trí, vai trò quan trọng đặc biệt
vốn có của cơ quan này.
- Hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh
chủ yếu được thể hiện trong hoạt động điều tra
và xử lý vụ việc cạnh tranh. Trong điều kiện
nước ta hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước
đang giữ hầu hết các lĩnh vực then chốt của
nền kinh tế, do đó, đối tượng điều tra của cơ
quan quản lý cạnh tranh có thể sẽ là các tổng
công ty nhà nước, các tập đoàn kinh tế lớn và
thậm chí là cả các cơ quan quản lý nhà nước.
Nếu không có một vị thế đủ mạnh thì cơ quan
quản lý cạnh tranh sẽ không thể thực hiện tốt
các nhiệm vụ của mình.
- Việc thành lập một cơ quan quản lý cạnh
tranh độc lập của Chính phủ cũng sẽ tạo điều
kiện cho việc huy động nguồn thu ngân sách
thông qua hoạt động một cách độc lập, tăng
thêm tính tự chủ của cơ quan quản lý cạnh
(8) Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Thương mại: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Xây dựng mô hình cơ quan quản lý Nhà nước về cạnh
tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ trong thương mại quốc tế - Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam (2006),
Chủ nhiệm đề tài: TS. Đinh Thị Mỹ Loan, Hà Nội, tr.138-139.
Số 6(191) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 513
2011
THỰC TIẾN PHÁP LUẬT
tranh8. Kinh nghiệm tách bộ, ngành, tái cơ cấu
được thực thi trong những năm gần đây cho
thấy việc thiết lập một cơ quan ngang bộ về
mặt thể chế, có cơ cấu gọn nhỏ trong giai đoạn
đầu, có cơ chế huy động ngân sách hoạt động
cụ thể là khả thi.
- Vị trí độc lập của một cơ quan ngang
bộ giúp đảm bảo và thúc đẩy việc tập trung
chuyên môn, tính công chính, minh bạch và
khả năng chịu trách nhiệm và giải trình của
cơ quan này. Tự chủ về quá trình tuyển chọn,
bổ nhiệm cũng như đào tạo nhân sự, tự chủ
về ngân sách hoạt động bảo đảm cho cơ quan
quản lý cạnh tranh có thực quyền cao hơn đáp
ứng đòi hỏi ngày càng cao của hội nhập kinh
tế quốc tế, khi mà số vụ kiện về các hành vi vi
phạm pháp luật cạnh tranh tăng lên một cách
đáng kể. Đây cũng là kinh nghiệm của nhiều
quốc gia phát triển trên thế giới như Hoa Kỳ,
Vương quốc Anh, Canada, Úc nơi cơ quan
quản lý cạnh tranh đều có vị trí độc lập và
quyền tự chủ, hoạt động rất hiệu quả.
- Một trong những chức năng quan trọng
khác của hầu hết các cơ quan quản lý cạnh tranh
trên thế giới là chức năng tham vấn9. Nghị định
số 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 cũng quy
định Cục Quản lý cạnh tranh có quyền “phát
hiện và kiến nghị cơ quan có liên quan giải
quyết theo thẩm quyền về những văn bản đã
ban hành có nội dung không phù hợp với quy
định của pháp luật cạnh tranh”. Để làm được
điều này đòi hỏi cơ quan quản lý cạnh tranh
phải có vị trí độc lập và quyền tự chủ cao.
Hơn nữa, theo thống kê của Bộ Công
thương, trong số 90 cơ quan quản lý cạnh tranh
hiện nay trên thế giới, không còn nước nào tồn
tại mô hình hai cơ quan, một chịu trách nhiệm
về điều tra, một chịu trách nhiệm về xử lý như
Việt Nam. Trước ngày 04/08/2008, chỉ có duy
nhất Pháp xây dựng mô hình hai cơ quan như
vậy10. Điểm khác biệt lớn nhất giữa Hội đồng
cạnh tranh của Pháp và của Việt Nam là ở Hội
đồng cạnh tranh Pháp, ngoài các thành viên
Hội đồng còn có các báo cáo viên. Báo cáo
viên đóng vai trò như các điều tra viên của Cục
Quản lý cạnh tranh. Trong một số trường hợp,
thông qua các báo cáo viên, Hội đồng có thể
tự tiến hành điều tra hoặc tự điều tra bổ sung
trên cơ sở những chứng cứ sơ bộ mà Tổng Vụ
cạnh tranh và trấn áp gian lận Pháp gửi lên.
