Cách tiếp cận dựa trên HST đã được phát triển từ những năm 1980. Lúc đầu, chỉ nhằm mục đích
phục vụ cho quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo tồn ĐDSH, sau đó, được áp dụng rộng rãi cho
PTBV và hiện nay cho ứng phó với BĐKH và các cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội khác, theo
nguyên tắc xây dựng/tăng cường tính chống chịu-thích ứng của các hệ sinh thái-xã hội.
Ở Việt Nam, cách tiếp cận dựa trên HST mới bắt đầu trong thời gian gần đây và hiện nay, đang
là cách tiếp cận được thử nghiệm, được áp dụng trong nhiều chương trình, dự án ứng phó với
BĐKH. Tính chống chịu và thích ứng đây đó đã được xây dựng, nhưng mới chỉ giới hạn ở từng
khía cạnh, từng bộ phận, từng hợp phần của các hệ thống, mà chưa có cách nhìn và cách làm
tổng thể, liên ngành cho toàn hệ thống và ở các cấp.
Để có thể áp dụng được hiệu quả hơn cách tiếp cận này trong thực tế, xin có một số khuyến nghị
như sau:
1. Tăng cường nghiên cứu và đào tạo về sinh thái học theo nghĩa: hệ sinh thái vừa là đối tượng
nghiên cứu (cấu tạo, chức năng, dịch vụ, các chu trình sinh-địa-hóa, dòng năng lượng, diễn thể,
tính chống chịu, tính thích ứng), vừa là cách tiếp cận khoa học, vừa là giải pháp để giải quyết vấn
đề, như là các giải pháp chủ đạo trong nhóm giải pháp phi công trình mang tính chiến lược dài
hạn. Trong đó, chú ý các vấn đề mang tính tích hợp cao và xuyên suốt (dịch vụ hệ sinh thái, tính
chống chịu-thích ứng, kinh tế sinh thái ) của các hệ thống, bao gồm HST tự nhiên và đặc biệt là
hệ sinh thái-xã hội và các giải pháp tổng hợp để duy trì và tăng cường nó trong từng điều kiện cụ
thể.
2. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu và triển khai khoa học - công nghệ để xây dựng cơ sở khoa
học cho quá trình hoạch định và thực thi các thể chế chính sách.
3. Ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực trong hai lĩnh vực mới: BĐKH và Khoa học bền vững, đảm
bảo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ ứng phó với BĐKH và PTBV.
21 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 609 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cơ sở sinh thái học cho phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bối cảnh phát triển bền vững và xóa đói nghèo” với hy vọng
khẳng định một “Tương lai mà chúng ta mong muốn” trong bối cảnh biến đổi toàn cầu hiện nay.
4
Kinh tế xanh là con đường có thể hóa giải được mâu thuẫn quan trọng nhất hiện nay nhằm đạt
được cả hai mục tiếu: ứng phó với BĐKH và PTBV. Tuyên bố “Tương lai mà chúng ta mong
muốn” của RIO+20 tuy chưa có các cam kết mang tính ràng buộc pháp lý, nhưng đã đặt được
viên gạch đầu tiên cho Chiến lược Kinh tế xanh – con đường phát triển kinh tế hài hòa với môi
trường, giảm nhẹ BĐKH để thực hiện các mục tiêu PTBV (RIO+20 Outcome Documents,
2012)
Bài viết này nhằm thảo luận một khía cạnh khác của phát triển xanh – “cách tiếp cận xanh” –
tiếp cận dựa trên hệ sinh thái (HST), nhằm duy trì và nâng cao tính chống chịu-thích ứng của các
HST tự nhiên và các hệ sinh thái-xã hội trong PTBV và ứng phó với BĐKH.
1. HỆ SINH THÁI VÀ CÁC HỆ THỐNG LIÊN QUAN
1.1. Hệ sinh thái
Theo sự hiểu biết của chúng ta thì sự sống trên Trái đất có một lịch sử phát triển khoảng 3,6-3,8
tỷ năm. Tổng số loài sinh vật có trong sinh quyển hiện nay ước tính từ 5 đến 30 triệu loài hay
hơn. Nhiều nhóm, nhiều loài sinh vật còn chưa hoặc được biết rất ít, nhất là các loài vi sinh vật.
Trong môi trường, tất cả các sinh vật đều có mối liên quan chặt chẽ với nhau và với môi trường
sống xung quanh, hình thành nên các hệ sinh thái (Watson và Heywood, 1995).
Hệ sinh thái (hệ sinh thái tự nhiên hay hệ Trái đất) (Ecosystem/Natural Ecosystem/Earth’s
System – HST) được hiểu là một tổ hợp động của quần xã thực vật, động vật, vi sinh vật và các
điều kiện môi trường vô sinh xung quanh, trong sự tương tác lẫn nhau như một đơn vị chức năng
thông qua các dòng năng lượng và các chu trình vật chất. Như vậy, HST là đơn vị tổ chức cơ bản
của sinh quyển, có quy mô thay đổi, từ nhỏ bé như một bể cá cảnh, đến rộng lớn như rừng mưa
nhiệt đới (biom). Giới hạn của HST thường được xác định theo mục đích của từng nghiên cứu cụ
thể. Hệ sinh thái là một hệ mở, luôn có sự liên hệ với các hệ khác xung quanh.
1.2. Hệ xã hội và hệ sinh thái-xã hội
Vào khoảng 60.000 năm trước đây (“2 giây trước lúc nửa đêm”, Hình 1.1.), loài người (Homo
sapiens sapiens) xuất hiện trên Trái đất. Loài người, với những đặc trưng của mình: có não bộ
phát triển, có tư duy trừu tượng, biết dùng lửa và công cụ lao động để tác động vào tự nhiên, để
phát triển, đã tách ra khỏi giới tự nhiên trong hệ thống tiến hóa. Nếu thế giới sinh vật sống trong
các HST và tiến hóa theo quy luật chọn lọc tự nhiên, thích nghi với sự thay đổi của điều kiện môi
trường để phát triển, thì con người không như vậy, mà tiến hóa theo hướng hoàn thiện và phát
triển các công cụ lao động. Bằng cách đó, con người đã tạo ra một môi trường sống riêng cho
mình – xã hội, hình thành hệ xã hội (có người còn tách thành một quyển riêng – Nhân quyển,
Homosphere) (Tyler Miller, 2002).
5
A B
Nguồn: Tyler Miller, 2002; Trương Quang Học, 2003.
Hình 1.1. Quá trình tiến hóa của sự sống trên Trái đất được khái quát đơn giản
theo tỷ lệ thời gian 24 giờ (A) và Hệ thống tổ chức của thế giới sống (B)
Hệ xã hội (Social System) bao gồm tất cả các sản phẩm khác nhau của văn hóa con người ở mức
độ quần thể, bao gồm các yếu tố chính: dân số, văn hóa, sản phẩm vật chất, tổ chức xã hội và thể
chế xã hội Tuy sống trong xã hội, nhưng con người vẫn luôn luôn giữ mối quan hệ chặt chẽ
với thiên nhiên, tác động và khai thác tài nguyên ngày càng nhiều để phục vụ cho nhu cầu của
cuộc sống ngày càng cao của mình. Từ đó, dần dần hình thành các hệ sinh thái nhân văn.
Hệ sinh thái nhân văn (Human Ecosystem) là tổng hòa của hai hệ thống, hệ thống tự nhiên và hệ
thống xã hội trong sự tương tác lẫn nhau ở một khu vực nhất định. Theo đó, hình thành một khoa
học liên ngành – Sinh thái học nhân văn (Human Ecology) và các chuyên ngành của nó (Sinh
thái học chính trị – Political Ecology; Sinh thái học xã hội – Social Ecology).
Hệ sinh thái-xã hội (Socio-ecological System) là một biến thể của hệ sinh thái nhân văn, nhấn
mạnh yếu tố xã hội của loài người và được định nghĩa khái quát là một hệ gồm cả con người và
tự nhiên, một đơn vị sinh – vật – địa và các yếu tố xã hội, thể chế kèm theo. Hệ sinh thái-xã hội
là hệ thống phức tạp nhất, trong đó, tùy theo góc độ và phạm vi nghiên cứu mà các đặc trưng
khác nhau được nhấn mạnh.
Vì vậy, các định nghĩa của hệ sinh thái-xã hội có sự khác nhau nhất định giữa các tác giả:
Cá thể
Quần thể
Quần xã
Hệ sinh thái
Sinh quyển
6
+ Một hệ thống chức năng, gồm các yếu tố sinh-vật-địa và xã hội, có sự tương tác thường xuyên
với nhau theo một phương thức bền vững và chống chịu.
