Cơ sở khoa học hình thành các mục tiêu xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 và đánh giá tính khả thi của các mục tiêu chiến lược

Bên cạnh đó việc thực hiện các mục tiêu xã hội trong thời gian qua đã đạt được về lượng nhưng về chất thì còn một số vấn đề phải nói tới. Tuy đạt được thành tích đáng khích lệ trong lĩnh vực xoá đói giảm nghèo nhưng tính chất của giảm nghèo chưa bền vững, số hộ có nguy cơ tái nghèo vẫn khá cao, tiến bộ giảm nghèo của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam rất chậm. Các dân tộc thiểu số nằm trong nhóm có nguy cơ tụt hậu. Đa số người Kinh và Hoa được hưởng lợi ích nhiều hơn từ tăng trưởng. Các dân tộc thiểu số, đặc biệt là vùng Tây Nguyên có ít tiến bộ hơn rất nhiều. Nếu tiếp tục xu hướng hiện nay thì tỷ lệ nghèo có thể là 15% hoặc 16% vào năm 2010. Điều đó cho thấy với các dân tộc thiểu số thì tăng trưởng kinh tế không là chưa đủ mà cần có những chính sách cụ thể hơn ưu tiên cho người dân tộc thiểu số như cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn, phân phối lại đất đai hiện nay do các nông trường nhà nước nắm giữ, thừa nhận hợp pháp các biện pháp canh tác nông nghiệp ở địa phương, cung cấp các dịch vụ xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng thời tăng cường sự đại diện của dân tộc thiểu số trong quá trình ra quyết định ở địa phương.

doc33 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1163 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cơ sở khoa học hình thành các mục tiêu xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 và đánh giá tính khả thi của các mục tiêu chiến lược, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoảng 20%; tăng tuổi thọ trung bình lên 71 tuổi. Chất lượng đời sống vật chấ t, văn hoá, tinh thần được nâng lên rõ rệt trong môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; môi trường tự nhiên được bảo vệ và cải thiện. Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng ứng dụng các công nghệ hiện đại, tiếp cận trình độ thế giới và tự phát triển trên một số lĩnh vực, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá. Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ thống giao thông bảo đảm lưu thông an toàn, thông suốt quanh năm và hiện đại hoá một bước. Mạng lưới giao thông nông thôn được mở rộng và nâng cấp. Hệ thống đê xung yếu được củng cố vững chắc; hệ thống thủy nông phát triển và phần lớn được kiên cố hóa. Hầu hết các xã được sử dụng điện, điện thoại và các dịch vụ bưu chính - viễn thông cơ bản, có trạm xá, trường học kiên cố, nơi sinh hoạt văn hóa, thể thao. Bảo đảm về cơ bản cơ sở vật chất cho học sinh phổ thông học cả ngày tại trường. Có đủ giường bệnh cho bệnh nhân Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường Tăng nhanh năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đẩy mạnh việc ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập khẩu. Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế - xã hội, từng bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta. Nâng cao năng lực và tạo cơ hội cho mọi người đều có thể phát huy hết tài năng, tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả phát triển, đồng thời nâng cao trách nhiệm của mỗi người góp sức thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giữ gìn và phát triển nền văn hóa dân tộc, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân về ăn, mặc, ở, đi lại, phòng và chữa bệnh, học tập, làm việc, tiếp nhận thông tin, sinh hoạt văn hóa. Khuyến khích làm giàu hợp pháp, đồng thời ra sức xóa đói, giảm nghèo, tạo điều kiện về hạ tầng và năng lực sản xuất để các vùng, các cộng đồng đều có thể tự phát triển, tiến tới thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Thiết thực chăm lo sự bình đẳng về giới, sự tiến bộ của phụ nữ; đặc biệt chăm lo sự phát triển và tiến bộ của trẻ em. Phát triển mạnh nguồn lực con người Việt Nam với yêu cầu ngày càng cao. Công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá. Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ thống giao thông bảo đảm lưu thông an toàn, thông suốt quanh năm và hiện đại hoá một bước. Mạng lưới giao thông nông thôn được mở rộng và nâng cấp. Hệ thống đê xung yếu được củng cố vững chắc; hệ thống thủy nông phát triển và phần lớn được kiên cố hóa. Hầu hết các xã được sử dụng điện, điện thoại và các dịch vụ bưu chính - viễn thông cơ bản, có trạm xá, trường học kiên cố, nơi sinh hoạt văn hóa, thể thao. Bảo đảm về cơ bản cơ sở vật chất cho học sinh phổ thông học cả ngày tại trường. Có đủ giường bệnh cho bệnh nhân Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường Tăng nhanh năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đẩy mạnh việc ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập khẩu. Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế - xã hội, từng bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta. Nâng cao năng lực và tạo cơ hội cho mọi người đều có thể phát huy hết tài năng, tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả phát triển, đồng thời nâng cao trách nhiệm của mỗi người góp sức thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giữ gìn và phát triển nền văn hóa dân tộc, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân về ăn, mặc, ở, đi lại, phòng và chữa bệnh, học tập, làm việc, tiếp nhận thông tin, sinh hoạt văn hóa. Khuyến khích làm giàu hợp pháp, đồng thời ra sức xóa đói, giảm nghèo, tạo điều kiện về hạ tầng và năng lực sản xuất để các vùng, các cộng đồng đều có thể tự phát triển, tiến tới thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Thiết thực chăm lo sự bình đẳng về giới, sự tiến bộ của phụ nữ; đặc biệt chăm lo sự phát triển và tiến bộ của trẻ em. Phát triển mạnh nguồn lực con người Việt Nam với yêu cầu ngày càng cao. Cơ sở khoa học (căn cứ) xây dựng các mục tiêu chiến lược : Trình độ phát triển kinh tế : Trình độ phát triển kinh tế đã đạt được : Mười năm thực hiện chiến lược do Đại hội IIV đề ra (từ 1991-2000) chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn tạo ra những chuyển biến tích cực và quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Tổng sản phẩm trong nước sau 10 năm tăng hơn gấp đôi (2,07 lần). Bảng tăng trưởng GDP (%) thời kì 1991-1999 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 5.9 8.7 8.1 8.8 9.5 9.3 8.2 5.8 4.8 Trong 10 năm qua, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hàng năm là 7,5% (mục tiêu chiến lược đề ra là 6,9 –7,5%). Từ tình trạng mọi thứ hàng hoá đều khan hiếm, sản xuất không đáp ứng nhu cầu thiết yếu, hiện nay chúng ta đã đảm bảo đủ lương thực, thực phẩm, nhiều loại hàng hoá tiêu dùng, có dự trữ và xuất khẩu ngày càng tăng; cung cấp đầy đủ năng lượng và phần lớn vật liệu xây dựng. Do sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế sức sản xuất của toàn xã hội đã nâng lên một bước, đã kết thúc tình trạng khan hiếm hàng hoá, đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội; đời sống của nhân dân ở cả thành thị và nông thônđều được cải thiện đáng kể cả về vật chất lẫn văn hoá, tinh thần; trình độ dân trí ngày một nâng lên; tính năng động của cả cộng đồng cũng như của từng người trong lao động sản xuất, trong sinh hoạt, trong giao lưu, trong tiếp cận với cái mới đều có những tiến bộ rõ nét. Đây chính là động lực để Đảng và Nhà nước đặt ra các mục tiêu xã hội cho thời kì chiến lược tiếp theo. Dự báo trình độ phát triển của đất nước trong tương lai : Để ước tính khả năng tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2001-2010 của Việt Nam và góp phần trả lời câu hỏi tăng trưởng bao nhiêu là hiện thực thì chúng ta cần xem xét các hướng tiếp cận sau đây: Kỉ lục về tăng trưởng kinh tế trong khu vực: Một số nước và vùng lãnh thổ đã đạt được nhịp tăng trưởng kinh tế cao trong một thời gian dài 10-20 năm, điển hình trong số này phải kể đến các nước sau đây: 1971-1980 1981-1990 1991-1995 Các nước và vùng lãnh thổ công nghiệp mới 9.0 8.8 - Hàn Quốc 9.3 7.2 7.5 - Đài Loan 9.3 8.5 6.6 - Trung Quốc 7.9 10.1 13.0 Các nước Đông Nam Á 7.4 6.1 - Thái Lan 7.9 7.8 8.5 - Malaixia 7.5 (5.2) 8.6 - Inđônêxia 7.7 (5.5) 7.8 Đây là các nước có điều kiện kinh tế xã hội tương tự như Việt Nam nên chúng ta có thể sử dụng số liệu tăng trưởng của các nước này để dự báo tốc đọ tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn mới. Mô phỏng hạch toán tăng trưởng: Để tính toán cho các nước đang phát triển, các chuyên gia quốc tế thường ước tính đối với các yếu tố đầu vào: Vốn đóng vai trò lớn từ 60%-70% Lao động đóng vai trò nhỏ hơn từ 30%-40%. Khảo sát tình hình tăng trưởng của các nước trong khu vực tròng vòng 30 năm qua cho thấy có thể lấy mức đóng góp của lao động là 35% và của vốn là 65% và TFP trong khoảng từ 2%-2,5% để mo phỏng cho VIệt Nam trong giai đoạn 2001-2010. Kết quả mô phỏng dưới đây cho thấy về trung bình mức tăng trưởng 7%-8%/năm cho giai đoạn 2001-2010 đối với Việt Nam có thể coi là mức cơ sở. Bảng kết quả mô phỏng tăng trưởng cho giai đoạn 2001-2010 Tăng trưởng vốn (1) Tăng trưởng lao động (2) Tăng trưởng TFP (3) Tăng trưởng GDP = 0,65 x (1)+0,35 x (2)+(3) 6 2 2 6.6 7 2 2 7.2 8 2 2 7.9 6 2.5 2.5 7.3 7 2.5 2.5 7.9 8 2.5 2.5 8.6 Giới hạn tăng trưởng của ngành Đối với ngành nông nghiệp, lương thực đóng vai trò quan trọng. Theo dự kiến trong điều kiện thời tiết không có biến động lớn, với tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện nay, sản lượng lương thực có hạt quy thóc nước ta năm 2000 có thể đạt tới 34,5 triệu tấn, năm 2010 từ 38-40 triệu tấn, tương ứng với nhịp tăng trưởng khoảng 1,7%-2,3% bình quân năm trong giai đoạn 2001-2010. Nhìn chung, trong hai thập kỉ 70 và 80 các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực có nhịp độ phátt riển nông nghiệp không cao, nhịp độ tăng trưởng của giá trị gia tăng nông nghiệp hầu hết nằm trong khoảng 1%-4%. Đối với ngành công nghiệp, nhìn chung trong hai thập kỉ 70 và 80 các nước khu vực có nhịp độ phát triển công nghiệp cao, nhịp độ tăng trưởng của giá trị gia tăng công nghiệp hầu hết nămg trong khoảng 8,0%-12,0%. Đối với ngành dịch vụ, nhịp độ tăng trưởng của giá trị gia tăng dịch vụ bằng trên một nửa tổng nhịp độ tăng trưởng công nghiệp và nông nghiệp tức là khoảng 5%-9%. Cơ cấu kinh tế và sự dịch chuyển cơ cấu Trong thời gian từ 1980-1997 số liệu cơ cấu kinh tế của các nước xung quanh như sau: Nông nghiệp trong cơ cấu GDP trong 10 năm có thể chuyển dịch khoảng từ 3,5%-10,7%. Công nghiệp trong cơ cấu GDP tăng không nhiều, có xu thế tăng chút ít trong 10 năm đầu, sau đó giảm dần nhường chỗ cho dịch vụ. Dịch vụ trong cơ cấu GDP tăng nhanh trong 10 năm tăng thêm khoảng 10% đối với các nước có tỉ trọng dịch vụ những năm đầu tiên trên dưới 30%, khoảng 4%-5% đối với các nước có tỉ trọng dịch vụ những năm đầu ở mức 40% và không tăng nhiều đối với các nước có tỉ trọng dịch vụ những năm đầu ở mức 50%. Các nhân tố tích cực thúc đẩy tăng trưởng cao của đất nước Thực tiễn 10 năm qua khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới do Dảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng. Tiếp tục đổi mới đường lối một cách sâu rộng sẽ là một tiền đề quan trọng cho phát triển đất nước ta trong thập kỉ tới. Xem xét các yếu tố sản xuất có thể thấy, yếu tố thúc đẩy tăng trưởng cao trong giai đoạn 1991-1997 là vốn đầu tư. Yếu tố lao động (không tay nghề) đóng góp chủ yếu ở khu vực nông nghiệp và dịch vụ. Hàm lượng khoa học kĩ thuật trong tăng trưởng chưa cao, néu có chính sách đầu tư đúng để nâng cao hàm lượng này thì đây là một yếu tố tích cực tác động tới tăng trưởng cao trong thập kỉ tới. Tiềm lực khu vực dịch vụ, đặc biệt các dịch vụ sản xuất vẫn còn to lớn. Tạo được sự bổ sung lẫn nhau giữa các thành phần kinh tế. Từ thực tiễn 10 năm qua và với điều kiện hiện nay, trên cơ sở cân đối các nguồn lực và với quyết tâm thực hiện tốt các khâu đột phá mà Đại hội IX đã đề ra, khả năng đạt tốc độ tăng trưởng ít nhất 7,2%/năm giai đoạn 2001-2010 là hoàn toàn có tính hiện thực. Đây chính là một yếu tố quyết định đối với việc đề ra các mục tiêu xã hội của chiến lược 2001-2010. Thực trạng các vấn đề xã hội của Việt Nam trong giai đoạn 1991-2000. (1). Các hoạt động Văn hoá - Thông tin đã và đang hướng vào việc xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc phục vụ có hiệu quả công cuộc đổi mới và các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Các cơ quan và phương tiện thông tin đại chúng đã tích cực tuyên truyền đường lối đổi mới của Đảng, động viên và cổ vũ các nhân tố tích cực đấu tranh chống các mặt tiêu cực và các tệ nạn xã hội, tổ chức tốt các ngày lễ lớn và lễ hội truyền thống văn hoá của nhân dân. Chương trình đưa văn hoá về cơ sở, mở rộng diện phủ sóng phát thanh và truyền hình, đưa đến những vùng cao, biên giới và hải đảo xa xôi được thực hiện có kết quả khá. Đến hết năm 2000, khoảng 80% số hộ đã được xem đài truyền hình Trung ương (mục tiêu năm 2000 là 80%) và 90% số hộ được nghe đài tiếng nói Việt Nam (mục tiêu năm 2000 là 95%). Nhiều cơ chế quản lý đã được đổi mới theo hướng xã hội hoá và hội nhập song vẫn giữ được bản sắc dân tộc của nền văn hoá theo tinh thần Nghị quyết TW5 (khoá VIII). (2). Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, đã được triển khai thực hiện sâu rộng trong nhân dân, thu hút mọi cá nhân, mọi cơ quan, tổ chức tham gia các hoạt động từ thiện giúp đỡ người có công, người tàn tật, các nạn nhân chiến tranh và trẻ em mồ côi lang thang cơ nhỡ. Tính đến nay đã có 100% Bà mẹ Việt Nam anh hùng được các đơn vị, tổ chức nhận phụng dưỡng đến cuối đời; hàng chục vạn thân nhân của liệt sĩ được đỡ đầu; gần 120 nghìn ngôi nhà tình nghĩa được tu sửa và xây mới, Các đơn vị và cá nhân đã lập sổ tiết kiệm tặng cho các gia đình chính sách có khó khăn, tổng giá trị trên 13 tỷ đồng; thành lập quĩ đền ơn đáp nghĩa trong cả nước với nguồn kinh phí là 365 tỷ đồng; xây dựng và đưa vào sử dụng 8 khu nuôi dưỡng thương binh nặng, 6 trung tâm chỉnh hình và phục hồi chức năng, đảm bảo nuôi dưỡng phục hồi chức năng cho các đối tượng thương binh và các đối tượng chính sách khác. Các nghĩa trang lớn trong cả nước như: Điện Biên Phủ (Lai Châu), Đường 9 (Quảng Trị), Việt - Lào (Nghệ An), Bến Được (TPHCM) và các nghĩa trang của các tỉnh, thành phố khác trong cả nước đã được xây dựng và nâng cấp khang trang đáp ứng nguyện vọng, tình cảm thiêng liêng của nhân dân đối với những người đã hy sinh cho Tổ quốc. Nhờ các hoạt động trên, đời sống đại bộ phận các gia đình hưởng chính sách ưu đãi đã có sự cải thiện. Nhưng đối với vùng sâu, vùng xa thì các gia đình này vẫn đang gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, nhiều vấn đề xã hội đang đặt ra cấp bách, nhiều hiện tượng đáng lo ngại: tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại và tệ tham nhũng không giảm. Các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm, cờ bạc, trộm cướp,... đang tồn tại những nhức nhối. Tội phạm kinh tế, tội phạm hình sự có xu hướng gia tăng, có nhiều vụ trọng án hơn trước, trong khi đó những vụ vận chuyển và buôn bán ma tuý trái phép với quy mô lớn, một số vụ đặc biệt nghiêm trọng có sự tham gia của một số cán bộ trong cơ quan bảo vệ pháp luật. Khiếu kiện của dân, trước hết là của nông dân diễn ra phúc tạp hơn, rộng lớn hơn, có nơi lôi cuốn nhiều xã trong huyện, chủ yếu do cán bộ cơ sở vi phạm pháp luật, tha hoá biến chất, tham nhũng, mất dân chủ nhưng không được giải quyết kịp thời gây bất bình trong quần chúng nhân dân; hiện tượng đùn đẩy trong việc giải quyết đơn, thư khiếu kiện khá phổ biến dẫn đến tình trạng nhân dân phải kéo đến các cơ quan Trung ương, đến nhà riêng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đưa đơn khiếu kiện. Cuộc đấu tranh chống các thói hư, tật xấu, nọc độc văn hoá, hủ tục mê tín dị đoan, thoái hoá đạo đức,... chậm đưa lại hiệu quả thiết thực. Tình hình trên nếu tiếp tục phát triển có nguy cơ làm xói mòn môi trường xã hội và kinh tế, xói mòn hệ giá trị đạo đức và văn hoá của dân tộc. (3). Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân đã có những tiến bộ đáng ghi nhận, đặc biệt là trong lĩnh vực y tế dự phòng. Mặc dù thiên tai xẩy ra liên tiếp nhưng đã không có dịch bệnh lớn xẩy ra, các chỉ số sức khoẻ cộng đồng đã phát triển theo chiều hướng tốt. Chất lượng khám chữa bệnh từng bước được nâng lên, trang thiết bị y tế đã được nâng cấp ở các tuyến. Bước đầu hình thành 2 trung tâm y tế chuyên sâu ở phía Bắc và phía Nam. Đầu tư chiều sâu cho các bệnh viện đầu ngành, bệnh viện chuyên ngành đồng thời với việc củng cố hệ thống y tế cơ sở, chú trọng đầu tư ban đầu cho bệnh viện tuyến huyện. Đã có 35 bệnh viện của Bộ Y tế và các Bộ, Ngành ở trung ương được đầu tư cải tạo, nâng cấp. Một số bệnh viện của tỉnh đã và đang được cải tạo hoặc xây dựng mới. Cùng với việc tăng cường đầu tư, đã thực hiện bước đầu việc đa dạng hoá các hình thức chăm sóc sức khoẻ nhân dân, ngoài các bệnh viện công, mạng lưới cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân được hình thành, có tác dụng tốt. Công tác Y học cổ truyền đã được quan tâm hơn. Đến nay đã có 45/61 tỉnh, thành phố có bệnh viện Y học dân tộc. Ngành Dược đã có nhiều cố gắng trong việc đảm bảo cung cấp đủ thuốc thiết yếu, thuốc chuyên khoa và các loại thuốc chữa bệnh khác cho dân, kể cả ở vùng sâu, vùng xa. Thực hiện chế độ BHYT và chế độ thu một phần viện phí đã góp phần khắc phục những khó khăn về kinh phí của ngành Y tế. Bên cạnh đó, các chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo, gia đình có công cũng được nghiên cứu, ban hành, giúp các địa phương tăng cường khả năng khám và chữa bệnh cho người nghèo, người có công ... Cơ sở vật chất của ngành y tế tuy có được cải thiện, nhưng vẫn còn thiếu thốn, lạc hậu, nhất là ở tuyến huyện và xã. Quy hoạch mạng lưới y tế chưa hợp lý, phân bổ không đồng đều giữa các vùng và chất lượng dịch vụ còn kém. Năm 1999 mới có 27% trạm y tế xã có bác sĩ, 5% số xã không có y sĩ, 88,0% số trạm y tế có y sỹ sản nhi hoặc nữ hộ sinh. Chúng ta còn thiếu những thầy thuốc giỏi và trang thiết bị ở cơ sở để nhân dân tin cậy trong việc khám chữa bệnh. Cơ chế chính sách chưa đủ sức khuyến khích đưa bác sĩ về các tuyến cơ sở. Trong khi đó hàng năm có hàng ngàn bác sĩ mới ra trường nhưng chỉ có khoảng 30% số đó có việc làm. Tình hình dịch bệnh cục bộ vẫn xảy ra ở nhiều nơi, số người nhiễm HIV tiếp tục tăng. Sự phân biệt đối xử giữa khám chữa bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế và theo dịch vụ thu phí gây ra nhiều tiêu cực và bất công. Việc khám và chữa bệnh cho người nghèo vẫn là vấn đề nổi cộm hiện nay. (4) Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình được triển khai thực hiện tốt, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tỷ lệ sinh bình quân mỗi năm giảm 0,78%o, so với mục tiêu là 0,6%o. Tỷ lệ tăng dân số năm 1995 là 1,65%, năm 2000 là 1,53%, so với mục tiêu đề ra là dưới 1,8%. Mạng lưới tổ chức làm công tác dân số từ TW đến địa phương đã được củng cố và hoàn thiện; cơ sở vật chất phục vụ cho công tác dân số KHHGĐ được tăng cường đáng kể ; bình quân mỗi huyện đã có 2 trung tâm liên xã làm dịch vụ KHHGĐ. Đã cải tạo và nâng cấp 2035 trạm y tế cơ sở có phòng dịch vụ KHHGĐ và phòng truyền thông, bảo đảm 100% tuyến tỉnh, huyện và 70% tuyến xã có trang thiết bị phù hợp với dịch vụ KHHGĐ. Đã ưu tiên tập trung nguồn vốn đầu tư cho công tác dân số kế hoạch hoá gia đình: năm 1995 so với năm 1990 vốn đầu tư tăng 5,3 lần; năm 1998 so với năm 1990 tăng 5,8 lần; ngoài ra, hàng năm các tỉnh còn huy động thêm hàng chục tỷ đồng cho công tác dân số KHHGĐ. Với các tiến bộ trên năm 1998 Việt Nam đã được Liên Hiệp Quốc tặng giải thưởng về công tác dân số. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng đã giảm từ 50% năm 1990 xuống còn 34% năm 2000. Tuy nhiên, mức giảm tỷ lệ sinh dân số chưa vững chắc, còn 32 tỉnh, thành phố chiếm 41,2% dân số cả nước có mức sinh cao hơn bình quân chung của cả nước. Đặc biệt là còn 18 tỉnh (chiếm 21% dân số cả nước), chủ yếu là các tỉnh miền núi có tỷ lệ tăng dân số rất cao(trên 2%). Tỷ lệ tăng dân số của ta hiện nay vẫn còn cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực (Thái Lan 0,88%; Indonesia 1,58%; Trung Quốc 0,9%). (5). Hoạt động thể dục thể thao phát triển mạnh, vừa tạo được phong trào rèn luyện thân thể trong các tầng lớp nhân dân, vừa có những tiến bộ trong việc xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ vận động viên và phát triển những bộ môn mới để nâng cao thành tích thi đấu trong nước và quốc tế. Phong trào rèn luyện thân thể đã phát triển rộng khắp ở các địa phương, trong các trường học và trong lực lượng vũ trang. Nếu như năm 1990 chỉ có khoảng 3 triệu người thường xuyên tham gia tập luyện thì năm 1999 đã tăng lên trên 7,0 triệu người. Các hoạt động thể thao thành tích cao đã có bước tiến bộ lớn, từng bước hoà nhập được vào các hoạt động thể thao khu vực và thế giới. Cơ sở vật chất của ngành thể thao được tăng cường đáng kể; toàn quốc đã có 142 sân vận động, 83 nhà luyện tập và thi đấu thể thao, 150 bể bơi, 11 trường bắn và 3 trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia đạt tiêu chuẩn luyện tập của khu vực. Công tác đào tạo vận động viên được đổi mới, hiện đã có 30 tỉnh, thành phố có cơ sở đào tạo với hàng vạn vận động viên được đào tạo ở 26 môn thể thao, số vận động viên tài năng trẻ ngày càng được chú ý phát hiện và đào tạo. Đơn vị tính Mục tiêu Thực hiện Mục tiêu chiến lược Mục tiêu 5 năm do ĐH VIII đề ra 1991 1995 2000 Dân số Tr.người 80 67,8 74 78 Tốc độ phát triển dân số % 1,8 2,07 1,53 Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng % 30 34 Tăng tuổi thọ bình quân Tuổi 70 68 Số hộ được xem truyền hình Việt Nam % 80 80 Số hộ được nghe Đài tiếng nói Việt Nam % 95 90 Giải quyết việc làm Tr.người 6,5-7,0 1,3 Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị % 5 7,4 Thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn % 75 70 Tỷ lệ dân số được cung cấp nước sạch % 80 60 Trình độ của tiến bộ khoa học - kỹ thuật : Như đã phân tích ở trên, khoa học kỹ thuật là một lĩnh vực hoạt động xã hội đặc thù mà tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội con người, vì thế không thể không tính đến yếu tố này khi hoạch định các vấn đề về phát triển xã hội. Gần đây, những thành tựu của khoa học kỹ thuật ngày càng đồ sộ và mở rộng phạm vi ứng dụng trong đời sống. Chằng hạn như, những tiến bộ của sinh học và y họcgiúp chữa khỏi nhiều chứng bệnh nan y (mà trước đây loài người phải bó tay). Đây rõ ràng là một trong những nhân tố giúp tăng tuổi thọ trung bình của con người. Đến lượt mình, việc tăng tuổi thọ trung bình lại làm quy mô dân số có khả năg bùng nổ. Hay, sự kiện Internet được phổ biến rộng rãi đã gây nên hiện tượng “bùng nổ thông tin” và mở ra kỷ nguyên xã hội thông tin cho loài người. Sự kiện này tác động mạnh mẽ đến văn hoá và lối sống của cộng đồng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Xã hội Việt Nam hiện đang đối mặt với nguy cơ mai một truyền thống văn hoá, bởi sự xâm nhập của những lối sống mới, mà nhiều khi không được lành mạnh và không phù hợp với truyền thống. Tất cả những dẫn chứng trên nhằm chứng minh rằng: công tác hoạch định những vấn đề xã hội không thể không tính đến nhân tố trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật. Các mục tiêu để ra về dân số, việc làm, xoá đói giảm nghèo, văn hoá, y tế, giáo dục hayphòng chống các tệ nạn xã hội đều phải căn cứ vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật đương đại và dự báo những ảnh hưởng của chúng đến các lĩnh vực đời sống cụ thể. Quy luật phát triển nội tại của các hoạt động xã hội : Bây giờ, chúng ta chuyển sang phân tích một nhân tố khác cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến công tác hoạch định các vấn đề xã hội trong chiến lược 2001 – 2010. Mỗi sự vật hiện tượng đều có quy luật vận động của riêng nó, triết học đã luận chứng vấn đề này một cách đầy đủ và rõ ràng. Vấn đề của chúng ta bây giờ là xác định trình độ phát triển của xã hội Việt Nam cũng như xu hướng vận động của nó trong thời gian tới. Câu hỏi này không dễ trả lời. Ở đây, chúng tôi xin trình bày một vài khía cạnh chủ yếu nhất. Kinh tế và xã hội có mối liên hệ mật thiết (điều này đã được bàn đến ở mục trước), trình độ phát triển của xã hội là hệ quả kéo theo của trình độ phát triển kinh tế. Khi trình độ phát triển kinh tế còn chưa cao như Việt Nam hiện nay thì xã hội chưa phải đối mặt với những vấn đề như: bất bình đẳng trong thu nhập, bất bình đẳng giới, mâu thuẫn giữa các nhóm xã hội, sự xuất hiện của các tệ nạn xã hội một cách tinh vi,… Tuy vậy, trong thời gian tới, khi nền kinh tế ngày cành phát triển, thu nhập bình quân của người dân tăng lên, đời sống được cải thiện, tất yếu những vấn đề xã hội trên sẽ nảy sinh. Vấn đề còn lại đối với các nhà dự báo và hoạch định chính sách là xác định các vấn đề xã hội trên sẽ nảy sinh ở thời điểm nào, mức độ của chúng và phương hướng giải quyết chúng. Môi trường quốc tế : Bối cảnh quốc tế trong thời gian tới có nhiều thời cơ lớn đan xen với nhiều thách thức lớn. Quan hệ giữa các nước lớn, một nhân tố hết sức quan trọng đối với sự nóng lạnh của tình hình thế giới, đã phát triển theo hướng êm dịu hơn, tình hình xung đột ở các khu vực tuy còn phức tạp và lâu dài nhưng ngày càng có những tiến triển tích cực, sự sớm phục hồi của kinh tế Đông Á sau cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế 1997-1998. Khả năng duy trì hòa bình, ổn định trên thế giới và khu vực cho phép chúng ta tập trung sức vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế; đồng thời đòi hỏi phải đề cao cảnh giác, chủ động đối phó với những tình huống bất trắc, phức tạp có thể xảy ra. Một số xu thế tác động trực tiếp tới sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta 10 năm tới là: Khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tiếp tục có những bước nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các ngành dịch vụ và các ngành kinh tế giàu hàm lượng chất xám phát triển mạnh. Tri thức và sở hữu trí tuệ có vai trò ngày càng quan trọng. Trình độ làm chủ thông tin, tri thức có ý nghĩa quyết định sự phát triển.Chu trình luân chuyển vốn, đổi mới công nghệ và sản phẩm ngày càng được rút ngắn; các điều kiện kinh doanh trên thị trường thế giới luôn thay đổi đòi hỏi các quốc gia cũng như doanh nghiệp phải rất nhanh nhạy nắm bắt, thích nghi. Các nước đang phát triển, trong đó có nước ta, có cơ hội thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển, cải thiện vị thế của mình; đồng thời đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn nếu không tranh thủ được cơ hội, khắc phục yếu kém để vươn lên. Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan hệ song phương, đa phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn hóa và bảo vệ môi trường, phòng chống tội phạm, thiên tai và các đại dịch... Các công ty xuyên quốc gia tiếp tục cấu trúc lại, hình thành những tập đoàn khổng lồ chi phối nhiều lĩnh vực kinh tế. Sự cách biệt giàu nghèo giữa các quốc gia ngày càng tăng. Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình vừa hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển bảo vệ lợi ích của mình, vì một trật tự kinh tế quốc tế công bằng, chống lại những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế, các công ty xuyên quốc gia. Đối với nước ta, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới được nâng lên một bước mới gắn với việc thực hiện các cam kết quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải ra sức nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế. Chúng ta cần tranh thủ các nguồn vốn đầu tư, nhập khẩu kỹ thuật cao, tranh thủ kinh nghiệm quản lý của thế giới, mở rộng thị trường để nhanh chóng đi tắt, đón đầu, xây dựng nền kinh tế mới phù hợp với sự phát triển chung và thực tiễn nền kinh tế Việt Nam. Mặt khác, cũng phải chú ý rằng, toàn cầu hoá là một “thời cơ” lớn đối với các thế lực thù địch thực thi chiến lược “diễn biến hòa bình”, chống phá cách mạng Việt Nam. Sự chống phá đó, trong nhiều trường hợp, được ẩn náu, che dấu kín đáo trong các quan hệ kinh tế, thương mại, hợp tác, đầu tư làm cho chúng ta khó nhận biết chính xác, rõ ràng, và vì thế, cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trở nên phức tạp, khó khăn hơn, vấn đề bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội được đặt ra một cách gắt gao hơn. Châu Á - Thái Bình Dương vẫn là khu vực phát triển năng động, trong đó Trung Quốc có vai trò ngày càng lớn. Sau khủng hoảng tài chính - kinh tế, nhiều nước ASEAN và Đông á đang khôi phục đà phát triển với khả năng cạnh tranh mới. Tình hình đó tạo thuận lợi cho chúng ta trong hợp tác phát triển kinh tế, đồng thời cũng gia tăng sức ép cạnh tranh cả trong và ngoài khu vực. Mong muốn chủ quan của Đảng, Nhà nước và các nhà hoạch định chính sách : Đảng, nhà nước ta chủ trương phát triển kinh tế nhanh, bền vững, đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Đói nghèo là vấn đề ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững, đồng thời là vấn đề xã hội nhạy cảm nhất. Không thể lãng quên nhóm cộng đồng yếu thế, ít cơ hội theo kịp tiến trình phát triển mà chính phủ với việc cải cách, sửa đổi những khiếm khuyết của thể chế kinh tế để nhóm nghèo đói tự vươn lên xoá đói giảm nghèo. Quan điểm của nhà nước ta là xoá đói giảm nghèo một cách toàn diện. Không ngừng cải thiện và nâng cao mức sống cho người dân. Đi liền với nó, giải quyết việc làm cho người lao động đang là một vấn đề bức xúc. Ở Việt Nam, quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế đang đặt ra hàng loạt vấn đề bức xúc liên quan đến việc làm và chính sách giải quyết việc làm. Nước ta đang diễn ra một mâu thuẫn lớn, đó là thiếu nghiêm trọng lao động có nghề, trong khi lại thừa tiềm tàng lao động giản đơn, nhất là trong khu vực nông nghiệp và nông thôn. Việc làm không ổn định, thu nhập thấp thì không chỉ ảnh hưởng xấu đến đời sống hàng ngày của người lao động mà còn là nguy cơ tiềm ẩn cao dẫn đến những bất ổn về chính trị, xã hội, thậm chí có thể là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ của cả chế độ xã hội. Do vậy, giải quyết việc làm là vấn đề được nhà nước ta rất quan tâm. Cùng với đó, vấn đề dân số cũng đang rất được chú ý. Dân số tăng, kéo theo đó là hàng loạt các vấn để về việc làm, môi trường, an ninh xã hội.Do vậy, nhà nước ta chủ trương là giảm tốc độ tăng dân số, sớm ổn định dân số ở một quy mô hợp lí. Đồng thời, chú trọng đến công tác chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, đấu tranh, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, bệnh dịch nguy hiểm. Trong thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, trên quy mô lớn. Sự ảnh hưởng của quá trình này không chỉ về phương diện kinh tế. Bất luận tham gia chủ động hay buộc phải cuốn theo một cách bị động vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế thì văn hóa dân tộc đều phải tiếp xúc, giao thoa với các nền văn hóa khác trên thế giới. Đảng, nhà nước ta chủ trương xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là để đến với thế giới một cách tốt hơn, học tập chỗ mạnh của các nền văn hóa khác một cách tốt hơn, tiếp thu văn hóa nhân loại, thông qua tính dân tộc để thâu lượm, sàng lọc tính thời đại, tính thế giới. III. ĐÁNH GIÁ TÍNH KHẢ THI CỦA CÁC MỤC TIÊU XÃ HỘI TRONG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI 2001 - 2010 : Kết quả thực hiện mục tiêu đến năm 2007 và nguyên nhân của những thành tựu hoặc hạn chế : Giáo dục và đào tạo Giáo dục đào tạo có những chuyển biến tích cực. Giáo dục ở vùng sâu, vùng xa đã có những tiến bộ, mặt bằng dân trí được nâng lên. Hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm các cấp học, bậc học, các loại hình nhà trường và các phương thức giáo dục được củng cố. Chất lượng giáo dục bước đầu có chuyển biến. Cơ sở vật chất cho phát triển giáo dục, đào tạo được tăng cường. Quy mô giáo dục tiếp tục phát triển Mạng lưới cơ sở đã được mở rộng đến khắp các xã, phường trong cả nước. Năm học 2004-2005 đạt 97.5% số học sinh tiểu học đi học đúng độ tuổi, vượt mục tiêu đề ra(97%), 31 tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở, số học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi quốc gia và quốc tế tăng. Nội dung chương trình giảng dạy có nhiều đổi mới. Quy mô tuyển mới đại học và cao đẳng tăng 8.4%, trung học chuyên nghiệp 15.1% và dạy nghề dài hạn là 12%/năm. Quy hoạch mạng lưới các trường đại học