Kết quả nghiên cứu chưa cung cấp được
bằng chứng thực nghiệm đáng kể về khả năng
sử dụng tỷ số tài chính để phát hiện gian lận
trên BCTC, đồng thời nghiên cứu vẫn còn một
số hạn chế nhất định. Đầu tiên, dữ liệu nghiên
cứu chỉ áp dụng với các công ty niêm yết tại
Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM cho năm
2017, các nghiên cứu tiếp theo có thể mở rộng
mẫu cho cả Sở Giao dịch Chứng khoán Hà
Nội và thêm nhiều năm để xem xét biến động
cũng như tác động của các tỷ số này như thế
nào. Tiếp theo, các tỷ số tài chính trong nghiên
cứu này còn hạn chế, các nghiên cứu tiếp theo
có thể mở rộng thêm các tỷ số tài chính khác
để kiểm tra. Cuối cùng, việc sử dụng M-Score
để phân loại mẫu công ty gian lận và không
gian lận chỉ là một khía cạnh để phân loại, các
nghiên cứu tiếp theo có thể sử dụng các cách
khác như sử dụng chênh lệch lợi nhuận trước
và sau kiểm toán hay các chỉ số khác như ZScore, F-Score để phân loại mẫu.
11 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 470 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Có sự khác biệt về tỷ số tài chính giữa các công ty gian lận và không gian lận tại Việt Nam hay không?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
122 Đinh Ngọc Tú và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 122-132
CÓ SỰ KHÁC BIỆT VỀ TỶ SỐ TÀI CHÍNH GIỮA CÁC CÔNG TY
GIAN LẬN VÀ KHÔNG GIAN LẬN TẠI VIỆT NAM HAY KHÔNG?
ĐINH NGỌC TÚ1,*, VŨ HẢI ANH1
VĂN NHẬT TÂM1, MAI THÂN THỦY QUỲNH1
HOÀNG TRẦN MINH CHÂU1, NGUYỄN MỸ HIẾU HÒA1
1Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
*Email: dinhtu@ueh.edu.vn
(Ngày nhận: 20/09/2018; Ngày nhận lại: 17/10/2018; Ngày duyệt đăng: 31/10/2018)
TÓM TẮT
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm kiểm tra xem liệu các tỷ số tài chính có sự khác biệt
đáng kể nào giữa các công ty gian lận và không gian lận hay không và xác định các tỷ số tài
chính nào có ý nghĩa nhất để dự báo gian lận báo cáo tài chính (BCTC). Sử dụng mẫu nghiên
cứu của 63 công ty gian lận và 63 công ty không gian lận của các công ty niêm yết trên sàn giao
dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh cho năm 2017 để kiểm tra. Kết quả nghiên cứu cho
thấy chỉ có tỷ số hàng tồn kho trên tổng tài sản (INV/TA) có sự khác biệt đáng kể giữa hai loại
công ty, các tỷ số còn lại không có khác biệt đáng kể. Kết quả của nghiên cứu cung cấp bằng
chứng thực nghiệm giới hạn về khả năng sử dụng phân tích tỷ số để dự đoán gian lận trên BCTC.
Từ khóa: Gian lận báo cáo tài chính; Gian lận; Tỷ số tài chính.
Are there significant mean differences in the financial ratios between fraudulent and
non-fraudulent companies in Vietnam?
ABSTRACT
This research aims to investigate whether there are any significant differences between the
means of financial ratios of fraudulent and non-fraudulent firms and to identify which financial
ratio is significant to predict fraudulent financial reporting. The sample comprises of 63
fraudulent companies and 63 samples of non-fraudulent companies listed on the HOSE in 2017.
The results show that there is only a significant mean difference between the fraud and non-fraud
firms in inventory to total assets; the others do not differ significantly. These results provide
empirical evidence of the limited ability of financial ratios to predict fraudulent financial
reporting.
Keywords: Financial ratios; Financial statement fraud; Fraud.
1. Giới thiệu
Gian lận là hành vi cố ý do một hay nhiều
người trong Ban quản trị, Ban giám đốc, các
nhân viên hoặc bên thứ ba thực hiện bằng các
hành vi gian dối để thu lợi bất chính hoặc bất
hợp pháp. Và nó gồm hai loại là biển thủ tài
sản và gian lận BCTC.
Việc lập BCTC gian lận có liên quan đến
các sai sót cố ý xuất phát từ chủ định của Ban
Giám đốc do gặp phải các áp lực như phải đạt
Đinh Ngọc Tú và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 122-132 123
được các mục tiêu về thị trường hoặc mong
muốn tối đa hóa tiền lương và thưởng dựa trên
hiệu quả hoạt động nhằm điều chỉnh kết quả
kinh doanh, lập BCTC gian lận bằng cách tạo
ra sai sót trọng yếu đối với báo cáo tài chính
như điều chỉnh không thích hợp đối với các
giả định và các xét đoán, làm người sử dụng
BCTC hiểu sai về tình hình hoạt động và khả
năng sinh lời của đơn vị được kiểm toán.
Trong một số đơn vị, Ban Giám đốc có
thể tìm cách báo cáo giảm lợi nhuận nhằm
làm giảm số thuế phải nộp hoặc báo cáo tăng
lợi nhuận để việc vay vốn ngân hàng được
thực hiện dễ dàng hơn. (Chuẩn mực kiểm toán
số 240).
Thực tế trên thế giới đã có rất nhiều bê
bối gian lận BCTC như Enron, WorldCom,
và ở Việt Nam cũng vậy với nhiều sai phạm ở
các công ty như Bông Bạch Tuyết, Dược Viễn
Đông, Gỗ Trường ThànhTừ đó, đã có nhiều
quy định và nghiên cứu về gian lận và phát
hiện gian lận BCTC.
Theo chuẩn mực kiểm toán số 240 thì
phát hiện gian lận là một trong những nhiệm
vụ cụ thể của kiểm toán viên thông qua nhận
diện các yếu tố của tam giác gian lận như áp
lực/động cơ, cơ hội, thái độ. Đồng thời, áp
dụng thủ tục phân tích cũng là một biện pháp
hữu hiệu, dễ thực hiện và không cần nhiều xét
đoán hay tốn nhiều chi phí.