+ Một hệ thống tồn tại trong một khoảng không gian và thời gian xác định, có cấu trúc, chức
năng và các cấp độ tổ chức tương tác lẫn nhau.
+ Một tổ hợp các dạng tài nguyên quan trọng (tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên kinh tế-xã hội
và văn hóa), được phát triển và sử dụng bởi phức hợp của cả hai hệ thống:, hệ thống sinh thái và
hệ thống xã hội.
+ Một hệ thống phức hợp biến động không ngừng với sự thích ứng liên tục.
Theo sự phát triển, dân số thế giới ngày càng gia tăng (đạt 7 tỷ người vào năm 2011) và khoa học
– công nghệ (KH-CN) cũng ngày càng phát triển. Hệ quả tất nhiên là con người khai thác tự
nhiên ngày một khốc liệt, làm cho tài nguyên ngày càng suy thoái và ô nhiễm môi trường ngày
càng trầm trọng. Con người, theo quan niệm hiện đại, đã trở thành trung tâm của HST với hai
nghĩa: (i) con người là nhân tố tác động vào HST một cách mạnh mẽ nhất, và (ii) các hoạt động
bảo tồn HST cuối cùng vẫn phải hướng tới và đem lại phúc lợi cho con người (MEA, 2005)
(Hình 3.1A).
2. TÍNH CHỐNG CHỊU CỦA HỆ SINH THÁI VÀ CÁC HỆ THỐNG LIÊN QUAN
2.1. Tính dễ bị tổn thương, tính thích ứng và tính chống chịu
Dưới góc độ ứng dụng, HST nói chung có 3 thuộc tính quan trọng có liên quan với nhau: tính dễ
bị tổn thương, tính thích ứng và tính chống chịu.
Tính dễ bị tổn thương (Vulnerability): là xu hướng của một hệ (ví dụ, hệ sinh thái-xã hội) có thể
bị tổn thương/thiệt hại do các tác động từ bên ngoài. Tính dễ bị tổn thương thường có nghĩa trái
ngược với tinh chống chịu. Khi tính chống chịu tăng, thì tính dễ bị tổn thương giảm, và ngược
lại.
Tính thích ứng (Adaptability): là thuộc tính của các HST có khả năng tự điều chỉnh để thích nghi
với các thay đổi của môi trường sống. Tuy nhiên, sự tự điều chỉnh của các HST có giới hạn nhất
định. Nếu sự thay đổi vượt qua giới hạn này, HST mất khả năng tự điều chỉnh và hậu quả là
chúng bị suy thoái, thậm chí bị hủy hoại.
Trong các HST tự nhiên, khả năng thích ứng diễn ra ở những mức độ khác nhau: cá thể, quần
thể, quần xã và HST theo sơ đồ của quá trình diễn thế thứ cấp: phục hồi – phát triển, tự điều
chỉnh và đạt tới trang thái ổn định/cân bằng Diễn thế là quá trình cải tổ về mặt cấu trúc, các
hoạt động chức năng và những mối quan hệ giữa các cá thể, giữa các loài và giữa quần xã sinh
vật với môi trường vật lý, trong đó, có sự đóng góp của các quá trình xảy ra, từ mức thấp nhất là
quần thể đến mức cả hệ thống, để phát triển và hướng tới sự ổn định. Do đó, trong quá trình diễn
thế, các hợp phần cấu trúc và các mối quan hệ cũng như lượng thông tin trong HST đều thay đổi
một cách có quy luật để toàn hệ thống đạt tới trạng thái cân bằng với môi trường mà nó tồn tại.
Đối với hệ sinh thái-xã hội, quá trình thích ứng xảy ra phức tạp hơn vì có sự can thiệp của con
người, của các yếu tố nhân văn và qua đó, có thể làm giảm hoặc làm tăng tính chống chịu của
HST cũng như của toàn bộ hệ thống.
7
Tính chống chịu (Resilience): theo nghĩa chung nhất, có thể hiểu tính chống chịu là khả năng
phục hồi/trở về trạng thái/hình dạng/kích thước ban đầu của một vật, một hệ thống, một tính
trạng, sau khi bị tác động từ bên ngoài.
Tuy nhiên, trong thực tế, thuật ngữ Resilience được dùng với những nghĩa có sự khác nhau nhất
định, phụ thuộc vào lĩnh vực và các cấp tổ chức của đối tượng: trong vật lý: tính đàn hồi, tính bật
nảy, tính co dãn; trong vật liệu: sức bền/sức chịu (lực), độ dai va đập; trong xây dựng: tải
trọng/sức chịu tải (ví dụ, tải trọng khí tượng, trong đó có tải trọng gió và tải trọng nhiệt); trong
y học, ở người bệnh (tâm thần và các bệnh khác): khả năng hồi phục/phục hồi; đối với cây trồng:
tính chống chịu/chịu (tính chịu hạn, chịu nóng, chịu rét, chịu mặn, chống chịu đối với các tác
nhân vô cơ khác, chịu bệnh; đối với ký sinh trùng và sâu/bệnh hại: tính kháng (thuốc diệt);
trong tâm lý (Psychological Resilience – chống chịu tâm lý): tính chịu đựng/kiên nhẫn (của bệnh
nhân, của người lính).
2.2. Tính chống chịu của hệ thống
Hệ thống được định nghĩa khái quát là một tập hợp các phần tử khác nhau, có mối liên hệ và tác
động qua lại theo một quy luật nhất định, tạo thành một chính thể, có khả năng thực hiện những
chức năng cụ thể nhất định. Có rất nhiều loại hệ thống: hệ thống kỹ thuật (hệ thống của các hệ
thống bộ phận nhỏ hơn, hệ thống công nghệ), HST, hệ tổ chức, doanh nghiệp (hệ thống kỹ thuật-
xã hội, hệ thống cơ sở hạ tầng), con người, con người và tự nhiên, hoặc mạng lưới...
Tính chống chịu của hệ thống (System Resilience) là khả năng của hệ thống hóa giải (Absorb)
các tác động/can thiệp từ bên ngoài và tổ chức lại những thay đổi xảy ra để bảo tồn được các
chức năng, cấu trúc, thuộc tính, và những hồi tiếp/hoàn ngược (Feedbacks). Tính chống chịu của
hệ thống có các trạng thái khác nhau:
2.2.1. Tính chống chịu vật lý
Một hệ thống vật lý (Physical/Nonliving System) có tính chống chịu nhất định, phục thuộc vào
bản chất và cấu trúc của toàn hệ thống và mỗi hợp phần của nó. Ví dụ, tính chống chịu của các
công trình xây dựng (khu dân cư: nhà cửa, đường sá, cầu cống, đê điều) liên quan tới 2 yếu tố:
(i) quy hoạch xây dựng, bao gồm không chỉ quy hoạch đô thị, nông thôn, các khu dân cư, các
cụm công nghiệp, mà còn cả các công trình giao thông vận tải, thủy lợi, y tế, giáo dục, du lịch và
dịch vụ; (ii) thiết kế công trình, với sự tính toán phù hợp với tải trọng khí tượng, trong đó, quan
trọng nhất là tải trọng gió và tải trọng nhiệt, phù hợp với điều kiện địa phương.
2.2.2. Tính chống chịu sinh thái
Khái niệm tính chống chịu của HST do nhà sinh thái học Canađa, Holling, lần đầu tiên đưa ra
(1973) để mô tả tính ổn định của các HST tự nhiên dưới sự tác động của các yếu tố tự nhiên hay
nhân tác từ bên ngoài. Tính chống chịu được định nghĩa theo hai cách:
+ Khoảng thời gian cần thiết mà một HST có thể hồi phục trạng thái ban đầu/trạng thái ổn định
sau khi bị môt tác động từ bên ngoài (một số tác giả còn gọi đấy là tính ổn định – Stability, hay
khả năng thích ứng – Adaptive Capacity/Adaptability). Định nghĩa này cũng được sử dụng trong
một số lĩnh vực khác như vật lý, kỹ thuật, trong trường hợp này Holling gọi là tải trọng kỹ thuật
(Engineering Resilience).
8
+ Khả năng của một hệ thống hóa giải được những tác động bên ngoài và tự tổ chức lại những
thay đổi xảy ra, sao cho vẫn bảo toàn được cấu trúc, chức năng, đặc tính và những phản hồi của
hệ. Trong định nghĩa này, tính chống chịu được đo bằng lượng của yếu tố tác động và còn được
gọi là “tính chống chịu sinh thái” (Ecological Resilience), nó ám chỉ trạng thái/chế độ ổn định đa
chiều của HST.
