Sau gần 9 năm tổ chức thi hành Bộ luật
Tố tụng dân sự, lại cũng đã bộc lộ những
hạn chế nhất định và đây là những cản trở
cho việc giải quyết vụ án lao động một cách
nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả, bởi TCLĐ
có những đặc thù khác biệt so với các tranh
chấp dân sự thuần túy, từ đó đặt ra những
yêu cầu riêng trong giải quyết TCLĐ mà các
quy định về thủ tục trong Bộ luật Tố tụng
dân sự không giải quyết được. Việc ban
hành một văn bản pháp luật ở tầm Bộ luật
hoặc luật về TTLĐ để giải quyết vụ án lao
động lại được đặt ra và đã được đưa vào
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của
Quốc hội khóa XIII. Việc ban hành thủ tục
TTLĐ riêng dựa trên cơ sở yêu cầu khách
quan của việc giải quyết TCLĐ, cụ thể là12:
- Thủ tục khởi kiện, thụ lý vụ án lao
động phải thật đơn giản nhằm tạo cơ hội cho
các bên có liên quan dễ tiếp cận với tố tụng
tòa án;
- Mở rộng phạm vi hòa giải và chuyên
nghiệp hóa hoạt động hòa giải tại Tòa án vì
lợi ích của phương thức này;
- Hạn chế đến mức thấp nhất sự tác
động của quá trình giải quyết TCLĐ tại Tòa
án đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ của các doanh nghiệp; một số biện pháp
khẩn cấp tạm thời đặc thù trong án lao động
cần áp dụng như tạm đình chỉ quyết định của
NSDLĐ, tạm ngừng cuộc đình công do tập
thể lao động đang tiến hành khi Tòa án giải
quyết TCLĐ ;
- Bảo đảm sự tham gia đầy đủ của tổ
chức công đoàn và các tổ chức trợ giúp pháp
lý trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của NLĐ;
- Thủ tục tố tụng tại Tòa án phải thật
đơn giản, nhanh chóng, tạo môi trường tranh
tụng dân chủ, lành mạnh;
- Cần có quy định về thủ tục thi hành án
lao động, quy định về chế tài để bảo đảm thi
hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án
lao động
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 247 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ sở lý luận của tố tụng lao động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
13NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01 (257) T01/2014
* PGS,TS. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
1 Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa và Nxb Tư pháp, H., tr. 786.
Chóc Mõng N¨m Míi - 2014
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA
TỐ TỤNG LAO ĐỘNG
Tố tụng lao động (TTLĐ) được hiểu là
“trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao
động (TCLĐ) tại cơ quan tài phán theo quy
định của pháp luật”1. Theo cách hiểu này,
TTLĐ bao gồm hai loại: (1) tố tụng trọng tài;
và (2) tố tụng tại toà án.
Tố tụng trọng tài lao động bao gồm các
bước: thụ lý vụ việc; xác minh, thu thập
chứng cứ; hoà giải; ra quyết định giải quyết
TCLĐ (phán quyết trọng tài).
Tố tụng tại toà án bao gồm các bước:
thụ lý vụ án; xác minh, thu thập chứng cứ;
hoà giải trước phiên toà; xét xử tại phiên
toà; các thủ tục sau phiên toà. Cấp xét xử sơ
thẩm nhìn chung phải qua hầu hết các thủ
tục trên, trừ trường hợp có căn cứ đình chỉ
giải quyết vụ án hoặc các đương sự hoà giải
được với nhau. Tại cấp xét xử phúc thẩm,
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, tuỳ theo quy
định của pháp luật và sự cần thiết mà phải
thực hiện tất cả hoặc một số bước trong trình
tự trên.
Ở Việt Nam, trọng tài lao động được
quy định tại Bộ luật Lao động (BLLĐ).
Theo BLLĐ năm 1994 (sửa đổi năm 2002),
tính chất “tố tụng” của TTLĐ mặc dù được
thể hiện trong các quy định của BLLĐ (ở
chỗ Hội đồng trọng tài lao động có quyền ra
quyết định về vụ tranh chấp trong trường
hợp hoà giải không thành), tuy nhiên, tính
chất này khá mờ nhạt và hiệu quả không
cao. Điều này thể hiện ở chỗ: trọng tài lao
động chỉ sử dụng trong việc giải quyết
TCLĐ tập thể (không sử dụng trong việc
giải quyết TCLĐ cá nhân); phán quyết trọng
tài lao động không có giá trị chung thẩm
(sau khi có phán quyết trọng tài, nếu không
đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng
tài lao động các bên vẫn có thể khởi kiện ra
Toà án yêu cầu giải quyết lại nội dung vụ
TCLĐ từ đầu); thủ tục trọng tài lao động
nhìn chung không được áp dụng trên thực
tế, mặc dù trọng tài lao động và đình công
xảy ra ngày càng nhiều và phức tạp
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLLĐ năm 2006 (có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/7/2007) đã làm thay đổi căn bản giá
trị thủ tục trọng tài lao động, thậm chí làm
cho TTLĐ không còn mang bản chất “trọng
tài”, không còn tính “tố tụng” như trước đây
nữa. Theo đó, kể từ ngày 01/7/2007, trọng
tài lao động bị thu hẹp thẩm quyền một cách
đáng kể, và nhìn chung, trọng tài lao động
LÊ THỊ HOÀI THU*
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
chỉ còn được sử dụng trong việc giải quyết
TCLĐ tập thể về lợi ích (loại tranh chấp xảy
ra không nhiều so với thực tế TCLĐ tập thể
hoặc nếu có thì cũng không thuộc dạng tranh
chấp đơn nhất về lợi ích mà sẽ là tranh chấp
hỗn hợp cả về quyền và lợi ích), không được
sử dụng trong việc giải quyết TCLĐ cá nhân
và TCLĐ tập thể về quyền. Điều đáng nói
hơn là Hội đồng trọng tài lao động chỉ có
chức năng “hoà giải” đối với vụ TCLĐ tập
thể mà Hội đồng đã thụ lý, không có quyền
ra quyết định (phán quyết) về vụ tranh chấp.
