Kết luận
Văn hóa du lịch là khoa học về du lịch. Đó là
yêu cầu tất yếu khách quan trong kinh doanh
du lịch, đồng thời trở thành nguồn lực mạnh
mẽ của kinh tế du lịch ở Việt Nam. Không thể
thiếu văn hóa du lịch trong hoạt động du lịch.
Văn hóa du lịch tất yếu sẽ tự hình thành trong
hoạt động du lịch. Tuy nhiên, văn hóa du lịch
không thể tự nhiên có mà cần được xây dựng
trên các cơ sở khoa học. Các cơ sở đó xuất phát
từ thực tiễn, nghiên cứu thực tiễn và quay trở
lại phục vụ thực tiễn hoạt động du lịch. Là
khoa học về du lịch, trong du lịch, văn hóa du
lịch ra đời trên nền tảng cơ sở lý luận, cơ sở thực
tiễn và cơ sở pháp lý đó chính là những cơ sở
cốt lõi hình thành văn hóa du lịch ở Việt Nam.
Cả 3 yếu tố này đều có vai trò quan trọng như
nhau, thiếu 1 trong 3 cơ sở này đều sẽ không
hình thành văn hóa du lịch.
Văn hóa du lịch là tất yếu khách quan trong
hoạt động du lịch; là yêu cầu của mọi du khách
khi đi du lịch. Đối với tất cả các cá nhân và tổ
chức hoạt động trong lĩnh vực du lịch, văn hóa
du lịch luôn là cái đích để hướng tới. Chỉ có
nghiên cứu, phát triển, ứng dụng hiệu quả văn
hóa du lịch trong kinh doanh du lịch mới có
thể đưa du lịch Việt Nam sớm trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn theo định hướng của Đảng
và Nhà nước hiện nay.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 337 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ sở hình thành văn hóa du lịch ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
79Số 32 (Tháng 6 - 2020)
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VĂN HÓA DU LỊCH Ở VIỆT NAM
DƯƠNG VĂN SÁU*
Tóm tắt
Văn hóa du lịch là khoa học nghiên cứu để làm rõ “giá trị du lịch” của văn hóa và làm rõ “giá trị văn
hóa” trong hoạt động du lịch. Như vậy, văn hóa du lịch là yêu cầu tất yếu trong phát triển du lịch ở một
quốc gia đa văn hóa như Việt Nam. Bộ môn khoa học nghiên cứu về văn hóa du lịch được hình thành
từ thực tế hoạt động, các tài nguyên và nguồn lực về du lịch ở Việt Nam.
Từ khóa: Cơ sở văn hóa du lịch, văn hóa du lịch, khoa học về du lịch
Abstract
Tourism culture is the science that researches to clarify the “tourism value” of culture and to clarify the
“cultural value” in tourism activities. Thus, tourism culture is an indispensable requirement in tourism
development in a multicultural nation like Vietnam. The subject on scientific research on tourism
culture is inevitably formed from the reality of tourism activities and tourism resources in Vietnam.
Keywords: Basis of tourist culture, tourism culture, tourism science
1. Văn hóa du lịch
Trong tiến trình phát triển của thế giới, phát triển bền vững trở thành mục tiêu cho tất cả các nền kinh tế. Đây là
hướng đi đúng đắn và cần thiết, là yêu cầu tất
yếu đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia
đang phát triển trong đó có Việt Nam. Trong
quá trình đưa du lịch sớm trở thành kinh tế
mũi nhọn, mục tiêu phát triển bền vững đã
được đặt ra xuyên suốt. Điều 3, Luật Du lịch
(2017) đã nêu rõ: “Phát triển du lịch bền vững là
sự phát triển du lịch đáp ứng đồng thời các yêu
cầu về kinh tế - xã hội và môi trường, bảo đảm
hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia hoạt
động du lịch, không làm tổn hại đến khả năng
đáp ứng nhu cầu về du lịch trong tương lai” [5].
Muốn phát triển du lịch bền vững phải dựa vào
yếu tố con người, vào văn hóa của con người
trong hoạt động du lịch; tức là phải dựa vào
văn hóa du lịch. Trong hoạt động du lịch ở Việt
Nam, văn hóa là một trong những tài nguyên,
nguồn lực trọng yếu, có vai trò đặc biệt quan
trọng để phát triển du lịch. Tài nguyên, nguồn
lực ấy phải được khai thác có chọn lọc, đạt hiệu
quả tối ưu để phát triển du lịch bền vững. Yêu
cầu đặt ra cho quá trình khai thác, phát huy có
hiệu quả giá trị của kho tàng di sản văn hóa
trong hoạt động du lịch mà vẫn bảo tồn được
các nguồn tài nguyên thiên nhiên và các giá
trị văn hóa bản địa hoàn toàn phù hợp với tiến
trình phát triển của xã hội và đất nước.
Bản chất và nội hàm của du lịch là văn hóa;
cung - cầu trong kinh tế du lịch là cung cầu
văn hóa. Muốn vậy, cần nghiên cứu để đưa ra
những cách thức và biện pháp khai thác có
hiệu quả các tài nguyên và nguồn lực du lịch.