2.2.3. Tính chống chịu-thích ứng
Giữa tính dễ bị tổn thương, tính chống chịu và tính thích ứng của HST có mối liên quan với nhau
(mối quan hệ trong nội bộ hệ thống) và liên quan với yếu tố tác động (tần suất, cường độ, tính
chất của các tác động từ bên ngoài). Trong thực tế, hai quá trình chống chịu và thích ứng xảy ra
xen kẽ với nhau. Khi sự chống chịu xảy ra thì cũng là lúc bắt đầu có quá trình thích ứng và sự
thích ứng sẽ làm tăng khả năng chống chịu.
Vì vậy, có thể đề xuất một thuật ngữ mới là “tính chống chịu-thích ứng” (Adaptive-resilience)
đặc trưng cho các HST, vừa nói lên khả năng chống chịu ở thời điểm bị tác động, vừa nói nên
khả năng tự phục hồi lại trạng thái ban đầu sau khi đã bị tác động. Từ đấy, có thể nói khi tính
chống chịu-thích ứng của một HST tăng sẽ làm giảm tính dễ bị tổn thương cũng như rủi ro có thể
xảy ra cho hệ thống. Vì thế, xây dựng/tăng cường tính chống chịu của hệ thống là nguyên tắc
chung nhất nhằm phát triển hệ thống một cách bền vững và ứng phó hiệu quả với những tác động
từ bên ngoài.
Một định nghĩa khác quan niệm tính chống chịu sinh thái là một mức, mà ở đó HST có thể xử
lý/chịu đựng được một tác động từ bên ngoài (ví dụ, các dạng thiên tai như: bão, cháy, ô
nhiễm...), mà không bị biến đổi về chất. Cụ thể hơn, đó chính là khả năng của hệ trong 2 việc: (i)
chịu được sự tác động mà không bị biến đổi, và (ii) tự hồi phục lại được nếu bị thiệt hại. Thuật
ngữ này sau đó được mở rộng ra trong các lĩnh vực Tâm lý học, Kinh tế học, Xă hội học và
Chính trị học (hoạch định chính sách) (Gardner và nnk., 2007).
2.3. Tính chống chịu xã hội
Tính chống chịu xã hội (Social Resilience) là khả năng của một hệ xã hội (các nhóm người hay
cộng đồng) có thể hạn chế (Scope) những tác động từ bên ngoài thông qua những thay đổi về
môi trường, chính sách và xã hội. Tính chống chịu xã hội là tổ hợp của 4 hợp phần có liên quan
chặt chẽ với nhau: (i) các hợp phần tạo lên hệ thống (cá nhân, cộng đồng); (ii) các mối quan hệ
(sự tương tác giữa các hợp phần – các mối quan hệ xã hội như là gia đình, cộng đồng, thành viên
các hiệp hội, câu lạc bộ, tham gia vào quá trình ra quyết định...); (iii) sự đổi mới (những giải
pháp và ứng phó với sự thay đổi từ bên ngoài: R&D, công nghệ, kiến thức, kỹ năng mới); và (iv)
tính liên tục: các đặc trưng của hệ được duy trì theo thời gian (những giá trị và kiến thức truyền
thống được chia sẻ).
Vì hệ xã hội luôn thay đổi do những tác động khác nhau từ bên ngoài, đặc biệt là tác động do sự
suy thoái môi trường làm thay đổi các đặc trưng của hệ, bao gồm cả những thay đổi đối với con
người, đối với các quan hệ, tính đổi mới, tính liên tục và cuối cùng là ảnh hưởng tới tính chống
chịu của hệ (Hình 2.1).
Tính chống chịu trong xã hội và các hệ hỗ trợ cuộc sống của nó có ý nghĩa rất to lớn trong việc
duy trì các phương án cho sự phát triển của nhân loại trong tương lai.
9
Hình 2.1. Sơ đồ tương tác giữa các hợp phần ảnh hưởng tới tính chống chịu xã hội
2.4. Tính chống chịu sinh thái-xã hội
Như trên đã định nghĩa, hệ sinh thái-xã hội là hệ liên kết giữa con người và tự nhiên. Điều đó có
nghĩa rằng con người là một phần chứ không phải tách ra khỏi HST và tự nhiên là sản phẩm của
sự tương tác giữa hệ sinh thái và hệ xã hội. Một số tác giả còn dùng các thuật ngữ khác như các
hệ thống kết hợp môi trường-nhân văn (Coupled Human-Environment Systems), hệ xã hội sinh
thái (Ecosocial Systems), hoặc hệ sinh thái-xã hội (Socioecological Systems) để mô tả sự tương
tác giữa hai hệ thống này. Thuật ngữ hệ sinh thái-xã hội đã được Berker và Folke đưa ra năm
1998 vì họ không muốn xử lý các vấn đề xã hội hoặc sinh thái như những tiền tố, mà xem chúng
ở một mức độ nào đó là ý nghĩa như nhau khi phân tích mối quan hệ giữa các vấn đề.
Tính chống chịu sinh thái-xã hội là là kết quả của sự tương tác hữu cơ giữa tính chống chịu của
HST và hệ xã hội (Hình 2.2A, B).
A B
Hình 2.2. Sơ đồ tương tác giữa các hợp phần ảnh hưởng tới tính chống chịu của hệ sinh thái-xã
hội (A); Sơ đồ mối liên quan trong phân tích tính chống chịu trong hệ sinh thái-xã hội (B)
10
Vì vậy, các nhân tố ảnh hưởng đến tính chống chịu của hệ là rất phức tạp. Ví dụ, rất nhiều các
yếu tố như chu trình nước, phân bón, tính đa dạng của cây trồng và khí hậu tác động mạnh mẽ
tới hệ với những hiệu quả khác nhau. Các hoạt động đa dạng của con người trong rất nhiều các
lĩnh vực khác nhau tác động tới/và đồng thời cũng phụ thuộc vào tính chống chịu của các HST
trên cạn, dưới nước và biển. Ví dụ, các hoạt động nông nghiệp, lâm nghiệp (đặc biệt là phá
rừng), gây ô nhiễm môi trường, khai thác mỏ, khai hoang, đánh bắt thủy hải sản quá mức, gây ô
nhiễm biển và BĐKH
Bên cạnh đó, nhiều hoạt động của con người, đặc biệt là về thể chế, khoa học – công nghệ có thể
có tác động mạnh mẽ làm tăng/giảm tính chống chịu của toàn hệ.
Ứng phó với BĐKH, trong HST nông nghiệp, ngoài gia tăng tính chống chịu của toàn hệ thống,
người ta còn rất chú ý tới tính chống chịu của các hợp phần, cụ thể như tuyển chọn các giống vật
nuôi và cây trồng có tính chống chịu với các yếu tố môi trường (tính chống chịu khô hạn, tính
chống chịu mặn, tính chống chịu ngập hoàn toàn, tính chống chịu độ độc nhôm, tính chống chịu
thiếu lân, tính chống chịu độc sắt và tính chống chịu lạnh), phù hợp với hoàn cảnh BĐKH của
từng địa phương.
3. CÁCH TIẾP CẬN DỰA TRÊN HỆ SINH THÁI TRONG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN VÀ
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
3.1. Cách tiếp cận dựa trên hệ sinh thái trong quan lý tài nguyên
Cách tiếp cận HST/dựa trên HST (Ecosystem/Ecosystem Based Approach – EBA) là chiến lược
do Công ước Đa dạng sinh học (CBD) đề xuất, đầu tiên là để quản lý tài nguyên đất, nước và
sinh vật, nhằm tăng cường bảo vệ và sử dụng bền vững các dạng tài nguyên này một cách công
bằng.
IUCN với sự cộng tác của Ban Thư ký CBD và các tổ chức khác, đã tham gia tích cực vào quá
trình hoàn thiện chiến lược này. Trên cơ sở tổng kết các nghiên cứu trường hợp tại nhiều quốc
gia ở 4 châu lục (châu Phi, châu Á, châu Mỹ La Tinh và châu Âu), IUCN đã đưa ra 10 nguyên
tắc (1996) và sau đó là một quy trình gồm 12 nguyên tắc (2000) và được tổ chức thành 5 bước
(2004), hướng dẫn áp dụng cách tiếp cận này trong quản lý tài nguyên (Pirot và nnk., 2000;
Shepherd, 2004; MclLeod và Sain, 2006; Pérez và nnk., 2010).