Phát hiện gian lận trên BCTC đã là chủ
đề của nhiều nghiên cứu thực nghiệm và rất
nhiều nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng tỷ
số tài chính là một công cụ hữu ích để phát
hiện gian lận BCTC (Altman, 1968; Persons,
1995; Fanning & Cogger, 1998; Beneish,
1999; Spathis, 2002; Kaminski và cộng sự,
2004; Grove & Basilico, 2008; Lenard &
Alam, 2009; Roxas, 2011; Pustylnick, 2012;
Song và cộng sự 2014; Omoye & Eragbhe,
2014; Dalnial và cộng sự, 2014; Nia 2015;
Kanapickiene & Grundienė, 2015).
Từ đó, các bên thứ ba như chủ nợ, cổ
đông, nhà đầu tư, ngân hàng và kể cả kiểm
toán viên có thể sử dụng các tỷ số này để nhận
diện các công ty gian lận. Với kiểm toán viên
sẽ hữu ích trong thủ tục phân tích tỷ số để
đánh giá rủi ro, bao gồm cả rủi ro do gian lận
và rủi ro do nhầm lẫn và đồng thời trong thử
nghiệm cơ bản thông qua việc xác định sự tồn
tại của các chỉ số bất thường có thể giúp kiểm
toán viên xác định được rủi ro có sai sót trọng
yếu trên BCTC, đặc biệt là những rủi ro có sai
sót trọng yếu do gian lận.
Do tầm quan trọng của gian lận và phát
hiện các gian lận BCTC nên mục tiêu của bài
nghiên cứu này, đầu tiên, kiểm tra sự khác
biệt giữa các tỷ số tài chính giữa các công ty
gian lận và các công ty không gian lận. Tiếp
theo, nghiên cứu sẽ sử dụng mô hình hồi quy
Logit để dự báo gian lận cho các công ty niêm
yết ở Việt Nam
2. Các nghiên cứu trước đây về gian
lận và tỷ số tài chính
Kinney & McDaniel (1989) chỉ ra rằng
các công ty có BCTC sai phạm nhiều và phải
trình bày lại BCTC thường là các công ty nhỏ,
ít lợi nhuận, có nợ cao, tăng trưởng chậm và
đối mặt với những khó khăn tài chính nghiêm
trọng hơn là những công ty khác trong cùng
một ngành. Và Beneish (1997) kết luận rằng
khả năng vi phạm sẽ gia tăng khi có sự gia
tăng bất thường của nợ phải thu, doanh thu,
lợi nhuận gộp, tổng ước tính kế toán trên tổng
tài sản (total accruals divided by total assets)
và sụt giảm số lượng tài sản.
Bên cạnh đó, Summers & Sweeney
(1998) cho rằng nhà quản lý có thể sử dụng
các khoản ước tính về dự phòng nợ phải thu
khó đòi và dự phòng giảm giá hàng tồn kho
như là một công cụ để gian lận BCTC, bởi vì
giá trị của các khoản này thường đòi hỏi sự
xét đoán. Đồng thời, các công ty gian lận có
sự gia tăng trong hàng tồn kho trên doanh thu
và sự tăng trưởng, lợi nhuận trên tổng tài sản
cao hơn so với các công ty không gian lận.
Hơn nữa, Nelson (2010) chỉ ra rằng 3 năm sau
khi gian lận, các công ty gian lận thường sẽ có
các khoản nợ dài hạn cao hơn để có thể tái sản
xuất và cải thiện tổ chức, nhưng cùng thời
124 Đinh Ngọc Tú và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 122-132
điểm đó thì doanh thu lại sụt giảm do danh
tiếng bị ảnh hưởng tiêu cực sau khi gian lận
xảy ra.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu khác tập
trung vào các tỷ số tài chính để dự đoán, phát
hiện gian lận như: Persons (1995) phát hiện
một số tỷ số tài chính có khả năng ảnh hưởng
đến gian lận như đòn bẩy tài chính (tổng
nợ/tổng tài sản), khả năng thanh khoản (vốn
luân chuyển thuần trên tổng tài sản), vòng
quay vốn (doanh thu/tổng tài sản), cơ cấu tài
sản (tài sản ngắn hạn/tổng tài sản, nợ phải
thu/tổng tài sản, hàng tồn kho/tổng tài sản) và
quy mô của công ty (tổng tài sản). Cụ thể, các
công ty gian lận thường có đòn bẩy tài chính,
cơ cấu tài sản cao hơn so với các công ty
không gian lận, đồng thời các công ty gian lận
ở các công ty này tài sản ngắn hạn hầu hết là
nợ phải thu và hàng tồn kho. Vòng quay vốn
thể hiện khả năng tạo ra doanh thu từ tài sản
của công ty, nó cũng thể hiện khả năng cạnh
tranh của công ty. Các công ty gian lận
thường có vòng quay vốn và khả năng thanh
toán thấp hơn so với các công ty không gian
lận vì khi không đủ khả năng cạnh tranh và
khả năng thanh toán thấp có thể dẫn tới nhà
quản lý có động cơ gian lận BCTC. Đồng
thời, các công ty gian lận thường có quy mô
nhỏ hơn so với các công ty không gian lận.
Fanning & Cogger (1998) chỉ ra các chỉ
số nợ phải thu trên doanh thu, nợ phải thu trên
tổng tài sản, hàng tồn kho trên doanh thu, tài
sản dài hạn trên tổng tài sản, tổng nợ trên vốn
chủ sở hữu, doanh thu trên tổng tài sản có sự
khác biệt ở công ty gian lận và không gian
lận. Các công ty gian lận sẽ có nợ phải thu và
hàng tồn kho cao hơn so với các công ty còn
lại do đó sẽ có tài sản dài hạn ít hơn vì sẽ phải
giảm chỗ cho chúng. Đồng thời các công ty
này đang gặp khó khăn về tài chính hoặc gắng
đạt được sự tăng trưởng nên sẽ giảm sự đầu tư
vào tài sản. Hơn nữa các công ty này đang có
tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu cao và doanh thu
trên tổng tài sản lại thấp nên nhà quản lý có
động cơ thực hiện gian lận hơn.
