Cở sở lý luận và thực tiễn của cách mạng khoa học công nghệ ở nước ta hiện nay

Cở sở lý luận và thực tiễn của cách mạng Kh- cn ở nước ta hiện nay Mục lục A. Phần mở đầu B. Nội dung chính I.cở sở lý luận và thực tiễn của cách mạng Kh- cn ở nước ta hiện nay . 1.Sự cần thiết phải phát triển KH- CN 2 Nội dung KH-CN và hướng tác động của KH- CN ở Việt Nam a. Nội dung KH-CN b. Hướng tác động của KH-CN 3.Vai trò của khoa học công nghệ a.Với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn và phát triển nông thôn . b.Mối quan hệ giữa KH- CN với sản xuất vật chất c.Khoa học – công nghệ đã nhanh chóng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp ở nước ta 4. Các nguồn lực để phát triển KH- CN a. Chăm lo phát triển nguồn nhân lực KH- CN b. Bảo đảm nguồn vốn cho sự phát triển KH- CN II Thực trạng KH- CN Việt Nam. 1.Thành công 2.Hạn chế 3.Nguyên nhân III Một số giải pháp . C. Kết luận.

doc31 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2102 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cở sở lý luận và thực tiễn của cách mạng khoa học công nghệ ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o ra nhiều năng lượng mới và sử dụng chúng rộng rãi trong sản xuất như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời. Ba là, cách mạng về vật liệu mới : ngày nay ngoài việc sử dụng các vật liệu tự nhiên, con người ngày càng tạo ra nhiều vật liệu tự nhiên, con người ngày càng tạo ra nhiều vật liệu nhân tạo mới thay thế có hiệu quả cho các vật tự nhiên khi mà các vật liệu tự nhiên đang có xu hướng ngày càng cạn dần . Bốn là, cách mạng về công nghệ sinh học, các thành tựu của cuộc cách mạng này đang được áp dụng rông rãi trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hoá chất, bảo vệ môi trường sinh thái. Năm là, cách mạng về điện tử và tin học : đây là lĩnh vực hiện nay loài người đang đặc biệt quan tâm trong đó phải kể đến lĩnh vực máy tính điện tử. Như vậy, khoa học công nghệ ngày nay bao gồm một phạm vi rộng, nó không chỉ là các phương tiện, thiết bị do con người sáng tạo ra mà còn là các bí quyết biến các nguồn lực có sẵn thành sản phẩm. Với ý nghĩ đó khi nói tới công nghệ thì sẽ cũng bao hàm cả kỹ thuật. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khoa học, kĩ thuật luôn gắn bó chặt chẽ với nhau : khoa học là tiền đề trực tiếp của công nghệ và công nghệ lại là kết quả của khoa học. b.Về hướng tác động của KH- CN Tập trung nỗ lực tiến hành cải tạo, đồng bộ, hoá và hiện đại hoá có chọn lọc các cơ sở sản xuất hiện có Tuy cơ sở vật chất- kỹ thuật có của nước ta còn nhỏ bé, trình độ công nghệ, kỹ thuật vào loại lạc hậu, hệ số sử dụng thiết bị và công suất còn thấp. Bởi vậy, nguồn dự trữ còn khá lớn và dưới nhiều góc độ, đây thật sự đang là nguồn vốn quý của đất nước và phải bắt đầu từ đây để đi lên Chủ động sử dụng có chọn lọc một số hướng công nghệ tiên tiến phù hợp với thế mạnh của đất nước nhằm chuẩn bị điều kiện phát triển các ngành có hàm lượng công nghệ cao ở nước ta, cùng với việc tập trung nỗ lực KH- CN khai thác có hiệu quả cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện có, cũng cần phải chăm lo, dành một số phần tiềm lực dư lớn cho việc thử nghiệm, lựa chọn một sồ hướng công nghệ cao phù hợp để một mặt, hỗ trợ cho việc giải quyết có hiệu quả hơn, mặt khác thúc đẩy việc hình thành một số lĩnh vực sản xuất công nghệ cao với quy mô phù hợp để tạo ta các sản phẩm thay thế nhập và tạo chỗ đứng trên thị trường quốc tế. Trong số những hướng công nghệ cao, cần quan tâm đầy đủ tới khâu tin học hoá một số lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội. Cần có quyết tâm trong việc đầu tư phát triển một số lĩnh vực sản xuất gắn với các hương ưu tiên của chương trình tổng hợp tiến bộ KH- CN. Đó là dịp tốt để VN tham gia vào phân công lao động quốc tế về một số sản phẩm có hàm lượng khoa học cao Thúc đẩy việc nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của các xí nghiệp nhỏ, của khu vực tiểu thủ công nghệp cả ở thành thị và nông thôn. Kinh nghiệm thực tiễn chỉ ra rằng để có thể thực hiện có hiệu quả chiếm lược này, việc nhanh chóng khắc phục sự lạc hậu về công nghệ, sự yêú kém về năng lực quản lý, sự thiếu hụt về lực lượng lao động có kỹ thuật là yêu cầu bức bách phải giải quyết .Bởi vậy việc giành một phần nỗ lực đủ mạnh hướng vào việc giải quyết các nhu cầu khoa học và công nghệ phục vụ phát triển công nghiệp nông thôn có tầm quan trọng đặc biệt Những phân tích nêu trên đã tới gợi ý quan trọng là chiến lược phát triển khoa học và kỹ thuật không thể không quan tâm đến việc nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ ,cải tiến .. và nên coi đây là một hướng có ý nghĩa chiến lược cả trước mắt và lâu dài . Kết hợp hữu cơ việc tập trung nỗ lực giải quyết các vấn đề trước mắt và tiếp tục tăng cường tiềm lực khoa học và kỹ thuật nhằm đáp ứng những yêu cầu mới của giai đoạn phát triển tiếp theo 3.Vai trò của khoa học công nghệ Trong thời đại ngày nay, có lẽ không còn ai không nhận thức được rằng khoa học và công nghệ có vai trò rất quan trọng về nhiều mặt đối với sự phát triển. Khoa học và công nghệ là cái không thể thiếu được trong đời sống kinh tế – văn hoá của một quốc gia. Vai trò này của khoa học và công nghệ càng trở lên đặc biệt quan trọng đối với nước ta đang trên con đường rút ngắn giai đoạn phát triển để sớm trở thành một xã hội hiện đại. Ngay từ khi bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã xác định khoa học và công nghệ là cái giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao trình độ quản lý, bản đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, văn minh, khoa học và công nghệ phải trở thành “quốc sánh hàng đầu”. Nước ta đang bước vào một thời kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy mạnh CNH- HĐH. Nghị quyết Trung ương hai của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã xác định rõ :”CNH- HĐH đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ” “khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho CNH- HĐH”. Chỉ bằng con đường CNH- HĐH, phát triển khoa học và công nghệ mới có thể đưa nước ta từ nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước giàu mạnh văn minh. Việc đưa khoa học và công nghệ, trước hết là phổ cập những tri thức khoa học và công nghê cần thiết vào sản xuất và đời sống xã hội là một nhu cầu cấp thiết của xã hội ta hiện nay. Vai trò của KH- CN đối với một số lĩnh vựcnhư sau: a.Với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn và phát triển nông thôn Gần 15 năm qua sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã đạt được những thành tựu