Cơ sở pháp lý
Chức năng của Hiến pháp
Chức năng của Hiến pháp là tác dụng
của Hiến pháp trong việc bảo vệ các thiết
chế chính trị, thiết chế nhà nước và các quan
hệ xã hội quan trọng của một quốc gia. Có
ý kiến cho rằng, chức năng của Hiến pháp
biến đổi theo thời gian, song không vì thế
mà những chức năng nguyên thủy của Hiến
pháp biến mất. Do đó, bên cạnh việc giữ gìn
hòa bình thì Hiến pháp vẫn có chức năng
cổ điển là giới hạn quyền lực nhà nước để
bảo vệ các quyền cá nhân24. Như vậy, quyền
sở hữu - với tư cách là một nhân quyền cơ
bản - cần được bảo vệ bởi Hiến pháp, dù cho
chức năng của Hiến pháp có sự biến đổi theo
thời gian.
Ý kiến khác cho rằng, về cơ bản Hiến
pháp có sáu (06) chức năng sau: (i) Hiến
pháp trao quyền cho các cơ quan nhà nước;
(ii) Hiến pháp giới hạn quyền lực của các
cơ quan nhà nước; (iii) Hiến pháp bảo vệ
các quyền con người, quyền cơ bản của
công dân; (iv) Hiến pháp củng cố tính chính
đáng (legitimacy) và tính ổn định của chính
quyền; (v) Hiến pháp là hình thức để tuyên
bố các giá trị được thừa nhận chung của
cộng đồng; (vi) Hiến pháp là một hình thức
để tuyên bố các định hướng cơ bản của sự
phát triển đất nước (chức năng này đặc biệt
thể hiện rõ trong các nhà nước XHCN và
các nước chuyển đổi).25 Như vậy, các dấu
hiệu số (iii), (v) và (vi) cho thấy chức năng
cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới
có khuynh hướng bảo vệ cả chế độ sở hữu,
với tư cách là một quyền cơ bản, một giá
trị chung của cộng đồng và không thể thiếu
trong định hướng phát triển ở mỗi quốc gia.
Cho dù là một Hiến pháp có kỹ thuật
lập pháp hoàn hảo hay chưa hoàn hảo, có
bản chất dân chủ hay phi dân chủ thì những
người làm ra nó đều hướng đến khả năng hợp
pháp hóa các thiết chế trong đó. Như vậy,
chức năng trước tiên và tổng quát của Hiến
pháp chính là đặt nền tảng chính danh và
hợp pháp cho một chính quyền. Chức năng
thứ hai của Hiến pháp là quy định cơ sở cho
xuất phát điểm và định hướng cho quá trình
phát triển và hoàn chỉnh các chế định pháp
lý, tạo khuôn khổ pháp lý chung cho toàn bộ
hệ thống pháp lý. Những quy định của Hiến
pháp về mục tiêu phát triển đất nước, những
bảo đảm pháp lý cho quyền và tự do của con
người sẽ định hướng cho hoạt động của nhà
nước và hành vi của cá nhân, tổ chức nhằm
đảm bảo lợi ích hợp pháp của mọi người
trong một quốc gia. Chức năng thứ ba của
Hiến pháp là chức năng ổn định hóa các
quan hệ xã hội. Hiến pháp là văn bản có hiệu
lực pháp lý cao nhất và có tính ổn định tự
thân, do đó, sự hiến định các thiết chế chính
trị, thiết chế nhà nước và các quan hệ xã hội
quan trọng cũng nhằm bảo vệ và ổn định các
thiết chế này hiệu quả. Cả ba chức năng trên
của Hiến pháp đều có tác dụng bảo vệ chế
độ sở hữu của một quốc gia. Theo đó, Hiến
pháp hợp pháp hóa cơ sở tồn tại của chế độ
sở hữu, Hiến pháp định hướng cho quá trình
phát triển và hoàn chỉnh các chế định pháp
lý về sở hữu, đồng thời Hiến pháp giúp cho
chế độ sở hữu được vận hành ổn định trong
một khoảng thời gian đủ lâu, thường là cho
tới khi Hiến pháp được sửa đổi lại
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 232 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ sở hình thành chế độ sở hữu trong hiến pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Sở hữu là một phạm trù rộng, là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của
các ngành khoa học như kinh tế, triết học và luật học. Trong khoa
học kinh tế, sở hữu được tiếp cận dưới giác độ của một phạm trù
kinh tế - chính trị có nội hàm là mối quan hệ giữa người với người
trong tổ chức sản xuất xã hội. Trong khi đó, các triết gia coi sở hữu
như một mặt quan trọng của quan hệ sản xuất, gắn liền với một
hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Tuy nhiên, trong khoa học luật,
sở hữu được tiếp cận thông qua quan hệ pháp lý về tài sản. Các yếu
tố căn bản hình thành chế độ sở hữu trong Hiến pháp, bao gồm: (i)
cơ sở tư tưởng, (ii) cơ sở chính trị; (iii) cơ sở xã hội; (iv) cơ sở pháp
lý. Các yếu tố này được dùng để giải thích căn nguyên của sự xuất
hiện chế độ sở hữu trong các bản Hiến pháp.