Hiện nay, sau Luật về hiện đại hóa nền kinh
tế được ban hành năm 2008, công tác xét xử
của cơ quan quản lý cạnh tranh tối cao Pháp
sẽ bao gồm cả hoạt động điều tra và xét xử,
trước đây vốn tách biệt ở hai cơ quan: Tổng
cục cạnh tranh, tiêu dùng và trấn áp gian lận
và Hội đồng cạnh tranh. Sự sáp nhập này cho
phép nâng cao chất lượng, sự nhanh chóng,
hiệu quả trong việc điều tra và phân tích các
hồ sơ11. Hơn nữa, thực tế cũng cho thấy điểm
yếu lớn nhất của mô hình hai cơ quan như Việt
Nam (hiện nay) và Pháp (trước kia) là do các
thành viên của các cơ quan xử lý không theo
sát được quá trình điều tra vụ việc12. Do đó,
có thể nhận thấy rằng, việc hợp nhất hai cơ
quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam hiện
(9) Tlđd, trang 138-139.
(10) Những nước có mô hình hai cơ quan quản lý cạnh tranh khác như Hoa Kỳ, Úc, Canada, Brazil,... cũng không phân trách nhiệm
giữa điều tra và xử lý như theo mô hình của Pháp. Họ chia theo hai loại như sau:
1) Phân theo trách nhiệm xử lý các nhóm hành vi: từng nhóm hành vi sẽ có một cơ quan điều tra và xử lý riêng. Ví dụ: Các cơ quan
tham gia xử lý vụ việc cạnh tranh ở Hoa Kỳ bao gồm Uỷ ban thương mại Liên bang Hoa Kỳ (US-FTC) và Vụ Chống độc quyền thuộc
Bộ Tư pháp Hoa Kỳ (US-DOJ). DOJ chịu trách nhiệm điều tra và ra quyết định về các vụ việc mang tính hình sự, quản lý các hành
vi tập trung kinh tế. FTC có trách nhiệm điều tra và có quyền đưa ra quyết định xử lý nhưng chỉ đối với các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh, các hành vi vi phạm quyền và lợi ích của người tiêu dùng.
(2) Phân theo thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Điển hình của mô hình này là tại Canada và Anh. Canada cũng có hai cơ quan
tham gia vào việc xử lý vụ việc cạnh tranh là Cục Cạnh tranh và Toà Cạnh tranh. Tuy nhiên, Toà Cạnh tranh chỉ tham gia với vai trò
giải quyết các khiếu nại, kháng nghị Quyết định của Cơ quan quản lý cạnh tranh như Toà phúc thẩm về cạnh tranh ở Anh.
(11) Cải tổ hệ thống cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh: Từ Hội đồng cạnh tranh thành Cơ quan tối cao về cạnh tranh, nguồn:
(12) Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Thương mại, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Xây dựng mô hình cơ quan quản lý Nhà nước về cạnh
tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ trong thương mại quốc tế - Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam (2006),
Chủ nhiệm đề tài: TS. Đinh Thị Mỹ Loan, Hà Nội, tr. 140.
52 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 6(191) 32011
THỰC TIẾN PHÁP LUẬT
nay thành một cơ quan duy nhất sẽ mang lại
nhiều lợi ích, khắc phục được những nhược
điểm còn tồn tại, phù hợp với xu hướng chung
của các nước trên thế giới.
Như vậy, cơ quan quản lý cạnh tranh mới
này sẽ là sự hợp nhất của Cục quản lý cạnh
tranh và Hội đồng cạnh tranh, mang tính chất
cơ quan ngang bộ. Trong cơ quan này phải
tách riêng bộ phận điều tra và bộ phận xử lý
vụ việc độc lập với nhau trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ, nhưng phải kết hợp trong việc
xử lý vụ việc, nhân sự hoạt động theo chế độ
chuyên trách, xây dựng chế độ các báo cáo
viên (như cơ quan quản lý cạnh tranh của Pháp
hiện nay)
3.3. Chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền
của cơ quan quản lý cạnh tranh
- Chức năng và nhiệm vụ: cơ quan quản lý
cạnh tranh mới sẽ thực hiện các hoạt động liên
quan đến việc điều tra, xử lý các vụ việc cạnh
tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh và
bảo vệ người tiêu dùng. Chức năng khác hiện
nay của Cục quản lý cạnh tranh liên quan đến
chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ nên
trao cho Bộ Công thương chịu trách nhiệm,
vì mặc dù pháp luật cạnh tranh và pháp luật
chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ có
những nguyên tắc chung, nhưng đối tượng điều
chỉnh của chúng là hoàn toàn khác nhau. Pháp
luật cạnh tranh điều chỉnh các hành vi hạn chế
cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh, trình
tự thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh, biện
pháp xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh
(đối tượng áp dụng của nó là các doanh nghiệp,
hiệp hội đang hoạt động tại thị trường nội địa)
còn pháp luật chống bán phá giá, chống trợ cấp
và tự vệ lại nhắm đến các hàng hoá của các
doanh nghiệp nước ngoài được nhập khẩu vào
thị trường nội địa. Trên thực tế không có bất
kỳ quốc gia nào xây dựng mô hình giao cho
một cơ quan thực hiện cùng lúc hai chính sách
này. Cơ quan quản lý cạnh tranh của các nước
thường thuộc bộ, Chính phủ hay Quốc hội, còn
cơ quan quản lý chống bán phá giá, chống trợ
cấp và tự vệ lại thuộc Bộ Kinh tế, Thương mại
hoặc Công thương13.