to lớn góp phần quan trọng ổn định và phát triển kinh tế xã hội đưa nước ta bước sang giai đoạn mới đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Tuy nhiên cho đến nay với gần 80% dân số của cả nước sống ở nông thôn, trong đó tỷ lệ đói nghèo vẫn còn trên 17%, có nơi như ở một số huyện miền núi còn trên 35%. Mặt khác cũng do nền kinh tế nước ta mới bước đầu chuyển từ nền sản xuất theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nên năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản, hàng hoá còn rất thấp so với nhiều nước trong giới khu vực và thế. Điều đó làm cho thu nhập và tích luỹ của đại bộ phận dân cư nông thôn còn bấp bênh, sức mua có khả năng thanh toán về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng đều rất hạn chế, gây ảnh hưởng lớn đến sự chuyển dịch cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế, đồng thời gây cản trở việc, phát triển công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn So với các giải pháp khác, thì giải pháp về khoa học và công nghệ yêu cầu vốn đầu tư không quá lớn mà đem lại hiệu quả cao. Theo đánh giá chung, trong nông nghiệp ước tính 1/3 giá trị tăng của sản xuất lương thực thời gian vừa qua là do người dân tiếp thu, ứng dụng các tiến bộ khoa học và kỹ thuật mới vào sản xuất Tuy nhiên, tiềm lực về KH- CN của nước ta chưa được phát huy đầy đủ cho sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhiều vấn đề bức xúc của sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đặt ra đối với các lực lượng KH- CN đến nay chưa giải quyết được, trong đó đáng lưu ý hơn cả là : - Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là nội dung quan trọng trong quá trình thực hiên CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, mà sự chuyển đổi đó phụ thuộc vào việc tổ chức áp dụng thành tựu KH- CN vào sản xuất và các chính sách thúc đẩy phát triển sản xuất. Chỉ trên cơ sở có đủ giống tốt và các tiến bộ kỹ thuật khác, kết hợp với việc phát triển các quan hệ thị trường đúng hướng mới có thể chuyển cơ cấu sản xuất nông nghiệp từ thuần nông, độc canh sang đa dạng hoá cây trồng. Hiện nay việc chuyển đổi kinh tế nông thôn từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ mới chỉ xuất hiện ở một số ven vùng có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, có trình độ dân trí cao, có khả năng tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật -Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm, thuỷ sản hàng năm tuy chiếm gần 40% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước, nhưng nhìn chung, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới, khiến cho các sản phẩm làm ra tiêu thụ khó khăn, ảnh hưởng bất lợi đến thu nhập của người sản xuất. KH-CN chưa có sự tác động cần thiết và hiệu quả bản đảm tính ổn định, bền vững của nông sản hàng hoá khi gặp phải rủi ro của thiên tai và thị trường - Phát triển công nghệ chế biến là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình thực hiện CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn, nhưng phát triển công nghiệp, chế biến như thế nào lại là vấn đề bức xúc đang đòi hỏi nghiên cứu và làm rõ - Gần đây, Nhà nước tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp, nông thôn. Hiện có rất nhiều vấn đề về kỹ thuật để bảo đảm hiệu quả vốn đầu tư của nhà nước chưa được giải quyết tốt. Do đó, nông nghiệp, nông thôn đang rất cần có sự tác động của lực lượng KH- CN Tình hình trên khẳng định vai trò của KH- CN trong quá trình thực hiện CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay và đó cũng chính là những yêu cầu bức xúc đặt ra đối với các nhà khoa học vì sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, để huy động được các lực lượng KH- CN phục vụ nông nghiệp, nông thôn, chú ý các vấn đề về tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành và các chính sách tác động, trong đó cốt lõi là giải quyết hợp lý lợi ích cho người làm nghiên cứu, triển khai các thành tựu của KH-CN b.Mối quan hệ giữa KH- CN với sản xuất vật chất Khoa học có nguồn gốc, bản chất, chức năng sứ mạng từ đời sống thực tiễn của xã hội, con người. Nó không phải là bản thân công cụ lao động và sức lao động, nhưng cũng không nằm ngoài thành tố quan trọng nhất là lực lượng sản xuất. Nó không thay thế, nhưng nó có thể làm thay đổi mạnh mẽ, nhanh chóng tính năng hiệu lực của công cụ lao động, sức lao động và do đó, phương thức con người tác động đến giới tự nhiên theo chiều hướng ngày càng tăng cường sức mạnh, vai trò và tự do của con người trước thiên nhiên. Tuy nhiên, với tính cách là sản phẩm, giá trị đã được sáng tạo ra, đã có sẵn, thì khoa học không còn là kết quả, mà lại đóng vai trò như một trong những nguyên nhân, động lực bên trong, trực tiếp thúc đẩy mạnh nhất sự phát triển lực lượng sản xuất Trong điều kiện “ thông tin hoá “, “toàn cầu hoá” của đời sống xã hội và kinh tế thế giới ngày nay, nhiều thành tựu của cuộc cách mạng KH- CN có thể được chuyển giao tiếp nhận tương đối nhanh chóng, dễ dàng, tạo ra cơ hội khách quan thuận lợi cho sự phát triển đột biến, nhảy vọt và bứt phá về kinh tế ở những dân tộc, quốc gia, hay khu vực nhất định trong những thời điểm, thời kỳ hay giai đoạn nhất định. Nhưng để tranh thủ tân dụng và phát huy được hết tiềm năng của cơ hội bên ngoài này thì điều kiện tất yếu và tối thiểu là ở bên trong phải chuẩn bị xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và bồi dưỡng nhân tố con người lao động ở một nức độ tương ứng, thích đáng. Kinh nghiệm thế giới về việc giải quyết mối quan hệ “ con người- tư kiệu sản xuất- khoa học” một cách cân đối, hài hoà để tạo ra hiệu quả tổng hợp tối đa và tối ưu về kỹ thuật là khá toàn diện và phong phú Việc xây dựng rõ vị trí tương quan vai trò và ảnh hưởng của KH- CN trong hệ thống các thành tố lực lượng sản xuất như trên đã đồng thời làm sáng tỏ giới hạn tác động của nó về mặt xã hội. Sự phát triển của khoa học không trực tiếp dẫn tới sự thay đổi quan hệ sản xuất và chế độ sở hữu. Trái lại, vai trò “ cách mạng hoá “ của khoa học đối với việc thúc đẩy sự tăng trưởng của lực lượng sản xuất lại bị chế ước bởi một quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng xã hội nhất định. Nói cách khác, tiềm năng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển của khoa học là vô tận, nhưng mức độ, giới hạn hiện thực hoá tiềm năng này lại phụ thuộc “ khuôn khổ “ của quan hệ sản xuất thống trị Tuy nhiên, sự phát triển như vũ bão của cách mạng KH- CN hiện đại đang diễn ra từng ngày, từng giờ ở khắp mọi nơi trên thế giới đã có tác dụng cụ thể. Sức tiến công vũ bão của phong trào giải phong dân