Nguyễn Quang Đức*
* Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ Pháp lý (Leres), NCS. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Abstract
The ownership notion covers a broad category, which is the main
study subject of the economics, philosophy and jurisprudence.
In economics science, ownership is approached in terms of
an economic-political category that is the relationship among
individuals in a production society. The philosophers, on the other
hand, consider the ownership as an important aspect of production
relations under a certain socio-economic modality. However, in
the jurisprudence sciences, the ownership is approached through
legal relationships on properties. The basic factors for ownership
formation in the Constitution includes: (i) ideological foundation,
(ii) political foundation; (iii) social foundation; and (iv) legal
one. These factors are used to explain the origin of the ownership
regime in the Constitutions.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: chế độ sở hữu, Hiến pháp, cơ
sở tư tưởng, cơ sở chính trị
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 14/05/2018
Biên tập : 11/08/2018
Duyệt bài : 20/08/2018
Article Infomation:
Keywords: ownership regime;
Constitution; ideology; political
foundation
Article History:
Received : 14 May 2018
Edited : 11 Aug. 2018
Approved : 20 Aug. 2018
CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHẾ ĐỘ SỞ HỮU TRONG HIẾN PHÁP
1. Quan niệm về sở hữu và chế độ sở hữu
trong Hiến pháp
Sở hữu là một phạm trù rộng, là đối
tượng nghiên cứu chủ yếu của các ngành
khoa học như kinh tế, triết học và luật học.
Trong khoa học kinh tế, sở hữu được tiếp
cận dưới giác độ của một phạm trù kinh tế
- chính trị có nội hàm là mối quan hệ giữa
người với người trong tổ chức sản xuất xã
hội. Trong khi đó các triết gia coi sở hữu như
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 19(371) T10/2018
một mặt quan trọng của quan hệ sản xuất,
gắn liền với một hình thái kinh tế - xã hội
nhất định. Tuy nhiên, trong khoa học luật,
sở hữu được tiếp cận thông qua quan hệ
pháp lý về tài sản. Phạm trù sở hữu khi được
luật hóa sẽ trở thành quyền sở hữu, đến lượt
mình - quyền sở hữu được thực hiện thông
qua một cơ chế được hiện thực hóa trong xã
hội thì trở thành chế độ sở hữu1.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
đã không đặt vấn đề “sở hữu là gì?”, mà theo
K. Marx, sở hữu không phải là mục đích,
mà chỉ là điều kiện, phương tiện của sản
xuất. Chỉ khi nghiên cứu phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, ông mới buộc phải
nghiên cứu vấn đề sở hữu. Mặc dù không
đưa ra định nghĩa chính thức nào về “sở
hữu”, song qua các tác phẩm: Bản thảo kinh
tế triết học năm 1844; Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ tư hữu, và của nhà nước;
Hệ tư tưởng Đức; Bàn về Pruđông; Tư bản;
Những nguyên lý của chủ nghĩa Cộng sản
(1847), K. Marx đã đưa ra quan niệm của
mình về thuật ngữ này. Theo đó, khái niệm
sở hữu có những đặc trưng cơ bản sau: (i)
sở hữu là quan hệ của con người đối với tư
liệu sản xuất; (ii) sở hữu là điều kiện của
sản xuất; (iii) sở hữu là sự chiếm hữu mang
tính xã hội; (iv) sở hữu luôn luôn gắn liền
với vật dụng - đối tượng của sự chiếm hữu;
(v) sở hữu không chỉ đơn thuần là vật dụng,
nó còn là quan hệ giữa con người với nhau
về vật dụng2. Tuy nhiên, tìm hiểu khái niệm
sở hữu nếu chỉ dừng lại ở nghĩa “sở hữu là
gì?”, “sở hữu cái gì, của ai?” thì đó mới chỉ
1 Tham khảo: Lương Minh Cừ - Vũ Văn Thư, Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay: một số nhận thức
về lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 119 -120.
2 Tham khảo: Trần Thị Kim Cúc, Tìm hiểu di sản lý luận của các nhà kinh điển Chủ nghĩa Mác – Lênin, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, năm 2010, tr. 64 - 65.
3 Tham khảo: Trần Thị Kim Cúc, Sđd, năm 2010, tr.66 - 67.
4 Nguyễn Ngọc Điện, Quyền sở hữu và quyền chiếm hữu - bài học về tình huống luật xa rời cuộc sống, tại:
nclp.org.vn/ban_ve_du_an_luat/kinh-te-dan-su/quyen-so-huu-va-quyen-chiem-huu-bai-hoc-ve-tinh-huong-luat-xa-
roi-cuoc-song, truy cập ngày 18/01/2018).