Spathis (2002) phát hiện một số tỷ số tài
chính có khả năng ảnh hưởng đến gian lận
như lợi nhuận trên tổng tài sản, vốn luân
chuyển thuần trên tổng tài sản, lợi nhuận gộp
trên tổng tài sản, tổng nợ trên tổng tài sản và
Z-score – chỉ số dự đoán phá sản. Những công
ty gian lận thường khai khống hàng tồn kho,
nợ phải thu, doanh thu và lợi nhuận hoặc khai
thiếu chi phí hoặc lỗ. Cụ thể như sau: những
công ty gian lận có chỉ số lợi nhuận trên tổng
tài sản, lợi nhuận trên doanh thu thấp chỉ ra
khó khăn trong việc tạo ra lợi nhuận từ tài sản
hay doanh thu nên sẽ gian lận trên BCTC
bằng cách hoặc gia tăng doanh thu hoặc giảm
chi phí để gia tăng lợi nhuận và cải thiện lỗ.
Những công ty này có vốn luân chuyển thuần
thấp tức là đang gặp khó khăn về khả năng
thanh toán, về tình hình tài chính nên sẽ là
động cơ cho nhà quản lý gian lận. Đồng thời
họ cũng có tỷ lệ nợ cao và chỉ số Z-score thấp
sẽ có động cơ gian lận ở nợ phải thu đối với
khoản ước tính kế toán và duy trì hàng tồn
kho và giá vốn hàng bán ở mức cao.
Kaminski và cộng sự (2004) đã sử dụng
21 tỷ số để phân tích cho cặp công ty gian lận
và không gian lận trong giai đoạn 7 năm thì
có 16 tỷ số có ý nghĩa. Tuy nhiên, chỉ có 3 tỷ
số (tài sản cố định trên tổng tài sản, tổng nợ
trên tổng tài sản và vốn luân chuyển thuần
trên tổng tài sản) là có ý nghĩa trong giai đoạn
3 năm và chỉ có 5 tỷ số (nợ phải thu trên tổng
tài sản, giá vốn hàng bán trên doanh thu, tài
sản cố định trên tổng tài sản, chi phí lãi vay
trên tổng nợ và doanh thu trên nợ phải thu) có
ý nghĩa trước năm xảy ra gian lận và chỉ có 4
tỷ số (tài sản cố định trên tổng tài sản, hàng
tồn kho trên tài sản ngắn hạn, hàng tồn kho
trên doanh thu và doanh thu trên tổng tài sản)
có ý nghĩa vào năm xảy ra gian lận. Kết quả
của nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực
nghiệm giới hạn về khả năng sử dụng phân
tích tỷ số để phát hiện gian lận trên BCTC.
Lenard & Alam (2009) chỉ ra các công ty
gian lận thì có các chỉ số Doanh thu trên tổng
tài sản, Lợi nhuận trước thuế và lãi vay và Lợi
Đinh Ngọc Tú và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 122-132 125
nhuận trên tổng tài sản cao hơn các công ty
không gian lận.
Song và cộng sự (2014) đã sử dụng 23
biến để phân tích cho cặp công ty gian lận và
không gian lận trong đó có biến quy mô công
ty, tăng trưởng và các cặp tỷ số thuộc về khả
năng thanh toán, cấu trúc tài sản, sự hữu hiệu
và lợi nhuận. Kết quả có 14 biến - trong đó có
10 cặp tỷ số tài chính - có ý nghĩa như là tổng
nợ trên tổng tài sản, tỷ số thanh toán hiện
hành, tiền trên tổng tài sản, hàng tồn kho trên
tổng tài sản, lợi nhuận trên tổng tài sản
Omoye & Eragbhe (2014) chỉ ra các tỷ số
đầu tư và khả năng thanh toán (investment
and liquidity ratios) có mối liên hệ mạnh tới
các công ty gian lận. Điều đó có nghĩa là các
cơ hội và đầu tư của Giám đốc có thể liên
quan tới gian lận BCTC, và những công ty có
vấn đề về khả năng thanh toán thì sẽ có nhiều
sai sót trọng yếu trong BCTC.
Nia (2015) cũng chỉ ra có sự khác biệt
đáng kể ở các tỷ số tài chính như tài sản ngắn
hạn trên tổng tài sản, hàng tồn kho trên tổng
tài sản, doanh thu trên tổng tài sản giữa các
công ty gian lận và không gian lận. Điều đó
có nghĩa là nhà quản lý các công ty gian lận
có thể ít cạnh tranh hơn các công ty không
gian lận trong việc sử dụng các tài sản để tạo
ra doanh thu.
Tương tự như vậy, Kanapickiene &
Grundienė (2015) sử dụng 51 tỷ số tài chính
để phân tích cho cặp công ty gian lận và
không gian lận trong giai đoạn 1998-2009
được chia làm 5 nhóm chính gồm: nhóm tỷ số
về lợi nhuận, nhóm tỷ số về khả năng thanh
toán, nhóm tỷ số về khả năng thanh toán,
nhóm tỷ số về hoạt động, nhóm tỷ số về cấu
trúc. Trong đó có 27 tỷ số có ý nghĩa ở mức ý
nghĩa 5%, còn nếu xét ở mức 1% thì có 31 tỷ
số có ý nghĩa. Và nhóm tỷ số về hoạt động thì
có các tỷ số có ý nghĩa nhiều nhất. Sau đó,
nghiên cứu sử dụng mô hình để phát hiện gian
lận dựa trên các tỷ số tài chính với độ chính
xác lên đến trên 81%.
Bên cạnh đó, Kluger & Shields (1989)
nghiên cứu về sự thay đổi kiểm toán viên liên
quan tới gian lận BCTC, vì khi khó khăn về tài
chính nhà quản lý có thể nổ lực để che dấu các
thông tin bất lợi thông qua sử dụng những thay
đổi không được công bố trong các phương
pháp, ước tính kế toán, từ đó giảm chất lượng
thông tin chứa đựng trong BTCT. Nếu kiểm
toán viên không cho phép những điều đó thì
công ty sẽ lựa chọn kiểm toán viên khác để
thay thế. Nghiên cứu sử dụng mô hình dự đoán
phá sản cho thấy có sự thay đổi kiểm toán viên
trước khi phá sản và tìm thấy tỷ số lợi nhuận
trên tổng tài sản và tổng nợ trên tổng tài sản có
ảnh hưởng lớn đến sự phá sản.
Ngoài ra, các nghiên cứu khác sử dụng
các chỉ số, tỷ số và mô hình để nhận diện,
phát hiện gian lận như Beneish (1999) đã xây
dựng mô hình để nhận diện gian lận trên
BCTC bằng cách sử dụng các tỷ số tài chính.