Đây chính là những bước đi và biện pháp cụ
thể của quá trình “kinh tế hóa văn hóa”, đưa các
giá trị có chọn lọc của văn hóa dân tộc vào hoạt
động du lịch; tạo nên nét đặc sắc, hấp dẫn của
du lịch Việt Nam. Đồng thời với đó là việc nâng
cao hàm lượng văn hóa trong hoạt động kinh
doanh, “văn hóa hóa” các mối quan hệ cung -
cầu trong du lịch. Thông qua mối liên hệ phổ
biến này, đánh giá tác động tương hỗ của hoạt
động du lịch đến mọi mặt của đời sống xã hội,
chỉ ra cách thức, biện pháp để khai thác, phát
triển du lịch bền vững. Đó chính là nội hàm của
văn hóa du lịch ở Việt Nam. Từ thực tiễn hoạt * PGS.TS, Khoa Du lịch, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Số 32 (Tháng 6 - 2020)80
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
động du lịch ở Việt Nam, đối chiếu với yêu cầu
về sự phát triển du lịch của các nước trong khu
vực và thế giới, bằng các kết quả nghiên cứu
phục vụ giảng dạy, đào tạo nguồn nhân lực
du lịch trong nhiều năm qua, chúng tôi đưa ra
khái niệm: “Văn hóa du lịch là khoa học nghiên
cứu, khai thác có chọn lọc các giá trị của văn hóa
để phát triển du lịch và nâng cao hàm lượng văn
hóa trong các mối quan hệ cung - cầu của hoạt
động du lịch; góp phần quảng bá văn hóa, tạo sự
phát triển du lịch bền vững” [7, tr.60].
Trong khái niệm này, chúng tôi dùng thuật
ngữ “khai thác có chọn lọc các giá trị của văn
hóa để phát triển du lịch” thay cho cụm từ hay
được nhiều người sử dụng hiện nay là “phát
huy giá trị của văn hóa”. Sở dĩ chúng tôi dùng
từ “khai thác” vì du lịch là ngành kinh tế dịch
vụ tổng hợp, một ngành kinh tế tất yếu phải
tạo ra các sản phẩm hàng hóa; muốn có sản
phẩm phải khai thác các nguyên liệu để tạo ra
các sản phẩm hàng hóa đó. Ở đây, trong kinh
tế du lịch, văn hóa là một trong những nguồn
tài nguyên, nguồn lực quan trọng nhất, là một
dạng nguyên liệu để tạo ra sản phẩm du lịch
mang tính đặc thù. Do vậy, cần khai thác các
giá trị tài nguyên văn hóa để tạo ra sản phẩm
du lịch. Điều cần nhấn mạnh là việc khai thác
có chọn lọc các giá trị của văn hóa tức là tìm
ra các giá trị đặc sắc của văn hóa, đưa các giá
trị đó vào cuộc sống, từ đó đem lại các giá trị
mới, đích thực cho con người. Điều đó giúp
khơi nguồn nội lực cho văn hóa, giúp văn hóa
tăng thêm sức mạnh để phát triển chứ không
phải khai thác cạn kiệt các giá trị của văn hóa.
Khai thác các giá trị văn hóa là làm tăng giá trị
của văn hóa, tạo cho văn hóa có “đầu ra” là các
sản phẩm du lịch. Đây là giải pháp “bảo tồn
động” các giá trị của văn hóa, là những biểu
hiện tích cực trong quá trình “kinh tế hóa văn
hóa” các hoạt động du lịch. Đi cùng với việc
khai thác các giá trị của văn hóa là việc nâng
cao hàm lượng văn hóa trong kinh doanh du
lịch, “văn hóa hóa kinh tế” trong hoạt động du
lịch ở Việt Nam hiện nay. Chính việc tiến hành
đồng thời hai quá trình như vậy sẽ tạo ra sự
phát triển bền vững của kinh tế du lịch, đồng
thời góp phần quan trọng vào việc xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, nâng văn hóa dân tộc
lên những tầm cao mới với những vị thế mới
phù hợp trong thời đại mới.
2. Những cơ sở để hình thành văn hóa du
lịch ở Việt Nam
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, khoa
học về du lịch là khoa học tổng hợp, nghiên
cứu và triển khai kết quả nghiên cứu đa ngành
vào hoạt động du lịch, đương nhiên, văn hóa
du lịch hình thành từ lý thuyết và thực tiễn có
liên quan đến hoạt động du lịch. Như bất kỳ
một ngành khoa học nào khác, văn hóa du lịch
phải bắt đầu từ thực tiễn, nhưng lại phải vượt
lên trên thực tiễn để dẫn dắt, định hướng thực
tiễn phát triển đạt các yêu cầu khoa học, tạo
sự phát triển du lịch bền vững. Bên cạnh đó, là
một ngành kinh tế năng động, dễ bị tác động
bởi các yếu tố khách quan và chủ quan, do vậy,
thực tiễn hoạt động du lịch phải được kiểm
soát bằng một hệ thống luật pháp chặt chẽ
thông qua các văn bản pháp quy để quản lý và
điều tiết hoạt động mang tính thống nhất. Văn
hóa du lịch ở Việt Nam về cơ bản được hình
thành trên 3 cơ sở: Cơ sở lý luận, cơ sở thực
tiễn, và cơ sở pháp lý.
