Giải phẫu bệnh cho thấy có sự xâm nhập BCAT
vào lớp niêm mạc. Bệnh nhi được điều trị bằng
corticoid và cetirizine, triệu chứng lâm sàng và
cận lâm sàng cải thiện nhanh trong vòng 2 tuần[3].
Trên thực tế, bệnh nhân của chúng tôi, do
lâm sàng có tình trạng ói dịch xanh nhiều, bụng
trướng, nên việc điều trị đã được kết hợp cả chế
độ ăn (nuôi ăn tĩnh mạch) và corticoid liều 2mg/
kg/ngày. Sau đó 1 tuần, bệnh nhân diễn tiến cải
thiện về lâm sàng, BCAT trong công thức máu trở
về bình thường. Kết quả, bệnh nhi được xuất viện
sau 2 tuần bắt đầu điều trị.
Do đó, đứng trước 1 trường hợp biểu hiện
các triệu chứng tiêu hóa như đau bụng, buồn
nôn, tiêu chảy mà không gợi ý các nguyên nhân
thường gặp; kết hợp với tăng BCAT trong công
thức máu, chẩn đoán viêm ruột do tăng BCAT cần
được lưu ý đến và nên thực hiện sinh thiết để có
kết quả mô học nhằm khẳng định chẩn đoán.
Chưa có một thuốc nào được chứng minh có
hiệu quả đặc hiệu trên bệnh, việc điều trị dựa trên
những giả thuyết về sinh lý bệnh như cơ chế dị
ứng và phản ứng viêm từ đó đưa ra việc điều trị
bằng chế độ ăn và thuốc kháng viêm corticoid[7].
Chỉ định điều trị ngoại khoa khi có biểu hiện biến
chứng thủng, lồng ruột, tắc ruột[5].
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cổ trướng - Một đặc điểm hiếm gặp do viêm dạ dày - Ruột tăng bạch cầu ái toan: Nhân một trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
51
phần nGhIÊn CỨU
CỔ TRƯỚNG - MỘT ĐẶC ĐIỂM HIẾM GẶP DO VIÊM DẠ DÀY - RUỘT
TĂNG BẠCH CẦU ÁI TOAN: NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP
Hà Văn Thiệu*, Nguyễn Minh Ngọc*, Huỳnh Ngọc Linh**, Vũ Bảo Sơn***
* Bệnh viện Nhi Đồng 2; ** Khoa Giải phẫu Bệnh viện Nhi Đồng 1
*** BS Nội Trú, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
TÓM TẮT
Viêm dạ dày - ruột do tăng bạch cầu ái toan là bệnh hiếm gặp và chưa được hiểu rõ, trong đó
có sự thâm nhập bạch cầu ái toan (BCAT) vào cấu trúc dạ dày, ruột non và sự gia tăng của bạch
cầu ái toan trong máu ngoại vi. Bệnh được mô tả đầu tiên bởi tác giả Kaijser vào năm 1937. Tỉ
lệ mắc bệnh ước tính ở Mỹ là khoảng 22-28:100.000. Biểu hiện bệnh đa dạng và chẩn đoán dựa
vào sự kết hợp giữa gợi ý lâm sàng và kết quả mô học. Chẩn đoán EGE cần 3 tiêu chuẩn: biểu
hiện các triệu chứng tiêu hóa, có chứng cứ mô học xâm nhập BCAT trong một hoặc nhiều bộ
phận đường tiêu hóa và loại trừ các nguyên nhân khác. Cổ trướng do EGE cực kỳ không phổ biến
trong y văn. Ở đây, chúng tôi trình bày một trường hợp hiếm gặp của EGE với cổ trướng, thảo
luận các đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán phân biệt. Việc điều trị bệnh chưa có sự thống nhất,
chủ yếu dựa chế độ ăn và thuốc corticoid; cũng như việc theo dõi bệnh cũng còn nhiều khó khăn.
Chúng tôi báo cáo 1 ca bệnh viêm dạ dày - ruột do tăng BCAT nhập viện Bệnh viện Nhi Đồng 2
trong thời gian 04/2018-06/2018.
Từ khóa: Viêm dạ dày ruột do tăng bạch cầu ái toan ở trẻ em.