5 Thực chất, quyền (người) hưởng dụng (usufructuary) bao gồm quyền sử dụng (usus) và quyền thu lợi (fructus).
6 Bộ luật Dân sự Pháp (Bản tiếng Việt), Trương Quang Dũng, Đoàn Thanh Loan, Hồ Thu Phương, Đào Thị Nguyệt Ánh
dịch, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, năm 2005, tr. 409.
7 Nguyễn Ngọc Điện, Tlđd, Truy cập ngày 18/01/2018.
là cách hiểu bên ngoài. Quan trọng hơn, cần
phải nhận thức được nội dung của sở hữu.
Theo K. Marx, sở hữu luôn luôn có hai nội
dung kinh tế và pháp lý. Nội dung kinh tế là
hình thái hiện thực của sở hữu, còn nội dung
pháp lý là “vỏ bọc” của nó. Dù sở hữu tồn tại
dưới hình thức nào thì cũng luôn phản ánh
các mối quan hệ kinh tế, giai cấp, xã hội và
pháp lý nhất định. Vì thế, nhìn vào một chế
độ sở hữu là có thể thấy ngay xã hội đó do ai
thống trị, xã hội đó bảo vệ lợi ích của ai3.
Trong quan niệm về sở hữu, các học
giả tư sản không phân biệt sở hữu thành hai
phạm trù kinh tế và pháp lý như trường phái
Marxist. Đối với các quốc gia theo hệ thống
civil law, quyền sở hữu thường được tiếp
cận trên cơ sở các quy định mang tính kinh
điển của Luật La Mã cổ. Thật vậy, quyền
sở hữu ban đầu được hiểu là những hành vi
mà chủ sở hữu có thể thực hiện đối với vật
sở hữu thông qua ba quyền năng là quyền
sử dụng, quyền thu lợi và quyền định đoạt4.
Tuy nhiên, ở các quốc gia, do sự phân hóa
cách tiếp cận, bên cạnh cách hiểu truyền
thống, quyền sở hữu còn được hiểu là chỉ
bao gồm hai quyền năng là quyền hưởng
dụng5 và quyền định đoạt. Thí dụ, Điều 544
Bộ luật Dân sự Napoléon quy định: “Quyền
sở hữu là quyền được hưởng dụng và định
đoạt tài sản một cách tuyệt đối nhất, miễn là
không sử dụng tài sản vào những việc pháp
luật cấm”6. Trong một chừng mực nào đó,
sự chiếm hữu thực tế được coi là “biểu hiện
bề ngoài” của quyền sở hữu7. Tiếp tục phát
triển theo hướng này, các học giả cho rằng,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 19(371) T10/2018
cần phải xác định phạm vi và nội hàm của
quyền sở hữu theo nhiều cấp độ. Ở cấp độ
bao quát nhất, chỉ nên đề cập nội dung của
quyền sở hữu một cách khái quát, bao trùm
mọi quyền có tính chất tư pháp về tài sản.
Theo đó, trong từng lĩnh vực pháp luật cụ
thể sẽ tiếp tục xác định những quyền năng
cụ thể của quyền sở hữu theo hướng, có sự
phân biệt khái niệm sở hữu trong các lĩnh
vực pháp luật khác nhau như luật Hiến pháp,
luật dân sự, luật kinh tế8.
Ở các quốc gia theo hệ thống common
law, quyền sở hữu được các học giả tiếp cận
theo hướng khái niệm hóa quyền sở hữu
thành quyền tài sản. Cách tiếp cận này có ưu
điểm là sự minh định và khả năng mở rộng
phạm vi quyền sở hữu mà không bị gò bó
chỉ bởi ba quyền năng chiếm hữu, sử dụng
và định đoạt9. Việc khái niệm hóa quyền sở
hữu thành quyền tài sản cho phép tiếp cận
linh động hơn khi đối mặt với sự đa dạng về
các quyền; bởi quyền sở hữu thì trừu tượng:
nội dung của nó không thể được mô tả bằng
cách liệt kê từng quyền riêng lẻ, và không
có quyền nào trong số những quyền này cần
thiết phải hợp pháp hóa một cách cụ thể,
riêng biệt, hay liên quan đến một mục tiêu
xã hội có thể chấp nhận được10. Việc tiếp cận
nội dung quyền sở hữu ở dạng những quyền
tài sản cụ thể và riêng biệt dẫn đến hệ quả là
ranh giới giữa quyền sở hữu với quyền sử
dụng ngày càng trở nên khó phân định. Cần
lưu ý rằng, điều này không dẫn đến việc tách
quyền sử dụng ra khỏi quyền sở hữu, thực
chất của cách tiếp cận này là xu hướng tuyệt
8 Tham khảo: Hà Thị Mai Hiên, Quyền sở hữu của công dân ở Việt Nam (Luận án PTS), Viện Nghiên cứu Nhà nước và
Pháp luật, Hà Nội, năm 1996.