Có ý kiến cho rằng, nên trao chức năng xử
lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
cho Tòa án. Chúng tôi cho rằng, với tình hình
chuyên gia, chuyên viên về cạnh tranh hiện
nay còn thiếu nhiều, thì chỉ riêng hoạt động
của cơ quan quản lý cạnh tranh đã thiếu và
chưa có chất lượng cao chứ chưa nói đến trình
độ am hiểu pháp luật cạnh tranh của các thẩm
phán Việt Nam còn thấp. Luật Cạnh tranh đi
vào thực tế nước ta chưa lâu và số vụ việc cạnh
tranh còn chưa nhiều nên trong thời gian đầu,
việc giữ thẩm quyền điều tra, xử lý vụ việc
cạnh tranh không lành mạnh cho cơ quan quản
lý cạnh tranh là điều hợp lý. Tuy nhiên, cùng
với sự phát triển kinh tế, số lượng các vụ việc
liên quan đến cạnh tranh tăng cao và trình độ
chuyên môn về pháp luật cạnh tranh của các
thẩm phán đã được nâng cao thì nên trao chức
năng này cho Tòa án. Điều này cũng để phù
hợp với bản chất của các hành vi vi phạm pháp
luật về cạnh tranh; nâng cao chất lượng thực
thi các quyết định của cơ quan giải quyết vụ
việc; cơ quan quản lý cạnh tranh không bị quá
tải và thực hiện tốt nhiệm vụ điều tiết quy luật
cạnh tranh của thị trường và có thể tập trung
cho lĩnh vực hạn chế cạnh tranh (một lĩnh vực
điển hình, có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế)
và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng14.
Bên cạnh đó, mục đích của Luật Cạnh tranh
là bảo đảm quyền cạnh tranh bình đẳng của
doanh nghiệp và bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng nên có chung mục đích với pháp luật
bảo vệ người tiêu dùng. Hơn nữa, người tiêu
dùng có mối quan hệ với các doanh nghiệp,
đặc biệt là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
có thể ảnh hưởng đến người tiêu dùng. Do đó,
cơ quan cạnh tranh mới vẫn nên giữ nguyên
chức năng là cơ quan thực thi pháp luật bảo vệ
(13) Tlđd, tr. 140.
(14) Trương Hồng Quang (2009), Pháp luật điều chỉnh hành vi Quảng cáo so sánh của Liên minh Châu Âu và Việt Nam - Nghiên cứu
dưới góc độ so sánh luật, Khoá luận tốt nghiệp, ĐH Luật Hà Nội, tr. 51.
Số 6(191) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 533
2011
THỰC TIẾN PHÁP LUẬT
quyền lợi người tiêu dùng.
- Thẩm quyền: có thể trao cho cơ quan quản
lý cạnh tranh mới những thẩm quyền sau đây:
hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh; tư vấn
cho Quốc hội, Chính phủ trong việc ban hành
các văn bản quy phạm điều tiết cạnh tranh;
tư vấn cho các hiệp hội ngành nghề, hiệp hội
người tiêu dùng, các doanh nghiệp về các vấn
đề pháp lý cạnh tranh liên quan đến lợi ích của
họ; điều tra, khảo sát lập báo cáo hàng năm về
tình trạng cạnh tranh và độc quyền trong nền
kinh tế; kiến nghị thay đổi, sửa đổi, huỷ bỏ
những quy định pháp luật không phù hợp, trái
với nguyên tắc cạnh tranh hay gây ảnh hưởng
đến môi trường cạnh tranh và quyền lợi người
tiêu dùng; phát hiện và kiến nghị các cơ quan
liên quan bãi bỏ các chính sách làm cản trở đến
môi trường cạnh tranh; yêu cầu các tổ chức, cá
nhân có liên quan cung cấp thông tin, chứng
cứ trong quá trình điều tra xử lý vụ việc cạnh
tranh.