đã được triển khai tích cực tạo điều kiện cho việc đào tạo nguồn lực tại chỗ. Cơ sở vật chất của ngành được tăng cường. Đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo tăng đều qua các năm,năm 2005 đạt mức 18% tổng chi NSNN. Tuy nhiên, cũng còn nhiều hạn chế: quy mô đào tạo tăng không cân đối với điều kiện đảm bảo chất lượng. Cơ cấu đào tạo còn bất hợp lý. Chất lượng giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém, hiệu quả còn thấp, khoảng cách về giáo dục giữa nông thôn, thành thị còn lớn. Các hiện tượng tiều cực trong giáo dục như bệnh thành tích..còn nhiều.Giáo dục ờ miền núi, vùng sâu, vùng xa tuy có tiến bộ nhưng vấn còn nhiều yếu kém. Quản lý cơ sở hạ tấng giáo dục và đào tạo còn chưa tốt. Công tác xoá đói giảm nghèo: Qua từng năm đều đã có sự tiến triển vượt bậc về sự giảm tỷ lệ hộ nghèo ở nuớc ta. Cụ thể, nếu đầu những năm 1990 tỷ lệ các hộ nghèo trong cả nước còn ở mức rất cao,  bình quân khoảng trên dưới 30 – 35%, thì đến năm 1995 đã giảm xuống còn 29%, năm 2000 còn 25%, và đến năm 2005 chỉ còn có 22% , năm 2006 vừa qua là 17%,  và dự kiến năm nay (2007) chỉ còn khoảng 15,2%. Điều lưu ý là, chất lượng cuộc sống hộ nghèo đã được không ngừng nâng cao hơn. Thu nhập bình quân của 20% số các hộ nghèo năm 2007 đã được điều tra gần đây cho thấy đã tăng  gần 1,5 lần so với năm 2005. Một nguyên nhân rất cơ bản là Đảng và Nhà nước ta đã luôn coi trọng và thường xuyên quan tâm chỉ đạo các cấp, các ngành từ Trung ương đến các địa phương, cơ sở cần phải có các giải pháp hữu hiệu để XĐGN. Sự coi trọng và quan tâm này đã được thể hiện rất rõ không chỉ ở bên trong nội dung các chỉ thị, nghị quyết, đường lối, chính sách đã ban hành về công tác XĐGN của Đảng và Nhà nước mà hơn thế nữa đã được triển khai ngay vào đời sống thực tiễn hàng ngày của các hộ dân cư nghèo ở khắp các vùng lãnh thổ nước ta, Từ năm 2000 đến 2005, chúng ta đã xây dựng được 83 mô hình XĐGN tại 83 xã thuộc 20 tỉnh  với sự tham gia của 40.000 hộ, trong đó có 55 hộ nghèo. Đã có 64 xã trong cả nước xây dựng mô hình liên kết giữa các các doanh nghiệp với hộ nghèo và các xã phát triển vùng nguyên liệu, hàng năm thu nhập của các hộ tham gia dự án tăng 16-19%,, và 20% số hộ tham gia dự án đã thoát nghèo. Từ những mô hình thành công giai đoạn 2000-2005, Chương trình MTQG XĐGN 2006-2010 đang tiếp tục nhân rộng mô hình điểm đồng thời với chính sách khuyến khích nhà đầu tư vào các vùng nghèo, xã nghèo và nhận người nghèo vào làm việc, lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn hướng vào mục tiêu giảm nghèo bền vững. Nếu chỉ tính riêng hai năm 2006-2007 của Giai đoạn hai Chương trình MTQG XĐGN, cả nước ta đã có thêm 2,866 triệu hộ nghèo được vay vốn phát triển sản xuất với mức vay từ 4-5 triệu đồng/hộ; hơn 1,3 triệu lượt người nghèo được tập huấn về kỹ thuật làm nông nghiệp, nuôi trồng nông – lâm – lâm - thuỷ sản; 347 cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sinh hoạt cho các xã nghèo được xây dựng; 15 triệu lượt người nghèo được cấp thẻ  BHYT và khám chữa bệnh miễn phí; 5 triệu lượt  học sinh nghèo được miễn giảm học phí; 230 nghìn hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở.  Đáng lưu ý, chỉ riêng 9 tháng đầu năm 2007 đã có khoảng 1 triệu hộ nghèo được vay vốn tín dụng ưu đãi, 450.000 lượt người nghèo hướng dẫn cách làm ăn thông qua trên 1000 mô hình trình diễn và 7000 lớp tập huấn kỹ thuật, 14,5 triệu nguời nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế, 2,4 triệu học sinh nghèo được hỗ trợ về nhà ở. Tuy nhiên, do những tác động mặt trái của kinh tế thị trường mà chúng ta chưa thể khắc phục được nên đã làm nảy sinh những tiêu cực khiến cho những thành tựu đã đạt được về XĐGN chưa thực sự bền vững. Có thể kể ra hai biểu hiện rõ nhất sau đây: Khoảng cách giầu nghèo ngày càng gia tăng và có sự chênh lệch lớn giữa các vùng. Trong khi vùng đồng bằng sông Hồng số hộ nghèo chỉ chiếm khoảng 9,61%, vùng Đông Nam Bộ là 4,76%, thì vùng Đông Bắc Bộ số hộ nghèo chiếm tới 23,82%, vùng Bắc Trung Bộ còn cao hơn, là 24,32%... Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn cao. Thực trạng này vừa là nguyên nhân trực tiếp vừa là khả năng tiềm ẩn rất lớn không chỉ dẫn đến đói nghèo kéo dài mà còn kèm theo nhiều tệ nạn tiêu cực xã hội khác. Nguyên nhân: về nhận thức, bệnh thành tích, người nghèo có tư tưởng ỷ lại; chuẩn nghèo 2001 còn thấp; huy động nguồn lực còn hạn chế; tổ chức chỉ đạo không đồng đều ở các địa phương… Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, tạo việc làm Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình: mức giảm sinh bình quân 0.41 %(mục tiêu 0.5), tốc độ tăng dân số năm 2005 là 1.33%, quy mô dân số là 83.12 triệu người, cơ cầu dân số có sự chuyển hướng tích cực, tỷ trọng dân số tăng từ 24.18% năm 2000 lên 26.97% năm 2005,nông thôn giảm từ 75.82 xuống 73.03%. Tuy nhiên tốc độ tăng dân số còn cao, chưa đạt mục tiêu đề ra, tỷ lệ tử trẻ em bị suy dinh dưỡng dị tật và tử vong còn cao Lao động và việc làm: trong 5 năm giải quyết việc làm cho 7.5 triệu người, bình quân mỗi năm 1.5 triệu, đưa khoảng 36 vạn người ra làm việc ở nước ngoài. Chuyển dịch cơ cầu lao động theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng lao động trong ngành nông, lâm, thuỷ sản. Sự chuyển dịch trong nội bộ ngành nông nghiệp từ trồng trọt sang nuôi trồng thuỷ sản; Tỷ lệ sử dụng thời gian của lao động trong nôg nghiệp tăng từ 74.2% năm 2000 lên 80.65% năm 2005, đạt mục tiêu, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị đã giảm từ 6.2% năm 2000 xuống 5.31% năm 2005. Nhưng tình trạng thiếu việc làm vẫn ở mức cao, chất lượng lao động kém, lao động có trình độ cao còn thấp, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý... Khoa học và công nghệ Đã đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Lĩnh vực KHCN đã tập trung vào nghiên cứu ứng dụng phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Đã tuyển chọn và lai tạo một số giống cây trồng có năng suất cao; Đồi mới công nghệ trong các nghành sản xuất và dịch vụ đã được triển khai;Đầu tư cho KHCN tăng;Năng lực nghiên cứu KHCN đã được tăng cường, hiện có trên 40 cơ quan nghiên cứu và phát triển công nghệ đã hoàn thành giai đoạn đầu tư trang thiết bị và cải tạo nâng cấp; Việc đổi mới cơ chế, chính sách và hoàn thiện hệ thống pháp luật vệ KH&CN có những những chuyển biến theo hướng tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về KH&CN, khuyến khích hoạt động KH&CN cũng như đổi mới CN. Tuy