Các biến được tính bằng dữ liệu trên BCTC
của công ty và được gọi là chỉ số M (M-score)
và được tính toán như sau: M-score = -4.84 +
0.92*DSRI + 0.528*GMI + 0.404*AQI +
0.892*SGI + 0.115*DEPI - 0.172*SGAI +
4.679*TATA - 0.327*LVGI. Khi chỉ số M
nhỏ hơn -2.22 thì công ty không có gian lận
BCTC, còn chỉ số M lớn hơn -2.22 thì công ty
có gian lận BCTC. Kết quả nghiên cứu cho
thấy các chỉ số DSRI, GMI, AQI, SGI, TATA
có ý nghĩa để phát hiện gian lận BCTC.
Grove & Basilico (2008) sử dụng mô
hình để dự đoán gian lận BCTC với sự chính
xác là 76% và chỉ ra rằng 3 chỉ số trong mô
hình có khả năng ảnh hưởng đến gian lận như
chỉ số lãi gộp, chỉ số tăng trưởng doanh thu và
chỉ số nợ phải thu. Nếu chỉ số lãi gộp giảm thì
rủi ro cao hơn là nhà quản lý sẽ thực hiện gian
lận để bù đắp lại kết quả hoạt động. Một sự
gia tăng lớn trong chỉ số nợ phải thu có thể chỉ
ra rằng nợ phải thu đó là giả tạo hoặc giải
thích một cách khác là công ty đã nới lỏng
chính sách bán chịu. Một sự gia tăng trong chỉ
số doanh thu nghĩa là gia tăng doanh thu điều
này có thể là không hợp pháp.
Roxas (2011) sử dụng chỉ số M (M-score)
126 Đinh Ngọc Tú và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 122-132
để phát hiện gian lận trong 3 năm trước, sau
và năm gian lận vì các nghiên cứu trước đa
phần chỉ nghiên cứu ở năm gian lận như của
Beneish (1999) bằng cách sử dụng chỉ số M-
score với 5 biến đầu tiên trong mô hình
(DSRI, GMI, AQI, SGI và DEPI) và M-score
đầy đủ 8 biến. Kết quả cho thấy M-score với 5
biến có khả năng dự đoán gian lận tốt hơn so
với M-score với 8 biến cho năm gian lận với
tỷ lệ tương ứng là 62% so với 46%. Đồng
thời, M-score với 5 biến cho kết quả 77%,
78% và 87% tưng ứng ở năm trước, sau gian
lận và cho cả ba năm.
Pustylnick (2012) chỉ ra rằng các công ty
gian lận sẽ có sự khác biệt dương giữa chỉ số
tăng trưởng P-score và Z-score hay có nghĩa
là nếu ∆P > ∆Z (∆P - ∆Z > 0) thì sẽ có gian
lận. Trong đó chỉ số Z dự đoán về khả năng
phá sản được Altman (1968) nghiên cứu với
cách tính như sau: Z = 1,2 (Vốn lưu
động/Tổng tài sản) + 1,4 (Lợi nhuận giữ
lại/Tổng tài sản) + 3,3 (lợi nhuận trước lãi vay
và thuế/Tổng tài sản) + 0,6 (Giá trị thị trường
của vốn chủ sở hữu/Giá trị sổ sách của tổng
các khoản nợ) + 1,0 (Doanh thu thuần/Tổng
tài sản) và khi chỉ số Z nhỏ hơn 1.81 chỉ ra
rằng doanh nghiệp ở trong vùng phá sản, còn
chỉ số Z nằm giữa 1.81 và 2.99 thì doanh
nghiệp ở trong vùng có nguy cơ phá sản và
khi chỉ số Z lớn hơn 2.99 thì đây là vùng an
toàn đối với doanh nghiệp. Chỉ số P được
Pustylnick (2009) nghiên cứu cách tính tương
tự như chỉ số Z chỉ thay vốn lưu động bằng
vốn chủ sở hữu - ở cặp tỷ số thứ nhất- và thay
doanh thu thuần bằng doanh thu - ở cặp chỉ số
cuối cùng.
Trần Thị Giang Tân và cộng sự (2014)
nghiên cứu về đánh giá gian lận trên BCTC
của các công ty niêm yết ở Việt Nam dựa trên
ba yếu tố của tam giác gian lận – áp lực/động
cơ, cơ hội, thái độ. Sau đó, nghiên cứu sử
dụng mô hình hồi quy Logit để dự báo gian
lận với kết quả chính xác là 80%.
Nguyễn Công Phương & Nguyễn Trần
Nguyên Trân (2014) sử dụng mô hình
Beneish nhằm dự đoán khả năng phát hiện sai
sót trọng yếu trong báo cáo tài chính cho 30
công ty có sai sót trọng yếu trong báo cáo tài
chính năm 2012 do kiểm toán phát hiện và
công bố, kết quả kiểm chứng cho thấy mô
hình dự đoán đúng với xác suất 53,33%. Kết
quả này gợi ý rằng, mô hình này có thể được
sử dụng như một công cụ hỗ trợ cho các kiểm
toán viên để đánh giá rủi ro có sai sót trọng
yếu trong báo cáo tài chính. Ngoài ra, mô hình
cũng có thể được các cơ quan quản lý sử dụng
để kiểm tra khi có nghi ngờ về gian lận của
các công ty ngay cả khi báo cáo tài chính của
các công ty này đã được kiểm toán.
Dalnial và cộng sự (2014) sử dụng mô
hình để dự đoán gian lận có độ chính xác là
72.3%. Đồng thời, tìm thấy có sự khác biệt
đáng kể ở các tỷ số tài chính như tổng nợ trên
tổng vốn chủ sở hữu, tổng nợ trên tổng tài sản,
hàng tồn kho trên tổng tài sản, nợ phải thu
trên doanh thu, vốn luân chuyển thuần trên
tổng tài sản giữa các công ty gian lận và
không gian lận, đồng thời chỉ số Z-score cũng
có ý nghĩa quan trọng để phát hiện gian lận
BCTC. Qua đó, chỉ ra rằng các công ty gian
lận có đòn bẩy tài chính, hàng tồn kho, nợ
phải thu cao hơn, nhưng doanh thu và vốn
luân chuyển thuần thấp hơn so với các công ty
không gian lận.