ABSTRACT
ASCITeS: A RARe CLINICAL feATUReS Of eOSINOPHILIC GASTROeNTeRITIS: A CASe RePORT
Eosinophilic gastroenteritis (EGE) is a rare disease of unknown etiology. It is characterized by
eosinophilic infiltration of the gastrointestinal (GI) tract and elevated peripheral eosinophilia. This
disease was first described by Kajiser in 1937. The prevalence of EGE in the United States in estimated
to be 22 to 28 per 100,000 persons. The clinical manifestations vary and a number of tests may aid in
the diagnosis of EGE as there are no standards for diagnosis. Diagnosis of EGE requires three criterias:
presence of GI symptoms, histologic evidence of eosinophilic infiltration in one or more areas of the
GI tract and exclusion of other causes of tissue eosinophilia. Ascites due to EGE is an exceedingly
uncommon diagnosis in the medical literature. Here, we present a rare case of EGE with ascites and
discuss the clinical characteristics and differential diagnosis. The management and follow up plan still
needs more consensus because it almost depends on an elemental formula and steroids. We reported
EGE in a child admitted to Children’s Hopital No2 from 04/2018 to 06/2018.
Keywords: Eosinophilic gastroenteritis in children.
Nhận bài: 5-1-2019; Thẩm định: 30-1-2019; Chấp nhận: 5-2-2019
Người chịu trách nhiệm chính: Hà Văn Thiệu
Địa chỉ: Bệnh viện Nhi Đồng 2 - Tp.HCM. Email: havanthieu67@gmail.com
tạp chí nhi khoa 2019, 12, 1
52
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm dạ dày - ruột do tăng BCAT bao gồm
một nhóm các triệu chứng liên quan đến đường
tiêu hóa kết hợp với sự xâm nhập của BCAT trên
mô học. Hang vị và ruột non là những vị trí tổn
thương thường gặp nhất. Bệnh gặp ở mọi lứa
tuổi, nhóm tuổi sau 20 tuổi đến 50 tuổi, tuy nhiên
gần đây cho thấy bệnh thường gặp ở trẻ em.
Bệnh sinh của bệnh vẫn còn nhiều điều chưa
được làm sáng tỏ. Nhiều giả thiết cho rằng có
vai trò của cơ chế miễn dịch qua trung gian IgE
và miễn dịch qua trung gian tế bào lympho T
(Th2). Các hóa chất trung gian như Interleukin
5 (IL-5), Interleukin 3 (IL-3), yếu tố hóa ứng động
đại thực bào (Granulocyte macrophage colony
stimulating factor-GM-CSF) cũng được ghi nhận
gia tăng ở các bệnh nhân mắc bệnh này, cho
thấy chúng có thể là tác nhân gây thu hút sự
thấm nhập của BCAT vào mô. Một khi BCAT xâm
nhập vào mô ống tiêu hóa, chúng có khả năng
giải phóng ra các cytokines, GM-CSF, hoặc có khả
năng gây phản ứng viêm tại chỗ bằng protein
gây độc tế bào - “a cytotoxic cationic protein”[6],[7].
Lâm sàng biểu hiện gồm một nhóm các triệu
chứng khá phổ biến, nhưng không đặc hiệu như:
đau bụng kiểu quặn thắt, đầy hoặc trướng bụng,
buồn nôn, tiêu chảy, sụt cân hoặc khó nuốt. Tiền
căn của những bệnh nhân này ghi nhận tình
trạng cơ địa dị ứng gia đình hoặc bản thân. Biểu
hiện nặng hơn có thể gặp là xuất huyết tiêu hóa,
thiếu máu thiếu sắt, bệnh ruột mất đạm, chậm
phát triển hoặc trướng bụng (rất hiếm)[6].
Xét nghiệm khoảng 75% trường hợp có tăng
BCAT trong công thức máu. Hình ảnh học cho
thấy có sự phù nề niêm mạc, dày thành, loét hoặc
hẹp lòng ống tiêu hóa. Kết quả mô học qua sinh
thiết thấy BCAT trong mô ống tiêu hóa.
Về phương diện chẩn đoán, không có một
tiêu chuẩn vàng chẩn đoán nào được đưa ra[6].