2.1. Cơ sở lý luận của văn hóa du lịch
Thứ nhất, mục tiêu của văn hóa du lịch
nhằm để “biến” những tiềm năng văn hóa - lịch
sử thành các sản phẩm du lịch đặc trưng, đặc
hữu giúp cho các đối tượng du khách “ngược
nguồn lịch sử” tìm và làm sống lại những giá trị
đích thực của văn hóa Việt Nam qua trường kỳ
lịch sử. Cách tiếp cận mới đó đã tạo nên nhận
thức mới về du lịch ở Việt Nam.
Xét về bản chất, du lịch là quá trình tìm
kiếm để thỏa mãn những nhu cầu khác nhau
của con người trong những khoảng thời gian
và không gian nhất định. Du lịch Việt Nam
muốn phát triển bền vững, cần phải xác định
rõ, chúng ta có những gì và sẽ làm những gì?
Làm như thế nào để đáp ứng và làm thỏa mãn
những nhu cầu đa dạng của các đối tượng
khách nội địa và khách quốc tế? Việt Nam là
quốc gia đang phát triển, đi sau thế giới trên
rất nhiều phương diện, vậy phải có cách đi
riêng, phương pháp riêng tạo nên ấn tượng
và sự khác biệt. Trên cơ sở thông lệ quốc tế và
truyền thống bản địa, du lịch Việt Nam muốn
phát triển phải tạo ra nét bản sắc độc đáo của
mình. Bản sắc độc đáo đó chính là bản sắc
văn hóa. Văn hóa du lịch khai thác có chọn lọc
những giá trị tích cực của văn hóa Việt Nam sẽ
góp phần phổ biến những cái hay, cái đẹp của
81Số 32 (Tháng 6 - 2020)
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
văn hóa Việt Nam. Yếu tố đó có được là một
phần của quá trình đi tìm những bài học từ
quá khứ sẽ góp phần quyết định đến sự phát
triển bền vững của du lịch Việt Nam.
Thứ hai, xuất phát từ bản chất của du lịch
là văn hóa, tất cả các lĩnh vực hoạt động trong
du lịch đều đòi hỏi yếu tố văn hóa. Nghị quyết
08-NQ/TW của Bộ Chính trị nhấn mạnh quan
điểm: “Phát triển du lịch thực sự là ngành kinh tế
dịch vụ tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng,
có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, có thương
hiệu và khả năng cạnh tranh cao, xã hội hóa cao
và có nội dung văn hóa sâu sắc...” [1]. Trong kinh
doanh nói chung, kinh doanh du lịch nói riêng
diễn ra đồng thời hai quá trình: “văn hóa hóa
kinh tế” và “kinh tế hóa văn hóa”. Đây không
phải là cơ sở lý thuyết mà chính là biểu hiện lý
thuyết trong thực tiễn. Lý thuyết đã nói thay
yêu cầu của thực tiễn và đã trở thành cơ sở lý
thuyết nhưng không tách rời với những yêu
cầu, đòi hỏi từ thực tiễn.
Thứ ba, nội hàm của du lịch là văn hóa. Du
lịch dành cho con người; đối với con người,
văn hóa là tiêu chí cao nhất, quan trọng nhất,
con người càng phát triển càng đòi hỏi các yếu
tố văn hóa ngày càng cao. Kinh doanh du lịch
là “kinh doanh văn hóa”, muốn phát triển bền
vững phải có “văn hóa kinh doanh” phù hợp,
thích ứng. Thực chất cung - cầu trong du lịch là
“cung - cầu văn hóa”, đồng thời thông qua đó
cũng thể hiện “văn hóa cung - cầu” của người
làm du lịch. Văn hóa cung cầu trong cung cấp
và tiêu thụ sản phẩm du lịch, trong việc đáp
ứng và làm thoả mãn các lợi ích cung - cầu
trong du lịch chính là những cơ sở lý thuyết,
đồng thời trở thành yêu cầu không thể thiếu
của văn hóa du lịch.
Thứ tư, cơ sở lý luận của văn hóa du lịch còn
xuất phát từ những từ ngữ, thuật ngữ và cách
sử dụng các từ ngữ đó hiện nay đang áp dụng.
Ví dụ như các cách gọi, các hình thức diễn đạt,
biểu đạt về mặt ngôn ngữ tiếng Việt, như: Văn
hóa, du lịch; Văn hóa - du lịch, Văn hóa - Du
lịch, Văn hóa du lịch, Văn hóa Du lịch... Những
tên gọi, các cách viết khác nhau như trên đã
đem đến những ý nghĩa khác nhau, tạo ra “sự
hỗn dung” giữa văn hóa và du lịch. Từ việc sử
dụng các cặp ngôn từ đi kèm với nhau như
vậy đã cho thấy một cách tiếp cận khác, một
cách gọi khác là cơ sở lý thuyết của văn hóa
du lịch thuộc về ngôn ngữ học hình thái - tức
là hình thái của ngôn ngữ sử dụng trong giao
tiếp du lịch. Văn hóa du lịch là thứ ngôn ngữ
học hình thái “2 trong 1”, văn hóa và du lịch ở
trong nhau, là của nhau. Điều này phản ánh
đúng thực tế ở Việt Nam: Du lịch là ngành kinh
tế tổng hợp mang nội dung văn hóa sâu sắc.