Tại Việt Nam, cho đến nay vẫn chưa có
nghiên cứu thực nghiệm nào về các tỷ số tài
chính có khác biệt trong các công ty gian lận
và không gian lận hay không và liệu có thể sử
dụng các tỷ số tài chính này để dự đoán gian
lận BCTC được hay không.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Giả thuyết nghiên cứu
3.1.1. Tỷ số đòn bẩy tài chính
Đòn bẩy tài chính được đo lường bằng
tổng nợ trên tổng tài sản (TD/TA) (Persons,
1995; Dalnial và cộng sự, 2014; Nia, 2015).
Tỷ số này cho thấy khả năng một tổ chức tạo
ra nguồn vốn mới từ nợ hay vốn chủ sở hữu và
một công ty có nhiều khoản nợ thường có ít
năng lực tài chính, gặp khó khăn về tài chính
Đinh Ngọc Tú và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 122-132 127
và giảm khả năng vay mượn để bổ sung nguồn
vốn trong tương lai khi các chỉ số này cao
(Persons, 1995; Dalnial và cộng sự, 2014). Và
khi đó nhà quản lý thường có động cơ để gian
lận bằng cách khai thấp nợ phải trả hoặc khai
khống tài sản (Persons, 1995). Nhiều nghiên
cứu trước chỉ ra rằng các công ty gian lận có
đòn bẩy tài chính hay tỷ lệ nợ cao hơn so với
các công ty không gian lận (Kinney &
McDaniel, 1989; Persons, 1995; Fanning &
Cogger, 1998; Spathis, 2002; Nelson, 2010;
Dalnial và cộng sự, 2014). Tuy nhiên theo
nghiên cứu của Nia (2015) thì tỷ số này không
có ý nghĩa để phát hiện gian lận. Từ đó, giả
thuyết nghiên cứu H1 được đưa ra là:
Giả thuyết H1: Có sự khác biệt đáng kể
về tỷ số tổng nợ trên tổng tài sản giữa công ty
gian lận và không gian lận
3.1.2. Tỷ số khả năng tạo ra lợi nhuận
Theo Persons (1995) thì tỷ số khả năng
tạo ra lợi nhuận được đo bằng lợi nhuận trên
tổng tài sản, lợi nhuận giữ lại trên tổng tài sản.
Tương tự, Spathis (2002) sử dụng lợi nhuận
trên tổng tài sản để đo lường. Theo Dalnial và
cộng sự (2014), Nia (2015) thì tỷ số này được
đo bằng lợi nhuận trên doanh thu thuần
(NP/REV). Còn theo Kanapickiene &
Grundienė (2015) thì có nhiều tỷ số để đo
lường như lợi nhuận trước thuế và lãi vay trên
doanh thu, lợi nhuận trên doanh thu, lợi nhuận
trên tổng tài sản, lợi nhuận trên vốn chủ sở
hữu, lợi nhuận trước thuế và lãi vay trên vốn
chủ sở hữu
Chỉ số này dương và cao sẽ cho thấy công
ty có đủ lợi nhuận để bù đắp được cho tất cả
các chi phí, nó chỉ ra rằng đơn vị đang hoạt
động tốt và sẽ mang lại lợi ích cho các bên
đầu tư vào nó. Khi tỷ số này thấp hơn thường
đối mặt với nhiều khó khăn có thể làm cho
nhà quản lý có động cơ để gian lận BCTC
bằng cách gia tăng doanh thu hoặc khai thấp
chi phí (Persons, 1995; Spathis, 2002; Dalnial
và cộng sự, 2014). Các bằng chứng nghiên
cứu trước đây thì cho các kết quả khác biệt,
Persons (1995) chỉ ra bằng chứng tỷ số này có
khả năng phát hiện gian lận còn Spathis
(2002), Dalnial và cộng sự (2014) và Nia
(2015) thì tỷ số này không có ý nghĩa để phát
hiện gian lận. Từ đó, giả thuyết nghiên cứu
H2 được đưa ra là:
Giả thuyết H2: Có sự khác biệt đáng kể
về tỷ số lợi nhuận trên doanh thu thuần giữa
công ty gian lận và không gian lận
3.1.3. Tỷ số cơ cấu tài sản
Tỷ số cơ cấu tài sản được đo lường bằng
tài sản ngắn hạn trên tổng tài sản (CA/TA), nợ
phải thu trên tổng tài sản (REC/REV) và hàng
tồn kho trên tổng tài sản (INV/TA) (Persons,
1995; Dalnial và cộng sự, 2014; Nia, 2015).
Theo Summers & Sweeney (1998) cho rằng
nhà quản lý có thể sử dụng các khoản ước tính
về dự phòng nợ phải thu khó đòi và dự phòng
giảm giá hàng tồn kho như là một công cụ để
gian lận BCTC, bởi vì giá trị của các khoản
này thường đòi hỏi sự xét đoán.
Đồng thời, các công ty gian lận thường có
cơ cấu tài sản cao hơn so với các công ty
không gian lận, đồng thời ở các công ty này
tài sản ngắn hạn hầu hết là nợ phải thu và
hàng tồn kho, hay nói cách khác là có sự gia
tăng bất thường của nợ phải thu và doanh thu
(Persons, 1995; Beneish, 1997; Fanning &
Cogger, 1998; Grove & Basilico, 2008;
Dalnial và cộng sự, 2014).