nhiên, còn nhiều tồn tại như: hoạt động nghiên cứu KH và phát triển CN chưa gắn kết chặt chẽ với thực tiễn và yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế về quy mô, trình độ và phát triển theo chiều sâu, chất lượng nghiên cứu khoa học và hiệu quả còn hạn chế; Sự gắn kết giữa khoa học với đào tạo và sản xuất chưa được cải thiện... Tài nguyên và môi trường Các hoạt động điều tra cơ bản được duy trì thường xuyên; Thực hiện và hoàn thành nhiều báo cáo về điều tra cơ bản, thu thập, xử lý, lưu trữ các số liệu về môi trường, điều tra mức độ ô nhiễm môi trường các chất thải công nghiệp, rác...; Công tác phòng tránh, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường có nhiều tiến bộ; Công tác thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường có nhiều tiến bộ.. Hạn chế: công tác điều tra cơ bản chất lượng chưa cao; Công tác quản lý, khai thác thông tin số liệu chưa chặt chẽ; Môi trường bị ô nhiễm do quá trình CNH và quá trình đô thị hoá, môi trường đất, môi trường nước, môi trường không khí đều bị ô nhiễm nghiêm trọng và quá mức cho phép trong khi hệ thống xử lý chất thải sinh hoạt và chất thải công nghiệp lại kém. Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân Hầu hết các xã đều có trạm y tế, nhiều dịch bệnh được khống chế, nhiều công nghệ được nghiên cứu và ứng dụng. Tuổi thọ trung bình của người VN năm 2005 là 71,3, đạt mục tiêu thiên niên kỷ, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm xuống 25% đạt mục tiêu Đại hội IX...Tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sạch đạt 62% năm 2005 vượt mục tiêu. Tuy nhiên, công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân còn nhiều hạn chế: hệ thống y tế chậm đổi mới, chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của nhân dân; điều kiện chăm sóc y tế cho người nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn; tổ chức và hoạt động của y tế dự phòng còn nhiều bất cập; Huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển y tế còn hạn chế... Các vấn đề khác Các hoạt đông xã hội xã hội và chăm sóc người có công với nước được duy trì và mở rộng tuy vẫn có nhiều vấn đề bất hợp lý ; Mức sống của đồng bào dân tộc thiểu số đã được tiếp tục cải thiện; Bình đẳng giới và nâng cao vị thế cho phụ nữ có nhiều tiến bộ đáng kể, nhất là trong giáo dục; Công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em được chú trọng: tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em đã giảm nhiều qua các năm từ 31.9% năm 2001 xuống còn 25% năm 2005. Chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ em tiếp tục được thực hiện…; Văn hoá và thông tin: phát triển đa dạng hơn góp phần nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân và xây dựng nền văn hoá Vịêt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;Một số di sản văn hoá được công nhận là di sản văn hoá thế giới như: nhã nhạc cung đình Huế, Cồng chiêng Tây Nguyên; Thể dục thể thao: đã có bước tiến bộ qua rõ rệt các kỳ đại hội thể thao,các giải thể thao. Lần đầu tiên đăng cai và tổ chức thành công SEAGAMES lần thứ 22 và ASEAN Paragames lần thứ 2... Đánh giá, nhận xét và kiến nghị Nhìn chung, các định hướng và mục tiêu phát triển xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001- 2010 đã được đưa ra dựa trên những căn cứ khoa học và phân tích đúng hướng của các nhà hoạch định chính sách. Các mục tiêu xã hội đã bám sát vào thực tiễn phát triển của Việt Nam, phù hợp với quan điểm và chủ trương của Đảng, dựa vào những dự báo dài hạn, vào bối cảnh quốc tế, và có tính đến những quy luật phát triển nội tại của nền kinh tế. Do vậy tính khả thi của các mục tiêu xã hội đã đề ra trong chiến lược là khá cao và mặc dù chỉ mới đi được một nửa chặng đường nhưng một số mục tiêu chúng ta đã đạt được vượt mức. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng chiến lược, có một số luồng ý kiến cho rằng việc đặt ra các mục tiêu xã hội sẽ ảnh hưởng đến việc đặt ra các mục tiêu kinh tế vì nguồn lực của xã hội thì có hạn nên khi đề cao vấn đề xã hội thì sẽ hạn chế nguồn lực để phát triển kinh tế. Đó là sự đánh đổi giữa phát triển kinh tế và công bằng xã hội. Trong khi đó nước ta đang cần tập trung mọi nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế, tiến tới đạt mục tiêu là nước có mức thu nhập trung bình trên thế giới. Do vậy theo luồng ý kiến này thì những mục tiêu xã hội đặt ra trong chiến lược là cao và sẽ hạn chế khả năng tăng trưởng kinh tế. Những lập luận này là hoàn toàn có căn cứ và hợp lý. Tuy nhiên, ngay từ những năm đầu đổi mới, quan điểm của nước ta là luôn gắn phát triển kinh tế với công bằng xã hội, luôn cân nhắc hai lĩnh vực KT và XH. Mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế là nâng cao phúc lợi và đời sống của nhân dân do vậy sự phát triển sẽ là không có ý nghĩa nếu đời sống của đại đa số người dân không được nâng cao. Quan điểm phát triển của chiến lược cũng đã nêu rõ: ưu tiên, tập trung nguồn lực phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Dự báo tính khả thi của các mục tiêu xã hội: cho tới nay hầu hết các mục tiêu đều đã hoàn thành trước thời hạn. Đến cuối kỳ chiến lược dự báo sẽ vượt mục tiêu ở hầu hết các chỉ tiêu. Thành tựu nổi bật nhất phải kể đến là những kết quả đạt được trong giảm nghèo. Việt Nam giảm nghèo nhanh hơn bất kỳ quốc gia nào trong khu vực, kể cả Trung Quốc. Từ năm 1990 đến 2000 số hộ nghèo giảm 3 điểm %/ năm, nhanh gấp đôi tiến độ của Trung Quốc. Ngoài ra cũng phải kể đến những thành tựu khác trong các lĩnh vực y tế, giáo dục…. Sở dĩ đạt được những thành tựu tích cực và đáng khích lệ đó không phải do những mục tiêu đạt ra quá thấp mà do những nổ lực to lớn của chính phủ, nhân dân ta và sự giúp đỡ nhiệt tình của cộng đồng quốc tế. Với mục tiêu là giảm nghèo nhanh, chính phủ đã xây dựng chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo(CPRGS), gắn mục tiêu tăng trưởng với xoá đói giảm nghèo, lồng ghép các mục tiêu xã hội vào trong các kế hoạch 5 năm. Thông qua các chương trình ưu tiên như chương trình 135… Nhà Nước đã thực hiện sự đầu tư có trọng điểm, ưu tiên nguồn lực. Bên cạnh huy động các nội lực để tập trung cho thực hiện các mục tiêu, nhà nước ta cũng đã tranh thủ tốt các ngoại lực như nguồn vốn viện trợ ODA, sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ( NGO)… Tuy nhiên, dựa vào việc đạt được các mục tiêu chiến lược trong 5 năm 2001-2005 cho thấy việc đạt được các mục tiêu đó chưa thực sự tương xứng với khả năng. Các nguồn lực vẫn chưa khai