Cơ sở lý luận của việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Chưa bao giờ trong lịch sử, nhân tố con người lại đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế như thời đại ngày nay. "Máy móc không chỉ thay thế lao động cơ bắp mà còn nhân lên sức mạnh trí tuệ con người, lực lượng sản xuất chuyển từ dựa vào vật chất sang dựa nhiều hơn vào trí lực và sức sáng tạo của con người, sức sáng tạo của con người là vô hạn, tài nguyên là hữu hạn. Cho nên kinh tế dựa vào tri thức mở ra những triển vọng to lớn, những khả năng vô hạn của con người, giải quyết những vấn đề cơ bản và cấp bách mà mình đang phải đối mặt". [Đặng Hữu - Phát triển bền vững dựa trên tri thức - Tạp chí lý luận chính trị/số 11 - 2004. tr 9 - 10]. Việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ đã được Đảng và Nhà nước ta xác định đúng hướng. Trong điều kiện nước ta hiện nay để chiến lược phát triển theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa đến thắng lợi, chúng ta phải lấy nguồn nhân lực con người Việt Nam - nguồn nhân lực quan trọng nhất làm động lực cho sự phát triển lâu bền. Để bồi dưỡng và phát h

doc19 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1120 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ sở lý luận của việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong thời đại ngày nay, khi loài người đã bước sang cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ 3 thì khoa học kỹ thuật đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp như lời Mác đã tiên đoán. Với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều ngành khoa học và công nghệ hiện đại, với hàm lượng chất xám chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong các sản phẩm làm ra, con người càng tỏ rõ vai trò quyết định của mình trong tiến trình phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại. Biện chứng của sự phát triển trong thời đại ngày nay đòi hỏi con người phải bộc lộ đầy đủ hơn nữa "sức mạnh của bản chất con người" của mình một cách hiện thực và sinh động hơn, phong phú và đa dạng hơn, văn hoá và trí tuệ với những cá tính độc đáo và những phẩm chất năng động, sáng tạo của con người hiện đại. Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất, có tính chất quyết định đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ngày nay, trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước mục tiêu quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì nguồn nhân lực chính là chìa khoá của sự thành công. Nguồn nhân lực với trình độ tiên tiến sẽ chính là nhân tố đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Với một nước đang ở trình độ thấp kém phát triển như nước ta hiện nay không thể không xây dựng một chính sách phát triển lâu bền, nâng cao dần chất lượng của người lao động, phát huy nhân tố con người để phục vụ tốt nhất cho mục tiêu lớn lao của toàn dân tộc, đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội. I. Cơ sở lý luận của việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 1. Biện chứng của sự phát triển lực lượng sản xuất với sự phát triển kinh tế xã hội. a. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản xuất xã hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong đó sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội. Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Cho đến nay, lịch sử loài người đã trải qua năm phương thức sản xuất đó là công xã nguyên thủy, nô lệ phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao. Trong quá trình lao động sản xuất, một mặt là quan hệ giữa con người với tự nhiên - lực lượng sản xuất, mặt khác là quan hệ giữa với người người tức là quan hệ sản xuất. Phương thức sản xuất chính là, sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định với quan hệ sản xuất tương ứng. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất đây là quy luật cơ bản nhất của toàn bộ lịch sử loài người, là quy luật biến đổi phát triển của các phương thức sản xuất. Trước hết ta tìm hiểu về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất - Lực lượng sản xuất đó là tổng thể các nhân tố vật chất kỹ thuật mà trong mối quan hệ với nhau tạo thành sức sản xuất của xã hội. Như Mác đã nói lực lượng sản xuất bao gồm nhân tố vật chất đó là tư liệu sản xuất (bao gồm tư liệu lao động. Trong quá trình sản xuất sức lao động của con người và tư liệu sản xuất trước hết là công cụ lao động kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất. Người lao động chính là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất, đồng thời cũng chính họ là người sáng tạo ra công cụ lao