Các bằng chứng nghiên cứu trước đây thì
cho các kết quả khác biệt, Persons (1995) chỉ
ra bằng chứng cả 3 tỷ số này có khả năng phát
hiện gian lận còn theo Spathis (2002) thì
INV/TA không có ý nghĩa, Dalnial và cộng sự
(2014) thì INV/TA và REC/REV thì có ý
nghĩa còn CA/TA không có ý nghĩa và Nia
(2015) thì CA/TA và INV/TA có ý nghĩa còn
REC/REV thì không có ý nghĩa để phát hiện
gian lận. Từ đó, giả thuyết nghiên cứu H3 và
H4 được đưa ra là:
Giả thuyết H3: Có sự khác biệt đáng kể
về tỷ số nợ phải thu trên tổng tài sản giữa
công ty gian lận và không gian lận
Giả thuyết H4: Có sự khác biệt đáng kể
về tỷ số hàng tồn kho trên tổng tài sản giữa
128 Đinh Ngọc Tú và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 122-132
công ty gian lận và không gian lận
3.1.4. Tỷ số vòng quay vốn
Tỷ số vòng quay vốn được đo lường bằng
doanh thu thuần trên tổng tài sản (REV/TA)
(Persons, 1995; Dalnial và cộng sự, 2014;
Nia, 2015). Vòng quay vốn thể hiện khả năng
tạo ra doanh thu từ tài sản của công ty, nó
cũng thể hiện khả năng cạnh tranh của công
ty. Các công ty gian lận thường có vòng quay
vốn thấp hơn so với các công ty không gian
lận vì khi không đủ khả năng cạnh tranh và
khả năng thanh toán thấp có thể dẫn tới nhà
quản lý có động cơ gian lận BCTC (Persons,
1995; Fanning & Cogger, 1998; Dalnial và
cộng sự, 2014).
Các bằng chứng nghiên cứu trước đây thì
cho các kết quả khác biệt, Persons (1995) và
Nia (2015) chỉ ra bằng chứng tỷ số này có khả
năng phát hiện gian lận còn theo Dalnial và
cộng sự (2014) thì tỷ số này không có ý nghĩa
để phát hiện gian lận. Từ đó, giả thuyết
nghiên cứu H5 được đưa ra là:
Giả thuyết H5: Có sự khác biệt đáng kể
về tỷ số doanh thu thuần trên tổng tài sản
giữa công ty gian lận và không gian lận
3.2. Mô hình nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu để dự đoán gian lận
đã được sử dụng khá nhiều trong các nghiên
cứu trước đây, trong đó có sử dụng các tỷ số
tài chính như là các biến độc lập (Persons,
1995; Beneish, 1999; Spathis, 2002; Grove
& Basilico, 2008; Roxas, 2011; Pustylnick,
2012; Nguyễn Công Phương & Nguyễn Trần
Nguyên Trân, 2014; Trần Thị Giang Tân và
cộng sự, 2014; Dalnial và cộng sự, 2014) và
kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các tỷ số tài
chính có ý nghĩa trong việc dự đoán gian lận
BCTC. Từ đó, giả thuyết H6 được đưa ra là:
Giả thuyết H6: Các tỷ số tài chính có ý
nghĩa để dự đoán gian lận BCTC
Dựa trên mục tiêu nghiên cứu là có sự
khác biệt đáng kể nào về các tỷ số tài chính
giữa các công ty gian lận và không gian lận
hay không và xác định các tỷ số tài chính nào
có ý nghĩa nhất để dự báo gian lận BCTC.
Chúng tôi thiết kế mô hình nghiên cứu dựa
vào các nghiên cứu trước đây – nhất là nghiên
cứu của Dalnial và cộng sự (2014) để kiểm tra
cho mục tiêu nghiên cứu này. Mô hình hồi
quy logic được sử dụng để dự đoán gian lận
sử dụng các tỷ số tài chính từ các công ty để
xác định tỷ số nào liên quan tới gian lận
BCTC, bằng cách sử dụng dữ liệu thiết lập từ
các công ty gian lận và không gian lận. Mô
hình nghiên cứu như sau:
FFR = βo + β1(TD/TA) + β2(NP/REV) +
β3(REC/REV) + β4(INV/TA) + β5(REV/TA)
+ β6(SIZE)+ ε
Trong đó:
Mã biến Cách tính Dấu kỳ vọng
Biến phụ thuộc
FFR Dựa vào M-Score để phân loại công ty gian lận. Biến định danh, có giá trị là
1 nếu là mẫu gian lận, ngược lại có giá trị là 0
Biến độc lập
TD/TA Tổng nợ/tổng tài sản +
NP/REV Lợi nhuận/doanh thu thuần -
REC/REV Nợ phải thu/tổng tài sản +
INV/TA Hàng tồn kho/tổng tài sản +
REV/TA Doanh thu thuần/tổng tài sản -
Biến kiểm soát
SIZE Tổng tài sản -
Đinh Ngọc Tú và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 122-132 129
Về biến kiểm soát - quy mô công ty
(SIZE) được dựa vào các nghiên cứu trước
đây của Persons (1995) và Dalnial và cộng sự
(2014), kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các
công ty gian lận thường có quy mô nhỏ hơn so
với các công ty không gian lận. Do đó, quy
mô công ty được kỳ vọng có dấu âm.
3.3. Mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu sơ bộ bao gồm tất cả các
công ty niêm yết trên HOSE trong năm 2017,
ngoại trừ ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ
đầu tư, công ty chứng khoán. Sau đó, mẫu
nghiên cứu sẽ loại trừ các công ty không có
đủ số liệu BCTC, thiếu số liệu trong năm
nghiên cứu hoặc không đủ mẫu đối ứng.
Mẫu được phân loại dựa trên chỉ số M
(M-Score), mẫu công ty gian lận khi có M-
Score lớn hơn -2.22 và mẫu không gian lận
khi có M-Score nhỏ hơn -2.22 cho các công ty
có cùng quy mô - tổng tài sản và cùng ngành
(Lou & Wang, 2011). Cuối cùng, mẫu nghiên
cứu bao gồm 126 công ty trong đó bao gồm
63 công ty gian lận và 63 công ty không gian
lận cho 7 ngành gồm Khai khoáng, Bán buôn
và bán lẻ, Kinh doanh bất động sản, Điện, gas,
khí đốt, Vận tải kho bãi, Công nghiệp Chế
biến, Chế tạo.
4. Kết quả nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu
định lượng kiểm tra các giả thuyết nghiên cứu
bằng cách sử dụng kiểm định giả thuyết về trị
trung bình của hai tổng thể và phân tích mô
hình hồi quy logit với sự hỗ trợ của phần mềm
SPSS 20.