tộc, giai cấp tư sản đã chủ động ra sức đẩy mạnh cuộc cách mạng KH- KT, sử dụng các thành quả của nó để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế một cách thành công Tuy không lạc quan đến mức vội vã và ngộ nhận mà cho rằng, cuộc cách mạng KH- CN hiện đại sẽ tự động và trực tiếp đưa ngay đến một xã hội thực sự là “ hậu TBCN “, nhưng chúng ta vẫn có thể ghi nhận những thành tựu lớn lao của cuộc cách mạng này và có đủ cơ sở để tin tưởng rằng, những thành tựu ấy trong hôm qua, hôm nay và ngày mai đều góp phần thiết thực thúc đẩy CNTB đi nhanh hơn tới điểm kết thúc không thể tránh khỏi. c.Khoa học – công nghệ đã nhanh chóng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp ở nước ta Việc khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là dự đoán thiên tài của C.Mác. Dựa trên cơ sở phân tích rõ vai trò của khoa học trong sự phát triển của công nghiêp, ông đã kết luận : Việc biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp là một quy luật khách quan của sự phát triển xã hội. Ngày nay dự đoán ấy đang trở thành hiện thực trong nhiều nước công nghiệp phát triển Khoa học là một hệ thống tri thức được tích luỹ trong quá trình lịch sử và được thực tiễn kiểm nghiệm, phản ánh những quy kuật khách quan của thế giới bên ngoài cũng như hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có năng lực cải tạo thế giới Như vậy, khoa học là” văn hoá biết”, còn sản xuất, kỹ thuật, công nghệ là “ văn hóa làm “. Từ “biết” đến “ làm “ có một khoảng nhất định nhưng không hề có bức tường nào ngăn cản tuyệt đối cả. Khoảng cách ấy có thể bị rút ngắn và được rút ngắn đến đâu là tuỳ thuộc ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của kỹ thuật, công nghệ và khoa học Khoa học là kết quả nghiên cứu của quá trình hoạt động thực tiễn, nhưng đến lượt mình nó lại có vai trò to lớn tác động mạnh mẽ trở lại hoạt động sản xuất. Do đó con người hoàn toàn có khả năng biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong thực tế, sự phát triển của khoa học đã giúp con người tăng cường sức mạnh trong quá trình chinh phục tự nhiên, sử dụng có hiệu quả những sức mạnh của nó. Nếu không có sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, làm sao con người có thể tạo ta năng lượng hạt nhân, phóng tàu vũ trụ lên thám hiểm các hành tinh, hay sản xuất ra máy tính điện tử và người máy công nghiệp thay thế nhiều hoạt động phức tạp của mình. Khi còn ở trình độ thấp, khoa học tác động tới kỹ thuật và sản xuất còn rất yếu, nhưng đã phát triển đến trình độ cao như ngày nay thì nó tác động mạnh mẽ và trực tiếp tới sản xuất. Kỹ thuật và công nghệ là kết quả sự vận dụng những hiểu biết, tri thức khoa học của con người để sáng tạo, cải biến các công cụ, phương tiện phục vụ cho hoạt động sản xuất và các hoạt động khác của xã hội. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì dứt khoát phải gắn liền với kỹ thuật và công nghệ. Song như thế chưa đủ. Khoa học còn phải được người lai động tiếp thu vận dụng để nâng cao kỹ năng, kỹ xảo lao động, phát triển tư duy kinh tế nhanh nhạy, trau dồi đạo đức, lối sống, v..v, mới có thể trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và mạnh mẽ. Người lao động là chủ thể sử dụng các phương tiện kỹ thuật. Do đó họ không thể sử dụng được các phương tiện hiện đại để lao động tốt nếu có trình độ học vấn thấp và không được đào tạo, hay đào tạo kém. Có thể nói, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp vì mấy lẽ sau: 1. Nền sản xuất hiện nay đang phát triển mạnh mẽ, ngày càng có tính chất quốc tế cao, biến động mau lẹ, phức tạp đang đặt ra nhiều vần đề, mà thiếu khoa học thì không thể giải quyết và phát triển nhanh chóng được. Đồng thời bản thân nền khoa học hiện đại cũng đã phát tiển đến mức có đủ điều kiện để có thể giải quyết được những vấn đề của sản xuất. 2.Ngày nay các máy móc kỹ thuật, công nghệ ngày càng hiện đại, tinh vi và có hàm lượng trí tuệ cao, thị trường mở rộng, phong phú, phức tạp và đầu biến động, hợp tác giao lưu nhưng cạnh tranh giữa các quốc gia cũng gay gắt. Muốn sản xuất đạt chất lượng và hiệu quả cao, người lao dộng không thể chỉ dừng lại ở những kinh nghiệm cảm tính, mà còn rất cần có nhiều tri thức khoa học, kỹ thuật và kinh tế. Mặt khác, khoa học phải được con người vận dụng vào hoạt đông thực tiễn sản xuất, hình thành nên những thao tác công nghệ, kỹ năng,… hợp thành năng lực sáng tạo mới trở thành một lực lượng vật chất. 3. Kỹ thuật công nghệ hiện đại phải có khoa học định hướng, dẫn đường và làm cơ sở lý thuyết mới có thể phát triển nhanh. Đồng thời các lý thuyết khoa học phải được vật chất hóa thành các phương tiện kỹ thuật, công nghệ hiện đại mới tác động trực tiếp tới lực lượng sản xuất. 4.Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật- công nghệ hiện đại, thời gian để một lý thuyết khoa học đi vào thực tế sản xuất, trực tiếp tạo tra sản phẩm hàng hoá đang ngày càng được rút ngắn 4. Các nguồn lực để phát triển KH- CN a. Chăm lo phát triển nguồn nhân lực KH- CN Nhân tố con người Nhân tố con người, đã và đang là điều kiện quyết định trong sự nghiệp phát triển KH- CN của nước ta. Thành công của chúng ta là ở chỗ đã tạo ta một lực lượng cán bộ KH- CN ban đầu tương đối đông đảo. Mặt khác, chính lĩnh vực này cũng là nơi đang đặt ta những vấn đề bức thiết, mà việc giải quyết chúng, về thực chất, sẽ quyết định tính hiện thực của những bước tiếp theo Đối với KH- CN vấn đề không chỉ là những nhà khoa học, các kỹ sư, kỹ thuật viên với nghề nghiệp chính thức của họ là làm công tác KH- CN, mà trước hết phải nói đến cả phong trào quần chúng nhân dân đang tham dự vào hoạt đông công nghệ trong sản xuất xã hội. Bất cứ hoạt động gì trong thực tiễn đời sống và sản xuất đều có quan hệ tới KH- CN. Yếu tố quan trọng hàng đầu cho tiến bộ khoa và công nghệ là phải tạo ra một mội trường xã hội thuận lợi cho khoa học và công nghệ phát triển. ở một mức độ đáng kể, môi trường đó được tạo nên bởi nhận thức của con người ở mọi tầng lớp xã hội về vai trò của khoa học và công nghệ Thấy được ý nghĩa của môi trường khoa học và công nghệ dân chúng là để từ đó cần chú trọng các biện pháp tác động về mọi mặt : giáo dục, đào tạo, tuyên truyền, phổ biến, kích thích kinh tế và các biện pháp khác Đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học Đào tạo là khâu đầu tiên của một chu trình hình thành và sử dụng nguồn nhân lực quốc gia về mặt khoa học và công nghệ. Nói đến đào tạo đối với nguồn nhân lực này trước hết phải kể đến toàn bộ hệ thống giáp dục các cấp, từ phổ thông cơ sở, phổ thông trung học, giáo dục chuyên nghiệp đến đại học và trên đại học. Tuy