9 Tham khảo: Phạm Văn Võ, Chế độ pháp lý về sở hữu & quyền tài sản đối với đất đai, Nxb. Lao Động, TP. Hồ Chí
Minh, năm 2012, tr. 23.
10 Tham khảo: Peter Ho, “Who owns China’s land? Policies, Property rights and Deliberate Institutional Ambiguity”, The
China Quarterly, (166), 2001, tr.402.
11 Tham khảo: Phạm Văn Võ, Sđd, năm 2012, tr.24 – 25.
12 Tham khảo: Phạm Văn Võ, Sđd, năm 2012, tr.24.
13 Theo Từ điển trực tuyến: (Tra cứu lần
cuối: 21/11/2017).
Xem thêm: Từ điển “Petit Larousse Illustré 1992” giải thích tương tự: “1. Cách thức vận hành của một tổ chức chính
trị, xã hội, kinh tế của một nhà nước; 2. Tập hợp các cách sắp đặt hợp pháp điều khiển một đối tượng đặc thù”.
đối hóa quyền sử dụng, nhằm xác lập quyền
sử dụng tài sản của người không phải là chủ
sở hữu một cách sâu rộng trên cơ sở sự trao
quyền của chủ sở hữu với hệ quả là vai trò
trung tâm của chủ thể sở hữu trong quá trình
thực hiện quyền sở hữu đã dần được thay thế
bởi chủ thể sử dụng11.
Sự xuất hiện của các xu hướng tiếp
cận quyền sở hữu trên cho thấy, quan niệm
về quyền sở hữu tại các quốc gia theo truyền
thống common law và civil law đã có sự
xích lại gần nhau theo hướng khái niệm hóa
quyền sở hữu dưới dạng các quyền tài sản
cụ thể tùy thuộc vào đối tượng sở hữu và
phương thức tổ chức thực hiện quyền sở hữu
trong từng lĩnh vực tùy thuộc vào mục tiêu
kinh tế, chính trị, xã hội cũng như tính chất
của từng hình thức sở hữu12. Tính chủ đạo
của xu hướng này là tiếp cận quyền sở hữu
trên cơ sở tập trung vào quyền sử dụng và
sự phân chia các quyền năng sở hữu cho các
chủ thể khác nhau thực hiện ngày càng đa
dạng và linh hoạt. Ở đây, chúng tôi tiếp cận
sở hữu từ góc độ pháp lý, theo đó, “sở hữu”
được hiểu là các quyền bao trùm lên các mối
quan hệ giữa người với vật và quan hệ giữa
người và người với vật.
Thuật ngữ “chế độ” được hiểu chủ
yếu theo hai nghĩa sau: (i) là chỉnh thể chính
trị, kinh tế, văn hóa hình thành trong những
điều kiện lịch sử nhất định; hoặc (ii) những
điều quy định cần tuân theo trong một việc
nào đó13. Có thể thấy rằng, đây là các mặt
bản chất và hình thức của khái niệm chế độ.
Theo đó, nếu xét trên quan điểm hình thức,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 19(371) T10/2018
“chế độ sở hữu” là tổng thể các quy định
pháp lý điều chỉnh vấn đề sở hữu của một
quốc gia. Nếu xét trên quan điểm thực chất,
“chế độ sở hữu” là một chỉnh thể chính trị -
pháp lý, trong đó toát lên bản chất của vấn đề
như: xác định ai là người chi phối, kiểm soát
và phân phối các tài sản, nguồn lực trong xã
hội. Theo nghĩa này, chế độ sở hữu liên quan
chặt chẽ tới Hiến pháp, văn kiện quan trọng
xác lập các nguyên tắc nền tảng của đời sống
chính trị quốc gia như: chủ thể của quyền lực
nhà nước, cách thức phân phối quyền lực và
kiểm soát quyền lực cùng các nguồn lực trong
xã hội. Từ các phân tích trên, có thể đưa ra
định nghĩa; “Chế độ sở hữu trong Hiến pháp
được hiểu là tổng thể các quy định của Hiến
pháp điều chỉnh vấn đề sở hữu, nhằm xác
định ai là người chi phối, kiểm soát và phân
phối các tài sản, nguồn lực trong xã hội của
một quốc gia”.