4.1. Kiểm định giả thuyết về trị trung bình
của hai tổng thể - independent sample t-test
Trong nghiên cứu này sử dụng kiểm định
giả thuyết về trị trung bình của hai tổng thể để
kiểm tra xem có sự khác biệt nào đối với các
tỷ số tài chính giữa các công ty gian lận và
không gian lận hay không. Kết quả phân tích
được trình bày ở Bảng 1 như sau:
Bảng 1
Kết quả kiểm định independent sample t-test
Chỉ số tài
chính Loại công ty N Mean Std. Deviation t-statistics p-value
TD/TA Gian lận 63 .442605 .191429
-1.000 0.320
Không gian lận 63 .482724 .254651
NP/REV Gian lận 63 2.17066 13.963303
1.169 0.247
Không gian lận 63 .112713 .522151
REC/REV Gian lận 63 5.90981 28.019988
1.455 0.148
Không gian lận 63 .764343 1.581296
INV/TA Gian lận 63 .160573 .177106
-3.712 0.000***
Không gian lận 63 .303271 .248418
REV/TA Gian lận 63 .851738 .711258
-0.399 0.691
Không gian lận 63 .925125 1.275187
Ghi chú: *, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức lần lượt là 10%, 5% và 1%.
Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm SPSS 20.
130 Đinh Ngọc Tú và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 122-132
Tỷ số đòn bẩy tài chính (TD/TA) không
có sự khác biệt giữa công ty gian lận và không
gian lận. Do đó, giả thuyết H1 bị bác bỏ. Kết
quả này phù hợp với nghiên cứu của Nia
(2015) cho thấy tỷ số này không có ý nghĩa để
phát hiện gian lận.
Tỷ số khả năng tạo ra lợi nhuận
(NP/REV) không có sự khác biệt giữa công ty
gian lận và không gian lận. Do đó, giả thuyết
H2 bị bác bỏ. Kết quả này phù hợp với nghiên
cứu của Spathis (2002), Dalnial và cộng sự
(2014) và Nia (2015) cho thấy tỷ số này
không có ý nghĩa để phát hiện gian lận.
Tỷ số cơ cấu tài sản (REC/REV và
INV/TA) cho thấy hai kết quả khác nhau, chỉ
số REC/REV không có sự khác biệt giữa công
ty gian lận và không gian lận. Do đó, giả
thuyết H3 bị bác bỏ. Kết quả này phù hợp với
nghiên cứu của Nia (2015) cho thấy tỷ số này
không có ý nghĩa để phát hiện gian lận.
Ngược lại, chỉ số INV/TA có sự khác biệt
giữa công ty gian lận và không gian lận. Do
đó, giả thuyết H4 được chấp nhận. Kết quả
này phù hợp với nghiên cứu của Persons
(1995), Dalnial và cộng sự (2014) và Nia
(2015) cho thấy tỷ số này có ý nghĩa để phát
hiện gian lận.
Tỷ số vòng quay vốn (REV/TA) không
có sự khác biệt giữa công ty gian lận và không
gian lận. Do đó, giả thuyết H5 bị bác bỏ. Kết
quả này phù hợp với nghiên cứu của Dalnial
và cộng sự (2014) cho thấy tỷ số này không
có ý nghĩa để phát hiện gian lận.
4.2. Phân tích hồi quy logit
Ở đây, nghiên cứu dự định sử dụng mô
hình hồi quy logit để dự đoán gian lận bằng
cách sử dụng các tỷ số tài chính từ các công ty
để xác định tỷ số nào liên quan tới gian lận
BCTC. Tuy nhiên, theo kết quả phân tích
kiểm định giả thuyết về trị trung bình của hai
tổng thể - independent sample t-test ở trên cho
thấy không có sự khác biệt đáng kể đối với
các tỷ số tài chính giữa các công ty gian lận
và không gian lận. Trong 5 tỷ số tài chính sử
dụng thì có tới 4 tỷ số không có ý nghĩa, chỉ
có duy nhất tỷ số INV/TA có ý nghĩa. Do đó,
nghiên cứu không tiếp tục tiếp hành hồi quy
logit để dự đoán gian lận BCTC và giả thuyết
H6 bị bác bỏ, tức là các tỷ số tài chính không
có ý nghĩa để dự đoán gian lận BCTC.
5. Kết luận và gợi ý hướng nghiên cứu
tiếp theo
5.1. Kết luận
Mục đích của nghiên cứu này là kiểm tra
xem có sự khác biệt đáng kể nào đối với các tỷ
số tài chính giữa các công ty gian lận và không
gian lận hay không, và xác định tỷ số tài chính
có ý nghĩa đối với gian lận BCTC. Nghiên cứu
tìm thấy tỷ số hàng tồn kho trên tổng tài sản
(INV/TA) có sự khác biệt đáng kể giữa các
công ty gian lận và không gian lận. Còn lại các
chỉ số về đòn bẩy tài chính (TD/TA), khả năng
tạo ra lợi nhuận (NP/REV), nợ phải thu trên
tổng tài sản (REC/REV) và vòng quay vốn
(REV/TA) không có sự khác biệt đáng kể giữa
các công ty gian lận và không gian lận. Kết
quả nghiên cứu này mặc dù khá hạn chế tuy
nhiên cũng phù hợp với các nghiên cứu trước
đây cụ thể như nghiên cứu của Nia (2015) thì
chỉ có 3 trên 8 tỷ số có ý nghĩa và nhất là theo
Kaminski và cộng sự (2004) thì chỉ có 4 trên
21 tỷ số có ý nghĩa ở năm có gian lận. Do đó,
kết quả của nghiên cứu cung cấp bằng chứng
thực nghiệm rất giới hạn về khả năng sử dụng
tỷ số tài chính để phát hiện gian lận trên
BCTC.
5.2. Kiến nghị
Từ kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi đưa
ra một số gợi ý như sau:
Về phương diện các bên thứ ba (Ngân
hàng, chủ nợ, nhà đầu tư): việc sử dụng các
tỷ số tài chính để phân tích nhận diện gian lận
là thủ tục dễ thực hiện, đơn giản, không tốn
kém về chi phí. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu
thực nghiệm cho thấy hạn chế trong việc sử
dụng các tỷ số tài chính để nhận diện công ty
gian lận. Do đó, các bên thứ ba nên thận trọng
khi sử dụng các tỷ số này, nên kết hợp các
nghiên cứu khác và sử dụng chuẩn mực kiểm
toán 240 để có cái nhìn rõ hơn về các dấu hiệu
Đinh Ngọc Tú và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 122-132 131
gian lận BCTC.