Từ đó cho thấy, cơ sở lý thuyết chính là sự phản
ánh thực tiễn Việt Nam; đó chính là một trong
những cơ sở quan trọng để ra đời khoa học
văn hóa du lịch, khoa học nghiên cứu về văn
hóa để phát triển du lịch bền vững.
2.2. Cơ sở thực tiễn của văn hóa du lịch
Thứ nhất, du lịch là quá trình hoạt động
mà trong đó các đối tượng du khách được các
công ty du lịch kết nối không gian và thời gian
trên thực tiễn để đạt được các nhu cầu và mục
đích khác nhau. Hoạt động du lịch gắn chặt với
thực tiễn, không thể tách rời thực tiễn. Thực
tiễn hoạt động du lịch tất yếu sẽ đòi hỏi phải
hình thành văn hóa du lịch. Chất lượng, hiệu
quả hoạt động trong kinh tế du lịch ở Việt Nam
xuất phát từ đòi hỏi của cuộc sống và nó trở
thành yêu cầu cơ bản của hoạt động du lịch.
Quá trình “kinh tế hóa văn hóa trong du lịch” là
một xu hướng diễn ra không ngừng trong hoạt
động du lịch và đương nhiên nó trở thành cơ
sở thực tiễn của hoạt động du lịch trong bất cứ
thời gian và không gian nào.
Thứ hai, xuất phát từ những yêu cầu đặt ra
trong quá trình kinh doanh du lịch hiện nay,
khả năng và điều kiện cũng như trình độ của
các đối tượng du khách ngày càng phát triển,
dẫn đến bắt buộc phải nâng cao yếu tố văn
hóa trong kinh doanh mới đáp ứng các nhu
cầu của du khách, mới tạo nên sự thành công
của quá trình kinh doanh du lịch. Khi trình độ
dân trí ngày càng cao sẽ kéo theo yêu cầu, đòi
hỏi về thái độ và trình độ cũng như phong cách
văn hóa trong kinh doanh du lịch, đó chính là
đòi hỏi của thực tiễn đối với người làm du lịch,
đối với văn hóa du lịch.
Thứ ba, trong thực tế hoạt động du lịch,
nhu cầu phong phú, đa dạng ngày càng cao
của du khách trong và ngoài nước đòi hỏi phải
được đáp ứng. Do hoạt động kinh doanh du
lịch ở Việt Nam mới phát triển khoảng những
năm 1990 trở lại đây, cơ sở vật chất kỹ thuật,
hạ tầng phục vụ du lịch đang từng bước được
hình thành nên chưa đáp ứng được hết các
Số 32 (Tháng 6 - 2020)82
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
yêu cầu của du khách, đặc biệt là các đối tượng
du khách có nhu cầu cao, đến từ các quốc gia
phát triển, văn minh. Hơn nữa, nhu cầu của
du khách luôn tăng lên, do vậy, trong quá
trình phát triển bên cạnh việc sáng tạo không
ngừng để tiến về phía trước thì việc không kém
phần đặc biệt quan trọng là cần tận dụng và
khai thác các tài nguyên, nguồn lực vốn có để
tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch.
Một trong những nguồn tài nguyên vốn có đó
chính là kho tàng di sản văn hóa từ quá khứ.
Tuy nhiên, sự hiểu biết về quá khứ của một bộ
phận đông đảo những người hoạt động trong
lĩnh vực du lịch còn chưa đáp ứng được yêu
cầu thực tế. Chính vì vậy, cần bổ sung và nâng
cao kiến thức, kỹ năng hoạt động cho đội ngũ
nhân viên. Cũng chính một phần những hạn
chế từ thực tiễn khai thác giá trị của kho tàng
di sản văn hóa sẽ hình thành nên những cơ
sở, nền tảng, yêu cầu của văn hóa du lịch. Văn
hóa Việt Nam là văn hóa vốn tiềm ẩn nhiều giá
trị tích cực. Do vậy, trong loại hình du lịch văn
hóa, cần “giải mã văn hóa”, “giải ảo hiện thực”
các thành tố văn hóa được đưa vào khai thác
phục vụ phát triển du lịch có chọn lọc. Xét
về bản chất, các thuật ngữ “giải mã văn hóa”,
“giải ảo hiện thực” chính là một cách tiếp cận
khác về hiện thực khách quan của kho tàng di
sản văn hóa. Chính di sản văn hóa Việt Nam
sẽ góp phần tạo nên sự hấp dẫn và cuốn hút
đối với các đối tượng du khách. Tuy nhiên, cần
có cách thức và biện pháp khai thác có chất
lượng, hiệu quả kho tàng di sản văn hóa đặc
sắc của dân tộc mới có thể biến tiềm năng
thành tiềm lực, lợi thế, ưu thế và nội lực của du
lịch Việt Nam. Văn hóa du lịch có nền tảng là
văn hóa Việt Nam, chứa đựng hệ thống tri thức
của con người, đồng thời là mong muốn của
con người được bổ sung và nâng cao tri thức
trong quá trình du lịch. Trong giai đoạn đầu
phát triển của kinh tế du lịch ở Việt Nam cần
phải quan tâm, đầu tư nghiên cứu, khai thác
có chất lượng và hiệu quả kho tàng di sản văn
hóa này, tạo dấu ấn đặc sắc, riêng biệt của du
lịch Việt Nam.