2. Cơ sở hình thành chế độ sở hữu trong
Hiến pháp
Các nhà kinh tế - chính trị như John
Millar, Adam Ferguson và Adam Smith được
xem là những người đầu tiên mở rộng phân
tích về những quan hệ sở hữu để tìm mối
liên hệ với sự hình thành các giai cấp. Chính
điều này đã kích thích K. Marx đưa ra giải
thích có hệ thống về tầm quan trọng của sở
hữu, nhấn mạnh tới sự liên kết giữa quyền sở
hữu tài sản, sự thống trị chính trị và sự biểu
hiện (representations) hệ tư tưởng. Trong hệ
thống quan điểm của K. Marx, sở hữu chính
là quyền lực, và những hình thức sở hữu
khác nhau xác lập các điều kiện tồn tại của
trật tự xã hội, tức kiến trúc thượng tầng bao
gồm ba (03) thiết chế tác động lẫn nhau là
nhà nước (quyền lực chính trị) - xã hội (dân
sự) - hệ tư tưởng. Max Weber14 cũng thừa
14 Max Weber (1864 - 1920): Nhà kinh tế chính trị học và xã hội học người Đức.
15 Gordon Marshall (chủ biên), Từ điển xã hội học Oxford (Oxford Dictionary of Sociology), Bùi Thế Cường, Đặng Thị
Việt Phương, Trịnh Huy Hóa dịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010, tr. 520 – 521.
16 Tham khảo: Ludwig von Mises, Chủ nghĩa tự do truyền thống (Liberalism), Phạm Nguyên Trường dịch, Nxb. Tri thức,
Hà Nội, năm 2013, tr. 147–153.
17 Xem Từ điển trực tuyến: (tra cứu ngày
15/01/2018).
nhận và cho rằng, những giai cấp có sở hữu
được cá biệt hóa rất cao về loại hình sở hữu
mà họ nắm giữ cũng như về ý nghĩa của việc
sử dụng quyền sở hữu đó15.
2.1 Cơ sở tư tưởng
Mỗi chế độ sở hữu trong Hiến pháp
đều có nội dung thể hiện một hệ tư tưởng
nhất định. Chẳng hạn, cốt lõi của chế độ sở
hữu của chủ nghĩa tư bản là quyền sở hữu tư
nhân tư liệu sản xuất; cốt lõi của chế độ sở
hữu của chủ nghĩa xã hội là quyền sở hữu
(quyền sử dụng tất cả các tư liệu sản xuất)
thuộc về toàn dân do nhà nước đại diện sở
hữu; cốt lõi của chế độ sở hữu của chủ nghĩa
can thiệp là quyền sở hữu tư nhân được điều
tiết, kiểm soát bằng các chính sách của chính
quyền (hay sự can thiệp của chính quyền)16.
Tư tưởng là những ý niệm chung của
con người về hiện thực khách quan17. Như
vậy, cơ sở tư tưởng của chế độ sở hữu trong
Hiến pháp được hiểu là những quan điểm
nền tảng về chế độ sở hữu của mỗi quốc gia,
cộng đồng, phù hợp với lợi ích chung của
cộng đồng đó. Vì thế, cơ sở tư tưởng của
chế độ sở hữu trong Hiến pháp trở thành các
nguyên tắc dẫn dắt trong quá trình thiết kế
chế định sở hữu và các chế định khác có liên
quan. Cơ sở tư tưởng đồng thời phản ánh
ý chí của lực lượng chi phối xã hội, trang
bị các phương thức kiểm soát và phân phối
nguồn lực của xã hội nhất quán với tương
quan quyền lực chính trị trong xã hội.
Tính cởi mở của cơ sở tư tưởng phản
ánh sự bắt kịp nhu cầu xã hội. Điều này hoàn
toàn phù hợp với thực tiễn xã hội, bởi mỗi xã
hội đều có những đặc trưng về bối cảnh lịch
sử, chính trị, xã hội, văn hóa, do đó không
thể áp dụng cứng nhắc các hệ hình tư duy lên
đó. Chẳng hạn, các tác gia kinh điển của chủ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 19(371) T10/2018
nghĩa Mác cho rằng, nền kinh tế XHCN chỉ
được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu
tư liệu sản xuất đơn nhất, không có vấn đề
cơ cấu sở hữu tư liệu sản xuất và hình thức
kinh tế nhiều thành phần. Nhưng thực tiễn
cho thấy, dưới chủ nghĩa xã hội, không chỉ
tồn tại chế độ công hữu có hình thức khác
nhau mà còn tồn tại hình thức kinh tế của
chế độ sở hữu phi XHCN, nhất là ở những
nước mà trình độ lực lượng sản xuất còn lạc
hậu như ở Việt Nam, đang trong thời kỳ quá
độ để bắt kịp các nước tiến bộ.