Cách tiếp cận này được Hội nghị lần thứ 5 các bên nước tham gia CBD (COP 5), tại Nairobi,
Kenya (2000) thông qua tại Quyết định V/6 và được xem là cách tiếp cận chủ đạo trong hoạch
định các chính sách, thể chế quốc gia trong điều kiện của địa phương để quản lý tổng hợp tài
nguyên, nhằm thực hiện ba mục tiêu của CBD: (i) Bảo tồn ĐDSH; (ii) Sử dụng bền vững các
thành phần của ĐDSH; và (iii) Chia sẻ công bằng lợi ích thu được từ việc sử dụng tài nguyên di
truyền.
Tiếp theo, Chương trình Đánh giá hệ sinh thái thiên niên kỷ (The Millenium Ecosystem
Asessment) đã được LHQ phát động trên cơ sở của cách tiếp cận này. Kết quả của giai đoạn thực
hiện đầu tiên (2001-2005) đã được đánh giá trong Báo cáo tổng hợp của Chương trình với tiêu đề
“Ecosystem and Human Well-being”. Báo cáo đã tổng kết đánh giá những hệ quả của sự thay đổi
HST phục vụ cho lợi ích của con người và xây dựng cơ sở khoa học cho những hoạt động nhằm
11
tăng cường công tác bảo tồn và sử dụng hợp lý các HST. Báo cáo tập trung phân tích mối quan
hệ giữa HST, đặc biệt là dịch vụ các HST và phúc lợi của con người (Hình 3.1) (MEA, 2005).
A B
Hình 3.1. Mối liên quan giữa các dịch vụ hệ sinh thái và các thành tố của cuộc sống thịnh
vượng (A – nguồn: MEA, 2005, theo Trương Quang Học, 2012); Sơ đồ cách tiếp cận liên ngành
phục vụ phát triển bền vững (B – nguồn: Komiyama và nnk., 2011)
Hình 3.1A trình bày mối quan hệ giữa HST/dịch vụ HST với phúc lợi của con người. Con người,
một mặt, sống nhờ vào HST thông qua các dịch vụ của nó, gồm: (i) dịch vụ cung cấp (cung cấp
các loại vật liệu, cây thuốc, thực phẩm, nước..; (ii) dịch vụ điều tiết (điều tiết lũ lụt, hạn hán,
chống xói mòn đất, điều hòa nguồn nước, dịch bệnh); (iii) dịch vụ văn hóa-tinh thần (các giá
trị du lịch, giải trí, nghỉ dưỡng, nghiên cứu, giáo dục, tôn giáo, nghệ thuật và các lợi ích phi vật
chất khác; và (iv) dịch vụ hỗ trợ (hình thành đất, duy trì các chu trình dinh dưỡng, chu trình sinh
địa hóa, dòng năng lượng). Mặt khác, con người lại tác động vào HST thông qua các hoạt
động sinh kế trực tiếp (nguyên nhân trực tiếp) và các hoạt động phát triển kinh tế-xã hội (nguyên
nhân sâu xa/cơ bản) – tác động chính làm suy thoái các HST/ĐDSH. Cần nhấn mạnh rằng, mối
tương tác giữa con người và HST có sự thay đổi giữa/và chịu sự tác động của các cấp: địa
phương, quốc gia và quốc tế.
Như vậy, EBA đặt con người và thực tế sử dụng tài nguyên của họ là trung tâm của khung hoạch
định chính sách. Để khai thác các lợi ích từ các dịch vụ HST, con người đã đưa ra các lựa chọn
hay quyết định về quản lý liên quan đến các HST, làm thay đổi chức năng và dịch vụ mà HST
cung cấp.
12
3.2. Cách tiếp cận dựa trên hệ sinh thái trong phát triển bền vững
PTBV là sự phát triển đảm bảo sự hài hòa giữa ba lĩnh vực: môi trường, kinh tế và xã hội, trên
nền của văn hóa (Hình 3.2). Vì yếu tố cơ bản của PTBV là bền vững về mặt môi trường, nên
hiện nay cách tiếp cận dựa trên HST được áp dụng rộng rãi trên phạm vi toàn cầu cho hầu hết
các HST và các lĩnh vực tự nhiên, kinh tế-xã hội, để quản lý tổng hợp môi trường, phục vụ
PTBV.
Các tài nguyên thiên nhiên, như tài nguyên sinh vật, đất, nước, cũng dễ bị tổn thương do các hoạt
động của con người. Để giải quyết các vấn đề môi trường này, nhân tố chính là phục hồi chúng
từ/ hoặc tăng tính chống chịu của hệ xã hội và HST đối với tác động. Muốn vậy, phải xác định
được các yếu tố có ảnh hưởng đến tính chống chịu và những giải pháp để tăng cường tính chống
chịu trước những thay đổi của môi trường tự nhiên, của xã hội (Hình 3.2A).
Theo nghĩa rộng, PTBV nhằm mục đích duy trì hoặc tăng cường sức khỏe của các HST và sinh
kế/sự thịnh vượng của người dân, bao gồm nhiều yếu tố (giáo dục được nâng cao, các nhu cầu cơ
bản như nước sách, lương thực, nhà ở được cải thiện). Các HST chính là hệ thống hỗ trợ cơ
bản cho cuộc sống. Vì thế, nguyên lý cơ bản là “bảo tồn chức năng và tính toàn vẹn của HST” sẽ
hoặc cần phải là một phương tiện cơ bản cho PTBV.
Thích ứng dựa trên HST hỗ trợ thích ứng xã hội (làm giảm tính dễ bị tổ thương của xã hội) đối
với BĐKH, bằng cách quản lý và sử dụng HST/dịch vụ HST một cách có tính toán. Nó bổ sung
hoặc thay đổi cơ sở hạ tầng cứng (ví dụ, trồng rừng ngập mặn) hoặc các giải pháp công trình
thích ứng khác. Điều này sẽ đem lại lợi ích kép cho cả cộng đồng và cả công tác bảo tồn ĐDSH
(Pirot và nnk., 2000).
A B
Hình 3.2. Sơ đồ phát triển bền vững (UNESCO) (A); và kinh tế xanh trong bối cảnh PTBV
(nguồn: European Environment Agency, 2012) (B)
Chương trình MEA đã hỗ trợ các quốc gia trong việc lựa chọn những phương án tốt nhất và xác
định cách tiếp cận mới, phù hợp để thực hiện kế hoạch hành động triển khai Agenda 21, nhằm
đạt được các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Đối với các nhà hoạch định chính sách, MEA đưa ra một
cơ chế để giúp họ:
+ Xác định phương án nhằm đạt được các mục tiêu bền vững và phát triển con người.
13
+ Hiểu biết một cách sâu sắc hơn khái niệm đánh đổi (Trade-off) có liên quan tới tất cả các
ngành, các bên liên quan (Stakeholders) trong những quyết định liên quan tới môi trường.
+ Liên kết (Align) các phương án giải quyết nhằm đạt được hiệu quả tổng hợp cao nhất.
+ Để thực hiện PTBV, cần có phương pháp luận liên ngành, trong tất cả các khâu từ hoạch định
chính sách, tổ chức thực hiện, giám sát đánh giá... (Hình 3.1B). Từ cách lý giải đó, có thể thấy
phương pháp quản lý thích ứng (Adaptive Management) là phù hợp để xây dựng tính chống chịu
và bền vững của hệ.
Tăng tưởng xanh – con đường phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu:
Một cách khái quát, có thể hiểu tăng trưởng xanh/kinh tế xanh là nền kinh tế dựa vào năng lượng
xanh, năng lượng tái tạo và sử dụng năng lượng có hiệu quả. Kinh tế xanh tạo ra việc làm, bảo
đảm tăng trưởng kinh tế bền vững và ngăn chặn ô nhiễm môi trường, nóng lên toàn cầu, cạn kiệt
nguồn tài nguyên và suy thoái môi trường... Tuy nhiên, cần nhấn mạnh là tăng trưởng xanh
không thay thế cho PTBV, mà chỉ là một con đường phát triển kinh tế/môi trường bền vững
(Hình 3.2B).