nhiên, so với yêu cầu chuẩn bị cán bộ khoa học và công nghệ để đẩy mạnh công nghệ hoá trong giai đoạn sắp tới thì đội ngũ cán bộ ấy vẫn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Không thể vì một số khó khăn trước mắt mà hạn chế qui mô và tốc độ đào tạo. Con người luôn luôn là vốn quý nhất và đào tạo nhân lực lao động khoa học là vấn đề chiến lược trọng yếu mà bất cứ nước nào muốn phát triển thành công cũng đều phải hết sức quan tâm Hệ thống giáo dục phổ thông, khâu đầu của đào tạo khoa học và công nghệ của chúng ta hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn. Và hệ thống giáo dục đại học và chuyên nghiệp còn nhỏ bé, chưa cân đối với các bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Về cơ bản, cách giáo dục của ta còn nặng về trang bị kiến thức, nặng về lý thuyết, nhẹ về bồi dưỡng kỹ năng thực hành, ít chú trọng phương pháp tự đào tạo trong hoạt động thực tiễn. Đó cũng là nhược điểm phổ biến của hệ thống giáo dục của nhiển nước xã hội chủ nghĩa mà một bộ phận quan trọng cán bộ khoa học và công nghệ của chúng ta đã được đào tạo qua . Chúng ta không thể vừa lòng với tình trạng sử dụng cán bộ khoa học và công nghệ không bình thường như hiện nay và càng không thể định con đường phát triển của ngành đào tạo đại học,mà không tính đến bước phát mạnh mẽ của nước ta sau này. Dù có những khó khăn tạm thời ngày hôm nay, chúng ta vẫn phải ra sức mở rộng quy mô và tốc độ đào tạo nhân lực nhân lực khoa học và công nghệ cho những thập kỷ sắp tới. Đào tạo con người, như kinh nghiệm cho thấy không bao giờ là thừa đối với một nước đang phát triển như nước ta. Vấn đề sử dụng cán bộ khoa học- công nghệ Nếu người cán bộ được sử dụng tốt, trong quá trình làm việc sẽ diễn ra sự hiện đại hóa,đổi mới kiến thức do đào tạo trước đó, sẽ không có sự hao mòn vô hình và cán bộ khoa học, công nghệ đó sẽ trưởng thành, phát triển với đà tiến bộ chung. Bức tranh sẽ hoàn toàn ngược lại khi nhân viên được đào tạo ra không được sử dụng kiến thức nghề nghiệp của mình một cách thoả đáng. Khối lượng kiến thức ban đầu sẽ không có cơ hội trau dồi và hiện đại hoá, không được bổ xung những nhân tố mới, giá trị sử dụng ngày càng kém đi. Nó sẽ bị sói mòn với tốc độ cực kỳ nhanh chóng. Từ đây phải thường xuyên đánh giá lại năng lực đã có, không thể coi năng lượng khoa học- công nghệ là bất biến.Sử dụng là tiền đề và điều kiện tiên quyết cho phát triển nhân lực khoa học- công nghệ. Tiềm lực cán bộ chỉ có thể phát triển trong điều kiện được phát huy năng lực của mình một cách thoả đáng. Không ít trường hợp sự đánh gía tiềm lực khoa học- công nghệ của đất nước ta hiện nay tỏ ra lạc quan, khi chỉ nhìn vào số lượng cơ cấu, trình độ đào tạo ban đầu của đội ngũ cán bộ. Chúng ta hầu như đã có đủ tất cả các ngành nghề với số lượng khá đông cho một nền kinh tế như nước ta. Song nhiều lĩnh vực chúng ta không thể huy động được lực lượng cần thiết, mặc dù, trên danh nghĩa, chuyên ngành nào đó đã có một đội ngũ cán bộ được đào tạo không nhỏ. Như vậy, năng lực thực tế kém xa năng lực trên danh nghĩa. Như vậy nếu đào tạo không đi đôi với sử dụng và phát huy trình độ đã có thì không làm tăng thêm tiềm lực khoa học- công nghệ của đất nước, trái lại còn có thể giảm sút so với tích tụ ban đầu của nguồn nhân lực. b. Bảo đảm nguồn vốn cho sự phát triển KH- CN Bên cạnh nhân lực thì vốn là điều kiện quan trọng cho phát triển khoa học- công nghệ. Muốn cho sự nhiệp công nghiệp hoá, hiện đai hoá được tiến hành với tốc độ nhanh cần phải có cơ chế, chính sách và biện pháp huy động được nguồn vốn nhiều nhất, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả nhất. Vấn đề huy động vốn cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế nước ta. Song song với việc huy động các nguồn vốn, vấn đề sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn cũng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Yêu cầu bảo toàn vốn được thể hiện trước hết trong công tác tổ chức tài chính, có nghĩa là phải lựa chọn các phương án tối ưu trong tạo nguồn tài chính. Sự cần thiết của chế độ bảo toàn và phát triển vốn trước hết xuất phát từ yêu cầu của cơ chế quản lý kinh tế mới, phải hoạch toán kinh tế kinh doanh, xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phải đảm bảo tính hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, để quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và dản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao, để nền kinh tế phát triển bền vững, tất yếu phải bảo toàn và phát triển vốn, phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn II Thực trạng KH- CN Việt Nam 1.Thành công KH- CN đã tập trung vào sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Đã áp dụng các công nghệ và phương pháp nghiên cứu tiên tiến : viễn thám, địa vật lý… vào công tác điều tra, thăm dò tài nguyên thiên nhiên. Nhiều kết quả nghiên cứu môi trường được đánh giá cao : nghiên cứu chính sánh và biện pháp bảo vệ sự đa dạng sinh học, cân bằng sinh thái và xử lý ô nhiễm nước, không khí ở các khu công nghiệp tập trung, các thành phố lớn… các biện pháp trồng rừng, chống suy thái đất, cải tạo đất… KH- CN đã chú ý phát triển các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ cao. Nhiều thành tựu toán học, cơ học, vất lý của ta… được đánh giá cả ở nước ngoài. Công nghệ thông tin đã phát triển và mở rộng ứng dụng trong hệ thống ngân hàng, quản lý hành chính, sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, công nghệ chế tạo vật hiệu mới, công nghệ sinh học, tự động hoá… đã từng bước được quan tâm. Trong nông nghiệp. Nhờ áp dụng những tiến bộ KH- CN về giống cây trồng, quy trình kỹ thuật thâm canh và chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, chúng ta đã tuyển chọn, lai tạo hàng chục giống lúa mới, phù hợp các vùng sinh thái khác nhau, tạo mức tăng trưởng quan trọng. Nghiên cứu và tạo nhiều loại giống gia súc, gia cầm, có giá trị kinh tế cao, thúc đẩy chăn nuôi phát triển. Hơn 10 năm qua, năng suất lúa bình quân đã tăng hơn 2 lần. Tổng sản lượng lương thực 1998 đạt hơn 31 triệu tấn. Nhiều loại phân vi sinh, thuốc trừ sâu vi sinh, chất kích thích tăng trưởng thực vật … đã được sử dụng vào sản xuất, bảo vệ, phát triển các loại cây lương thực. Cơ cấu cây trồng đã được thay đổi cơ bản. Trước năm 1989, từ chỗ còn thiếu lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đéng thứ 3 thế giới, sau Thái Lan, Mỹ. Về thuỷ sản, nhờ áp dụng kỹ thuật mới, nhiều năm nay, nuôi ba ba, sinh sản đã thành nghề giàu có ở nông thôn. Đặc biệt, kỹ thuật nuôi tôm đã được ứng dụng khắp nơi, tạo công ăn việc làm cho 350.000 ngư dân ven biển góp