Vì vậy, không ít người cho rằng, thủ tục
trọng tài lao động theo Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLLĐ năm 2006 về bản
chất không khác với thủ tục hoà giải tại cơ
sở cũng được quy định trong BLLĐ (do Hội
đồng hoà giải lao động cơ sở hoặc Hoà giải
viên lao động theo quy định của BLLĐ lúc
đó tiến hành), làm cho thủ tục giải quyết
TCLĐ tập thể về lợi ích bị kéo dài một cách
không thực sự cần thiết. BLLĐ năm 2012
tiếp tục quy định thủ tục trọng tài lao động
theo hướng này. Đây chính là lý do để chúng
tôi không đề cập “tố tụng trọng tài” trong bài
viết này. Chúng tôi chỉ tập trung phân tích
cơ sở lý luận của TTLĐ tại Toà án và đề cập
ở góc độ pháp luật (pháp luật TTLĐ).
Khi nói về cơ sở lý luận của TTLĐ có
thể có nhiều vấn đề phải bàn. Ở đây, chúng
tôi xin bàn về các nội dung sau: mối quan
hệ giữa luật nội dung và luật thủ tục trong
lĩnh vực lao động; sự cần thiết của phương
thức TTLĐ trong mối tương quan với các
phương thức giải quyết TCLĐ khác như
thương lượng, hoà giải, trọng tài; cơ sở của
việc quy định riêng về TTLĐ.
1. Mối quan hệ giữa (pháp) luật nội dung
và (pháp) luật thủ tục (hình thức) trong
lĩnh vực lao động
Mối quan hệ giữa (pháp) luật nội dung
và (pháp) luật thủ tục là mối quan hệ thống
nhất, hữu cơ giữa nội dung và hình thức,
trong đó nội dung quyết định hình thức, hình
thức phản ánh nội dung và hình thức có tính
độc lập tương đối so với nội dung. Theo
logic này, mỗi lĩnh vực pháp luật về nội
dung sẽ cần đến pháp luật thủ tục tương ứng
và nếu pháp luật nội dung thay đổi, làm tính
chất, đặc điểm của quan hệ pháp luật nội
dung thay đổi thì sẽ kéo theo sự thay đổi của
pháp luật thủ tục. Tuy nhiên, pháp luật thủ
tục cũng có tính độc lập tương đối, tác động
trở lại pháp luật nội dung, bởi lẽ nếu không
có pháp luật thủ tục thì nhiều quy định của
pháp luật nội dung cũng khó hoặc không thể
áp dụng trên thực tế và nếu pháp luật về thủ
tục được quy định không hợp lý thì nó lại
chính là rào cản trong việc đưa pháp luật nội
dung vào thực tiễn đời sống xã hội một cách
hiệu quả.
Nói về mối quan hệ này, C. Mác viết:
“Luật vật chất lại có những hình thức xét xử
cần thiết, vốn có của nó Việc xét xử và
luật pháp liên hệ mật thiết với nhau, cũng
như hình dáng cây cối gắn liền với cây cối,
hình dáng động vật gắn với thịt và máu của
động vật. Cũng một tinh thần ấy phải cổ vũ
cho việc xét xử và pháp luật, bởi vì việc xét
xử chỉ là hình thức của cuộc sống của luật
pháp và do đó, cũng là biểu hiện của cuộc
sống bên trong của nó”2.
Trong lĩnh vực pháp luật lao động cũng
vậy, pháp luật nội dung về tiêu chuẩn lao
động, quan hệ lao động (QHLĐ) với tính
chất, đặc điểm như thế nào sẽ cần đến các
quy phạm pháp luật về thủ tục tương ứng để
có thể giải quyết các vấn đề phát sinh từ
QHLĐ giữa các bên chủ thể liên quan, nhất
là giải quyết TCLĐ giữa họ và giải quyết
các cuộc đình công của người lao động
(NLĐ) khi xảy ra. Chẳng hạn, BLLĐ Việt
Nam năm 1994 (sửa đổi năm 2002) chưa
phân biệt TCLĐ tập thể về quyền với TCLĐ
14 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01 (257) T01/2014
2 C.Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H., 1995, tr.227.
Chóc Mõng N¨m Míi - 2014
15NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01 (257) T01/2014
tập thể về lợi ích thì tương ứng với nó, Nhà
nước chỉ quy định một trình tự, thủ tục
chung cho việc giải quyết TCLĐ tập thể.