Thứ tư, xuất phát từ thực trạng những biểu
hiện của các đối tượng du khách trong quá
trình đi du lịch. Họ đòi hỏi được hưởng thụ các
giá trị văn hóa đích thực, và được đối xử có văn
hóa. Hiện nay, vấn đề văn hoá ứng xử của một
bộ phận không nhỏ du khách đang ở mức báo
động. Trang phục thiếu thẩm mỹ, thiếu thuần
phong mỹ tục khi đi du lịch, thiếu ý thức bảo vệ
môi trường tự nhiên, ứng xử văn hóa thiếu hiểu
biết, lệch lạc, vụ lợi thô thiển trong các chương
trình du lịch, tại các điểm đến tham quan là các
di tích lịch sử - văn hóa của du khách cần phải
được “hiệu đính”. Yêu cầu đặt ra từ thực tế hoạt
động kinh doanh du lịch là cần phải hình thành
nên văn hóa du lịch ở du khách.
Thứ năm, xuất phát từ yêu cầu tạo ra nét
đặc trưng/đặc thù của du lịch đối với mỗi cá
nhân - tổ chức - địa phương ở nơi diễn ra các
hoạt động du lịch. Nét đặc trưng mang tính
bản sắc của du lịch ở các địa phương chính là
văn hóa du lịch của một địa phương nào đó.
Xét về bản chất của hiện tượng du lịch thì du
lịch là quá trình kiếm tìm những khác biệt, mà sự
khác biệt đó một phần chính là bản sắc văn hóa.
Kinh doanh du lịch về thực chất là kinh doanh
ấn tượng. Ấn tượng được hình thành thông
qua những hành xử văn hóa, văn minh trong
kinh doanh. Ấn tượng và sự khác biệt sẽ tạo
ra lợi thế cạnh tranh, trở thành yếu tố tạo nên
thành công của du lịch Việt Nam. Ấn tượng và
khác biệt của du lịch Việt Nam không gì khác
chính là văn hóa kinh doanh trong hoạt động
du lịch, là văn hóa du lịch. Để có được điều đó
cần có sự liên kết đa cấp độ, nhiều mặt, nhiều
sắc thái khác nhau giữa các vùng văn hóa, đó
chính là nội hàm của các chương trình du lịch
văn hóa.
Thứ sáu, xuất phát từ nhu cầu đào tạo
nguồn nhân lực du lịch. Trong những năm
trước và sau thập kỷ 90 của thế kỷ XX, do yêu
cầu của xã hội, đây là khoảng thời gian các
cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch bậc đại
học ra đời khá nhiều. Chỉ riêng ở các tỉnh phía
Bắc, các trường đại học như Trường Đại học
Văn hóa Hà Nội, Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội),
Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Trường Đại
học Thương mại, Viện Đại học Mở Hà Nội,...
đều ra đời các khoa, chuyên ngành, bộ môn
đào tạo bậc đại học về du lịch. Khi đó, với bề
dày lịch sử 35 năm (1959 - 1993) ra đời, tồn tại
và phát triển, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội là
cơ sở đào tạo lớn nhất của ngành Văn hóa cả
nước; thế mạnh lớn nhất của Trường Đại học
Văn hóa Hà Nội là nghiên cứu văn hóa theo
hướng ứng dụng. Trên cơ sở đòi hỏi của thực
tiễn cũng như khả năng và điều kiện cho phép
83Số 32 (Tháng 6 - 2020)
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
của Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, đã hình
thành chuyên ngành Văn hóa Du lịch vào năm
1993 và sau đó ra đời Khoa Văn hóa Du lịch vào
tháng 8/2000. Từ đó đến nay, với hơn ¼ thế kỷ
phát triển lớn mạnh không ngừng, Khoa Văn
hóa Du lịch (nay là Khoa Du lịch), Trường Đại
học Văn hóa Hà Nội với Slogan: “Đi cùng tri
thức” đã đóng góp một phần quan trọng trong
đào tạo nguồn nhân lực du lịch chất lượng
cao cho đất nước. Sau năm 1993, hàng loạt
các trường đại học cả công lập, dân lập, tư thục,
các trường cao đẳng, trung cấp nghề,... ở khắp
nơi trên đất nước cũng lần lượt ra đời các khoa,
chuyên ngành, bộ môn đào tạo văn hóa du lịch;
hình thành một mạng lưới, hệ thống đào tạo
văn hóa du lịch rộng khắp cả nước. Với những
gì tích luỹ được từ trong thực tiễn đào tạo; với
công sức, trí tuệ, tâm huyết của rất nhiều người,
nhiều nơi, khoa học văn hóa du lịch đã và đang
hình thành, phát triển không ngừng cả về lý
luận và thực tiễn như hiện nay. Những thành
tựu đã đạt được và những yêu cầu đặt ra từ thực
tế đào tạo nguồn nhân lực du lịch theo phương
châm “đào tạo theo nhu cầu và yêu cầu xã hội”
đã trở thành cơ sở thực tiễn quan trọng nhất
cho việc hình thành, tồn tại và phát triển của
khoa học Văn hóa Du lịch ở Việt Nam.