phần cải thiện và tăng kim ngạch xuất khẩu của ngành thuỷ sản, năm 1993 đạt 368 triệu USD, 1994 : 551,2 triệu, 1996 : 670 triệu, 1997 : 750 triệu và 2000 : 1000 triệu, tăng kơn 10 lần so với 1980. Việc nuôi trồng hải sản đã có sự đầu tư khoa học thích đáng trong việc tận dụng mặt nước ao, hồ, nước biển, nước lợ, kết hợp sản xuất nông nghiệp với nuôi tôm cá, phát triển nuôi trồng với giữ gìn môi trường, môi sinh, nuôi xen ghép, quảng canh, chọn giống tốt… toàn ngành hiện có 59 cơ sở đủ tiêu chuẩn sản xuất hàng xuất khẩu Trong công nghiệp, hàng loạt kỹ thuật tiên tiến được áp dụng, tạo nhiều sản phẩm chất lượng cao : hàng may mặc, thuốc lá, đồ nhựa, cao su, đồ điện máy, điện tử… nhất là trong chế tạo máy móc, thiết bị phụ tùng và đổi mới công nghệ, kinh doanh sản xuất ô tô, xe máy, nhằm giải quyết nguyên vật kiệu, thiết bị thay thế. Trong công nghiệp đầu khí… đội ngũ cán bộ khoa học trong nước, đã có khả năng tiếp thu và làm chủ công nghệ mới. CN chế biến nông- lâm- hải sản cũng được đẩy mạnh một bước Trong lĩnh vực năng lượng, nhiều công trình, nghiên cứu KH- CN đã tập trung vào công tác quy hoạch, sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng. Đổi mới CN xây dựng các nhà máy thuỷ điện, nhiệt điện, nghiên cứu các phương pháp giảm tổn thất năng lượng trong truyền tải điện và đổi mới CN. Hệ thống năng lượng đã phát triển nhanh chóng : 80% địa bàn xã ở khu vực nông thôn, hơn 50% hộ gia đình đã có điện sử dụng. Trong giao thông vận tải, KH- CN đã góp phần quan trọng vào việc nâng cấp và phát triển mạng lưới, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường sông… đã xây dựng một số công trình quan trọng bằng việc áp dụng các CN mới : đóng tàu biển trọng tải 3.000 tấn, công trình hạ tầng cất cánh sân bay Tân Sơn Nhất, thắng thầu nhiều công trình giao thông ở Lào, Campuchia… với việc áp dụng CN mới trong gia cố nền móng và thi công mặt đường. Trong viễn thông, đã xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại bằng việc áp dụng kỹ thuật số, thông tin vệ tinh, cáp sợi quang… đủ mạnh để hoà nhập mạng thông tin quốc tế và khu vực. Viễn thông nước ta hiện được xếp vào một trong những nước có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Bên cạnh mạng lưới hữu tuyến điện phát triển rộng khắp với các loại hình dịch vụ đa dạng, các hệ thống thông tin di động, máy sóng ngắn, cực ngắn, cũng phát triển mạnh, được các tổ chức kinh tế, cơ quan trong và ngoài nước sử dụng. Thị trường tin học nước ta những năm qua, có tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm khoảng 40-50%. Hiện các cơ quan Đảng, chính phủ đang sử dụng hàng vạn chiếc máy vi tính, trong đó lưu giữ nhiều thông tin, số liệu bí mật quan trọng. Liên quan đến kinh tế, quốc phòng và an ninh quốc gia. Trên đà ấy, việc sử dụng máy vi tính ở nước ta bắt đầu chuyển từ giai đoạn sử dụng riêng lẻ, sang hình thức sử dụng mạng cục bộ và mạng diện rộng Trong y tế, hàng loạt các thành tựu chăm sóc sức khoẻ ban đầu, miễn dịch học, cắt giảm, tỷ lệ mắc các chứng bệnh nguy hiểm : lao, phong, sốt rét, ho gà, bại liệt, sởi… Kết hợp y học truyển thống với y học hiện đại, sản xuất nhiều mặt hàng thuốc mới. Nâng cao trình độ trong phòng và chuẩn đoán bệnh, ngăn ngừa bệnh truyền nhiễm : viêm gan, viêm não Nhật Bản… Đến nay nước ta đã có đội ngũ cán bộ KH- CN hơn 800.000 người trình độ đại hoc, 8.775 phó tiến sĩ- tiến sĩ, gần 3.000 giáo sư- phó giáo sư, hơn 45.000 cán bộ nghiên cứu triển khai thuộc hơn 300 viện nghiên cứu- trung tâm và hơn 20.000 nhà khoa học vừa nghiên cứu, vừa giảng dạy trong 105 trường đại học, cao đẳng, hơn 80 cơ sở đào tạo sau đại học. Đây thực sự là một vốn quý cho sự nghiệp CNH, HĐH, được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau . 2.Hạn chế a.Đầu tư cho khoa học công nghệ còn ở mức thấp Việt Nam chưa có chính sách khoa học dông nghệ nhất quán thể hiện bằng hệ thống pháp luật như các quốc gia khác. Thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều cố gắng tạo nguồn tài chính để đầu tư cho khoa học và công nghệ nhưng chưa thể đáp ứng được nhu cầu phát triển. Theo số liệu thống kê từ năm 1965 đến nay, mức đầu tư tài chính từ ngân sách nhà nước dành cho hoạt đông nghiên cứu và triển khai chiếm từ 0,2% đến 0,82% thu nhập quốc dân. Trong 10 năm đổi mới, nước ta đạt được những thành tựu kinh tế đáng mừng, tổng kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ được nâng lên dần, nhưng do giá cả hàng hóa tăng cho nên giá trị thực tế của vốn đầu tư không tăng. Theo số liệu của Bộ KH- CN và môi trường thì đầu tư tài chính cho kha học công nghệ chưa vượt quá 1% ngân sách tiêu dùng hằng năm. Chi phí bình quân hằng năm cho một cán bộ khoa học công nghệ từ ngân sách nhà nước khoảng 1.000 USD, rất thấp so với mức bình quân của thế giới hiện là 55.324 USD và kếm các nước trong khu vực châu á . Mức đầu tư thấp nhưng lại phân tán và không ít trường hợp sử dụng lãng phí. Tuy Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, nghị quyết sáng suốt, nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ và coi trọng nó không kém gì các quốc gia khác trên thế giới, nhưng mức đầu tư cho khoa học vẫn rất thấp. Có 2 khả năng lý giải tình hình trên. Thứ nhất, nếu huy động gấp đôi vốn cho nghiên cứu khoa học và công nghệ thì việc nghiên cứu khoa học có mang lại hiệu quả thiết thực hay không trong khi trình độ quản lý khoa học hiện tại còn yếu kém. Thứ hai, ngân sách nhà nước trong nhiều năm thâm hụt, phải bảo đảm chi cho nhiều ngành cũng quan trọng, do đó mức đầu tư kinh phí cho khoa học nhiều khi lại phụ thuộc vào quan điểm của người lãnh đạo và các cơ quan quản lý của Nhà nước. Rốt cục quy định trong các văn bản và chỉ thị của Đảng dành 2% ngân sách hằng năm cho hoạt động khoa học và công nghệ vẫn không thực hiện được. Với mức đầu tư như vậy nên chỗ làm việc chật chội, thiết bị lạc hậu, phòng thí nghiệm và cụng cụ thí nghiệm thiếu… cơ quan khoa học và công nghệ chỉ có thể hoạt động cầm chừng, chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt mà không thể tạo ra được thành quả khoa học có tầm chiến lược. Nếu không có các chính sách điều chỉnh, các cơ quan nghiên cứu khoa học chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng tồi tệ hơn, đội ngũ cán bộ nghiên cứu có thể bị chia xẻ và giã từ những công việc chuyên môn mà lâu nay họ tâm huyết. b.Lực lượng cán bộ nòng cốt thiếu và già yếu Kết quả điều tra 233 cơ quan khoa học công nghệ chủ yếu thuộc trung ương cho thấy : trong số 22.313 cán bộ công nhân viên thì số người có trình độ trên đại học là 2.509 người, cao đẳng và đại học 11.447 người và dưới cao đẳng là 