Song, khi BLLĐ này được sửa đổi bởi Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của BLLĐ năm
2006, TCLĐ tập thể đã được phân chia
thành hai loại là TCLĐ tập thể về quyền và
TCLĐ tập thể về lợi ích với những đặc điểm
và yêu cầu về cách thức giải quyết khác
nhau3, nên đã phải thiết kế hai quy trình giải
quyết TCLĐ tập thể tương ứng với hai loại
tranh chấp này. Tương tự như vậy, trước đây
BLLĐ quy định một trong những mục đích
của việc giải quyết đình công là để giải
quyết vụ TCLĐ tập thể đã dẫn đến đình
công, nên trong thủ tục giải quyết, hoà giải
là một bước bắt buộc (tổ chức Hội nghị hoà
giải)4 và chỉ khi hoà giải không thành thì Toà
án mới ra quyết định để tuyên bố cuộc đình
công là hợp pháp hay bất hợp pháp. Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của BLLĐ năm
2006 và BLLĐ năm 2012 quy định việc giải
quyết đình công chỉ nhằm xác định cuộc
đình công là hợp pháp hay bất hợp pháp, vì
thế thủ tục hoà giải đã được đưa ra khỏi trình
thủ tục giải quyết đình công.
Như vậy, rõ ràng pháp luật về nội dung
quyết định pháp luật về thủ tục, sự thay đổi
pháp luật nội dung đã dẫn đến sự thay đổi
pháp luật thủ tục; song, bản thân pháp luật
nội dung cũng cần pháp luật thủ tục để giải
quyết các vấn đề về nội dung và chuyển tải
nội dung đó đến với thực tiễn cuộc sống. Ví
dụ: NLĐ bị sa thải, NLĐ cho rằng quyết
định sa thải của người sử dụng lao động
(NSDLĐ) đối với mình là trái pháp luật và
muốn được tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
giải quyết để quyền lợi hợp pháp, chính
đáng của mình được bảo vệ. Nhu cầu của
NLĐ đã phát sinh vấn đề trong quan hệ pháp
luật nội dung (pháp luật về xử lý vi phạm kỷ
luật lao động trong QHLĐ) cần được giải
quyết và muốn giải quyết được phải cần đến
pháp luật về thủ tục (pháp luật về thủ tục
giải quyết TCLĐ hoặc pháp luật về thủ tục
giải quyết khiếu nại về lao động) để xác định
nguyên tắc giải quyết; thẩm quyền giải
quyết; thời hiệu yêu cầu giải quyết; trình tự,
thủ tục giải quyết; việc thi hành quyết định
đã có hiệu lực của tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
có liên quan trong quá trình giải quyết
TCLĐ...
Bàn về sự tác động trở lại của luật thủ
tục đối với luật nội dung, cụ thể là bàn về
tính độc lập tương đối của luật thủ tục so với
luật nội dung, chúng ta thấy, nếu luật thủ tục
không hợp lý, không khả thi thì chính pháp
luật về thủ tục lại trở thành rào cản trong
việc đưa luật nội dung vào thực tiễn cuộc
sống một cách hiệu quả. Vẫn với ví dụ trên
(về việc giải quyết yêu cầu của NLĐ về việc
bị NSDLĐ sa thải trái pháp luật), nếu pháp
luật về thủ tục không hợp lý (giải sử quy
3 TCLĐ về quyền được hiểu là những tranh chấp giữa người lao động, tập thể lao động và NSDLĐ về những vấn đề thuộc
quyền và nghĩa vụ của hai bên đã được quy định (trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, trong nội quy,
quy chế lao động của ngành, của đơn vị) hoặc đã được hai bên thoả thuận (trong thoả ước lao động tập thể, hợp đồng
lao động, hợp đồng học nghề)Còn TCLĐ về lợi ích được hiểu là những tranh chấp giữa người lao động, tập thể lao
động và NSDLĐ về những vấn đề thuộc lợi ích của các bên nhưng chưa được quy định và chưa được các bên thoả thuận
hoặc những vấn đề cần thoả thuận lại giữa hai bên. Cách hiểu này trùng với khái niệm TCLĐ về pháp luật (chỉ những
tranh chấp về những vấn đề đã được pháp luật quy định) và TCLĐ về kinh tế (chỉ những tranh chấp về lợi ích kinh tế
chưa được pháp luật quy định) được sử dụng ở nhiều quốc gia có thị trường lao động nói chung và QHLĐ nói riêng phát
triển ở trình độ cao, như Mỹ, Canađa...