2.2 Cơ sở chính trị
Chế độ sở hữu là một chỉnh thể chính
trị - pháp lý được hình thành trong những
điều kiện lịch sử nhất định. Tính chính trị
của chế độ sở hữu được thể hiện thông qua
các nội dung mà nó phản ánh như quyền sở
hữu, hình thức sở hữu, thành phần kinh tế,
tất cả toát lên mục đích nhằm xác định xem
ai là người chi phối, kiểm soát và phân phối
các tài sản, nguồn lực trong xã hội của một
quốc gia. Chủ nghĩa Mác quan niệm về bản
chất của pháp luật nói chung cũng như của
Hiến pháp nói riêng trên cơ sở nhìn nhận
bản chất giai cấp của nó: Hiến pháp là của
ai? Phục vụ cho lợi ích của giai cấp (hoặc
các giai cấp) nào? Hiến pháp được tạo ra vì
một trật tự xã hội theo định hướng giai cấp
nào? Đó chính là quan điểm phương pháp
luận kinh điển của các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác về Hiến pháp cùng thời. Theo
đó, mọi Hiến pháp đều là sản phẩm của đấu
tranh giai cấp, đều là công cụ mà giai cấp
hoặc liên minh chính trị sử dụng để khẳng
định và duy trì sự thống trị của mình18. Quan
điểm giai cấp về Hiến pháp của K. Marx và
F. Engels được F. Lassalle19 tiếp thu trên cơ
sở đối chiếu giữa bản tính pháp lý và bản
tính xã hội thực tế của Hiến pháp. Theo F.
Lassalle, một bản Hiến pháp thành văn chỉ
18 Tham khảo: Đào Trí Úc, Hiến pháp trong đời sống xã hội và quốc gia, trong “Hiến pháp: những vấn đề lý luận và thực
tiễn”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, năm 2011, tr. 29.
19 Ferdinand Lassalle (1825 - 1864): Nhà văn, Chính trị gia dân chủ xã hội người Đức.
20 Dẫn lại: Đào Trí Úc, Sđd, năm 2011, tr. 30.
21 Tham khảo: Đào Trí Úc, Sđd, năm 2011, tr. 30.
có sự vững chắc và có ý nghĩa khi nó là sự
phản ánh chính xác mối tương quan thực tế
của các lực lượng xã hội20. Như vậy, chế độ
sở hữu trong Hiến pháp trên thực tế là sự
phản ánh mối tương quan chính trị giữa các
lực lượng xã hội, nhằm chiếm giữ tư liệu sản
xuất, quyết định quy mô sản xuất và phân
phối sản phẩm đến xã hội.
2.3 Cơ sở xã hội
Nhìn vào thực tiễn của lịch sử lập hiến
trên thế giới có thể nhận thấy rằng, việc xác
nhận bản chất của chế độ sở hữu trong Hiến
pháp chỉ từ góc độ lợi ích giai cấp là chưa
đủ. Hiến pháp trước hết ghi nhận và thể hiện
những lợi ích cơ bản của các thế lực thống
trị, một cách tinh tế hơn, của tầng lớp nổi
trội nhất trong xã hội. Hiến pháp đồng thời
là cơ sở pháp lý của toàn xã hội “nhằm ghi
nhận và thể hiện những lợi ích tương hợp
của các tầng lớp xã hội, lợi ích chung của
nhân dân, của dân tộc”, ở đó luôn thường
trực ý chí của lực lượng xã hội chủ đạo trong
từng thời kỳ lịch sử nhất định21. Như vậy,
chế độ sở hữu trong Hiến pháp trước hết
thể hiện sự thâu tóm lợi ích cục bộ của lực
lượng nổi trội trong xã hội, song đồng thời
thể hiện sự điều hòa lợi ích của toàn bộ xã
hội, hay giữa lực lượng chi phối xã hội và
các lực lượng còn lại của xã hội. Sự điều hòa
lợi ích đóng vai trò quan trọng giúp cho các
lực lượng xã hội tìm kiếm thỏa hiệp, giúp xã
hội ổn định và phát triển mà không nhất thiết
rơi vào xung đột, nhất là xung đột vũ trang.
Bản chất xã hội của chế độ sở hữu
trong Hiến pháp ngày nay phản ánh một giai
đoạn mới của chủ nghĩa lập hiến hiện đại.
Theo đó, Hiến pháp đã được trao trở lại sứ
mệnh của một bản khế ước về mặt pháp lý
của các lực lượng xã hội mà đối tượng điều
chỉnh trọng tâm là chế độ sở hữu. Ở đó toát
lên sự thoả hiệp lợi ích giữa các giai tầng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 19(371) T10/2018
xã hội, các lực lượng xã hội. Mức độ của sự
tương hợp lợi ích có thể rất khác nhau và đó
là cơ sở để mỗi bản Hiến pháp xác định cho
mình phương pháp điều chỉnh hợp lý. Đó có
thể là sự liên minh của các lực lượng tuy có
khuynh hướng chính trị và lợi ích khác nhau
nhưng thân thiện và hợp tác hữu nghị; cũng
có thể đó là sự thoả hiệp ở những lợi ích
nhất định của các lực lượng đối lập nhau và
vì vậy, sự thoả hiệp xã hội được Hiến pháp
ghi nhận là kết quả của quá trình vừa đấu
tranh, vừa hợp tác giữa các lực lượng xã hội.