8.357 Trong số các cán bộ có trình độ tiến sĩ và phó tiến sĩ chỉ có 15,1% là nữ, cũng trong số các cán bộ có trình độ học vấn cao này chỉ có 19,9% giữ các chức vụ lãnh đạo. So với yêu cầu phát triển thì nhiều ngành còn thiếu lực lượng lao động có trình độ khoa học- kỹ thuật. Trước tình hình mở cửa nhiều công ty có vốn đầu tư nước ngoài, công ty tư nhân đã thu hút số lượng đáng kể lao động có trình độ chuyên môn cao từ các cơ quan khoa học công nghệ của nhà nước. ở tất cả các đối tượng lao động, số trường hợp ra đi nhiều hơn số trường hợp đến, đặc biệt với số cán bộ khoa học có học vị cao, số ra đi vượt hẳn số đến. Tuổi trung bình của cán bộ khoa học có học vị, học hàm khá cao. Bình quân chung là 57,2 tuổi trong đó giáo sư là 59,5 tuổi và phó giáp sư là 56,4 tuổi. Số cán bộ cán học vị, học hàm cao ở tuổi 50 chỉ chiếm 12% trong khi đó tuổi từ 56 trở lên là 65,7%, riêng giáo sư chiếm tới 77,4% và phó giáo sư chiếm 62%. Khi phân chia theo lứa tuổi các cán bộ khoa học công nghệ có học hàm thì phần đông giáo sư có tuổi trên 60 và phó giáo sư có tuổi từ 56 đến 60. Khi một bộ phận lớn các cán bộ khoa học chủ chốt đang về già và sẽ không có khả năng làm việc thì đội ngũ cán bộ trẻ thay thế lại chưa được chuẩn bị bồi dưỡng đào tạo. Hẫng hụt đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ đầu ngành sẽ diễn ra trong tương lai rất gần. c.Sự phân bố lực lượng lao động khoa học không hợp lý Có thể nói sự phân bố lực lượng lao động mất cân đối giữa các ngành, các khu vực giữa các vùng, giữa các thành phần kinh tế đã gây ra hậu quả xấu cho quá trình phát triển, càng làm sâu sắc thêm sự chênh lệch và phát triển giữa các vùng, các ngành. Một điều mà nhiều người nhìn thấy rất rõ là trong nhiều năm, đặc biệt sau khi chuyển sang kinh tế thị trường thì các ngành khoa học cơ bản bị xem nhẹ và dường như đang bị bỏ rơi. Đó là một cách nhìn rất thiển cận và hậu quả của nó sau một số năm thấm dần sẽ gây tác hại nghiêm trọng. Khoa học công nghệ là một hệ thống, cũng như một nền kinh tế nếu không có hạ tầng cơ sở tốt thì không thể phát triển được. Trong khoa học nếu chỉ coi trọng những ngành ứng dụng có lãi nhanh mà coi nhẹ khoa học cơ bản rút cục sẽ đưa khoa học đến chỗ bế tắc và không có đủ năng lực tiếp thu làm chủ các lĩnh vực khoa học công nghệ mới. d. Những bất cập giữa KH- CN và hoạt động kinh tế ở VN Mối quan hệ thống nhất giữa hoạt động khoa học công nghệ và hoạt động kinh tế là cơ sở quan trọng bảo đảm cho sự phát triển của một quốc gia. Tuy nhiên, ở VN hiện nay giữa hoạt động khoa học công nghệ và hoạt động kinh tế lại bộc lộ những bất cập rõ rệt 1. Mặc dù tồn tại số lượng đáng kể các cơ quan nghiên cứu khoa học công nghệ và dưới nhiều dạng thực phong phú, nhưng các viện nghiên cứu, các trường đại học thường mạng nặng tính hàn lâm và ít gắn bó hữu ích với các tổ chức kinh tế. Ngoài mối quan hệ lỏng lẻo giữa cơ quan nghiên cứu và các đơn vị kinh tế còn một khía cạnh nữa là bản thân hệ thống cơ quan nghiên cứu vẫn thiếu phương pháp luận tiếp cận có hiệu quả tới hệ thống kinh tế. ở đây đòi hỏi sự hợp tác, trao đổi qua lại nhiều vòng giữa các nhà khoa học và đại diện của các khu vực sản xuất. Các hãng luôn được coi như nhân vật trung tâm của đổi mới khoa học công nghệ… Đáng tiếc phương pháp này còn xa lạ đối với VN. Thiếu những định hướng rõ ràng, cụ thể đã làm cho các chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ trở nên kéo hiệu quả 2. Cơ cấu của đội ngũ hoạt động khoa học công nghệ hiện mất cân đối đáng kể so với cơ cấu nền kinh tế. Trong các lĩnh vực công nghệ tiên tiến, việc khắc phục khoảng trống bằng cách chuyển các nhà nghiên cứu khoa học cơ bản sang cũng chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi tối thiểu. Mặt khác, sự phân bố của lực lượng khoa học công nghệ không sát với địa bản hoạt động kinh tế. Trên thực tế, có nhiều vùng kinh tế còn như vùng trắng của hoạt động khoa học công nghệ 3.Thực tế đổi mới vừa qua đã xuất hiện một nghịch lý và mở của mang lại sự khởi sắc cho nền kinh tế thì nó lại làm cho vị thế của các nhà khoa học trong nước giảm xuống tương đối. Một bộ phận không nhỏ đội ngũ các nhà khoa học công nghệ buộc phải làm thêm nghề khác hoặc đổi hẳn nghề. Sự lão hoá của đội ngũ khoa học cũng lý giải một phần cho hiện tượng này. Tuổi trung bình của cán bộ khoa học công nghệ làm việc ở các viện nghiên cứu là 45- 46 tuổi, tuổi trung bình của cán bộ nghiên cứu có trình độ cao vào khoảng 55 và 60… có thể do nhiều lý do, trong đó một lý do quan trọng là : coi giai đoạn hiện nay như là quá độ chuyển đổi từ mô hình nghiên cứu khoa học công nghệ kiểu cũ sang mô hình nghiên cứu kiểu mới. Đối với lớp trẻ, hình mẫu các nhà nghiên cứu thế hệ trước không còn mấy hấp dẫn, họ đang tìm kiếm những con đường khác, những phương thức hoạt động khoa học khác 4. Chúng ta từng hy vọng có thể thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài vào VN để nhận được những công nghệ cần thiết tiến hành CNH, HĐH. Tuy nhiên thực tế diễn ra không như mong muốn. Trước hết, luồng đầu tư nước ngoài đang có xu hướng chững lại sẽ hạn chế khuôn khổ chuyển giao công nghệ. Thứ hai, cơ cấu đầu tư với 18,7% vào khách sạn dụ lịch… là một nhân tố góp phần hạn chế quy mô chuyển giao công nghệ tiên tiến. Thứ ba, ngay trong bản thân lĩnh vực công nghiệp, các chủ đầu tư nước ngoài dường như chẳng hề sốt sắng du nhập các công nghệ tiên tiến vào VN, thay vào đó, họ chú ý nhiều đến các công nghệ thế hệ cũ cho phép thu lại lợi nhuận tức thì từ lao động rẻ, môi trường đầu tư dễ dãi và miền đất đầu tư mới mẻ. 3. Nguyên nhân của những thực trạng ấy Do tỷ lệ cán bộ KH- CN trong các doanh nghiệp còn thấp ; cấu trúc và phân bố đội ngũ chưa hợp lý ; số cán bộ được đào tạo về các ngành KH và KT chỉ chiếm 15,4% trong tổng số đội ngũ cán bộ KH- CN ; sự phân bố cán bộ KH- CN theo vùng lãnh thổ còn mất cân đối lớn. Đội ngũ cán bộ KH đông nhưng chưa mạnh Chất lượng đào tạo cán bộ KH- CN thấp. Về trình độ, chưa cập nhật CN và tri thức hiện đại của thế giới, bị hổng nhiều về CN cao, quản tri kinh doanh, tiếp thị, ngoại ngữ… Đội ngũ cán bộ KH- CN nước ta có tiềm năng trí tuệ đáng kể, tiếp thu nhanh tri thức mới, nhưng còn thiếu tính liên kết cộng đồng, khó hợp tác giữa cơ quan và cá nhân, thiếu cán bộ đầu đàn có khả năng tổ chức và thực hiện những chương trình nghiên cứu mang tính đột phá cao. Lực lượng chuyên gia giỏi ở các ngành hiện nay rất mỏng, phần lớn chỉ nắm lý thuyết, thiếu thực hành. Trước sức hấp dẫn của các doanh nghiệp và các cơ sở liên doanh với nước ngoài, đa số hệ thống cơ quan nghiên cứu- triển khai không giữ được đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực. Nhiều cán bộ KH- CN có kinh nghiệm và trình độ, bỏ chuyên môn làm dịch vụ. Chính sách đối với cán bộ KH- CN chậm đổi mới, nên không khuyến khích đội ngũ cán bộ làm KH phát huy hết khả năng của mình trong nghiên cứu. Việc tổ chức sắp xếp lại các cơ quan KH- CN triển khai chậm. Có sự mất cân đối lớn trong phân bố theo vùng lãnh thổ mạng lưới các cơ quan nghiên cứu- triển khai. Nhiều cơ quan nghiên cứu có chức năng trùng lắp, không đồng bộ. Việc sắp xếp và đầu tư cho các cơ quan này không theo các hướng ưu tiên trọng điểm. Cơ sở vật chất của cơ quan nghiên cứu- triển khai các trường đại học, nghèo nàn, lạc hậu : phần lớn được xây dựng và trang bị đã trên 30 năm trình độ thiếu bị thua kém ngay cả các cơ sở doanh nghiệp trong nước. Đầu tư tài chính cho KH- CN từ ngân sách, nhà nước ở nước ta, hiện còn thấp. Do vậy, nền khoa học của ta chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt, chưa tạo được kết quả KH lớn, tầm cỡ chiến lược. Việc sử dụng tài chính cho KH- CN hiện nay với một cơ chế thường thúc ép chúng ta rơi vào thế phả chi, chia bị động,. Số chương trình và đề tà cấp nhà nước, cấp bộ còn nhiều và dàn trải so với khả năng kinh phí hiện có. Nguồn ngoại tệ viện trợ không điều chỉnh được trong phạm vi quản lý nguồn vốn KH- CN, nên hiệu quả còn thấp. Việc huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước cho hoạt động nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, chưa có cơ chế và chính sách đồng bộ để khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức tư nhân tự nguyện đầu tư. Nhiều cơ quan nghiên cứu- triển khai, hoạt đông KH- CN còn dựa chủ yếu vào ngân sách Nhà nước. Thực tế trên đã dẫn đến một nghịch lý: vốn cho KH-CN gần như duy nhất từ nhà nước lại bị phân chia dàn trải.Trong khi đó, một số lĩnh vực cần đầu tư thích đáng :giáo dục y tế bảo vệ môi trường hoặc những hướng nghiên cứu triển khách quan trọng mang ý nghĩa chiến lược lại bị hạn chế do thiếu vốn .Việc thực hiện một phần vốn trong tổng giá trị dự án đầu tư cho công tác nghiên cứu triển khai vẫn chưa được thực hiện, do nghiên cứu khoa học công nghệ chưa được coi là một nội dung chỉ trong cơ chế quản lý đầu tư.Vai trò của khoa học công nghệ chưa thể hiện bằng biện pháp cụ thể về mức đầu tư tài chính,chế độ cán bộ, chưa tạo lập được hệ thống chính sách thích hợp để thúc đẩy các nhà hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ phảI dựa trên KH- CN và hướng theo nhu cầu của sự phát triển kinh tế- xã hội. Sau khi được chuyển thành cơ quan quản lý nhà nước về các hoạt động KH- CN, Bộ KH- CN và môI trường đã từng bước phát huy vai trò quản lý nhà nước trong việc giám sát, kiểm tra các hoạt động KH- CN, quản lý nhà nước về chuyển giao CN, trình độ CN trong sản xuất và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, công tác quản lý chưa thể hiện được tính đồng bộ, chưa gắn kết chặt chẽ với quản lý kinh tế và xã hội, chưa tạo lập thị trường rộng rãi cho KH- CN. Nhiều công trình KH khi áp dụng vào sản xuất, còn gặp trở ngại. Bởi sản xuất chưa thực sự có nhu cầu KH. Cạnh đó, nhiều viện nghiên cứu có khả năng đáp ứng nhu cầu của sản xuất, lại không có đơn đặt hàng. Hiện tượng tách rời gữa KH và sản xuất còn phổ biến. Thành tựu KH, các tiến bộ CN, chưa được áp dụng rộng rãi nên chưa tạo chuyển biến rõ nét về năng suất, chất lượng, hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Chưa tạo được những ngành nghề mới xuất phát từ kết quả của hoạt động KH- CN. Thị trường cho KH- CN chưa được hình thành. Trình độ CN nói chung còn ở mức thấp. Trong các ngành công nghiệp, hệ thống máy móc thiết bị hiện tại lạc hậu so với thế giới và hình thành từ nhiều nguồn chắp vá. Mẫu mã hàng hoá đơn điệu, chất lượng sản phẩm thấp, khả năng cạnh tranh, xuất khẩu kém. Quy mô dự án còn nhỏ, chưa tương xứng với tầm nhiệm vụ cấp nhà nước, phần lớn chỉ dừng ở quy mô ngành, địa phương, hoặc cấp cơ sở, ít có tác dụng thúc đẩu sản xuất. Công tác quản lý KH- CN tuy đã được đổi mới, nhưng chưa đồng bộ và hoàn chỉnh. Cơ chế quản lý các chương trình trọng đIúm cấp nhà nước còn nhiều thủ tục rườm ràc không chặt chẽ, chưa bảo đảm tập trung các nguồn lực vào những mục tiêu chủ yếu. Cơ chế chính sách hiện hành không khuyến khích và bắt buộc các doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu triển khai hoặc có chiến lược lâu dàI về đổi mới CN, đổi mới sản phẩm. iii Một số giảI pháp Trước hết, chúng ta cần đặt lên hàng đầu tính hiệu quả trong công tác nghiên cứu khoa học, phát triển cân đối cả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, nhưng hiện nay cần ưu tiên tập trung hơn đến nghiên cứu ứng dụng. Mọi phương pháp dù mới, dù cũ, nhưng nếu nó hướng khoa học vào phục vụ sản xuất, hiện đạI hó nền kinh tế, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, đối với chungư ta lúc này đều là phương pháp tốt để phát triển khoa học. Cả hai lĩnh vực này đều phảI nhằm hướng vào giảI quuết những đòi hỏi cấp bách của sản xuất, kết hợp chặt chẽ với sản xuất. Mặt khác cần đề phòng tác dụng tiêu cực của việc ứng dụng khoa học vào sản xuất chạy theo lợi nhuận quá đáng đến mức gây ô nhiễm môi trường và làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên… Khoa học có tính độc lập tương đối trong sự phát triển của nó, luôn được tích luỹ, có tính kế thừa, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ nước này qua nước khác. Nhờ thế một nước lạc hậu đI sau có thể đuổi kịp các nước phát triển nếu có những chính sách khôn ngoan, biết tiếp thu thành tựu khoa học của nước khác và biết vận dụng phù hợp với điều kiện nước mình. Chúng ta cần biết tranh thủ tiếp thu những thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại của các nước phát triển bằng mọi cách có thể được, nếu việc làm ấy có hiệu quả cao hơn, dỡ tốn kém hơn đầu tư nghiên cứu trong nước. Các ngành mũi nhọn như đIửn tử tin học và các công nghệ cao cấp cần được tập trung ưu tiên phát triển hơn cả. Vì chính những ngành đó sẽ kéo toàn bộ nền kinh tế tiến tới trình độ hiện đại, tự động hoá một cách nhanh chóng. Mục tiêu lâu dài của chúng ta là tiến tới độc lập, tự chủ về khoa về học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nhưng trong giai đoạn trước mắt cũng nên đi bắt chước, mô phỏng, làm thủ để rồi rút kinh nghiệm tiến tới cải tiến và phát minh công nghệ mới. Đồng thời chúng ta cần phải tạo vốn cho hoạt động KH- CN. Vốn là nguồn lực để phát triển khoa học công nghệ. Không có vốn hoặc có nhưng thấp hơn mức cần thiết đều không có điều kiện thực hiện các mục tiêu KH- CN. Kinh nghiệm ở các nước cho thấy, vốn để phát triển