động. Công cụ lao động là nhân tố quan trọng trong lực lượng sản xuất. Nó là khí quan vật chất "nối dài" nhân lên sức mạnh của con người trong quá trình lao động biến đổi thế giới tự nhiên. Trong thời đại ngày nay, khoa học đang ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu của khoa học được ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi vào sản xuất tri thức khoa học cũng là một bộ phận quan trọng trong kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động. Các yếu tố của lực lượng sản xuất có quan hệ tác động biện chứng lẫn nhau, trong đó người lao động đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Trong quá trình sản xuất vật chất, ngoài quan hệ giữa con người với tự nhiên còn là mối quan hệ giữa người với người. Đó chính là quan hệ sản xuất. Quan hệ này được phân tích theo hai giác độ Xét trong quá trình tái sản xuất xã hội đó là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất phân phối trao đổi và tiêu dùng. Nếu phân tích trên 3 lớp quan hệ đó là quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức - quản lý sản xuất quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Ba quan hệ này có tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của đời sống xã hội. Tính vật chất của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ, chúng tồn tại khách quan độc lập với ý muốn chủ quan của con người. - Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất biện chứng trong mỗi quá trình sản xuất. Trong mối quan hệ đó vai trò quyết định thuộc về lực lượng sản xuất bởi vì nó là nội dung vật chất của quá trình đó. Tính quyết định đó thể hiện là tương ứng với một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện có thì cũng cần có một hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp nhằm bảo tồn, khai thác, sử dụng và phát triển lực lượng sản xuất. Đồng thời những biến đổi trong nội dung vật chất của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến khả năng biến đổi của các quan hệ sản xuất. Với tư cách hình thức kinh tế của quá trình sản xuất thì quan hệ sản xuất lại có vai trò ảnh hưởng trở lại với lực lượng sản xuất. Sự tác động này biểu hiện trên hai khả năng với nhu cầu khách quan của việc bảo tồn, sử dụng và khai thác có hiệu quả các lực lượng sản xuất và do đó có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Trong trường hợp ngược lại thì nó lại kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Dưới sự tác động của nhiều nhân tố như sự tích lũy dần kinh nghiệm mà trong thời đại ngày nay với sự tác động trực tiếp và nhanh chóng của các tri thức khoa học kỹ thuật và công nghệ vào quá trình sản xuất thì lực lượng sản xuất không ngừng biến đổi và phát triển. Nhưng sự biến đổi và phát triển đó trong một giới hạn nhất định thì chưa tạo ra nhu cầu khách quan của sự biến đổi các quan hệ sản xuất. Khi sự biến đổi đó tới một giới hạn nhất định cả về số lượng và chất thì tất yếu sẽ đặt ra nhu cầu khách quan là cải cách, cải tổ và cao hơn là một cuộc cách mạng tới tận cơ sở quan hệ sản xuất tư liệu chủ yếu. Tuy nhiên những quan hệ sản xuất không tự nó biến đổi mà nó cần đến những cuộc cải cách; cách mạng trên phương diện chính trị và thể chế Nhà nước, cơ chế Nhà nước vì rằng những quan hệ sản xuất bao giờ cũng mang một hình thức pháp lý, chính trị văn hóa. Như vậy một yêu cầu khách quan được đặt ra có tính nguyên tắc đối với các quá trình xác lập, hoàn thiện những quan hệ sản xuất phải dựa trên trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện có. ở nước ta đổi mới đã có những biểu hiện vận dụng chưa đúng quy luật này biểu hiện ở việc chủ quan, nóng vội trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà không tính tới trình độ của lực lượng sản xuất nước ta. Một quan hệ sản xuất tiên tiến không phù hợp với trình độ thấp kém của lực lượng sản xuất, nó đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất nước ta trong một thời gian dài. Từ đổi mới 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nước ta đã lựa chọn con đường phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, bởi lẽ trình độ lực lượng sản xuất nước ta còn thấp kém, không đồng đều. Sự không đồng đều về trình độ của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có sự đa dạng phong phú của các quan hệ sản xuất. b. Lực lượng sản xuất xã hội là yếu tố tiêu biểu cho các thời đại lịch sử xã hội. Trong những hang đá lâu đời nhất, người ta đã tìm thấy những công cụ và những vũ khí bằng đá. Việc sử dụng và sáng tạo những tư liệu lao động tuy đã có mầm mống ở một vài loài vật nào đó nhưng vẫn là đặc trưng nổi bật nhất của lao động con người. Con người đã phát triển tư liệu lao động lên một trình độ cao hơn, ngày càng đáp ứng tốt hơn quá trình sản xuất. Sản xuất phát triển trong tất cả các ngành làm cho sức lao động của con người có khả năng sản xuất được nhiều tư liệu hơn số tư liệu cần thiết cho sinh hoạt của họ, làm tăng sản lượng lao động hàng ngày mà mỗi thành viên của thị tộc, của công xã gia đình hoặc 1 vợ 1 chồng. Trong lúc của cải làm ra nhiều, mở rộng phạm vi sản xuất, tư hữu xuất hiện thì ở những điều kiện lịch sử nhất định sự phân công lao động xã hội lớn đầu tiên tất nhiên sẽ đưa đến chế độ nô lệ. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ hình thành 2 giai cấp chủ nô và nô lệ. Kiểu sản xuất tập thể hay hợp tác theo lối nguyên thủy rõ ràng là sự tất yếu của từng cá nhân riêng lẻ chứ không do xã hội hóa tư liệu sản xuất. Sự phát triển phi thường của công nghiệp và quá trình tập trung cực kỳ nhanh chóng của sản xuất trong các xí nghiệp ngày càng lớn, là một trong những đặc tính đặc sắc nhất của chủ nghĩa tư bản.Giai cấp tư sản trong quá trình thống nhất giai cấp chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra một lực lượng sản xuất bằng tất cả những lực lượng sản xuất của các thế hệ trước cộng lại. Chính giai cấp tư sản là giai cấp đầu tiên đã cho chúng ta thấy hoạt động của loài người có khả năng đến mức nào. Nó tạo ra các kỳ quan khác hẳn thời kỳ cổ đại. Giai cấp tư sản không thể tồn tại nếu không luôn luôn cánh mạng hóa công cụ sản xuất do đó cách mạng hóa quan hệ sản xuất. Điều này trái với tất cả các giai cấp thống trị trước kia thì việc duy trì nguyên vẹn phát triển sản xuất cũ là điều kiện đầu tiên cho sự tồn tại của họ. Chủ nghĩa xã hội là hình thái kinh tế xã hội cao nhất trong lịch sử. Giai cấp công nhân đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến giữa vai trò lãnh đạo xã hội. Khi lực lượng sản xuất đạt đến trình độ xã hội hóa cao thì quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trở lên lỗi thời kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, nó phải được thay thế bằng một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn đó là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội là lực lượng sản xuất tiên tiến, có tính xã hội hóa cao mà đỉnh cao là chủ nghĩa cộng sản khi đó con người làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Mỗi thời đại lịch sử được đặc trưng bởi một phương thức sản xuất nhất định mà trong đó lực lượng sản xuất là yếu tố tiêu biểu cho các thời đại lịch sử xã hội. Xã hội phát triển từ thấp đến cao xét đến cùng cũng là do lực lượng sản xuất quyết định. 2. Lực lượng sản xuất là yếu tố cách mạng nhất của sản xuất Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự thay đổi, phát triển của phương thức sản xuất. Dù hình thức xã hội của sản xuất như thế nào, người lao động và tư liệu sản xuất bao giờ cũng vẫn là những nhân tố của sản xuất. Muốn có sản xuất nói chung thì người lao động và tư liệu sản xuất phải kết hợp với nhau. Con người sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm cho xã hội. Lực lượng sản xuất là yếu tộ động, luôn luôn biến đổi dẫn đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất. Nếu mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thích hợp thì sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Như vậy có thể nói rằng lực lượng sản xuất là yếu tố cách mạng nhất của sản xuất. Trong thực tế lịch sử xã hội loài người, sự phát triển của sản xuất đều được đánh dấu bằng sự tiến bộ không ngừng của lực lượng sản xuất. Các cuộc cách mạng kỹ thuật đã mang lại sự thay đổi vượt bậc của quá trình sản xuất xã hội về cách thức sản xuất, phương thức tổ chức quản lý.. Sự khác nhau giữa một thời đại này với một thời đại kinh tế khác là phương thức chế tạo,là những tư liệu lao động dùng để chế tạo chứ không phải là cái người ta chế tạo ra. Những tư liệu lao động là thước đo sự phát triển của người lao động và là những chỉ số của những quan hệ xã hội trong đó người lao động làm việc. Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội chính là ở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi và do đó phương thức sản xuất cũ được thay thế bằng phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình này diễn ra một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan. 3. Nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. a. Khái niệm Hiện nay nhiều khái niệm khác nhau về nguồn nhân lực. Ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn người (thể lực, trí lực, kỹ năng, nghề nghiệp) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được trong quá trình sản xuất, kinh doanh, hay trong một hoạt động nào đó. Chúng ta có thể hiểu, nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức vị thế xã hội tạo nên năng lực của người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trong những hoạt động xã hội. Khi ta nói tới nguồn lực con người là ta nói tới con người với tư cách là chủ thể hoạt động sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi xã hội. Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực khoa học - công nghệ, nguồn lực con người thì nguồn lực con người là quyết định nhất, bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn lực con người được phát huy. Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt, ngược lại nguồn lực con người ngày càng đa dạng và phong phú. Xã hội muốn phát triển nhanh và bền vững phải quan tâm đào tạo nguồn lực con người và có chất lượng ngày càng cao. Muốn thực hiện được điều đó, cần có sự quan tâm ngay trong quá trình đào tạo, trong quá trình sử dụng và phân công lao động xã hội. - Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đây là giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại để tiến lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là ở các nước có điểm xuất phát thấp từ một nền nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Mục tiêu của nước ta trong thời kỳ quá độ là "Xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Để thực hiện được mục tiêu này, việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế phải được đặt lên hàng đầu. b. Nhân tố người lao động là nhân tố quyết định trong lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất đó là sự kết hợp của hai yếu tố sức lao động của con người và tư liệu sản xuất.Trong đó "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động" [V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxơcơva, 1977, t.38, tr.430] chính người lao động là chủ thể của quá trình lịch sử sản xuất, với sức cạnh tranh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động mà trước hết là công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người ngày càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người không ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của lao động ngày càng cao. Cùng với người lao động thì công cụ thì công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động cũng là sản phẩm do trí tuệ của con người sáng tạo ra. Với quá trình tích lũy kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện và nó đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Từ sự biến đổi và phát triển của hai yếu tố tư liệu lao động và sức lao động mà lực lượng sản xuất không ngừng phát triển. Suy đến cùng nhân tố người lao động chính là nhân tố quyết định nhất trong lực lượng sản xuất. Ngày nay trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Lao động trí tuệ ngày càng đó vai trò chủ yếu, nó thúc đẩy sản xuất phát triển bằng những ứng dụng thành tựu khoa học vào sản xuất. Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không còn là thói quan, kinh nghiệm của họ và là tri thức khoa học. Chủ nghĩa xã hội có được xây dựng thành công hay không, tùy thuộc vào chúng ta có phát huy tốt nguồn lực con người hay không? Khi Việt Nam bước vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng định "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa". [Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.10, tr.310]. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xây dựng trên lĩnh vực kinh tế, người lao động đã trở thành người làm chủ đất nước làm chủ trong quá trình tổ chức quản lý sản xuất, từ việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh tới tổ chức sản xuất kinh doanh và làm chủ trong quá trình phân phối sản phẩm. Điều đó tạo ra điều kiện để phát huy nguồn lực con người, phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, làm cho đất nước ngày càng giàu đẹp. II. Việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa của Việt Nam hiện nay 1. Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước a. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo quan điểm của Đảng ta xác định công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Công nghiệp hóa ở nước ta có đặc điểm phải gắn liền với hiện đại hóa bởi vì cuộc cách mạng khoa học hiện đại đã và đang diễn ra một số nước phát triển bắt đầu nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Do đó chúng ta cần phải tranh thủ ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, tiếp cận với nền kinh tế tri thức để hiện đại hóa những ngành, những khâu những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt. ở nước ta công nghiệp hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội; tăng cường sức mạnh để bảo vệ độc lập dân tộc. Mục tiêu tổng quát của sự nghiệp công nghiệp hóa của nước ta được Đảng cộng sản Việt Nam xác định tại Đại hội lần thức VIII và tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần thứ IX là "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa" b. Vai trò của nguồn nhân lực đối với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Theo thống kê của Liên Hợp Quốc đến nay đã có tới 30 nước hoàn thành công nghiệp hóa. Một lợi thế cho những người đi sau là có sẵn vô vàn bài học thành công và thất bại của những người đi trước. Người ta đã tổng kết và kể ra rất nhiều con đường công nghiệp hóa khác nhau: Công nghiệp hóa cổ điển và phi cổ điển. Công nghiệp hóa cổ điển đây là kiểu công nghiệp hóa mà các nước Tây Âu và Mỹ đã thực hiện ở thế kỷ 18, 19. - Công nghiệp loại 2: phi cổ điển là của các nước đi sau tiến hành công nghiệp hóa một cách chủ động theo định hướng của Chính phủ. Nước ta đi theo con đường này, và con đường này có xu hướng rút ngắn thời gian hoàn thành. Nói tới công nghiệp hóa - hiện đại hóa người ta đến vốn và công nghệ hiện đại. Nhưng điều đó chỉ hoàn toàn đúng với con đường công nghiệp hóa cổ điển, kinh nghiệm của các nước công nghiệp hóa con đường thứ hai cho thấy hoàn toàn không phải như vậy mà nhân tố quan trọng nhất chính là con người Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là con đường duy nhất để phát triển nền kinh tế - xã hội đối với bất cứ quốc gia nào nhất là các nước chậm phát triển và đang phát triển. Trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa, con người - nguồn nhân lực với tư cách là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội. Chính là yếu tố quyết định nhất, động lực cơ bản nhất. Thực tế đã chứng minh nguyên nhân dẫn đến sự thành công của các quốc gia vùng lãnh thổ có nền công nghiệp phát triển ở Châu á. Họ đã có chính sách ưu tiên phát triển giáo dục hợp lý tạo ra nguồn nhân lực có tay nghề, chuyên môn kỹ thuật cao đáp ứng tốt cho công nghiệp hóa. Nếu như công nghiệp hóa của các nước Châu Âu kéo dài gần 100 năm thì các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo chỉ mất hai ba mươi năm đã xây dựng được một nền công nghiệp hiện đại. Rò ràng nguồn nhân lực trở thành yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng mang tính quyết định nhất đối với sự phồn thịnh của quốc gia. Đảng ta xác định nhân tố con người chính xác là vốn con người, vốn nhân lực bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc là vốn quý nhất, quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì thế giải phóng tiềm năng con người, để phát huy tối đa nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa là một trong những quan điểm đổi mới có tính đột phá trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng đã được Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 - Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII xác định xây dựng với những đức tính "Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật sáng tạo, năng suất cao. Vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội, thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực". 2. Tính tất yếu khách quan phải phát triển và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả ở nước ta hiện nay a. Yêu cầu ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ điều kiện một nền kinh tế thấp kém, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Dù miền Bắc đã có hơn 50 năm và cả nước đã có trên 30 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng một phần lớn thời gian vẫn là tình trạng "một chủ nghĩa xã hội thời chiến". Bên cạnh thành tựu to lớn phục vụ cho công cuộc kháng chiến và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thì chúng ta cũng mắc phải những khuyết điểm nghiêm trọng trong tổ chức quản lý, những năm 80 lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Sau 20 năm đổi mới nền kinh tế đã có những thay đổi quan trọng, đã tương đối ổn định và phát triển tạo nên thế và lực mới của cách mạng nước ta, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế. Tuy nhiên, trình độ lực lượng sản xuất kém phát triển đang còn là cản trở chủ yếu của việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà quan hệ sản xuất này vốn mang bản chất xây dựng hoá nền sản xuất xã hội. Người lao động yếu tố động nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Dân số nước ta thuộc loại dân số trẻ, tốc độ gia tăng dân số cao, số người trong độ tuổi lao động lớn tạo nên sức ép