4. CÁCH TIẾP CẬN DỰA TRÊN HỆ SINH THÁI TRONG ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ
HẬU
Trong vài thập kỷ gần đây, BĐKH ngày càng hiện hữu và đã trở thành thách thức lớn nhất của
nhân loại trong thế kỷ XXI. BĐKH tác động tới tất cả các lĩnh vực, các vùng miền, các hệ thống
tự nhiên và kinh tế-xã hội trên phạm vi toàn cầu, đe dọa sự tồn tại của loài người, của Trái đất
(IPCC, 2007). Liên Hợp Quốc, nhân Ngày Môi trường Thế giới, đã kêu gọi tất cả thế giới hãy
liên hiệp lại trong cuộc chiến chống BĐKH và bảo tồn ĐDSH và phải “hành động ngay, cùng
nhau và theo cách khác” (WB, 2010). Cách khác ở đây bao hàm cả cách tiếp cận khác.
4.1. Tính tích hợp trong nghiên cứu – triển khai và ứng phó với biến đổi khí hậu
BĐKH và ứng phó với BĐKH là một hệ thống phức hợp nhất, bao gồm 7 pha, có tính hệ thống
và liên quan chặt chẽ với nhau (IPCC, 2007; Sumi và nnk., 2011) (Hình 4.1A, B). Đó là: (i) Pha
1: Hoạt động kinh tế-xã hội và phát thải khí nhà kính; Pha 2: Chu kỳ cacbon và nồng độ cacbon
trong khí quyển; Pha 3: Ấm lên toàn cầu; Pha 4: Tác động tới các HST và xã hội; Pha 5: Thích
ứng; Pha 6: Giảm nhẹ; và Pha 7: Hệ thống xã hội. Cơ sở khoa học để hiểu biết tường tận các pha
này, nhất là pha 4, 5, 6 và 7 còn rất hạn chế (Sumi và nnk., 2011) (Hình 4.1B).
14
A B
Nguồn: IPCC, 2007.
Hình 4.1. Sơ đồ mối tương tác của BĐKH và các hợp phần của hệ sinh thái-nhân văn (A);
và Khung các vấn đề của BĐKH (B)
4.1. Ứng phó với biến đổi khí hậu theo hướng tiếp cận dựa trên hệ sinh thái
ĐDSH/HST và BĐKH có sự tương tác lẫn nhau (Hình 4.1B). Một mặt, các HST trên cạn, đất
ngập nước và biển là bể hấp thụ và bể chứa cacbon khổng lồ, lưu trữ tới trên 50% lượng cacbon
trên Trái đất. Mặt khác, các HST lại là hệ thống hỗ trợ cho sự sống. Hơn thế nữa, mức độ và tính
chất của những tương tác này lại thay đổi theo không gian và thời gian. BĐKH là nguyên nhân
quan trọng dẫn tới suy giảm ĐDSH. Sự suy giảm ĐDSH, sự xuống cấp của các sinh cảnh tự
nhiên/HST cũng góp phần làm gia tăng BĐKH và tạo ra các rủi ro cho đời sống con người.
Theo thống kê, tình traṇg mất rừng và suy thoái rừng đang đóng góp môṭ tỷ lê ̣lớn, khoảng 15-
20% tổng lượng khí nhà kính do các hoạt động của con người gây ra trên phạm vi toàn cầu. Mặt
khác ĐDSH thông qua các dịch vụ HST lại hỗ trợ và góp phần vào việc giảm nhẹ và thích ứng
với BĐKH. Do đó, bảo tồn và quản lý ĐDSH có ý nghĩa rất lớn trong ứng phó với BĐKH.
Sự tương tác hai chiều giữa BĐKH và ĐDSH mà hậu quả trực tiếp là sự mất đất, suy thoái của
các HST nông nghiệp, rừng, đất ngập nước, có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống và sự phát triển
của con người.
Các phân tích chi tiết về mối tương tác giữa ĐDSH và BĐKH sẽ là cơ sở khoa học và thực tiễn
để đề xuất các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ BĐKH nói chung và đối với ĐDSH nói riêng
(Trương Quang Học, 2010).
Tác động của BĐKH, về thực chất, là tác động lên các thành phần của HST và lên toàn HST nói
chung, và ứng phó với BĐKH về nguyên tắc cũng là các giải pháp phục hồi, duy trì tính cân
bằng của HST. Theo đó, cách tiếp cận dựa trên HST (EBA) được lựa chọn như cách tiếp cận chủ
đạo trong ứng phó với BĐKH, theo nguyên tắc ứng phó với BĐKH là duy trì và tăng cường tính
chống chịu, khả năng thích ứng, giảm nhẹ tính dễ bị tổn thương/rủi ro khí hậu, nhằm hạn chế
thiệt hại do BĐKH gây ra cho các hệ sinh thái-xã hội (MclLeod và Sain, 2006; Pérez và nnk.,
2012; Prasad và nnk., 2008; Shah và Ranghieri, 2012).
15
Tổng hợp các nghiên cứu trên phạm vi toàn cầu theo hướng tiếp cận này trong ứng phó với
BĐKH, Ngân hàng Thế giới đã xuất bản sách “Những giải pháp tiện lợi giải quyết thực tế phiền
phức: Cách tiếp cận dựa trên HST để giải quyết vấn đề BĐKH” (WB, 2010). Ngân hàng Thế
giới đã khuyến cáo rằng, tiếp cận dựa trên HST phải được áp dụng như cách tiếp cận chủ đạo,
nhằm thích ứng và giảm nhẹ BĐKH và phải là một nội dung quan trọng trong các chiến lược
quốc gia, bao gồm cả thích ứng và giảm nhẹ BĐKH (Lovejoy và Hannan, 2005; WB, 2010).
4.1.1. Giảm nhẹ biến đổi khí hậu theo hướng tiếp cận dựa trên hệ sinh thái
Các HST trên cạn, dưới nước (bao gồm cả các HST biển) có vai trò rất quan trọng trong chu
trình tuần hoàn cacbon trên toàn cầu. Các sinh cảnh tự nhiên, nhất là HST rừng, là bể hấp thụ và
bể chứa cacbon. Mỗi năm, các HST trên cạn có khả năng thu giữ được 3 giga tấn cacbon (GtC)
và các HST biển – 1,7 giga tấn cacbon từ bầu khí quyển. Nhờ đó làm giảm lượng phát thải, giảm
nhẹ BĐKH.
Theo ước tính, từ nay đến năm 2050, tính chung trên toàn thế giới, khả năng hạn chế phát thải
khí nhà kính do các dịch vụ HST thông qua trồng cây/trồng rừng, phục hồi rừng, phòng tránh
phá rừng và áp dụng các biện pháp nông lâm kết hợp và quản lý rừng được cải thiện, chỉ có thể
đạt được mực tối đa là 100 giga tấn cacbon, tương đương với 10-20% lượng khí nhà kính phát
thải từ việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong cùng thời ký này (WB, 2010). Vì vậy, việc trồng
và bảo vệ rừng, bao gồm các các chương trình giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng
(REDD, REDD+, UNREDD) hiện nay là các giải pháp có tính khả thi cao để giảm nhẹ BĐKH
(CIFOR, 2009).
Các đại dương (bao gồm cả các HST biển) cùng là các bể hấp thụ và lưu giữa cacbon khổng lồ,
có thể lưu giữ một lượng cacbon lớn gấp 50 lần lượng cacbon có trong khí quyển (WB, 2010).
Tóm lại, ĐDSH có thể hỗ trợ để giảm nhẹ và giảm các tác động có hại của BĐKH. Các nơi
sống/sinh cảnh đươc bảo tồn và phục hồi có thể hấp thụ cacbon dioxit trong khí quyển và dự trữ
trong cơ thể thực vật. Hơn thế nữa, việc bảo tồn và phát triển các HST như rừng ngập mặn, rừng
đầu nguồn, có tác dụng giảm thiểu thiên tai, nhất là bão, lũ lụt, sóng thần.
Vì vậy, việc bảo tồn các HST trên cạn, đất ngập nước và biển, việc phục hồi các HST đã suy
thoái (bao gồm cả đa dạng loài và đa dạng di truyền) là những việc làm cần thiết để đạt được
mục tiêu chung của cả Công ước ĐDSH và Công ước Khung về BĐKH của Liên Hợp Quốc, bởi
vì HST giữ vai trò rất quan trọng trong chu trình cacbon toàn cầu và trong thích ứng với BĐKH.
Bên cạnh đó, HST còn cung cấp các dịch vụ cần thiết cho sinh kế của con người để đạt được các
Mục tiêu Thiên niên kỷ.