Lẽ đương nhiên, phản ánh mối quan hệ như
vậy, Hiến pháp không thể chỉ đứng về phía
lợi ích của một lực lượng mà luôn phải tìm
thế cân bằng về lợi ích, mặc dù trên thực tế
ở bất kỳ quốc gia và dân tộc nào thì trong xã
hội luôn luôn có những lực lượng, những lợi
ích giữ vị trí ưu thế22.
Bản chất xã hội của chế độ sở hữu
trong Hiến pháp thể hiện sự ghi nhận những
giá trị xã hội được toàn xã hội và cộng đồng
dân cư địa phương vun đắp và chia sẻ. Đó
là các giá trị như nhân quyền, chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa tập thể, xã hội chia sẻ Sự
phát triển của văn minh nhân loại đã góp
phần chuẩn hoá và kết tinh các giá trị xã
hội giúp các quốc gia lựa chọn các giá trị ưu
tiên trên con đường phát triển của mình, và
thể hiện nó trong Hiến pháp - văn kiện pháp
lý quan trọng nhất của mỗi nước. Chế độ sở
hữu không nằm ngoài quy luật chung đó.
Thí dụ: lịch sử của quyền sở hữu tư nhân
(về tư liệu sản xuất) gắn liền với mỗi cá
nhân kể từ thời bán khai cho đến thời hiện
đại là một sự trùng hợp có tính bản chất
(tính giá trị) hơn tính lịch sử (tức có thể
sinh ra và có thể mất đi)23. Ngày nay, hầu
như không có quốc gia nào phủ nhận quyền
sở hữu tư nhân, dù ở các mức độ khác nhau.
22 Tham khảo: Đào Trí Úc, Sđd, năm 2011, tr. 31.
23 Tham khảo: Ludwig von Mises, Sđd, năm 2013, tr. 147–148.
24 Nguyễn Đăng Dung, Chức năng của Hiến pháp, Tạp chí Khoa học - Chuyên san Luật học (Đại học Quốc gia Hà Nội),
số 2 (Vol 27), năm 2011, tr.95.
25 Tham khảo: Phan Trung Lý, Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Sĩ Dũng (đồng chủ biên), Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp
các nước trên thế giới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2012, tr. 19 - 20.
2.4 Cơ sở pháp lý
Chức năng của Hiến pháp
Chức năng của Hiến pháp là tác dụng
của Hiến pháp trong việc bảo vệ các thiết
chế chính trị, thiết chế nhà nước và các quan
hệ xã hội quan trọng của một quốc gia. Có
ý kiến cho rằng, chức năng của Hiến pháp
biến đổi theo thời gian, song không vì thế
mà những chức năng nguyên thủy của Hiến
pháp biến mất. Do đó, bên cạnh việc giữ gìn
hòa bình thì Hiến pháp vẫn có chức năng
cổ điển là giới hạn quyền lực nhà nước để
bảo vệ các quyền cá nhân24. Như vậy, quyền
sở hữu - với tư cách là một nhân quyền cơ
bản - cần được bảo vệ bởi Hiến pháp, dù cho
chức năng của Hiến pháp có sự biến đổi theo
thời gian.
Ý kiến khác cho rằng, về cơ bản Hiến
pháp có sáu (06) chức năng sau: (i) Hiến
pháp trao quyền cho các cơ quan nhà nước;
(ii) Hiến pháp giới hạn quyền lực của các
cơ quan nhà nước; (iii) Hiến pháp bảo vệ
các quyền con người, quyền cơ bản của
công dân; (iv) Hiến pháp củng cố tính chính
đáng (legitimacy) và tính ổn định của chính
quyền; (v) Hiến pháp là hình thức để tuyên
bố các giá trị được thừa nhận chung của
cộng đồng; (vi) Hiến pháp là một hình thức
để tuyên bố các định hướng cơ bản của sự
phát triển đất nước (chức năng này đặc biệt
thể hiện rõ trong các nhà nước XHCN và
các nước chuyển đổi).25 Như vậy, các dấu
hiệu số (iii), (v) và (vi) cho thấy chức năng
cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới
có khuynh hướng bảo vệ cả chế độ sở hữu,
với tư cách là một quyền cơ bản, một giá
trị chung của cộng đồng và không thể thiếu
trong định hướng phát triển ở mỗi quốc gia.