TCLĐ về quyền khác với TCLĐ về lợi ích ở những điểm chủ yếu sau đây: i) TCLĐ về quyền là tranh chấp về những vấn
đề đã được xác định, đã và đang có hiệu lực. Còn TCLĐ về lợi ích là loại tranh chấp về những vấn đề chưa được xác định
giữa các bên; ii) Việc yêu cầu giải quyết TCLĐ về quyền là để tiếp tục duy trì và củng cố các quy tắc xử sự đã được xác
lập giữa các bên. Trong khi đó, các bên tham gia tranh chấp và yêu cầu giải quyết TCLĐ về lợi ích lại nhằm thiết lập các
quy tắc xử sự mới giữa họ; iii) TCLĐ về quyền thường gắn liền với sự vi phạm của ít nhất một bên chủ thể. Ngược lại,
TCLĐ về lợi ích không gắn với vi phạm của bất kì bên chủ thể nào (TS Nguyễn Xuân Thu, Vận dụng cơ chế ba bên trong
việc giải quyết TCLĐ ở Việt Nam, Nxb Lao động – Xã hội, H., 2009, tr. 42-43).
4 Xem Phần thứ 2 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các TCLĐ ngày 11/4/1996.
5 Pháp luật về thủ tục trong lĩnh vực lao động không chỉ bao gồm pháp luật giải quyết TCLĐ tại toà án (pháp luật về TTLĐ
theo giới hạn mà Chuyên đề này đề cập), mà còn bao gồm cả các thủ tục giải quyết TCLĐ ngoài toà án như thương
lượng, trung gian, hoà giải (do Hoà giải viên lao động thực hiện), giải quyết bằng quyết định của Chủ tịch UBND cấp
huyện hoặc cấp tỉnh (đối với TCLĐ tập thể xảy ra tại các doanh nghiệp không được đình công theo danh mục do Chính
phủ quy định), TTLĐ, giải quyết khiếu nại về lao động. Trong đó, pháp luật về TTLĐ giải quyết TCLĐ tại toà án) bao giờ
cũng là trung tâm thu hút nhất khi nói về pháp luật thủ tục.
6 David Macdonal & Caroline Vandenabieele (1997), Thuật ngữ quan hệ công nghiệp và các khái niệm có liên quan, H.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
định thẩm quyền giải quyết không rõ ràng,
thủ tục rườm rà, chi phí tuân thủ cao, thiếu
cơ chế thi hành kết quả giải quyết TCLĐ...)
thì pháp luật về thủ tục giải quyết TCLĐ
không những không giải quyết được một
cách nhanh chóng, kịp thời, khách quan vụ
tranh chấp giữa hai bên, mà còn có thể đẩy
mâu thuẫn của họ lên cao hơn, có thể dẫn tới
các vi phạm pháp luật khác, bởi quyền lợi
hợp pháp, chính đáng của bên bị xâm hại
không được bảo vệ, bên vi phạm pháp luật
không bị “trừng phạt”, pháp luật về xử lý vi
phạm kỷ luật lao động không được tôn
trọng; từ đó gây bất ổn cho thị trường lao
động, gây rối trật tự xã hội Nói cách khác
là pháp luật thủ tục đã cản trở việc đưa pháp
luật nội dung vào thực tiễn cuộc sống. Như
vậy, pháp luật nội dung muốn được tôn
trọng một cách thực sự và bảo đảm thực
hiện nghiêm thì không thể thiếu pháp luật về
thủ tục. Đây chính là một trong những cơ sở
lý luận quan trọng của sự ra đời pháp luật
thủ tục, trong đó có pháp luật về TTLĐ5.
2. Ưu điểm, nhược điểm cơ bản của các
phương thức giải quyết tranh chấp lao
động ngoài Toà án và sự cần thiết của việc
giải quyết tranh chấp lao động tại Toà án
(hoạt động tố tụng lao động)
Theo quan điểm của các chuyên gia lao
động quốc tế, QHLĐ là “những mối quan hệ
cá nhân và tập thể giữa những NLĐ và
NSDLĐ tại nơi làm việc, cũng như các mối
quan hệ giữa các đại diện của họ với Nhà
nước. Những mối quan hệ như thế xoay
quanh các khía cạnh pháp luật, kinh tế, xã
hội học và tâm lý học và bao gồm cả những
vấn đề như tuyển mộ, thuê mướn, sắp xếp
công việc, đào tạo, kỷ luật, thăng chức, buộc
thôi việc, kết thúc hợp đồng, làm ngoài giờ,
tiền thưởng, phân chia lợi nhuận, giáo dục,
y tế, vệ sinh, giải trí, chỗ ở, giờ làm việc,
nghỉ ngơi, nghỉ phép, các vấn đề phúc lợi
cho người thất nghiệp, ốm đau, tai nạn, tuổi
cao và tàn tật”6.
Theo quan điểm trên thì QHLĐ bao
gồm QHLĐ hai bên (giữa cá nhân NLĐ và
NSDLĐ; giữa tập thể lao động và NSDLĐ
tại nơi làm việc) và QHLĐ ba bên (giữa đại
diện của Nhà nước với đại diện của NSDLĐ
và đại diện của NLĐ để giải quyết những
vấn đề chủ yếu ở tầm vĩ mô). Mỗi loại
QHLĐ có những nội dung nhất định phù
hợp với yêu cầu thiết lập và phạm vi vận
hành của nó. Ở Việt Nam, do các điều kiện
bảo đảm cho QHLĐ ba bên chưa thực sự
“chín muồi” nên QHLĐ (theo quy định của
hệ thống pháp luật lao động), về cơ bản,
được tiếp cận ở góc độ quan hệ hai bên
(Khoản 6 Điều 3 BLLĐ năm 2012 quy định:
“QHLĐ là quan hệ xã hội phát sinh trong việc
thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa
NLĐ và NSDLĐ”); quan hệ ba bên mới
bước đầu được tiếp cận ở mức độ rất hạn chế
bằng một số quy định cụ thể của BLLĐ và
một số văn bản pháp luật có liên quan để
giải quyết một số quyền lợi, nghĩa vụ và
trách nhiệm của NSDLĐ và NLĐ trong
QHLĐ hai bên.