Về phương diện kiểm toán: thủ tục phân
tích là thủ tục đánh giá rủi ro và thu thập bằng
chứng nhằm phát hiện sai sót trọng yếu trên
BCTC. Tuy nhiên, kiểm toán viên không nên
chỉ sử dụng thủ tục phân tích – đặc biệt là
phân tích tỷ số để nhận diện và đánh giá rủi ro
gian lận, mà cần kết hợp với thử nghiệm chi
tiết để thu thập đầy đủ bằng chứng thích hợp.
5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu
tiếp theo
Kết quả nghiên cứu chưa cung cấp được
bằng chứng thực nghiệm đáng kể về khả năng
sử dụng tỷ số tài chính để phát hiện gian lận
trên BCTC, đồng thời nghiên cứu vẫn còn một
số hạn chế nhất định. Đầu tiên, dữ liệu nghiên
cứu chỉ áp dụng với các công ty niêm yết tại
Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM cho năm
2017, các nghiên cứu tiếp theo có thể mở rộng
mẫu cho cả Sở Giao dịch Chứng khoán Hà
Nội và thêm nhiều năm để xem xét biến động
cũng như tác động của các tỷ số này như thế
nào. Tiếp theo, các tỷ số tài chính trong nghiên
cứu này còn hạn chế, các nghiên cứu tiếp theo
có thể mở rộng thêm các tỷ số tài chính khác
để kiểm tra. Cuối cùng, việc sử dụng M-Score
để phân loại mẫu công ty gian lận và không
gian lận chỉ là một khía cạnh để phân loại, các
nghiên cứu tiếp theo có thể sử dụng các cách
khác như sử dụng chênh lệch lợi nhuận trước
và sau kiểm toán hay các chỉ số khác như Z-
Score, F-Score để phân loại mẫu.
Tài liệu tham khảo
Altman, E. I. (1968). Financial ratios, discriminant analysis and the prediction of corporate
bankruptcy. Journal of Finance, 23(4), 589-609
Beneish, M. D. (1997). Detecting GAAP violation: Implications for assessing earnings
management among firms with extreme financial performance. Journal of Accounting and
Public Policy, 16(3), 271-309.
Beneish, M. D. (1999). The detection of earnings manipulation. Financial Analysts Journal,
55(5), 24-36.
Bộ Tài chính Việt Nam. (2012). Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 240 - Trách nhiệm của kiểm
toán viên đối với gian lận trong kiểm toán báo cáo tài chính.
Dalnial, H., Kamaluddin, A., Sanusi, Z. M., & Khairuddin, K. S. (2014). Accountability in
financial reporting: Detecting fraudulent firms. Procedia-Social and Behavioral Sciences,
145, 61-69.
Fanning, K. M., & Cogger, K. O. (1998). Neural network detection of management fraud using
published financial data. International Journal of Intelligent Systems in Accounting,
Finance & Management, 7, 21-41.
Grove, H., & Basilico, E. (2008). Fraudulent financial reporting detection - key ratios plus
corporate governance factors. International Studies of Management & Organization ,
38(3), 10-42.
Kaminski, K. A., Wetzel, T. S., & Guan, L. (2004). Can financial ratios detect fraudulent
financial reporting?. Managerial Auditing Journal, 19(1), 15-28.
Kanapickiene, R., & Grundienė, Z. (2015). The model of fraud detection in financial statements
by means of financial ratios. Procedia - Social and Behavioral Sciences, 213, 321 – 327.
132 Đinh Ngọc Tú và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 63(6), 122-132
Kinney, W. R., & McDaniel, L. S. (1989). Characteristics of firms correcting previously reported
quarterly earnings. Journal of Accounting and Economics, 11, 71-93.
Kluger, B. D., & Shields, D. (1989). Auditor changes, information quality and bankruptcy
prediction. Managerial and decision economics, 10, 275-282.
Lenard, M. J., & Alam, P. (2009). An historical perspective on fraud detection: From bankruptcy
models to most effective indicators of fraud in recent incidents. Journal of Forensic &
Investigative Accounting, 1(1), 1-27.
Lou, Y. I., & Wang, M. L. (2011). Fraud risk factor of the fraud triangle assessing the likelihood
of fraudulent financial reporting. Journal of Business & Economics Research, 7(2).
Nelson, S. P. (2010). Fraudulent financial reporting: An empirical analysis in Malaysia.
Available at SSRN: (4Th, September, 2018).
Nia, S. H. (2015). Financial ratios between fraudulent and non-fraudulent firms: Evidence from
Tehran Stock Exchange. Journal of Accounting and Taxation, 7(3), 38-44.
Nguyễn Công Phương & Nguyễn Trần Nguyên Trân. (2014). Mô hình Beneish dự đoán sai sót
trọng yếu trong báo cáo tài chính. Tạp chí kinh tế & phát triển, 206, 54-60.
Omoye, A. S., & Eragbhe, E. E. (2014). Accounting ratios and false financial statements
detection: Evidence from Nigerian quoted companies. International Journal of Business
and Social Science, 7(1), 206-214.
Persons, O. S. (1995). Using financial statement data to identify factors associated with
fraudulent financial reporting. Journal of Applied Business Research, 11(1), 38-46.
Pustylnick, I. (2009). Combined algorithm for detection of manipulation in financial statements.
SMC University. Available at:
=1422693 (4Th, September, 2018).
Pustylnick, I. (2012). An algorithm for the detection of revenue and retained earnings
manipulation. Accounting and Taxation, 4(2), 95-105.
Roxas, M. L. (2011). Financial statement fraud detection using ratio and digital analysis. Journal
of Leadership, Accountability and Ethics, 8(4), 56-66.
Song, X., Hu, Z., Du, J., & Sheng, Z. (2014). Application of machine learning methods to risk
assessment of financial statement fraud: Evidence from China. Journal of Forecasting, 33,
611–626.
Spathis, C. (2002). Detecting false financial statements using published data: some evidence
from Greece. Managerial Auditing Journal, 17, 179-191.
Summers, S. L., & Sweeney, J. T. (1998). Fraudulently misstated financial statements & insider
trading: an empirical analysis. Accounting Review, 131-146.
Trần Thị Giang Tân và cộng sự. (2014). Đánh giá rủi ro gian lận báo cáo tài chính của các công
ty niêm yết tại Việt Nam. Tạp chí Phát triển kinh tế, 26(1), 74-94.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_su_khac_biet_ve_ty_so_tai_chinh_giua_cac_cong_ty_gian_lan.pdf