Do đó, việc chẩn đoán bệnh sẽ phải hội tụ được
nhiều yếu tố như tiền căn, lâm sàng, kết quả các
xét nghiệm và loại trừ các bệnh khác. Bệnh viêm
dạ dày - ruột nên được cân nhắc đến trên những
bệnh nhân có tiền căn dị ứng, biểu hiện lâm sàng
các triệu chứng tiêu hóa kéo dài như đã mô tả,
kết quả mô học chứng minh có sự xâm lấn BCAT
và sau khi đã loại trừ các bệnh lý khác làm tăng
BCAT như nhiễm ký sinh trùng, viêm ruột (IBD),
các bệnh lý liên quan ung thư và hội chứng tăng
BCAT trong máu[6].
Về mặt điều trị, chưa có sự thống nhất cũng
như hướng dẫn điều trị cụ thể bệnh; điều đó cũng
khó khăn như cái cách để chẩn đoán bệnh.
Sự hiểu biết về bệnh chủ yếu là thông qua các
trường hợp bệnh và trong mỗi trường hợp sẽ có
một cách điều trị khác nhau. Dị ứng thức ăn được
xem như nguyên nhân có thể gây bệnh, do đó việc
xác định dị nguyên thức ăn qua các xét nghiệm dị
ứng là cần thiết để loại trừ loại thức ăn nghi ngờ.
Trong các trường hợp nặng hoặc thất bại với
việc tìm ra dị nguyên thức ăn, có thể áp dụng
chế độ ăn công thức với việc loại bỏ hầu hết các
dị nguyên thường gặp hoặc có thể nuôi ăn qua
đường tĩnh mạch.
Khi thất bại với các phương pháp trên,
corticoid sẽ được sử dụng. Tuy nhiên, việc điều trị
vẫn chưa đạt được sự đồng thuận về liều dùng,
cách dùng (đường uống hay tĩnh mạch), thời gian
sử dụng (do khả năng tái phát sau khi giảm liều
hay ngưng thuốc). Ngoài ra một số thuốc có thể
dùng trong một số trường hợp như Cromolyn,
Ketotifen, Montelukast, Omalizumab... tuy nhiên
chưa được khuyến cáo.[9]
Nhân có 1 trường hợp viêm dạ dày - ruột do
tăng bạch cầu ái toan vào điều trị tại khoa Tiêu
hóa Bệnh viện Nhi Đồng 2, chúng tôi giới thiệu để
rút kinh nghiệm cùng quý đồng nghiệp.
2. TÓM TẮT BỆNH ÁN
Bệnh nhân Văn Lê Lan V. , nữ, 14 tuổi, địa chỉ
Quận 3 TP Hồ Chí Minh.
Ngày nhập viện: 14/04/2018
Ngày xuất viện: 05/06/2018
Lý do nhập viện: đau bụng
Triệu chứng cơ năng: Bệnh nhân đau bụng
thượng vị từng cơn ngắn khoảng 4 tháng nay,
không sụt cân, không rối loạn tiêu hóa. Đợt nhập
viện này, bệnh nhi đau thượng vị liên tục 3 ngày,
ói ít, không sốt, không tiêu lỏng, sạch kinh 3 ngày
trước nhập viện.
53
phần nGhIÊn CỨU
Thăm khám: Bụng mềm, trướng nhẹ, ấn đau
hố chậu P, có phản ứng dội, đề kháng thành bụng
không rõ.
Xét nghiệm ban đầu:
- Công thức máu:
Bạch cầu: 16,7 K/uL Neutrophils: 10,6 K/uL
Eosinophils: 1,44 K/uL Hb: 11,8 g/dL
PLT: 448 K/uL
- Sinh hóa:
CRPhs: 2,3 mg/l β- HCG: < 1,2 UI/L
Chức năng gan thận trong giới hạn bình thường
- Siêu âm: dịch ổ bụng lượng nhiều, thành ruột
vùng hồi manh tràng dày khoảng 12mm.
Chẩn đoán ban đầu: Viêm ruột thừa cấp, viêm ruột.