Lợi nhuận chính là mục đích của
NSDLĐ; tiền lương, phúc lợi, điều kiện lao
động an toàn chính là mục đích của NLĐ
khi tham gia QHLĐ. Lợi ích kinh tế của hai
bên trong QHLĐ, bên cạnh tính thống nhất,
chúng còn có xu hướng mâu thuẫn với nhau.
Những việc làm để đạt được mục đích của
bên này có thể trực tiếp hoặc gián tiếp xâm
16 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01 (257) T01/2014
Chóc Mõng N¨m Míi - 2014
17NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01 (257) T01/2014
hại đến lợi ích của bên kia. Hơn nữa, trong
quan hệ pháp luật lao động, NLĐ bị lệ thuộc
vào NSDLĐ về phương diện tổ chức, vì vậy
không tránh khỏi những lúc NSDLĐ lạm
quyền, áp đặt, còn NLĐ cảm thấy mình bị
“lép vế”, bị lấn át. Tất cả những vấn đề này
không được giải quyết một cách ổn thoả đều
có thể trở thành nguyên nhân của TCLĐ.
Thêm vào đó, với nền kinh tế chuyển đổi,
hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật
lao động nói riêng chưa hoàn chỉnh, trình độ
và ý thức pháp luật của các bên còn thấp,
năng lực quản lý nhà nước về lao động còn
hạn chế như ở nước ta hiện nay thì TCLĐ
sẽ còn xảy ra nhiều và có thể diễn biến theo
chiều hướng ngày càng phức tạp hơn.
Bàn về khái niệm TCLĐ, một định
nghĩa về TCLĐ được coi là đầy đủ, phản
ánh được các yếu tố chủ thể, nội dung,
khách thể của tranh chấp: “TCLĐ là sự xung
đột về quyền (nghĩa vụ) và lợi ích giữa các
chủ thể của mối QHLĐ trong quá trình lao
động, được một trong các bên yêu cầu giải
quyết theo những thủ tục khác nhau, theo
quy định của pháp luật”7.
Một số nước (Anh, Mỹ, Úc, Indonesia,
Jordan) có định nghĩa chung về TCLĐ
trong các đạo luật. Ở một số nước khác,
TCLĐ được định nghĩa dựa trên sự khác biệt
giữa các loại TCLĐ. Một số quốc gia trong
nhóm này dựa vào sự khác biệt về số lượng
NLĐ tham gia tranh chấp để đưa ra định
nghĩa TCLĐ cá nhân và TCLĐ tập thể, như
Pháp, Bỉ, Thuỵ Sĩ, Cameroon Trong khi
đó, Áo, Đan Mạch, Na Uy, Thuỵ Điển lại
dựa trên sự khác biệt về bất đồng giữa các
vấn đề liên quan đến việc áp dụng hoặc giải
thích quyền hạn hiện hành hay thiết lập
quyền hạn mới để đưa ra định nghĩa TCLĐ
về quyền và TCLĐ về lợi ích8.
BLLĐ Việt Nam quy định cả định nghĩa
chung và các định nghĩa theo sự khác biệt
của các loại TCLĐ. Định nghĩa chung về
TCLĐ được quy định tại Khoản 7 Điều 3
BLLĐ: “TCLĐ là tranh chấp về quyền, nghĩa
vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong
QHLĐ”. Cũng tại Điều 3 BLLĐ, các định
nghĩa theo từng loại tranh chấp: TCLĐ cá
nhân, TCLĐ tập thể, TCLĐ tập thể về quyền
và TCLĐ tập thể về lợi ích cũng lần lượt
được quy định.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của các bên trong QHLĐ, bình
ổn QHLĐ, thị trường lao động và bình ổn
xã hội nói chung, bằng cách này hay cách
khác, các TCLĐ cần được giải quyết. Có
nhiều phương thức khác nhau đã được sử
dụng trong việc giải quyết TCLĐ ở các nước
cũng như ở Việt Nam, như: thương lượng,
hoà giải, trung gian, trọng tài, xét xử tại Tòa
án, giải quyết theo thủ tục giải quyết khiếu
nại về lao động Tuỳ vào điều kiện kinh tế
- xã hội và pháp luật của mỗi quốc gia mà
các phương thức giải quyết TCLĐ được sử
dụng ở những mức độ khác nhau, các bên
tranh chấp được phép lựa chọn phương thức
giải quyết hoặc buộc phải tuân thủ quy định
của pháp luật. Trong số đó, thương lượng,
hoà giải, trọng tài và xét xử là những
phương thức được sử dụng phổ biến.