trên thị trường lao động thể hiện tỉ lệ thất nghiệp năm 2004 là 5,6% lao động trong khu vực nông thôn vẫn chiếm tỷ lệ lớn, năm 2004 lực lượng lao động nông thôn có 32,7 triệu người chiếm tỷ lệ 15,6% lực lượng lao động cả nước, trong đó khi lực lượng lao động thành thị là 10,55 triệu người chiếm 24,4% [Nguyễn Tiệp - Phát triển thị trường lao động nước ta các năm 2005 - 2010 - Nghiên cứu kinh tế 326 - tr 52]. Tỷ lệ lao động qua đào tạo của ta còn thấp chủ yếu vẫn là lao động giản đơn. Thiếu công nhân kỹ thuật lành nghề và lành nghề cao; chưa có tác phong công nghiệp, cơ cấu cấp trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động qua đào tạo còn bất hợp lý (năm 2003 Cao đẳng, đại học và trên đại học trung học chuyên nghiệp - công nhân kỹ thuật là 1- 0,9 -2,7). Chất lượng đào tạo nguồn nhân lực còn nhiều yếu kém, chương trình học không phù hợp với thực tế của thị trường lao động. Sinh viên học thụ động, thiếu tính sáng tạo. Các trường đào tạo nghề sử dụng các máy móc đã lỗi thời, lạc hậu mà thực tế đã không còn sử dụng. Chất lượng thì đã vậy, lại kết hợp thêm việc phân bổ, sử dụng nguồn nhân lực bất cập, thiếu đồng bộ càng tăng thêm mâu thuẫn về cung cầu nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa thừa lao động giản đơn nhưng lại thiếu nghiêm trọng lao động có trình độ, gây rất nhiều khó khăn cho việc phát triển về nhiều mặt ở vùng này. Những nơi cần thì không có, còn những nơi đã có nhiều rồi như ở các thành phố lớn thì lại càng nhiều thêm gây ra một sự lãng phí rất lớn cho xã hội. Trước thực trạng đó việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả cao là một vấn đề bức thiết. Nguồn nhân lực chính là yếu tố quyết định thành công của công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, nhất là trong thời đại của khoa học công nghệ hiện nay. Người lao động nước ta có động lực học tập tốt, thông minh, tự tin cao, khéo léo, có thể thành giỏi nếu được giáo dục, tự tin và cần có một môi trường thuận lợi để phát huy. b. Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực cũng là yêu cầu và xu thế chung của thế giới. Ngày nay khi loài người đã bước vào cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 3 thì nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Các nước công nghiệp phát triển đã chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Hàm lượng chất xám trong các sản phẩm làm ra ngày càng tăng lên. Khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, nhanh chóng được ứng dụng vào quá trình sản xuất tạo ra khối lượng sản phẩm đồ sộ. Các sản phẩm này ngày càng tiến tới phục vụ tối đa cho nhu cầu của con người. Nhiều ngành sản xuất mới, máy móc thiết bị, công nghệ mới, các nguồn năng lượng mới ra đời tạo bước phát triển nhảy vọt cho lực lượng sản xuất. Suy đến cùng những thành tựu ấy đều ra con người sáng tạo ra, con người đóng vai trò chủ thể. Chính vì thế xu thế phát huy yếu tố, nguồn nhân lực là xu thế chung toàn cầu. Nguồn nhân lực có chất lượng cao về trí tuệ và tay nghề ngày càng trở thành một lợi thế cạnh tranh cho mỗi quốc gia. Nếu nguồn nhân lực chỉ hàm chứa lao động giản đơn thì sẽ là một sức ép đối với quá trình tăng trưởng và phát triển ở các nước chậm phát triển. Nguồn nhân lực có dồi dào hay không là do chính sách đào tạo. Nước Mỹ rất có ý thức chuẩn bị nguồn nhân lực trong mối quan hệ phát triển. Cựu tổng thống Mỹ George Bush nhấn mạnh làm cho học sinh Mỹ chiếm hàng đầu thế giới về kết quả các môn toán và khoa học tự nhiên, làm cho nước Mỹ có văn hóa và kỹ năng cần thiết để có khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, những chuẩn mực về kĩ năng và năng suất lao động, về hiệu quả kinh tế, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh ngày càng phụ thuộc vào việc vận dụng những tiến bộ công nghệ và tri thức khoa học. Chỉ có con người làm chủ được tiến bộ công nghệ và tri thức khoa học mới. Đào tạo phát triển nguồn nhân lực đáp ứng đòi hỏi mới trở thành quốc sách hàng đầu với các quốc gia. Các nước phát triển lợi dụng ưu thế về vốn, kỹ thuật, đẩy nhanh đào tạo nhân tài, tranh giành người tài với các nước khác. Các nước đang phát triển tăng cường đầu tư kinh phí cho khoa học công nghệ giáo dục đào tạo nhân tài, đồng thời ngăn ngừa chảy máu chất xám bằng những chính sách ưu đãi thích hợp. Chính phủ ấn Độ đầu tư 1,1% tổng sản phẩm kinh tế quốc dân, 87% tổng đầu tư khoa học công nghệ cho đào tạo [Định hướng phát triển đội ngũ tri thức Việt Nam - tr.57]. Sau chiến tranh thế giới thứ II, Nhật Bản là nước bại trận bị chiến tranh tàn phá nặng nề nhưng quốc gia này vẫn khẳng định sự lựa chọn truyền thống trong