Điều trị: Phẫu thuật nội soi thám sát, cắt ruột
thừa, hút sạch dịch ổ bụng. Tường trình phẫu
thuật ghi nhận: ổ bụng nhiều dịch vàng nâu, toàn
bộ ruột non thành viêm dày, sung huyết; ruột
thừa viêm sung huyết; dạ dày, đại tràng, tử cung
và phần phụ bình thường.
Diễn tiến trong quá trình điều trị:
Sau phẫu thuật, bệnh nhi vẫn còn đau bụng
âm ỉ, bụng trướng tăng dần, ói dịch xanh, không
sốt, gan, lách, hạch không to.
Các kết quả xét nghiệm:
- Bạch cầu tăng dần, ở mức 17 - 20 K/uL, trong
đó bạch cầu ái toan tăng cao 4 K/uL, cao nhất là
9 K/uL, 2 dòng tế bào máu còn lại bình thường.
- CRPhs không tăng, chức năng gan thận trong
giới hạn bình thường.
- Xét nghiệm miễn dịch: Điện di đạm, C3, C4,
định lượng kháng thể IgA, IgG, IgM bình thường.
- Xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán ký sinh
trùng: Fasciola (+), Strongyloides stercoralis (+).
- Siêu âm: Dịch ổ bụng, viêm dày thành ống
tiêu hóa nhiều nơi.
- CTscan: Tràn dịch tự do ổ bụng lượng vừa,
dịch trong đậm độ thấp, không ngấm thuốc
bất thường phúc mạc. Dày nhẹ thành ruột non
khoảng 5-6mm, cớ hơi trong ruột non. Không
giãn lớn bất thường các quai ruột.
- Xét nghiệm dịch màng bụng 2 lần: dịch tiết,
cellblock: ưu thế bạch cầu đa nhân trung tính, xét
nghiệm phân tử (PCR) tìm các tác nhân thường gặp
âm tính, adenosine deaminase (ADA): 6,78 U/L.
- Xét nghiệm lao âm tính.
- Nội soi tiêu hóa trên: Viêm dạ dày - tá tràng
dạng nốt; kết hợp nội soi ổ bụng thám sát và sinh
thiết: đoạn cuối hồi tràng ứ đọng bạch huyết,
thành ruột giảm viêm, sinh thiết đoạn ruột dày
và 1 phần phúc mạc thành.
- Kết quả giải phẫu bệnh: Mô sinh thiết
thành ruột có các đám tế bào viêm chủ yếu là
eosinophils; mô liên kết mỡ, sợi, mạch máu ngấm
các tế bào viêm chủ yếu eosinophils → Viêm ruột
tăng eosinophils.
Hình 1. Hình ảnh thâm nhiễm bạch cầu ái
toan trong lớp cơ trên mẫu sinh thiết thành
ruột (nhuộm HE).
Hình 2. Hình ảnh thâm nhiễm bạch cầu ái toan
trong lớp phúc mạc trên mẫu sinh thiết.
tạp chí nhi khoa 2019, 12, 1
54
Quá trình điều trị, bệnh nhi được nuôi ăn tĩnh
mạch, điều trị kháng sinh, điều trị KST (giun lươn
và sán lá gan). Khi có kết quả giải phẫu bệnh gợi
ý viêm ruột do tăng bạch cầu ái toan, bệnh nhân
tiếp tục được nuôi ăn tĩnh mạch, điều trị corticoid
tĩnh mạch 2mg/kg/ngày.
Sau 5 ngày, bụng bệnh nhân giảm trướng
nhiều, bạch cầu ái toan trở về bình thường, siêu
âm kiểm tra giảm lượng dịch ổ bụng. Sau đó, tiếp
tục điều trị giảm dần liều corticoid, chuyển sang
đường uống, áp dụng chế độ ăn theo hướng
giảm dị ứng, giảm viêm. Bệnh nhi đáp ứng tốt và
được xuất viện.
3. BÀN LUẬN
3.1. Chẩn đoán
Trên bệnh nhân của chúng tôi, việc chẩn đoán
gặp nhiều khó khăn do các lý do sau. Bệnh nhân
không có tiền căn dị ứng hay triệu chứng tiêu
hóa kéo dài mà không giải thích được bằng các
nguyên nhân khác.