Thương lượng giải quyết TCLĐ là quá
trình NLĐ (tập thể lao động) và NSDLĐ tự
thảo luận, đàm phán để đi đến thoả thuận
chung cho vụ TCLĐ giữa họ.
Thương lượng là một quá trình tự thân,
có lựa chọn hay không, trình tự và kết quả
như thế nào đều do chính các bên tranh chấp
tự quyết định, không có sự tham gia của
người thứ ba với tư cách là chủ thể độc lập
như ở phương thức hoà giải, trọng tài và xét
7 PGS.TS. Lê Hồng Hạnh (2002), Những nền tảng pháp lý cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam,
H., (Tài liệu của Dự án TA 2853 VIE do Bộ Tư pháp và Ngân hàng phát triển Châu Á thực hiện năm 2002), tr.256.
8 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2006), Thủ tục hoà giải và trọng tài các TCLĐ, H., tr.9-20.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
xử. Thậm chí, quá trình này hầu như thoát
khỏi sự điều tiết của pháp luật. Vì vậy, quá
trình thương lượng thường không có cấu
trúc cố định, có thể không có chủ toạ, không
phải tuân theo bất kỳ một chương trình, trình
tự, thủ tục cố định nào...
Lợi ích nổi bật của thương lượng thể
hiện ở chỗ quyền tự định đoạt của các bên
tranh chấp được đảm bảo thực hiện ở mức
độ tối đa; thủ tục đơn giản, nhanh chóng,
thuận tiện; tiết kiệm thời gian, chi phí và
nhân lực; khả năng thực thi kết quả thương
lượng thành rất cao; các bên QHLĐ hiểu và
thông cảm cho nhau... Song, không được
đảm bảo về mặt pháp lý; không có cơ chế
bảo đảm thi hành kết quả thương lượng
thành nên khả năng phá vỡ kết quả thương
lượng thành, dẫn tới kéo dài thời gian giải
quyết, gây phiền hà, tốn kém... cho các bên
tranh chấp và gây thiệt hại cho xã hội trong
nhiều trường hợp... chính là những hạn chế
lớn của phương thức này. Vì vậy, cần có
những phương thức giải quyết khác bên
cạnh phương thức thương lượng để có thể
khắc phục những hạn chế trên.
Hoà giải TCLĐ là quá trình người hoà
giải giúp các bên tranh chấp đạt được thoả
thuận chung về vụ tranh chấp giữa họ. Cũng
như thương lượng, kết quả hoà giải như thế
nào là do các bên tranh chấp tự quyết định.
Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ bản giữa
thương lượng và hoà giải TCLĐ là ở chỗ:
trong hoà giải có người thứ ba (người hoà
giải) tham gia quá trình giải quyết tranh
chấp với tư cách là chủ thể độc lập theo quy
định của pháp luật hoặc sự lựa chọn hợp
pháp của các bên tranh chấp. Người hoà giải
đóng vai trò chính là “thuyết phục” và giúp
các bên tranh chấp tìm kiếm giải pháp chung
cho vụ tranh chấp giữa họ. Để đạt được điều
đó, người hoà giải sẽ giúp các bên về pháp
luật (dẫn chiếu nguồn, giải thích pháp luật,
hướng dẫn cách áp dụng pháp luật để giải
quyết nội dung vụ tranh chấp), thủ tục,
phương án hoà giải và xác nhận kết quả hoà
giải (bằng biên bản hoà giải trong trường
hợp người hòa giải là Hội đồng hòa giải,
Hòa giải viên; bằng quyết định công nhận
sự thoả thuận của các bên trong trường hợp
người hòa giải là Hội đồng trọng tài/trọng
tài viên, Tòa án). Sự xác nhận kết quả hoà
giải của người hoà giải là sự đảm bảo về mặt
pháp lý cho phương thức hoà giải TCLĐ.
Trong trường hợp hoà giải thành, biên bản
hoà giải thành hoặc quyết định công nhận
sự thoả thuận của các đương sự có khả năng
kết thúc vụ tranh chấp giữa các bên một
cách thực sự.
Với sự tham gia của người hòa giải -
người am hiểu QHLĐ và pháp luật lao động
- sẽ giúp khắc phục được những hạn chế nêu
trên của phương thức thương lượng. Tuy
nhiên, ở phương thức này cũng có những
hạn chế nhất định, tự bản thân nó khó hoặc
không thể giải quyết được, đó là: sự thành
công của quá trình giải quyết TCLĐ chủ yếu
phụ thuộc vào thái độ thiện chí và hợp tác
của các bên tranh chấp; kết quả hoà giải
thành thường cũng không có giá trị pháp lý
bắt buộc thi hành nên việc thực thi các kết
quả đã đạt được trong quá trình hoà giải phụ
thuộc vào sự tự nguyện thi hành của bên có
nghĩa vụ (trừ trường hợp kết quả hòa giải
thành thể biện bằng quyết định công nhận
của Tòa án và được đảm bảo thực hiện bằng
cưỡng chế nhà nước); bên tranh chấp không
có thiện chí có thể lợi dụng vào thủ tục hoà
giải (nhất là trong trường hợp hoà giải được
quy định là thủ tục bắt buộc) để trì hoãn, kéo
dài việc giải quyết, việc thi hành nghĩa vụ,
gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi hợp
pháp, chính đáng của bên kia và lợi ích
chung của xã hội; bí mật đôi khi cũng khó
có thể được giữa kín bởi sự tham gia của
người thứ ba - người hoà giải trong phương
thực giải quyết tranh chấp này.