4.1.2. Thích ứng với biến đổi khí hậu theo hướng tiếp cận dựa trên hệ sinh thái
Thích ứng với BĐKH dựa trên hệ sinh thái là sử dụng các hệ tự nhiên và các dịch vụ hệ sinh thái
như một hợp phần quan trọng trong chiến lược tổng thể để quản lý tổng hợp tài nguyên, giúp con
người thích ứng với các tác động bất lợi từ BĐKH. Mục đích của EBA là tăng cường sức chống
chịu và khả năng phục hồi của các cộng đồng dân cư cũng như các HST thông qua các hoạt động
cụ thể, như quản lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, quản lý tổng hợp vùng đầu nguồn, nhằm
duy trì và khôi phục tính toàn vẹn các HST và các lợi ích mà HST mang lại (Trương Quang Học,
2008a, b, c; WB, 2010).
16
Đồng thời, tính chống chịu của hệ xã hội cũng được tăng cường thông qua các hoạt động như
hoàn thiện thể chế, xây dựng nguồn lực (con người, cơ sở hạ tầng, tài chính), hay nâng cao nhận
thức. Tất cả các hoạt động này nhằm chủ động tăng cường tính chống chịu (tăng cường khả năng
thích ứng, giảm tính dễ bị tổn thương để giảm rủi ro khí hậu, giảm thiệt hại do BĐKH gây ra cho
cộng đồng/hệ sinh thái-xã hội (Hình 4.2). “Hầu hết các quốc gia ngày càng thừa nhận, thích ứng
với BĐKH dựa vào HST mang lại lợi ích về kinh tế và xã hội lâu dài”.
Nguồn: IPCC, 2012.
Hình 4.2. Sơ đồ sự tương tác nhân – quả giữa biến đổi khí hậu và phát triển
Hình 4.2 cho thấy, nếu tính dễ bị tổn thương, mức độ nguy hiểm, hoặc mức độ nghiêm trọng và
tần suất của các sự kiện khí hậu tăng, thì các nguy cơ thảm họa tăng, và ngược lại, quản lý rủi ro
thảm họa, thích ứng với BĐKH và giảm phát thải theo hướng tiếp cận dựa trên HST tốt, nguy cơ
thảm họa giảm.
Một HST khỏe mạnh, với tính chống chịu-thích ứng cao, có tiềm năng lớn hơn trong thích ứng
với/và giảm nhẹ BĐKH. Bảo tồn ĐDSH góp phần làm giảm tính dễ bị tổn thương và tăng cường
sinh kế cho cộng đồng. Các chiến lược bảo tồn và quản lý, nhằm duy trì và phục hồi ĐDSH có
thể có tác dụng làm giảm nhẹ tác động có hại của BĐKH. Tuy nhiên, có những chỉ số và phạm vi
của BĐKH lại làm cho sự thích ứng tự nhiên trở nên khó khăn hơn Những lựa chọn để làm
tăng khả năng thích ứng của loài và HST với BĐKH gia tăng bao gồm:
+ Làm giảm các áp lực không do khí hậu gây ra như ô nhiễm, khai thác quá mức, mất hoặc phân
cắt nơi sống, sinh vật ngoại lai xâm hại;
+ Đẩy mạnh công tác bảo tồn và sử dụng bền vững ĐDSH, bao gồm cả giải pháp mở rộng mạng
lưới các khu bảo tồn;
+ Áp dụng cách quản lý thích ứng thông qua việc tăng cường các hệ thống giám sát và đánh giá.
Thích ứng dựa trên HST sử dụng các dịch vụ HST và ĐDSH trong một chiến lược thích ứng
tổng thể, bao gồm:
17
+ Bảo vệ dải ven biển bằng giải pháp duy trì và hồi phục các HST rừng ngập mặn và đất ngập
nước ven biển, để giảm thiểu tác hại của bão lụt và xói lở bờ;
+ Quản lý bền vững các vùng đất ngập nước nội địa và vùng đồng bằng lụt lội, để duy trì tài
nguyên nước về cả số lượng và chất lượng;
+ Bảo tồn và phục hồi rừng, để bảo vệ đất và điều hòa nguồn nước;
+ Xây dựng các HST nông-lâm nghiệp đa dạng, nhằm giảm thiểu các rủi ro ngày càng tăng lên
do BĐKH gây ra;
+ Bảo tồn ĐDSH nông nghiệp để đảm bảo các nguồn gen đặc biệt cho việc thích ứng của mùa
màng và chăn nuôi với BĐKH; v.v...
Bảo tồn ĐDSH đóng góp quan trọng vào quá trình giảm quy mô của BĐKH và giảm các tác
động tiêu cực đó bằng tăng sức chống chịu, tăng khả năng phục hồi cho các HST, và qua đó, xã
hội con người hài hòa hơn. Bởi vậy, các thách thức về ĐDSH và BĐKH cần được giải quyết
đồng thời với cùng mức ưu tiên. Để xử lý gốc rễ của việc mất ĐDSH, chúng ta phải đặt ĐDSH ở
mức ưu tiên cao hơn trong tất cả các quá trình đưa ra quyết định và trong tất cả các ngành kinh
tế. ĐDSH không thể là một ý tưởng nảy ra sau khi các mục tiêu khác đã được quyết định –
ĐDSH phải là nền tảng để xây dựng các mục tiêu khác. Chúng ta cần một tầm nhìn mới về
ĐDSH cho một hành tinh khỏe mạnh và một tương lai bền vững của nhân loại. Vì vậy, ĐDSH
cần phải được lồng ghép vào tất cả các lĩnh vực phát triển của tất cả các ngành (The European
Commision, 2012).
Người ta tính rằng, trồng và bảo vệ gần 12.000 ha rừng ngập mặn ở Việt Nam chỉ mất khoảng
hơn 1 triệu USD, nhưng tiết kiệm khoảng hơn 7 triệu USD chi phí hàng năm cho công tác bảo
dưỡng đê điều. Trong nông nghiệp, chọn lọc các giống cây con chịu mặn, chịu hạn, chịu ngập,
chống đổ đang là các hoạt động ưu tiên trong thích ứng với BĐKH.
Trong thời gian gần đây, cách tiếp cận dựa trên HST, dựa trên tính chống chịu của các hệ thống,
đặc biệt là hệ sinh thái-xã hội được nghiên cứu và triển khai mạnh mẽ ở nhiều quốc gia. Nhiều
viện, trung tâm nghiên cứu về sức chống chịu đã được thành lập, nhiều hội nghị quốc tế, khu
vực, nhiều khóa tập huấn đã được tổ chức.
5. ÁP DỤNG CÁCH TIẾP CẬN DỰA TRÊN HỆ SINH THÁI Ở VIỆT NAM
Tiếp cận dựa trên HST được bắt đầu nghiên cứu tại Việt Nam từ năm 1996 và triển khai tại vùng
bờ biển 2 tỉnh Quảng Ninh và Hải Phòng từ năm 2003 với sự giúp đỡ của Cơ quan Quản lý Khí
quyển và Đại dương Hoa Kỳ (NOAA) và IUCN. Tiếp theo, IUCN đã có những nghiên cứu trong
lĩnh vực này, đặc biệt cho các HST đất ngập nước. IUCN đã tổ chức nhiều hội thảo khoa học và
kết quả được tập hợp trong sách “Tổng quan về áp dụng tiếp cận hệ sinh thái vào các khu đất
ngập nước tại Việt Nam” (Shepherd và Lý Minh Đăng, 2008).
Trương Quang Học và Võ Thanh Sơn (2004-2006) đã thí điểm áp dụng EBA trong quản lý tài
nguyên tại Vườn Quốc gia Cúc Phương và Khu Bảo tồn Na Hang (Trương Quang Học và Võ
Thanh Sơn, 2008).
Trong những năm gần đây, trong bối cảnh BĐKH, nhiều dự án thích ứng với BĐKH, đặc biệt là
các dự án hợp tác với nước ngoài, đã được tiến hành theo hướng xây dựng, tăng cường tính
18
chống chịu của các khu vực (đô thị) hay lĩnh vực (cơ sở hạ tầng)... Theo Geoffrey Blate (2012),
giải pháp thích ứng với BĐKH dựa vào HST đáp ứng được các vấn đề ưu tiên quốc gia – phát
triển kinh tế bền vững, xóa đói giảm nghèo, bảo tồn ĐDSH. Các dự án tiêu biểu có thể nêu ra
như sau:
+ Dự án “Mạng lưới các thành phố ở châu Á có khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu”
(ACCCRN) do Quỹ Rockefeller tài trợ, triển khai ở 10 thành phố của Việt Nam, Ấn Độ,
Inđônêxia và Thái Lan, hoạt động từ năm 2008, nhằm nâng cao khả năng chống chịu, thích ứng
cũng như giải quyết hậu quả của BĐKH. Tại Việt Nam, Dự án đã có 2 giai đoạn (Giai đoạn 1:
2008-2010 và Giai đoạn 2: 2011-2012). Trong Giai đoạn 1, Dự án lựa chọn 3 thành phố để triển
khai thực hiện là Đà Nẵng, Quy Nhơn và Cần Thơ (ACCCRN – Việt Nam, 2010).