Tiếp cận theo hướng tràn dịch màng bụng,
cần nghĩ đến những nguyên nhân như lao màng
bụng, bệnh lý gan (xơ gan, tăng áp cửa), bênh lý
tim mạch (suy tim, bệnh lý màng tim) hoặc bệnh
lý thận (hội chứng thận hư, bệnh thận mạn), bệnh
lý ác tính[2] Chúng tôi tiếp cận theo các hướng
nguyên nhân trên bằng cách khám lâm sàng và
cận lâm sàng, không có nguyên nhân nào được
nghĩ đến trên bệnh nhi này.
Xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán dương
tính với Fasciola và Strongyloides stercoralis có
thể giải thích cho việc tăng BCAT trong công thức
máu, và nhiễm sán lá gan cũng có thể gây trành
dịch đa màng[1]. Tuy nhiên khi điều trị 2 tác nhân
trên thì các dấu hiệu lâm sàng không thuyên
giảm, BCAT không trở về bình thường.
3.2. Điều trị
Theo y văn, do tính đa dạng của biểu hiện
lâm sàng, chưa có nhiều nghiên cứu về diễn tiến
bệnh, cũng như tỉ lệ mắc bệnh thấp khiến cho
việc xây dựng 1 phác đồ điều trị cho bệnh gặp
nhiều khó khăn. Điều trị có thể bao gồm dùng
thuốc và không dùng thuốc (chế độ ăn). Điều trị
bằng chế độ ăn là hạn chế các loại thức ăn có khả
năng gây dị ứng, ví dụ như sữa bò. Thuốc điều trị
chủ yếu của bệnh là corticoid, liều gợi ý đối với
prednisone là 1-2 mg/kg/ngày, giảm dần liều sau
7-10 ngày điều trị, rồi có thể xem xét ngưng sau
4 tháng[4].
Cổ trướng rất hiếm gặp trong bệnh viêm
dạ dày ruột do tăng BCAT. Thực tế, kết quả xét
nghiệm, đặc biệt là kết quả giải phẫu bệnh khi
sinh thiết mô ruột và phúc mạc đã loại trừ các
nguyên nhân kể trên và hướng đến chẩn đoán
viêm ruột do tăng BCAT.
Một trường hợp gần giống với ca lâm sàng của
chúng tôi được tác giả Gui Ming và cộng sự mô tả
năm 2015, bệnh nhi nam, 11 tuổi, nhập viện vì
đau bụng 7 ngày. Bệnh nhân có tiền căn dị ứng
với trứng. Khám lâm sàng ghi nhận cổ trướng, các
cơ quan khác bình thường.
Xét nghiệm BCAT tăng, chiếm 31% bạch cầu
tổng; dịch cổ trướng hướng dịch tiết, bạch cầu
tăng cao, eosinophils chiếm 91%. Nội soi ghi
nhận có phù nề, sung huyết và đốm xuất huyết
hang vị và tá tràng.
Giải phẫu bệnh cho thấy có sự xâm nhập BCAT
vào lớp niêm mạc. Bệnh nhi được điều trị bằng
corticoid và cetirizine, triệu chứng lâm sàng và
cận lâm sàng cải thiện nhanh trong vòng 2 tuần[3].
Trên thực tế, bệnh nhân của chúng tôi, do
lâm sàng có tình trạng ói dịch xanh nhiều, bụng
trướng, nên việc điều trị đã được kết hợp cả chế
độ ăn (nuôi ăn tĩnh mạch) và corticoid liều 2mg/
kg/ngày. Sau đó 1 tuần, bệnh nhân diễn tiến cải
thiện về lâm sàng, BCAT trong công thức máu trở
về bình thường. Kết quả, bệnh nhi được xuất viện
sau 2 tuần bắt đầu điều trị.
Do đó, đứng trước 1 trường hợp biểu hiện
các triệu chứng tiêu hóa như đau bụng, buồn
nôn, tiêu chảy mà không gợi ý các nguyên nhân
thường gặp; kết hợp với tăng BCAT trong công
thức máu, chẩn đoán viêm ruột do tăng BCAT cần
55
phần nGhIÊn CỨU
được lưu ý đến và nên thực hiện sinh thiết để có
kết quả mô học nhằm khẳng định chẩn đoán.