Giải quyết TCLĐ bằng trọng tài lao
động là quá trình trọng tài viên (Hội đồng
trọng tài lao động) tiến hành giải quyết vụ
TCLĐ theo yêu cầu của các bên tranh chấp
(bằng thỏa thuận trọng tài) hoặc theo quy
định của pháp luật (cơ quan nhà nước chỉ
định).
18 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01 (257) T01/2014
Chóc Mõng N¨m Míi - 2014
19NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01 (257) T01/2014
Pháp luật của các quốc gia thường có
những quy định chặt chẽ hơn về điều kiện
đối với trọng tài viên/hội đồng trọng tài;
trình tự, thủ tục giải quyết TCLĐ bằng trọng
tài; giá trị pháp lý của phán quyết trọng tài;
việc yêu cầu tòa án xét lại quyết định trọng
tài... Đây được coi là những nền tảng quan
trọng bảo đảm cho giá trị pháp lý của phán
quyết trọng tài và chính là ưu điểm cơ bản
của phương thức trọng tài so với phương
thức thương lượng và hòa giải. Đặc biệt,
phán quyết trọng tài thường có giá trị chung
thẩm, kết thúc việc giải quyết TCLĐ một
cách nhanh chóng chính là điều hối thúc các
bên TCLĐ lựa chọn phương thức này. Tuy
nhiên, với sự quy định chặt chẽ của pháp
luật về những vấn đề có liên quan nên
phương thức trọng tài kém linh hoạt hơn,
thời gian giải quyết có thể bị kéo dài hơn,
chi phí tài chính tốn kém hơn... so với
phương thức thương lượng và hòa giải.
Xét xử TCLĐ tại Tòa án là một quá
trình, trong đó, bằng nghiệp vụ của mình,
Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử nhân danh
quyền lực nhà nước, nhân danh công lý ra
phán quyết về vụ TCLĐ.
Ở các quốc gia có hệ thống pháp luật
phát triển như Pháp, Đức, Anh, Nhật... thẩm
quyền của Tòa án rất rộng, hệ thống Tòa án
được tổ chức theo cấp xét xử (sơ thẩm, phúc
thẩm)9. Ở các quốc gia khác, hệ thống Tòa
án lại được tổ chức theo cấp hành chính: Tòa
án cấp huyện, Tòa án cấp tỉnh và Tòa án tối
cao. Hệ thống Tòa án của Việt Nam được tổ
chức theo phương thức này. Tòa án nhân dân
cấp huyện có các Thẩm phán được phân
công giải quyết vụ án lao động, Tòa án nhân
dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao có
Toà lao động chuyên giải quyết các vụ án và
các việc về lao động.
Thẩm quyền giải quyết TCLĐ của Tòa
án được quy định tuỳ thuộc vào loại TCLĐ.
Việc giải quyết TCLĐ tại Tòa án phải tuân
thủ các nguyên tắc và trình tự, thủ tục do
Nhà nước quy định. Thông thường, quá
trình giải quyết TCLĐ tại Tòa án bao gồm
các bước: thụ lý vụ án, chuẩn bị giải quyết
và mở phiên toà xét xử. Thụ lý vụ án là công
việc chuyên môn của bộ phận hành chính -
tư pháp và Chánh án (Chánh toà) Tòa án.
Việc chuẩn bị giải quyết do Thẩm phán được
Chánh án (Chánh toà) phân công thực hiện.
Phiên toà được tiến hành dưới sự điều khiển
của Hội đồng xét xử. Thư ký phiên toà là
người ghi lại toàn bộ diễn biến của phiên
toà. Trong quá trình giải quyết vụ án lao
động, ngoài các đương sự còn có thể có sự
tham gia của các chủ thể khác, như: kiểm sát
viên, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự,
người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch tuỳ từng vụ việc cụ thể và tuỳ
cấp xét xử. Quyết định hoặc bản án của
Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử trong
những trường hợp nhất định sẽ kết thúc quá
trình giải quyết TCLĐ tại Tòa án (ví dụ:
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, quyết
định công nhận sự thoả thuận của các đương
sự, bản án).
Ưu điểm lớn nhất của việc giải quyết
TCLĐ tại Tòa án là ở tính quyền lực nhà
nước và sức mạnh cưỡng chế nhà nước đối
với việc thi hành kết quả giải quyết của Toà
án (có một bộ máy mang tính quyền lực nhà
nước bảo đảm cho hoạt động TTLĐ như
công an, viện kiểm sát, tòa án, cơ quan thi
hành án...). Đây là lợi ích to lớn mà phương
thức xét xử tại Tòa án mang lại cho các bên
tranh chấp và cho xã hội mà các phương
thức giải quyết khác (thương lượng, hòa
giải, trọng tài, giải quyết bằng thủ tục giải
quyết khiếu nại về lao động...) khó hoặc
không thể mang lại.