+ Dự án “Lồng ghép phương pháp tiếp cận dựa vào hệ sinh thái thích ứng với biến đổi khí hậu
vào công tác quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học tại Việt Nam”, với mục tiêu xây dựng mô hình
quy hoạch bảo tồn ĐDSH cấp tỉnh, lồng ghép với phương pháp tiếp cận dựa trên HST thích ứng
với BĐKH của Việt Nam (6/2012 đến tháng 12/2013), cơ quan chủ trì: Bộ Tài nguyên và Môi
trường, do Thụy Điển tài trợ).
+ Dự án “Tăng cường sức chống chịu của vùng ven biển tại Việt Nam, Campuchia và Thái
Lan” được triển khai tại tám tỉnh, thành của ba nước gồm Thành phố Hồ Chí Minh, Bến Tre, Sóc
Trăng và Kiên Giang của Việt Nam, Kampot và Koh Kong của Campuchia, Trat và Chanthaburi
của Thái Lan. Tổng kinh phí của Dự án là 3,2 triệu Euro, do Liên minh Châu Âu tài trợ. Dự án
được triển khai từ tháng 8/2011 – 6/2014, với mục tiêu chính là cải thiện sức chống chịu vùng
ven biển, nhằm ứng phó với tình trạng nước biển dâng, xâm nhập mặn, tăng khả năng thích ứng
của con người và HST đối với BĐKH, đảm bảo điều kiện sống tốt hơn cho người dân ven biển
Tại Bến Tre, Dự án sẽ chú trọng lồng ghép với các dự án khác đang được triển khai trên địa bàn,
trọng tâm là xây dựng các kế hoạch ứng phó dựa trên HST, phát triển rừng ngập mặn, chú trọng
nâng cao năng lực của chính quyền địa phương đối với BĐKH.
+ Dự án “Tăng cường khả năng chống chịu biến đổi khí hậu cho cơ sở hạ tầng miền núi phía
Bắc” được thực hiện tại 16 tỉnh miền núi phía Bắc trong thời gian 4 năm (2012-2015), với tổng
số vốn ODA là 3,4 triệu USD do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Quỹ Môi trường
Toàn cầu tài trợ. Mục tiêu của Dự án là nhằm đưa ra các bài học kinh nghiệm về những giải pháp
chi phí thấp, tăng cường khả năng ứng phó BĐKH cho các công trình cơ sở hạ tầng ở các tỉnh
miền núi phía Bắc và ứng dụng rộng rãi cho các dự án tương tự.
+ Dự án “Tăng cường khả năng phục hồi trước tác động của biến đổi khí hậu thông qua xây
dựng Khung hướng dẫn thích ứng với biến đổi khí hậu dựa trên hệ sinh thái tại Lào và Việt
Nam” do Viện Chiến lược, Chính sách và Tài nguyên Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi
trường) phối hợp với Quỹ Quốc tế về Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) thực hiện (6/2012 – tháng 6
/2013), dưới sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật của Ngân hàng Thế giới (WB), là một trong những
dự án đầu tiên nghiên cứu về phương pháp thích ứng này. Mục tiêu cụ thể của Dự án là xây dựng
hướng dẫn kỹ thuật về thực hành EBA thông qua việc xây dựng một khung hướng dẫn và thực
hiện thí điểm tại một khu vực cụ thể; đánh giá tính hiệu quả về mặt chi phí và tính bền vững của
EBA, cung cấp khuyến nghị hướng dẫn về mặt chính sách để lồng ghép EBA vào các chiến lược
phát triển có liên quan cấp trung ương, địa phương và chiến lược ngành; thực hiện đánh giá tính
19
tổn thương và xây dựng các giải pháp thích ứng dựa trên HST hợp với một lưu vực thuộc tỉnh
Champasak và Bến Tre.
+ WB (2012) đã tổng kết các kinh nghiệm tăng cường tính chống chịu để ứng phó với thiên tai
tại 3 đô thị Việt Nam (Hà Nội, Đồng Hới và Cấn Thơ) trong cuốn sách “A Workbook on
Planning for Urban Resilience in the Face of Disasters: Adapting Experiences from Vietnam’s
Cities to Other Cities” để chia sẻ toàn cầu.
+ Mạng lưới BĐKH của các tổ chức phi chính phủ (CCWG) cũng đang có các hoạt động xây
dựng các mô hình thích ứng với BĐKH theo cách tiếp cận dựa trên HST.
Theo đó, nhiều hội nghị, hội thảo, khóa tập huấn đã được tổ chức:
+ Hội thảo “Tiếp cận hệ sinh thái vùng trong quản lý vùng bờ Quảng Ninh – Hải Phòng” do
Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) và UBND
TP Hải Phòng phối hợp tổ chức tại TP Hải Phòng (ngày 24/5/2010).
A B
Hình 5.1. (A) Hội thảo khởi động Dự án “Xây dựng khung hướng dẫn kỹ thuật:
Thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào hệ sinh thái ở Lào và Việt Nam” (8/2012);
(B) Tăng cường tính chống chịu với thiên tai của HST rừng ngập mặn
+ “Tăng cường khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu” (Building Resilience to Climate
Change) do Viện Bền vững và Hòa Bình, thuộc Đại học Liên Hợp Quốc (UNU-ISP) tổ chức tại
Tokyo, Nhật Bản (năm 2012) (2 cán bộ Việt Nam tham gia).
+ Hội thảo khởi động Dự án “Xây dựng khung hướng dẫn kỹ thuật: Thích ứng với biến đổi khí
hậu dựa vào hệ sinh thái ở Lào và Việt Nam”, do Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và
Môi trường (ISPONRE) phối hợp với các bên liên quan tổ chức tại Hà Nội (ngày 14/8/2012).
+ Diễn đàn khu vực đầu tiên về chủ đề “Xây dựng khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu
cho vùng ven biển” tại Trường Đại học Burapha, tỉnh Chanthaburi, Thái Lan, do Tổ chức Bảo
tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) phối hợp với Quỹ Phát triển Bền vững (SDF), Tổng cục Biển
và Hải đảo Việt Nam (VASI), Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ), Quỹ Nghiên cứu Thái Lan
(TRF), Đài Truyền hình Thai PBS và Trường Đại học Burapha (Thái Lan) tổ chức (28/2 –
2/3/2012).
20
+ Khóa đào tạo các tập huấn viên (ToT) trong khuôn khổ Dự án “Tăng cường sức chống chịu
với biến đổi khí hậu của vùng ven biển Đông Nam Á (BCR) ở 5 tỉnh trọng điểm thuộc khu vực
đồng bằng sông Cửu Long” do IUCN tổ chức (ngày 4-6/4/2012).
Như vậy có thể thấy rằng, chúng ta đã triển khai ứng dụng cách tiếp cận HST trong thực tế từ
lâu. Tuy nhiên, những kết quả đạt được còn hạn chế trong những đề tài/dự án, những hợp phần
của những hệ, những hệ thành phần, mà chưa có những nghiên cứu tổng thể cho toàn hệ thống,
nhất là hệ sinh thái -xã hội. Điều này có thể do mấy lý do:
+ Nghiên cứu về sinh thái học nói chung và HST nói riêng ở Việt Nam con mỏng.
+ Cách tiếp cận liên ngành/xuyên ngành trong tất cả các khâu của hệ thống quản lý Nhà nước,
từ hoạch định chính sách, đến tổ chức thực hiện, giám sát đánh giá, còn chưa được quán triệt đi
vào cuộc sống.
Tuy nhiên phải thấy rằng, trong những thành tựu nghiên cứu và bảo tồn ĐDSH của Việt Nam
trong thời gian qua, những kết quả nghiên cứu và triển khai về HST còn rất hạn chế. Điều này là
một trong những nguyên nhân hạn chế những kết quả áp dụng cách tiếp cận HST trong PTBV
cũng như trong ứng phó với BĐKH hiện nay.
6. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Cách tiếp cận dựa trên HST đã được phát triển từ những năm 1980. Lúc đầu, chỉ nhằm mục đích
phục vụ cho quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo tồn ĐDSH, sau đó, được áp dụng rộng rãi cho
PTBV và hiện nay cho ứng phó với BĐKH và các cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội khác, theo
nguyên tắc xây dựng/tăng cường tính chống chịu-thích ứng của các hệ sinh thái-xã hội.
Ở Việt Nam, cách tiếp cận dựa trên HST mới bắt đầu trong thời gian gần đây và hiện nay, đang
là cách tiếp cận được thử nghiệm, được áp dụng trong nhiều chương trình, dự án ứng phó với
BĐKH. Tính chống chịu và thích ứng đây đó đã được xây dựng, nhưng mới chỉ giới hạn ở từng
khía cạnh, từng bộ phận, từng hợp phần của các hệ thống, mà chưa có cách nhìn và cách làm
tổng thể, liên ngành cho toàn hệ thống và ở các cấp.
Để có thể áp dụng được hiệu quả hơn cách tiếp cận này trong thực tế, xin có một số khuyến nghị
như sau:
1. Tăng cường nghiên cứu và đào tạo về sinh thái học theo nghĩa: hệ sinh thái vừa là đối tượng
nghiên cứu (cấu tạo, chức năng, dịch vụ, các chu trình sinh-địa-hóa, dòng năng lượng, diễn thể,
tính chống chịu, tính thích ứng), vừa là cách tiếp cận khoa học, vừa là giải pháp để giải quyết vấn
đề, như là các giải pháp chủ đạo trong nhóm giải pháp phi công trình mang tính chiến lược dài
hạn. Trong đó, chú ý các vấn đề mang tính tích hợp cao và xuyên suốt (dịch vụ hệ sinh thái, tính
chống chịu-thích ứng, kinh tế sinh thái) của các hệ thống, bao gồm HST tự nhiên và đặc biệt là
hệ sinh thái-xã hội và các giải pháp tổng hợp để duy trì và tăng cường nó trong từng điều kiện cụ
thể.
2. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu và triển khai khoa học - công nghệ để xây dựng cơ sở khoa
học cho quá trình hoạch định và thực thi các thể chế chính sách.
3. Ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực trong hai lĩnh vực mới: BĐKH và Khoa học bền vững, đảm
bảo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ ứng phó với BĐKH và PTBV.
21
4. Xây dựng cơ sở khoa học và quy trình kỹ thuật hướng dẫn triển khai cách tiếp cận HST trong
thực tế ở các cấp, các lĩnh vực và tổng thể phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. ACCCRN – Việt Nam, 2010. Dự án mạnh lưới các thành phố châu Á có khả năng chống
chịu với Biến đổi khí hậu ACCCRN-Việt Nam. Hà Nội.
2. CIFOR, 2009. Realising REED +: National Strategy and Policy Options.
3. European Environment Agency, 2012. Green Economy. themes/
economy/intro.
4. Trương Quang Học (Chủ biên), 2003. Đa dạng sinh học và bảo tồn. Bộ Tài nguyên và Môi
trường.
5. Trương Quang Học, 2008a. Từ phát triển đến phát triển bền vững – nhìn từ góc độ giáo dục
và nghiên cứu khoa học. Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Khoa học phát triển – Lý luận và thực
tiễn ở Việt Nam” Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển. ĐHQGHN, Hà Nội.
6. Truong Quang Hoc, 2008b. Linkage Between Biodiversity and Climate Change in Vietnam.
Proceedings, The 2nd Vietnam-Japan Symposium on Climate Change and the
Sustainability, 11.2008. Vietnam. National University Press. Ha Noi: pp. 53-58.
7. Trương Quang Học, 2008c. Hệ sinh thái trong phát triển bền vững. Trong: 20 năm Việt
Nam học theo hướng liên ngành. NXB Thế giới, Hà Nội.
8. Trương Quang Học, 2010. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến đa dạng sinh học của Việt
Nam. Kỷ yếu Hội nghị Môi trường toàn quốc lần thứ III. Hà Nội.
9. Trương Quang Học, 2012. VIỆT NAM: Thiên nhiên, môi trường và phát triển bền vững.
NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
10. Trương Quang Học và Võ Thanh Sơn, 2008. Tiếp cận hệ sinh thái trong quản ý tài nguyên
thiên nhiên. Trong: Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững: Tuyển tập các công trình
khoa học và kỷ niệm 20 năm thành lập VACNE 1988-2008. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà
Nội.
11. IPCC, 2007. Báo cáo đánh giá lần 4 của UBLCPVBĐKH: Nhóm I: Khoa học vật lý về biến
đổi khí hậu, Nhóm II: Tác động, thích ứng và khả năng bị tổn thương, Nhóm III: Giảm nhẹ
biến đổi khí hậu.
12. Komiyama H., K. Takeuchi, H. Shiroyama and T. Mino (Eds). 2011. Sustainability Science:
A Multidisciplinary Approach. UN University Press. Tokyo - New York - Paris.
13. Lovejoy T.E. and L. Hannan, 2005. Climate Change and Biodiversity. Yale University
Press, New Haven & London.
14. MclLeod E. and R.V. Sain, 2006. Managing Mangroves for Resilienve to Climate Change.
The Nature Conservancy.
15. MEA, 2005. Ecosystems and Human Well-being. Millennium Ecosystem Board. Malaysia
and United States.
22
16. Pérez A.A., B.H. Fernández and R.C. Gatti (Eds.), 2010. Building Resilience to Climate
Change: Ecosystem-based Adaptation and Lessons from the Field. CEM.
17. Pirot J.Y., P.J. Meynell and D. Elder (Eds.), 2000. Ecosystem Management: Lessons from
Around the World. A Guide for Developement and Conservation Practionners. IUCN.
Grand, Switzerland and Cambridge, UK.
18. Prasad N., F. Ranghieri, F. Shah, Z. Trohanis, E. Kessler và R. Sinha, 2008. Thành phố
thích ứng với biến đổi khí hậu. NXB Văn hóa – Thông tin.
19. RIO+20 Outcome Documents, 2012, The Future We Want.
documents/.
20. Shepherd, G., 2004. Tiếp cận hệ sinh thái: Năm bước thức hiện. Ấn phẩm về quản lý hệ sinh
thái, Số 3. IUCN.
21. Shepherd G. và Lý Minh Đăng (Biên tập), 2008. Tổng quan về áp dụng tiếp cận hệ sinh thái
vào các khu đất ngập nước tại Việt Nam/IUCN.
22. Sumi A., N. Mimura and T. Masui, 2011. Climate Change and Global Sustainability: A
Hoclistic Approach. UN University Press, Tokyo - New York - Paris.
23. The European Commision, 2012. Life, Lives and Livelyhood. The European Commision’s
work on Biodiversity and Development.
24. Tyler Miller G.Jr., 2002. Living in the Environment. Twelfth Edition. Wadsworth
Publishing Company, Belmont, Warshington.
25. Watson R. and V.H. Heywood, 1995. Glabal Biodiversity Assessment. UNEP. Cambridge
University Press.
26. WB, 2010. Convenient Solution to an Inconvenient Truth: Ecosystem-Based Approaches to
Climate Change. The World Bank.
27. WB (Shah F. and F. Ranghieri), 2012. A Workbook on Planning for Urban Resilience in the
Face of Disasters: Adapting Experiences from Vietnam’s Cities to Other Cities. The World
Bank.
23
Summary
AN ECOLOGICAL BASIS FOR SUSTAINABLE DEVELOPMENT AND
CLIMATE CHANGE RESPONSE
Truong Quang Hoc
Centre for Natural Resources and Environmental Studies, VNU, Hanoi
An ecosystem/ecosystem-based approach (proposed by CBD) is a strategy for the integrated
management of natural (water, soil and biological) resources. The strategy is widely applied in
climate change response and sustainable development, putting people and their natural resource
use practices into the centre of the ecosystem. Based on the analysis of systems structure and
complexity (internal, and external relationships between their components and with other
systems), the paper aims to contribute to understanding and explaining the resilience of systems,
and ways to enhance the resilience of different systems including physical, ecological, especially
socio-ecologial systems for sustainable development as well as for climate change adaptation
and mitigation. The paper also summarises development and conservation activities using this
approach in Vietnam, and proposes some solutions to strengthen the approach in the curent
context of global change.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_so_sinh_thai_hoc_cho_phat_trien_ben_vung_va_ung_pho_voi_bien_doi_khi_hau_0832_2083180.pdf