Chưa có một thuốc nào được chứng minh có
hiệu quả đặc hiệu trên bệnh, việc điều trị dựa trên
những giả thuyết về sinh lý bệnh như cơ chế dị
ứng và phản ứng viêm từ đó đưa ra việc điều trị
bằng chế độ ăn và thuốc kháng viêm corticoid[7].
Chỉ định điều trị ngoại khoa khi có biểu hiện biến
chứng thủng, lồng ruột, tắc ruột[5].
3.3. Tiên lượng
Để tiên lượng bệnh, Craig Reed và cộng sự đã
tiến hành theo dõi trong khoảng 26 tháng, việc
đánh giá diễn tiến dựa trên triệu chứng lâm sàng,
hình ảnh nội soi và giải phẫu bệnh kiểm tra. Kết
quả cho thấy 60% đáp ứng lâm sàng, 51% cải
thiện tổn thương trên nội soi và 69% phục hồi về
mô học; trong đó có 27% cải thiện ở cả 3 tiêu chí
trên. Quá trình theo dõi chưa được hiệu quả do
phương tiện theo dõi xâm lấn[8]. Thực tế, bệnh nhi
của chúng tôi tiếp tục được theo dõi tiếp về lâm
sàng và sẽ nội soi kiểm tra khi cần thiết.
4. KẾT LUẬN
Viêm dạ dày - ruột do tăng BCAT là bệnh lý
hiếm gặp, việc chẩn đoán gặp nhiều khó khăn do
chưa có tiêu chuẩn chẩn đoán cụ thể cho bệnh.
Bên cạnh đó, kế hoạch điều trị chưa đạt được sự
thống nhất do số ca bệnh lẻ tẻ, chưa có nghiên
cứu nhiều về bệnh này.
Bệnh viêm dạ dày ruột do tăng BCAT nên được
nghĩ đến trên những bệnh nhân có biểu hiện
triệu chứng đường tiêu hóa kéo dài hoặc không
giải thích được kết hợp với tăng bạch cầu ái toan
trong máu ngoại biên. Chẩn đoán bệnh sẽ được
củng cố thêm khi bệnh nhân có tiền căn dị ứng,
không có bằng chứng nhiễm ký sinh trùng hoặc
bệnh lý tiêu hóa khác và có hình ảnh bạch cầu ái
toan xâm lấn trên mô học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Montembault S., Serfaty L., Poirot J. L., et al.
(1997), “[Hemorrhagic ascites disclosing massive
Fasciola hepatica infection]”, Gastroenterol Clin
Biol, 21 (10), 785-8.
2. Bavdekar A., Thakur N. (2016), “Ascites in
Children”, Indian J Pediatr, 83 (11), 1334-1340.
3. Ming G., Bo Y., Li-Ping Y. (2015), “Eosinophilic
gastroenteritis with ascites in a child”, Indian
Pediatr, 52 (8), pp.707-8.
4. Tien f. M., Wu J. f., Jeng Y. M., et al. (2011),
“Clinical features and treatment responses
of children with eosinophilic gastroenteritis”,
Pediatr Neonatol, 52 (5), 272-8.
5. Abou Rached Antoine, el Hajj Weam (2016),
“Eosinophilic gastroenteritis: Approach to
diagnosis and management”, World Journal of
Gastrointestinal Pharmacology and Therapeutics,
7 (4), pp.513-523.
6. Leung Donald Y. M., Szefler Stanley J.,
Bonilla Francisco A., et al. (2016), “Allergic and
Eosinophilic Gastrointestinal Disease”, Pediatric
Allergy, 3rd edition, Elsevier, pp.399-408.
7. Lucendo Alfredo J., Arias Angel (2012),
“Eosinophilic gastroenteritis: an update”, Expert
Review of Gastroenterology & Hepatology, 6 (5),
pp.591-601.
8. Reed Craig, Woosley John T., Dellon evan
S. (2015), “Clinical characteristics, treatment
outcomes, and resource utilization in children
and adults with eosinophilic gastroenteritis”,
Digestive and Liver Disease, 47 (3), pp.197-201.
9. Nirmala Gonsalves (2018), “Eosinophilic
gastroenteritis”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
co_truong_mot_dac_diem_hiem_gap_do_viem_da_day_ruot_tang_bac.pdf