3.4. Nhân sự của cơ quan quản lý cạnh
tranh
Để bảo đảm tính chuyên nghiệp và có hiệu
quả của cơ quan quản lý cạnh tranh, chúng tôi
cho rằng nên thay đổi cách thức, quy trình bổ
nhiệm nhân sự cơ quan quản lý cạnh tranh mới
như sau:
- Các thành viên quản lý của cơ quan quản
lý cạnh tranh mới (Chủ tịch và các Phó Chủ
tịch) sẽ do Thủ tướng bổ nhiệm nhưng nguồn
bổ nhiệm ngoài các bộ có thể mở rộng thêm ở
các chuyên gia pháp luật cạnh tranh, thương
mại, kinh tế. Điều kiện được bổ nhiệm đối với
những thành viên này có sự tiếp thu những
điều kiện của thành viên Hội đồng cạnh tranh
theo pháp luật hiện nay, như: có kiến thức, am
hiểu về pháp luật cạnh tranh, pháp luật thương
mại và kinh tế; am hiểu về kỹ năng điều tra xử
lý trong vụ việc cạnh tranh là một lợi thế; có
tầm ảnh hưởng và uy tín nhất định trong lĩnh
vực khoa học pháp lý hay kinh tế, tài chính; có
phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, khách quan,
có tinh thần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa;
có trình độ cử nhân luật hoặc cử nhân kinh tế,
tài chính trở lên; có thời gian công tác thực
tế ít nhất là 9 năm thuộc một trong các lĩnh
vực nói trên; có khả năng hoàn thành nhiệm vụ
được giao. Các thành viên này là công chức/
viên chức, làm việc chuyên trách. Nhiệm kỳ
của họ là 5 năm hoặc 7 năm và có thể được tái
bổ nhiệm.
- Đối với nhân viên các bộ phận của cơ
quan quản lý cạnh tranh thì tổ chức thi tuyển
như Cục quản lý cạnh tranh hiện nay là hợp lý.
Người đứng đầu các bộ phận của cơ quan quản
lý cạnh tranh có thể được bổ nhiệm bởi Thủ
tướng trên cơ sở đề nghị của người đứng đầu
cơ quan quản lý cạnh tranh hoặc được tuyển
dụng công khai.
3.5. Đổi mới một số nội dung cơ chế hoạt
động của cơ quan quản lý cạnh tranh
- Xây dựng cơ chế rà soát, giải quyết các
khiếu kiện liên quan đến các quyết định của cơ
quan quản lý cạnh tranh.
Theo quy định của pháp luật hiện nay, Hội
đồng Cạnh tranh sẽ xem xét lại những quyết
định của Hội đồng xử lý vụ việc khi có yêu
cầu và nếu không đồng ý với kết quả xử lý của
Hội đồng cạnh tranh thì các bên có thể khởi
kiện vụ án hành chính ra Tòa án tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương. Như đã phân tích,
với điều kiện còn thiếu chuyên gia về pháp
luật cạnh tranh hiện nay ở nước ta, trình độ
am hiểu pháp luật cạnh tranh của cán bộ, công
chức còn thấp thì việc giao cho Tòa án xem xét
54 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 6(191) 32011
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
lại quyết định của cơ quan quản lý cạnh tranh
là không hợp lý. Kinh nghiệm các nước trên
thế giới đã cho thấy, yêu cầu chuyên môn cao
trong hoạt động đã buộc họ phải xây dựng một
bộ phận thuộc Toà án tối cao chuyên giải quyết
các khiếu kiện liên quan đến quyết định của cơ
quan quản lý cạnh tranh và đào tạo các chuyên
gia cũng như thẩm phán có trình độ cao để thực
hiện những công việc này. Ở nước ta, chúng tôi
cho rằng, trong Cơ quan quản lý cạnh tranh
nên xây dựng một bộ phận riêng hay một bộ
phận nằm trong bộ phận xử lý các vụ việc cạnh
tranh để rà soát, giải quyết các khiếu kiện liên
quan đến quyết định của cơ quan quản lý cạnh
tranh. Nếu các bên không đồng ý với kết quả xử
lý khiếu kiện của cơ quan quản lý cạnh tranh,
thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện (vụ án
hành chính) liên quan đến các quyết định của
cơ quan quản lý cạnh tranh giao cho Tòa án tối
cao hoặc thành lập một Tòa riêng biệt để xử lý
những vụ việc này.