khoa học- công nghệ thường được huy động từ hai phía nhà nước và khu vực doanh nghiệp, trong đó phần nhiều là từ các doanh nghiệp. TạI Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ hai (khóa VIII), khi một lần nữa khẳng định “ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải bằng và dựa vào khoa học, công nghệ “, Đảng ta đã đưa ra chính sách đầu tư khuyến khích, hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ, theo đó, một phần vốn ở các doanh nghiệp được dành cho nghiên cứu, đổi mới công nghệ và đào tạo nhân lực. Một phần vốn từ các chương trình kinh tế- xã hội và dự án được dành để đàu tư cho khoa học- công nghệ nhằm đẩy mạnh việc nghiên cứu- triển khai và đảm bảo hiệu quả của dự án. Tạo động lực, tạo vốn cho hoạt động khoa học- công nghệ phải đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế về khoa học, công nghệ. Có thể nói, đây là điều kiện rất quan trọng để phát triển khoa học- công nghệ. Nếu không thực hiện có hiệu quả quan hệ hợp tác và trao đổi quốc tế về nghiên cứu- triển khai… thì không thể tiếp nhận được khoa học- công nghệ tiên tiến của nhân loại, không thể tranh thủ nhân tố ngoại sinh hết sức cần thiết làm biến đổi các nhân tố nội sinh, thúc đẩu năng lực khoa học- công nghệ quốc gia. Để mở rông quan hệ quốc tế về khoa học- công nghệ, cần đa dạng hoá phương thức hợp tác đàu tư với nước ngoài, coi trọng hợp tác nhằm phát triển các ngành công nghệ cao, ưu tiên hợp tác đầu tư nước ngoài vào phát triển khoa học công nghệ, chỉ nhập khẩu và tiếp nhân chuyển giao những công nghệ tiên tiến phù hợp với khả năng của chúng ta. Cùng với việc tạo vốn, mở rộng quan hệ quốc tế, cần phải hết sức coi trọng, tăng nguồn nhân lực khoa học- công nghệ. Nguồn nhân lực khoa học công nghệ là lực lượng chủ chốt của công nghiệp hoá, hiện đại hoá và triển khai khoa hoc- công nghệ. Thiếu nguồn lực này thì không thể nói tới phát triển. Trong thời đại ngày nay, vai trò của nguồn lực này lạI càng phải đặc biệt coi trọng. Để tăng nguồn lực này, chúng ta cần đẩy nhanh việc đào tạo các cán bộ khoa học- công nghệ, nhất là cho các ngành kinh tế trọng yếu và các ngành công nghệ cao, trẻ hoá đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ trong các cơ sở nghiên cứu, các trường học và các cơ sở kinh doanh, đẩy nhanh tôc độ phát triển thị trường nhân lực khoa học- công nghệ. Nhà nước cần tăng cường phát triển giáo dục, quan tâm đào tạo nhân tài để trong tương lai không xa lắm tạo ra được một đội ngũ các tri thức giỏi, các nhà khoa học lớn, các chuyên gia kỹ thuật, công nghệ có tầm cỡ thế giới, nhưng cần sắp xếp lại cho hợp lý, có chính sách thoả đáng để sử dụng có hiệu quả coa hơn đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật hiện có. Chúng ta phảu làm sao để những người có năng lực, có nhiệt tình và có tính thần trách nhiệm trong hoạt đông xã hội xây dựng đất nước có thể sống ổn định vững chắc bằng lượng mà không phải làm thêm bằng những việc ngoài chuyên môn của mình. Những chuyên gia giỏi phải có cuộc sống khá giả và sung túc bằng lao động trí tuệ tương xứng với cống hiến của họ. Như vậy mới đảm bảo công bằng xã hội và mới toạ ra động lực trong hoạt đông khoa học sáng tạo. Quan tâm hơn nữa, ưu tiên phát triển đội ngũ cán bộ khao học- kỹ thuật là một việc làm cần thiết, nhưng chưa đủ làm cho khoa học trở thành lực lượng sản xuất một cách nhanh chóng. Những tri thức khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại còn phải được thâm nhập vào và làm giàu trí tuệ cho tất cả những người lao động, nâng cao năng lực sản xuất của họ. Muốn vậy chúng ta phải tăng cường việc nâng cao dân trí, không chỉ bằng hệ thống nhà trường, mà bằng nhiều phương tiện thông tin đại chúng. Thêm vào đó, chúng ta cần tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức quản lý hoạt động khoa học- công nghệ, bởi tính hiệu quả của hoạt động này một phần rất quan trọng là ở hệ thống tổ chức quản lý. Hệ thống này đóng vai trò phân phối, tập trung và quản lý lực lượng cán bộ khoa học- công nghệ, đảm bảo tính hiệu quả của các mục tiêu phát triển. Một trong những nguyên nhân cơ bản của sự yếu kém về năng lực khoa học- công nghệ quốc gia hiện nay là do tổ chức quản lý khoa học- công nghệ còn kém hiệu quả. Vì vậy, chúng ta cần tiếp tục đổi mới hệ thống này theo hướng Nhà nước thống nhất quản lý các hoạt động KH- CN, đảm nhận những nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, phát triển tiềm lực, đón đầu và phát triển những công nghệ mới có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ nền kinh tế. Các doanh nghiệp đảm nhân thực hiện việc ứng dụng các hết quả nghiên cứu khoa học và những tiến bộ KH- CN. Những giải pháp này luôn có mối liên hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. C. Kết luận Từ những phân tích trên ta nhận thấy khoa học- công nghệ có ý nghĩa hết sức quan trong quá trình Công nghiệp hoá- hiện đại hoá để đưa nước ta từ một nước nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước công nghiệp phát triển sánh vai với cường quốc năm châu. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn vì vậy chúng ta cần khắc phục những hạn chế và phát huy những mặt tích cực để hoàn thành sự nghiệp của dân tộc. Những thành tựu và kinh nghiệm mà chúng đã đạt được trong vòng hơn 20 năm qua đã tạo cho chúng ta những tiền đề cho phép Đảng ta quyết định chuyển mọi hoạt đông của đất nước sang thời kỳ hoạt động mới với đặc trưng là nền kinh tế trí thức thực hiện dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh đưa nước ta tiến nhanh, tiến chắc trên con đường XHCN. Một số tài liệu tham khảo - Tạp trí triết học - Khoa học công nghệ với sự phát triển KTXH - Tạp trí cộng sản - Giáo trình CNXHKH - Thông tin lý luận - Văn kiện đại hội Đảng VIII Mục lục Phần mở đầu B. Nội dung chính 3 I.cở sở lý luận và thực tiễn của cách mạng Kh- cn ở nước ta hiện nay . 1.Sự cần thiết phải phát triển KH- CN 2..Nội dung KH-CN và hướng tác động của KH- CN ở Việt Nam 6 Nội dung KH-CN Hướng tác động của KH-CN 3.Vai trò của khoa học công nghệ 8 a.Với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn và phát triển nông thôn . b.Mối quan hệ giữa KH- CN với sản xuất vật chất c.Khoa học – công nghệ đã nhanh chóng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp ở nước ta 4. Các nguồn lực để phát triển KH- CN 15 a. Chăm lo phát triển nguồn nhân lực KH- CN b. Bảo đảm nguồn vốn cho sự phát triển KH- CN II Thực trạng KH- CN Việt Nam. 18 1.Thành công 2.Hạn chế 21 3.Nguyên nhân 26 III Một số giải pháp . 29 C. Kết luận. 33

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCNXH (97).doc
Tài liệu liên quan