3. Cơ sở của việc quy định thủ tục tố tụng
riêng cho việc giải quyết tranh chấp lao
động ở nước ta
Thủ tục tố tụng riêng cho việc giải quyết
TCLĐ đã từng được quy định trong BLLĐ
năm 1994 và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các TCLĐ ngày 11/4/1996. Thực hiện
9 Phạm Thị Phương Thuỷ, Pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức trọng tài, Luận văn ThS, Trường
Đại học Luật Hà Nội, H., 2004, tr.28-29.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
BLLĐ năm 1994 và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân năm 1995, hệ thống Tòa án ở nước ta đã
được kiện toàn một bước, hệ thống Tòa lao
động được thành lập tại Tòa án nhân dân cấp
tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao để giải quyết
các vụ án lao động theo thủ tục tố tụng được
quy định tại phần thứ nhất của Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các TCLĐ ngày
11/4/1996. Tuy nhiên, cùng với sự biến đổi
nhanh của nền kinh tế - xã hội và những
vướng mắc, bất cập trong các quy định của
BLLĐ, TCLĐ xảy ra ngày càng nhiều về số
lượng, gay gắt về tính chất và mức độ.
Những quy định về giải quyết TCLĐ của
BLLĐ nói chung và Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các TCLĐ nói riêng cũng đã bộc lộ
những hạn chế, bất cập cần được tháo gỡ.
Quan điểm lập pháp lúc đó cho rằng, quy
định về thủ tục tố tụng dân sự, kinh tế, lao
động còn tản mạn, không đầy đủ và thiếu
thống nhất đã gây nên những khó khăn cho
Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án10.
Riêng Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
TCLĐ năm 1996 còn thiếu nhiều quy định
cần thiết, một số quy định chưa cụ thể và
không rõ ràng, dẫn đến sự nhận thức và vận
dụng vào thực tế xét xử không thống nhất.
Nhiều trường hợp khi có tranh chấp, mặc dù
các bên tranh chấp có yêu cầu, nhưng do
quy định thiếu hợp lý của pháp luật nên đã
loại trừ khả năng can thiệp của Tòa án. Đó
cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng
TCLĐ xảy ra thì nhiều mà số TCLĐ được
giải quyết tại Tòa án thì ít11. Từ thực tiễn đó,
việc quy định thủ tục chung về tố tụng dân
sự (bao gồm các lĩnh vực: dân sự, kinh tế,
hôn nhân gia đình, lao động) đã được đặt
ra và kết quả là sự ra đời của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2004.
Sau gần 9 năm tổ chức thi hành Bộ luật
Tố tụng dân sự, lại cũng đã bộc lộ những
hạn chế nhất định và đây là những cản trở
cho việc giải quyết vụ án lao động một cách
nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả, bởi TCLĐ
có những đặc thù khác biệt so với các tranh
chấp dân sự thuần túy, từ đó đặt ra những
yêu cầu riêng trong giải quyết TCLĐ mà các
quy định về thủ tục trong Bộ luật Tố tụng
dân sự không giải quyết được. Việc ban
hành một văn bản pháp luật ở tầm Bộ luật
hoặc luật về TTLĐ để giải quyết vụ án lao
động lại được đặt ra và đã được đưa vào
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của
Quốc hội khóa XIII. Việc ban hành thủ tục
TTLĐ riêng dựa trên cơ sở yêu cầu khách
quan của việc giải quyết TCLĐ, cụ thể là12:
- Thủ tục khởi kiện, thụ lý vụ án lao
động phải thật đơn giản nhằm tạo cơ hội cho
các bên có liên quan dễ tiếp cận với tố tụng
tòa án;
- Mở rộng phạm vi hòa giải và chuyên
nghiệp hóa hoạt động hòa giải tại Tòa án vì
lợi ích của phương thức này;
- Hạn chế đến mức thấp nhất sự tác
động của quá trình giải quyết TCLĐ tại Tòa
án đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ của các doanh nghiệp; một số biện pháp
khẩn cấp tạm thời đặc thù trong án lao động
cần áp dụng như tạm đình chỉ quyết định của
NSDLĐ, tạm ngừng cuộc đình công do tập
thể lao động đang tiến hành khi Tòa án giải
quyết TCLĐ;
- Bảo đảm sự tham gia đầy đủ của tổ
chức công đoàn và các tổ chức trợ giúp pháp
lý trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của NLĐ;
- Thủ tục tố tụng tại Tòa án phải thật
đơn giản, nhanh chóng, tạo môi trường tranh
tụng dân chủ, lành mạnh;
- Cần có quy định về thủ tục thi hành án
lao động, quy định về chế tài để bảo đảm thi
hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án
lao động n
20 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01 (257) T01/2014
10 Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự được quy định trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989; thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế được quy định trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1989; thủ tục
giải quyết các vụ án lao động được quy định trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các TCLĐ năm 1996.
11 Phạm Công Bảy, Thủ tục giải quyết các vụ án lao động theo Bộ luật tố tụng dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, H., 2006, tr. 42.
12 Xem chi tiết trong Luận án TS của Phạm Công Bảy, Viện Nhà nước và Pháp luật năm 2011.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_so_ly_luan_cua_to_tung_lao_dong.pdf