- Xây dựng cơ chế tham khảo ý kiến trước
Hiện nay, Cục quản lý cạnh tranh mới chỉ
được quy định chức năng tham vấn đối với
những văn bản đã ban hành tại Khoản 3, Điều
2 Nghị định số 06/2006/NĐ-CP của Chính
phủ. Chúng tôi cho rằng, nên xây dựng thêm
cơ chế tham khảo ý kiến trước (đối với những
văn bản pháp luật sắp ban hành) trước khi các
cơ quan Chính phủ có kế hoạch ban hành hay
sửa đổi các luật và quy định có ảnh hưởng đến
cạnh tranh, kể cả khi các cơ quan này muốn
áp dụng các biện pháp hành chính có bản chất
tương tự. Trong quá trình tham khảo ý kiến, cơ
quan cạnh tranh chủ yếu xem xét các khía cạnh
liên quan đến các hạn chế gia nhập thị trường,
duy trì giá bán, các hoạt động của cartel,
cũng như đề xuất ý kiến, giải quyết các hạn chế
trong dự thảo và chính sách này. Có thể thấy,
cơ chế này sẽ giúp hạn chế tình trạng các văn
bản, chính sách trái/không phù hợp với pháp
luật cạnh tranh cũng như tiết kiệm thời gian,
tài chính để không phải khắc phục, giải quyết
các hậu quả do các văn bản này gây ra sau khi
được ban hành.
- Xây dựng cơ chế hoạt động nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động và tiết kiệm chi phí,
nhân lực cho bộ phận điều tra
Có thể thấy, đội ngũ điều tra viên là yếu
tố rất quan trọng cho hiệu quả của công tác
điều tra của cơ quan quản lý cạnh tranh. Hoạt
động của họ mang nhiều yếu tố đặc thù (thời
gian điều tra một vụ việc có thể kéo dài từ sáu
tháng đến hai năm, các vụ việc mang tính đa
ngành cao,). Vì vậy, pháp luật nên quy định
trước khi ra quyết định điều tra chính thức một
hành vi cạnh tranh, điều tra viên phải đưa ra
lập luận của mình trước các thành viên của bộ
phận điều tra của cơ quan quản lý cạnh tranh
và người phụ trách quản lý hành chính về lĩnh
vực vụ việc cạnh tranh. Điều đó sẽ giảm thiểu
được các trường hợp xin điều tra bổ sung hay
kịp thời đình chỉ điều tra các trường hợp cần
thiết. Quy định này sẽ tiết kiệm kinh phí, thời
gian, mang lại sự hiệu quả cao cho bộ phận
điều tra cũng như nâng cao vai trò của điều
tra viên15. Hơn nữa, nó cũng nhằm tạo ra sự
gắn bó, theo sát vụ việc của bộ phận điều tra
và bộ phận xử lý nhằm làm cho hiệu quả của
việc xử lý được nâng cao. Để đạt được điều
này, phải thay đổi pháp luật cạnh tranh một
cách toàn diện, chú trọng đào tạo điều tra viên
và hoàn thiện quy chế tài chính đối với hoạt
động điều tra.
Những phương hướng hoàn thiện mô hình
cơ quan quản lý cạnh tranh mới cho Việt Nam
là phù hợp với những quan điểm định hướng
phát triển chung hiện nay. Tuy nhiên, cơ quan
quản lý cạnh tranh là một thiết chế phức tạp,
mang nhiều tính đặc thù và có vị trí quan trọng
nên việc xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của cơ quan này cần có những đầu tư, tìm
tòi và phát triển hơn nữa. Nhưng chúng tôi hy
vọng đây là những đóng góp ban đầu cho việc
hoàn thiện mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh
ở Việt Nam.
(15) Pháp là nước áp dụng quy định này và tỏ ra có hiệu quả lớn trong thực tế, nhất là trong điều kiện nâng Hội đồng cạnh tranh lên
thành cơ quan tối cao về cạnh tranh như hiện nay.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_quan_quan_ly_canh_tranh_o_viet_nam_nhung_bat_cap_va_phuon.pdf