2.3. Cơ sở pháp lý của văn hóa du lịch
Một xã hội văn minh là một xã hội pháp
quyền, ở đó, mọi hành vi ứng xử của con người
đều được quản lý, điều tiết bằng các văn bản
và công cụ pháp lý. Chúng ta đang sống trong
một xã hội đòi hỏi mọi người, mọi tổ chức đều
phải “sống và làm việc theo hiến pháp, pháp
luật”, hoạt động du lịch cũng không ngoại lệ.
Nói tới pháp lý là nói tới công cụ của thể chế
chính trị cầm quyền. Do vậy, việc triển khai các
yếu tố văn hóa trong kinh doanh du lịch không
chỉ là nghĩa vụ và trách nhiệm mà còn là yêu
cầu pháp lý đối với những người hoạt động
trong ngành Du lịch.
Du lịch gắn chặt không thể tách rời với văn
hóa. Điều này đúng không chỉ ở nội dung mà
cả ở hình thức biểu hiện. Thể hiện rõ nhất là cơ
quan quản lý nhà nước về lĩnh vực du lịch được
sáp nhập, đặt trong Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch. Chính vì cả nội dung và hình thức thể
hiện của mình đều mang nội hàm văn hóa cho
nên văn hóa du lịch cũng phải chịu sự điều tiết
của Luật Di sản văn hóa. Điều 12 Luật Di sản
văn hóa quy định rõ: “Di sản văn hóa Việt Nam
được sử dụng nhằm mục đích:
1. Phát huy giá trị di sản văn hóa vì lợi ích của
toàn xã hội.
2. Phát huy truyền thống tốt đẹp của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.
3. Góp phần sáng tạo những giá trị văn hóa
mới, làm giàu kho tàng di sản văn hóa Việt Nam
và mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế” [3].
Với 3 mục đích nêu trên, hoạt động du lịch
là một trong những công cụ quan trọng nhất
để đạt được các mục đích sử dụng của di sản
văn hóa. Văn hóa du lịch phải coi những nội
dung của Luật Di sản văn hóa về bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa là cơ sở pháp lý
trong quá trình diễn ra các hoạt động du lịch.
Ngay từ khi mới ra đời ở Việt Nam, nội dung
văn hóa của du lịch đã sớm được luật pháp
khẳng định và thừa nhận thông qua Pháp lệnh
Du lịch (08/02/1999): “Du lịch là một ngành
kinh tế tổng hợp mang nội dung văn hóa sâu
sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa
cao” [8]. Điều này đã nói rõ hai điều: Du lịch
là ngành kinh tế tổng hợp và du lịch mang
nội dung văn hóa sâu sắc. Từ đó cho thấy, du
lịch là sự tổng hợp của văn hóa; là sự khai thác
và phát triển văn hóa theo hướng ứng dụng.
Ngay sau Pháp lệnh Du lịch, Luật Du lịch ra đời
cũng đặt ra những yêu cầu cụ thể, xác thực về
văn hóa trong du lịch. Trong Điều 79 Luật Du
lịch (2005) cũng đã xác định rõ: “Nhà nước tổ
chức, hướng dẫn hoạt động xúc tiến du lịch với
các nội dung chủ yếu sau đây: Tuyên truyền, giới
thiệu rộng rãi về đất nước, con người Việt Nam,
danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, di tích cách
mạng, di sản văn hóa, công trình lao động sáng
tạo của con người, bản sắc văn hóa dân tộc cho
nhân dân trong nước và cộng đồng quốc tế”
[4, tr.69]. Điều 67, Luật Du lịch (2017) nêu rõ
nội dung xúc tiến du lịch: “Quảng bá, giới thiệu
về đất nước, con người Việt Nam, di sản văn hóa,
di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh,
công trình lao động sáng tạo của con người, bản
sắc văn hóa dân tộc nhằm tăng cường thu hút
khách du lịch” [5].