giáo dục. Hệ thống giáo dục Nhật Bản được ưu tiên trên nhiều khía cạnh, được sự quan tâm tạo điều kiện của gia đình và xã hội. Hàn Quốc bị ảnh hưởng nhiều của nền văn hóa Nho học Trung Hoa nên rất chú trọng phát triển giáo dục. Nhờ đó đầu tư trong giáo dục của Hàn Quốc không ngừng tăng lên trong 50 năm qua. Đối với Trung Quốc, họ có chính sách mạnh dạn tìm người tài. Trước mắt Trung Quốc đang thực hiện việc phát hành "thẻ xanh", một loại thẻ dành cho những kỹ thuật viên, các nhà đầu tư, các nhà doanh nghiệp với đặc quyền vào Trung Quốc không cần visa. Trước xu thế chung của thế giới, chúng ta không thể đứng ngoài cuộc. Trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa phát triển kinh tế đất nước chúng ta cần hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Nước ta tham gia vào rất nhiều các tổ chức kinh tế như ASEAN, APEC và đặc biệt khi gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO thì tính cạnh tranh của nền kinh tế phải được nâng cao. Do đó việc nắm được khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại để chủ động trong quá trình sản xuất, kinh tế đối ngoại rất quan trọng, chúng ta phải xác định rõ ràng những chính sách thích hợp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. 3. Những giải pháp để phát triển và sử dụng nguồn nhân lực nước ta hiện nay a. Giảm tỷ lệ gia tăng dân số tạo điều kiện để nguồn nhân lực phát huy tốt Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII nhận định "Gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, gây khó khăn lớn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế phát triển về trí tuệ, văn hóa và thể lực của giống nòi. Nếu xu hướng này cứ tiếp tục diễn ra thì trong tương lai không xa đất nước ta sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí những nguy cơ về nhiều mặt". Trong những năm qua tốc độ gia tăng dân số ở nước ta đã giảm chỉ còn dưới 2%. Nhà nước thực hiện kế hoạch hóa gia đình, mỗi gia đình chỉ có 1-2 con để nuôi dạy cho tốt. Thế nhưng từ năm 2003 dân số nước ta lại có dấu hiệu tăng nhanh trở lại, vì vậy trong giai đoạn tới chúng ta vẫn phải tiếp tục thực hiện chính sách kế hoạch hóa dân số và gia đình để trong tương lai đảm bảo tốc độ tăng dân số trong độ tuổi lao động hàng năm hợp lý, hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao, tiến tới cân bằng cung và cầu lao động. b. Nâng cao hiệu quả của hệ thống giáo dụcđào tạo Phát triển giáo dục, đào tạo lao động giải pháp có tính chiến lược lâu dài để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển cung lao động chuyên môn kỹ thuật trên thị trường lao động. Giáo dục đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Các giải pháp cụ thể là: Đối với các trường Cao đẳng, Đại học, trung học chuyên nghiệp cần hoàn thiện chuẩn mực quốc gia về trường, lớp, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy, nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng đào tạo trong toàn hệ thống. Phân bố hợp lý các trường đào tạo, các cấp trình độ trên các vùng trong phạm vi cả nước. - Mở rộng và nâng cấp hệ thống dạy nghề cho người lao động ở 3 cấp trình độ: sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề và liên thông giữa các trình độ, đồng thời chuyển sang đào tạo theo định hướng cầu lao động, đào tạo gắn với sử dụng, gắn với nhu cầu của sản xuất, cung cấp lao động có chất lượng về tay nghề, sức khỏe, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp và các phẩm chất khác để đáp ứng được thị trường trong nước và nước ngoài. - Đa dạng hóa các loại hình trường, lớp, dạy nghề của Nhà nước, của tư nhân và quốc tế, hình thành thị trường dạy nghề phù hợp với pháp luật. - Thực hiện quy hoạch, đầu tư tập trung vào hệ thống dạy nghề kỹ thuật thực hành. Quan tâm xây dựng hệ thống trường dạy nghề trọng điểm quốc gia, trường cao đẳng dạy nghề, trong đó có các trường đạt tiêu chuẩn khu vực; các tỉnh, thành phố đều có trung tâm dạy nghề, phát triển cơ sở dạy nghề ngoài công lập. Bằng nhiều hình thức đa dạng đảm bảo cho mọi người được học nhất là người nghèo và con em các gia đình thuộc diện chính sách. Động viên phong trào toàn dân thi đua xóa mù chữ, hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, trung học phổ thông. Cùng với đổi mới nội dung giáo dục theo hướng cơ bản, hiện đại, phải tăng cường giáo dục công dân, giáo dục thế giới quan khoa học, lòng yêu nước, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. c. Nhà nước quan tâm đến chính sách quốc gia về việc làm, nâng cao đời sống cho người lao động, tránh tình trạng chảy máu chất xám. Nhà nước tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật kinh doanh, tạo môi trường thuận lợi cho các khu vực kinh tế phát triển, khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân làm giàu chính đáng. Đặc biệt là tạo môi trường đầu tư, chuyển giao công nghệ, hợp tác quốc tế để phát triển một bộ phận lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ với công nghệ hiện đại. Thực hiện định hướng của Chính phủ là đến năm 2010, cả nước có khoảng 500 nghìn doanh nghiệp, giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động. Tiếp tục cải cách khu vực kinh tế Nhà nước, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thúc đẩy các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả, tạo mở thêm việc làm cho người lao động, phát triển các tập đoàn kinh tế Nhà nước trong những ngành sản xuất, dịch vụ quan trọng, kinh doanh ở phạm vi toàn cầu như: hàng không, dầu khí, điện lực, viễn thông vận tải viễn dương, ngân hàng, bảo hiểm,.. để tạo sự thu hút lao động chuyên môn kỹ thuật. Đẩy mạnh các hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI, ODA) để đổi mới công nghệ, tạo ra thêm nhiều việc làm nâng cao trình độ tay nghề của người lao động. Khuyến khích Việt kiều chuyển tiền về nước để tăng thêm vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, tạo mở thêm việc làm cho người lao động. Thực tế đã cho thấy rằng nguồn vốn này khá lớn, năm 2004 số tiền việt kiều chuyển về nước gần ngang bằng vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta. Bên cạnh việc tạo mở thêm việc làm cho người lao động, đồng thời cũng đi đôi với nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động. Người lao động được quan tâm đến cả đời sống vật chất và tinh thần. Họ cần được quan tâm chăm lo cho việc ăn, việc ở ngày càng tốt hơn, các doanh nghiệp khám bệnh cho người lao động định kỳ để đảm bảo tốt sức khỏe có thể lao động tốt. Người lao động có thời gian vui chơi, giải trí để tái sản xuất sức lao động. Khi mà những nhu cầu về chất, tinh thần của họ được đảm bảo thì họ có thể chuyên tâm vào hoạt động sáng tạo, đảm nhiệm tốt công việc của mình. Hiện nay tình trạng chảy máu chất xám ở nước ta rất đáng lo ngại. Nhân tài đang có xu hướng muốn làm việc ở các nước có nền kinh tế phát triển, ở đó họ được đáp ứng tốt về điều kiện làm việc cũng như sinh hoạt gấp hàng chục lần trong nước. Mất mát về người tài có nguy cơ làm cho nền kinh tế nước ta khó mà phát triển nhanh chóng. Chúng ta cần có chính sách khuyến khích họ như tạo điều kiện về nhà ở, trả lương cao với đúng năng lực của họ và cung cấp mọi cơ sở vật chất tốt nhất để họ có thể phát huy năng lực cống hiến cho công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Chính sách này đã được áp dụng ở một số tỉnh, thành phố và thu được những tín hiệu đáng mừng, tuy nhiên cần phải được đẩy mạnh hơn nữa. Kết luận Chưa bao giờ trong lịch sử, nhân tố con người lại đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế như thời đại ngày nay. "Máy móc không chỉ thay thế lao động cơ bắp mà còn nhân lên sức mạnh trí tuệ con người, lực lượng sản xuất chuyển từ dựa vào vật chất sang dựa nhiều hơn vào trí lực và sức sáng tạo của con người, sức sáng tạo của con người là vô hạn, tài nguyên là hữu hạn. Cho nên kinh tế dựa vào tri thức mở ra những triển vọng to lớn, những khả năng vô hạn của con người, giải quyết những vấn đề cơ bản và cấp bách mà mình đang phải đối mặt". [Đặng Hữu - Phát triển bền vững dựa trên tri thức - Tạp chí lý luận chính trị/số 11 - 2004. tr 9 - 10]. Việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ đã được Đảng và Nhà nước ta xác định đúng hướng. Trong điều kiện nước ta hiện nay để chiến lược phát triển theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa đến thắng lợi, chúng ta phải lấy nguồn nhân lực con người Việt Nam - nguồn nhân lực quan trọng nhất làm động lực cho sự phát triển lâu bền. Để bồi dưỡng và phát h Tuy nguồn lực con người Việt Nam với tư cách đó, chúng ta cần tạo ra mối quan hệ hài hóa giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội tạo ra mối quan hệ hài hòa giữa lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, lợi ích quốc gia, dân tộc và lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân không ngừng nâng cao trình độ học vấn cho người lao động mang tầm quốc tế, xây dựng con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa tiên tiến nhưng vẫn luôn coi trọng những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc, không đánh mất mình. Từ đó xây dựng và phát triển Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tạo cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9676.doc
Tài liệu liên quan