Cho dù là một Hiến pháp có kỹ thuật
lập pháp hoàn hảo hay chưa hoàn hảo, có
bản chất dân chủ hay phi dân chủ thì những
người làm ra nó đều hướng đến khả năng hợp
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 19(371) T10/2018
pháp hóa các thiết chế trong đó. Như vậy,
chức năng trước tiên và tổng quát của Hiến
pháp chính là đặt nền tảng chính danh và
hợp pháp cho một chính quyền. Chức năng
thứ hai của Hiến pháp là quy định cơ sở cho
xuất phát điểm và định hướng cho quá trình
phát triển và hoàn chỉnh các chế định pháp
lý, tạo khuôn khổ pháp lý chung cho toàn bộ
hệ thống pháp lý. Những quy định của Hiến
pháp về mục tiêu phát triển đất nước, những
bảo đảm pháp lý cho quyền và tự do của con
người sẽ định hướng cho hoạt động của nhà
nước và hành vi của cá nhân, tổ chức nhằm
đảm bảo lợi ích hợp pháp của mọi người
trong một quốc gia. Chức năng thứ ba của
Hiến pháp là chức năng ổn định hóa các
quan hệ xã hội. Hiến pháp là văn bản có hiệu
lực pháp lý cao nhất và có tính ổn định tự
thân, do đó, sự hiến định các thiết chế chính
trị, thiết chế nhà nước và các quan hệ xã hội
quan trọng cũng nhằm bảo vệ và ổn định các
thiết chế này hiệu quả. Cả ba chức năng trên
của Hiến pháp đều có tác dụng bảo vệ chế
độ sở hữu của một quốc gia. Theo đó, Hiến
pháp hợp pháp hóa cơ sở tồn tại của chế độ
sở hữu, Hiến pháp định hướng cho quá trình
phát triển và hoàn chỉnh các chế định pháp
lý về sở hữu, đồng thời Hiến pháp giúp cho
chế độ sở hữu được vận hành ổn định trong
một khoảng thời gian đủ lâu, thường là cho
tới khi Hiến pháp được sửa đổi lại■
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự Pháp (Bản tiếng Việt), Trương Quang Dũng, Đoàn Thanh Loan, Hồ Thu Phương, Đào Thị Nguyệt
Ánh dịch, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, năm 2005.
2. Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và chính trị học (bản in lần 2), Saigon, năm 1969.
3. Trần Thị Kim Cúc, Tìm hiểu di sản lý luận của các nhà kinh điển Chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, năm 2010.
4. Lương Minh Cừ - Vũ Văn Thư, Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay: một số nhận thức về lý
luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2011.
5. Ngô Huy Cương, Cải cách pháp luật Việt Nam đáp ứng các đòi hỏi của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Kỷ
yếu Hội thảo khoa học: “Cách mạng 4.0 và những vấn đề đặt ra đối với việc cải cách hệ thống pháp luật Việt
Nam”, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội ngày 12/01/2018, Hà Nội.
6. Nguyễn Đăng Dung, Chức năng của Hiến pháp, Tạp chí Khoa học - Chuyên san Luật học (Đại học Quốc gia Hà
Nội), số 2 (Vol 27), năm 2011.
7. Nguyễn Đăng Dung, Chế độ kinh tế trong Hiến pháp các nước và Hiến pháp Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp, số 2+3 (234+235), năm 2013.
8. Nguyễn Ngọc Điện, Quyền sở hữu và quyền chiếm hữu - bài học về tình huống luật xa rời cuộc sống, tại:
huong-luat-xa-roi-cuoc-song (truy cập ngày 18/01/2018).
9. Nguyễn Minh Đoan, Chế độ sở hữu trong các Hiến pháp Việt Nam và xu hướng phát triển chế độ sở hữu ở Việt
Nam hiện nay, trong “Hiến pháp: những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội,
năm 2011.
10. Gordon Marshall (chủ biên), Từ điển xã hội học Oxford (Oxford Dictionary of Sociology), Bùi Thế Cường, Đặng
Thị Việt Phương, Trịnh Huy Hóa dịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010.
11. Hà Thị Mai Hiên, Quyền sở hữu của công dân ở Việt Nam (Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Kinh tế), Viện Nghiên
cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, năm 1996.
12. Ludwig von Mises, Chủ nghĩa tự do truyền thống (Liberalism), Phạm Nguyên Trường dịch, Nxb. Tri thức, Hà
Nội, năm 2013.
13. Phan Trung Lý, Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Sĩ Dũng (đồng chủ biên), Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các
nước trên thế giới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2012.
14. Peter Ho, “Who owns China’s land? Policies, Property rights and Deliberate Institutional Ambiguity”, The China
Quarterly, (166), 2001.
15. Rod Hague, Martin Harrop and Shaun Breslin, Political Science - A Comparative Introduction, St. Martin’s
Press, New York, 1993.
16. Bùi Ngọc Sơn, Các mô hình Hiến pháp trên thế giới và một số kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam, Tạp chí Luật
học số 10, năm 2012.
17. Từ điển trực tuyến:
18. Đào Trí Úc, Hiến pháp trong đời sống xã hội và quốc gia, trong “Hiến pháp: những vấn đề lý luận và thực tiễn”,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, năm 2011.
19. Phạm Văn Võ, Chế độ pháp lý về sở hữu & quyền tài sản đối với đất đai, Nxb. Lao Động, TP. Hồ Chí Minh, năm 2012.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 19(371) T10/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_so_hinh_thanh_che_do_so_huu_trong_hien_phap.pdf