Theo dòng thời gian, cả ba văn bản mang
tính pháp lý cao nhất trong lĩnh vực du lịch ở
Việt Nam đều đề cập tới nội hàm và bản chất
văn hóa của du lịch. Điều đó cho thấy, việc khai
thác giá trị kho tàng di sản văn hóa để phát
Số 32 (Tháng 6 - 2020)84
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
triển du lịch là một yêu cầu cơ bản, một lợi thế
vô cùng to lớn của du lịch Việt Nam. Trong kho
tàng di sản văn hóa cực kỳ to lớn của dân tộc, hệ
thống di tích lịch sử - văn hóa là thành tố quan
trọng bậc nhất, có vai trò đặc biệt to lớn trong
việc xây dựng các tuyến, điểm du lịch. Việc đưa
du khách tới tham quan du lịch tại các di tích
lịch sử văn hóa; khai thác giá trị các thành tố
trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc giúp cho
các đối tượng du khách được thẩm nhận và trải
nghiệm các giá trị nhiều mặt của chiều sâu văn
hiến Việt Nam. Hệ thống di tích lịch sử - văn hóa,
kho tàng di sản văn hóa Việt Nam với số lượng
đồ sộ, hình thức phong phú, đa dạng, nội dung
vô cùng đặc sắc và hấp dẫn có mặt ở mọi nơi,
trên khắp mọi miền đất nước, bao trùm lên toàn
bộ đời sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội
theo suốt chiều dài phát triển lịch sử dân tộc.
Để hiểu rõ, cần có những kiến thức chuyên sâu
về lịch sử, khảo cổ học, văn hóa học, nghệ thuật
học, tôn giáo tín ngưỡng, đó chính là nhân
học - khoa học về con người trong suốt chiều
dài lịch sử. Nhân học trong hoạt động du lịch
chính là Nhân học du lịch.
Gần đây nhất, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày
16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du
lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đã đề
ra 8 nhiệm vụ, giải pháp trọng yếu trong phát
triển du lịch:
1. Đổi mới nhận thức, tư duy về phát triển
du lịch.
2. Cơ cấu lại ngành Du lịch đảm bảo tính
chuyên nghiệp, hiện đại và phát triển bền
vững theo quy luật của kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế.
3. Hoàn thiện thể chế chính sách.
4. Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở
vật chất kỹ thuật ngành Du lịch.
5. Tăng cường xúc tiến quảng bá du lịch.
6. Tạo môi trường thuận lợi cho doanh
nghiệp và cộng đồng phát triển du lịch.
7. Phát triển nguồn nhân lực du lịch.
8. Tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý
nhà nước về du lịch [1].
Tám nhiệm vụ, giải pháp nêu trên vừa được
coi là cơ sở lý thuyết, vừa có thể coi là cơ sở
mang tính pháp lý cao nhất của hệ thống
chính trị Việt Nam hiện nay về văn hóa du lịch.
Bên cạnh hệ thống luật pháp trong nước,
do du lịch là hoạt động kinh tế mang tính
quốc tế cao nên các hoạt động du lịch cũng
phải phù hợp với luật pháp và thông lệ của
thế giới. Đó là những thông lệ quốc tế đối với
các vấn đề tổ chức kinh doanh; các công ước
quốc tế có liên quan đến hoạt động du lịch,
bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học hay các
di sản văn hóa của các quốc gia, dân tộc. Các
chương trình du lịch văn hóa diễn ra ở Việt
Nam hay trên phạm vi toàn thế giới nhất thiết
phải tuân thủ Công ước quốc tế về du lịch văn
hóa đã được Hội đồng Quốc tế Di tích và Di chỉ
ICOMOS (International Council on Monuments
and Sites) thông qua tại Đại hội đồng lần thứ
12 (tháng 10/1999) ở Mexico. Công ước này
yêu cầu tất cả các cá nhân, tổ chức và các quốc
gia trên toàn thế giới phải tuân thủ 6 nguyên
tắc cơ bản phát triển du lịch văn hóa:
“Nguyên tắc 1: Vì du lịch nội địa và quốc tế
là một trong những phương tiện tốt nhất để
trao đổi văn hóa nên việc bảo vệ cần phải tạo
ra những cơ hội quản lý tốt và có trách nhiệm
cho các thành viên của cộng đồng chủ nhà
và các khách tham quan tham gia để họ thấy
được và hiểu được trực tiếp di sản và văn hóa
của cộng đồng đó.
Nguyên tắc 2: Mối quan hệ giữa các địa
điểm Di sản và Du lịch là có tính động và có
thể có giá trị xung đột nhau. Phải quản lý mối
quan hệ đó một cách bền vững cho hôm nay
vì các thế hệ mai sau.
Nguyên tắc 3: Lên kế hoạch Bảo vệ và Du
lịch cho các địa điểm Di sản phải đảm bảo
cho du khách sẽ cảm nhận được là bõ công, là
thoải mái, là thích thú.
Nguyên tắc 4: Các cộng đồng chủ nhà và
dân chúng bản địa phải được tham gia vào
việc lập kế hoạch Bảo vệ và Du lịch.
Nguyên tắc 5: Hoạt động Du lịch và Bảo vệ
phải có lợi cho cộng đồng chủ nhà.
Nguyên tắc 6: Các chương trình xúc tiến du
lịch phải bảo vệ và phát huy các đặc trưng của
di sản thiên nhiên và văn hóa” [2].