thác và huy động thực sự hiệu quả. Do công tác dự báo còn nhiều hạn chế, chưa lường trước được những thay đổi xã hội đặc biệt là khi nước ta gia nhập WTO, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Dẫn chứng cụ thể là việc đặt ra các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế thấp trong kế hoạch 2006-2010 ( g = 8.5%) trong khi đến năm 2007 tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta đã đạt được 8.5% , do đó chúng ta đã có một đợt điều chỉnh mục tiêu cho kế hoạch 2006 -2010 lên đạt tốc độ tăng trưởng từ 8.5 – 9%. Ngoài ra, khi hội nhập kinh tế đã nảy sinh một số vấn đề xã hội mới mà trong chiến lược chưa tính đến như vấn đề bất bình đẳng, vấn đề an toàn thực phẩm, sự du nhập của những luồng văn hoá, những lối sống mới… Những vấn đề đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống xã hội của Việt Nam. Hội nhập kinh tế thế giới đi kèm với khoảng cách lớn hơn giữa các tầng lớp dân cư. Hiện nay đã có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy khoảng cách giữa các vùng ngày càng lớn, hệ số GINI tăng qua các năm. Tác động giảm nghèo của tăng trưởng sẽ ít hơn khi bất bình đẳng gia tăng và Việt Nam sẽ thu được những kết quả chậm hơn về giảm nghèo. Do đó, sang giai đoạn 2006-2010 đã phải bổ sung thêm một số chương trình mục tiêu quốc gia để giải quyết những vấn đề nổi cộm này như chương trình mục tiêu quốc gia về an toàn thực phẩm…. Bên cạnh đó việc thực hiện các mục tiêu xã hội trong thời gian qua đã đạt được về lượng nhưng về chất thì còn một số vấn đề phải nói tới. Tuy đạt được thành tích đáng khích lệ trong lĩnh vực xoá đói giảm nghèo nhưng tính chất của giảm nghèo chưa bền vững, số hộ có nguy cơ tái nghèo vẫn khá cao, tiến bộ giảm nghèo của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam rất chậm. Các dân tộc thiểu số nằm trong nhóm có nguy cơ tụt hậu. Đa số người Kinh và Hoa được hưởng lợi ích nhiều hơn từ tăng trưởng. Các dân tộc thiểu số, đặc biệt là vùng Tây Nguyên có ít tiến bộ hơn rất nhiều. Nếu tiếp tục xu hướng hiện nay thì tỷ lệ nghèo có thể là 15% hoặc 16% vào năm 2010. Điều đó cho thấy với các dân tộc thiểu số thì tăng trưởng kinh tế không là chưa đủ mà cần có những chính sách cụ thể hơn ưu tiên cho người dân tộc thiểu số như cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn, phân phối lại đất đai hiện nay do các nông trường nhà nước nắm giữ, thừa nhận hợp pháp các biện pháp canh tác nông nghiệp ở địa phương, cung cấp các dịch vụ xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng thời tăng cường sự đại diện của dân tộc thiểu số trong quá trình ra quyết định ở địa phương. Trước những vấn đề đó ta thấy rằng thách thức lớn nhất trong thời gian tới của nước ta là làm thế nào để cân bằng giữa nhu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh hơn và chất lượng tăng trưởng gắn liền với thực hiện các mục tiêu xã hội. Để đạt được mục tiêu đó trong kế hoạch 2006 – 2010 chính phủ đã đề ra các hoạt động cụ thể cho 5 năm tới nhằm đạt được các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 – 2010. Đó là : Đẩy mạnh tăng trưởng và chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường Xoá đói giảm nghèo và đảm bảo hoà nhập xã hội Quản lý môi trường và tài nguyên thiên nhiên theo hướng bền vững Xây dựng hệ thống thể chế hỗ trợ thực hiện chiến lược Việc thực hiện được 4 nội dung trên sẽ tạo đà cho Việt Nam trở thành quốc gia đạt mức thu nhập trung bình vào năm 2010 và đạt được những tiến bộ to lớn về xã hội. Muốn vậy cần phải huy động mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đồng thời vai trò quản lý của nhà nước cần chú trọng hơn nữa. Trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội nguồn lực ngân sách nhà nước là quan trọng nhất. Để nguồn ngân sách được sử dụng đúng mục đích và mang lại hiệu quả cao nhà nước cần có chính sách phân bổ ngân sách phù hợp đi đôi với các biện pháp giám sát thực hiện để tránh thất thoát, lãng phí. Cần thiết chế lại cơ chế phân bổ công bằng hơn, đặc biệt trong các lĩnh vực xã hội. Cần ưu tiên đầu tư hơn cho các tỉnh nghèo. Hiện nay tuy rằng điều hoà ngân sách đã ưu tiên hơn cho các tỉnh nghèo nhưng các nguyên tắc và chuẩn mực làm cơ sở cho các quyết định này vẫn mang tính tình huống. Một vấn đề nữa cũng cần phải đề cập tới là hiện nay nước ta còn ở giai đoạn đầu của công nghiệp hoá , do vậy trọng điểm phát triển xã hội cũng cần hướng vào hai lĩnh vực: giáo dục và khoa học kỹ thuật nhằm phục vụ trở lại cho quá trình phát triển. Nhưng tỷ lệ chi tiêu cho sự nghiệp giáo dục ở nước ta hiện nay vẫn là quá thấp, chất lượng giáo dục cũng đang là vấn đề được bàn cãi. Lĩnh vực khoa học kỹ thuật chưa thực sự gắn liền với đời sống sản xuất, chưa mang lại hiệu quả thiết thực và còn mang tính chất nghiên cứu là chủ yếu. Trong giai đoạn hiện nay cũng cần chú trọng vào việc tuyên truyền giáo dục lối sống, đạo đức cho các tầng lớp dân cư trong xã hội. Một trong những yếu tố chi phối lớn tới việc thực hiện các mục tiêu xã hội nâng cao phúc lợi và tiến bộ xã hội chính là ý thức của mỗi người dân. Đặc biệt là khi hội nhập kinh tế kéo theo những vấn đề xã hội mới việc giáo dục ý thức cho người dân lại càng quan trọng. KẾT LUẬN Sau hơn nửa chặng đường thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, xét riêng các mục tiêu xã hội đã được thực thi toàn diện và các mục tiêu đều có tính khả thi cao, những vấn đề xã hội bức xúc, nổi bật như nghèo đói cũng đã được giải quyết và đạt được những tiến bộ đáng khích lệ. Chỉ số HDI của Việt Nam liên tục tăng qua các năm, đời sống của nhân dân được cải thiện khá rõ rệt. Một thành công lớn của Việt Nam là tạo được sự phát triển cân đối nhịp nhàng giữa xã hội và kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chiến lược đã có một số vấn đề mới nổi cộm xuất hiện cẩn phải đánh giá để bổ sung nhằm thực hiện tốt cho những năm tiếp theo. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 Bộ kế hoạch - đầu tư Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 1991 – 2000 Một số vấn đề lý luận và hoạch định chiến lược phát triển kinh tế- xã hội PGS.TS. Lê Huy Đức Báo cáo kinh tế Việt Nam 2007- Hướng đến tầm cao mới Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2005, 2006 – 2010 Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 Viện chiến lược phát triển- NXB chính trị quốc gia 2001 Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam Các trang web:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0705.doc
Tài liệu liên quan