Các công ty, hãng lữ hành khi tổ chức kinh
doanh du lịch, phải nắm chắc và am hiểu luật
pháp của các nước sở tại, các phong tục tập
quán truyền thống ở nơi đến, các lề luật thông
thường hay các quy định của địa phương nơi
85Số 32 (Tháng 6 - 2020)
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
diễn ra các hoạt động du lịch. Những cá nhân,
tổ chức tham gia hoạt động du lịch cũng phải
chú ý và tìm hiểu các tổ chức chuyên môn
mang tính toàn cầu như các tòa án quốc tế,
các tổ chức có chức năng và quyền hạn nhận
xét, đánh giá, phán xét các vi phạm của các cá
nhân và tổ chức trong lĩnh vực du lịch như Tổ
chức Du lịch thế giới UNWTO (United Nation
World Tourism Organization) hoặc Tổ chức văn
hóa giáo dục và khoa học của Liên hợp quốc
UNESCO (United Nations Educational Scientific
and Cultural Organization).
Trên cơ sở luật pháp và các công ước quốc
tế, việc tổ chức, khai thác văn hóa du lịch trong
những không gian và thời gian xác định cần
phải luôn bám/dựa vào truyền thống bản địa
mới có thể thành công. “Đất có lề, quê có thói”,
khi tổ chức kinh doanh du lịch trên một địa bàn
cụ thể, người kinh doanh phải nắm được và
tôn trọng những giá trị văn hóa truyền thống
của địa phương mang tính thông lệ. “Nhập gia
tùy tục”, cha ông ta luôn nhắc nhở như thế và
những tập tục, thông lệ, lề thói bản địa cũng sẽ
trở thành một trong những cơ sở pháp lý mềm
của văn hóa du lịch.
Tóm lại, cơ sở pháp lý của văn hóa du lịch
chính là yêu cầu mang tính pháp chế cũng
như những thông lệ quốc tế và truyền thống
của địa phương trong kinh doanh du lịch mà
mỗi cá nhân và tổ chức khi tham gia hoạt động
du lịch phải chấp hành một cách vô điều kiện,
không đặt ra những đòi hỏi tiên quyết. Tuy
nhiên, việc chấp hành đúng đắn, đầy đủ luật
pháp một cách tự nguyện, tự giác, có trách
nhiệm, có văn hóa trong du lịch lại chính là
biểu hiện của văn hóa du lịch.
Kết luận
Văn hóa du lịch là khoa học về du lịch. Đó là
yêu cầu tất yếu khách quan trong kinh doanh
du lịch, đồng thời trở thành nguồn lực mạnh
mẽ của kinh tế du lịch ở Việt Nam. Không thể
thiếu văn hóa du lịch trong hoạt động du lịch.
Văn hóa du lịch tất yếu sẽ tự hình thành trong
hoạt động du lịch. Tuy nhiên, văn hóa du lịch
không thể tự nhiên có mà cần được xây dựng
trên các cơ sở khoa học. Các cơ sở đó xuất phát
từ thực tiễn, nghiên cứu thực tiễn và quay trở
lại phục vụ thực tiễn hoạt động du lịch. Là
khoa học về du lịch, trong du lịch, văn hóa du
lịch ra đời trên nền tảng cơ sở lý luận, cơ sở thực
tiễn và cơ sở pháp lý đó chính là những cơ sở
cốt lõi hình thành văn hóa du lịch ở Việt Nam.
Cả 3 yếu tố này đều có vai trò quan trọng như
nhau, thiếu 1 trong 3 cơ sở này đều sẽ không
hình thành văn hóa du lịch.
Văn hóa du lịch là tất yếu khách quan trong
hoạt động du lịch; là yêu cầu của mọi du khách
khi đi du lịch. Đối với tất cả các cá nhân và tổ
chức hoạt động trong lĩnh vực du lịch, văn hóa
du lịch luôn là cái đích để hướng tới. Chỉ có
nghiên cứu, phát triển, ứng dụng hiệu quả văn
hóa du lịch trong kinh doanh du lịch mới có
thể đưa du lịch Việt Nam sớm trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn theo định hướng của Đảng
và Nhà nước hiện nay.
D.V.S
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 08-NQ/
TW về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/
thuong-mai/Nghi-quyet-so-08-NQ-TW-phat-
trien-du-lich-tro-thanh-nganh-kinh-te-mui-
nhon-2017-338542.aspx
2. ICOMOS (1999), Công ước quốc tế về Du lịch
văn hóa, Mexico.
3. Luật Di sản văn hóa và nghị định hướng dẫn
thi hành (2002), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Luật Du lịch (2006), Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
5. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam (2017), Luật Du lịch, https://luatvietnam.
vn/van-hoa/luat-du-lich-2017-115518-d1.html
6. Dương Văn Sáu (2014), Hệ thống di tích Nho
học Việt Nam và các Văn miếu tiêu biểu ở Bắc Bộ,
Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
7. Dương Văn Sáu (2019), Giáo trình Văn hóa
Du lịch, Nxb. Lao động, Hà Nội.
8. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1999), Pháp
lệnh số 11/1999/PL-UBTVQH10 ngày 08/02/1999
về du lịch, https://thukyluat.vn/vb/phap-lenh-
du-lich-nam-1999-b016.html
Ngày nhận bài: 03 - 6 - 2020
Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 6 - 2020
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_so_hinh_thanh_van_hoa_du_lich_o_viet_nam.pdf