Công cụ kinh tế trong quản lý môi trường

Bảo vệ môi trường ngày nay đã trở thành một trong những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Bằng những biện pháp và chính sách khác nhau, Nhà nước ta đang can thiệp mạnh mẽ vào các hoạt động của cá nhân, tổ chức trong xã hội để bảo vệ các yếu tố của môi trường, ngăn chặn việc gây ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường. Trong những biện pháp mà nhà nước sử dụng trong lĩnh vực này, pháp luật đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Sự xuất hiện và vai trò ngày càng tăng của các quy định pháp luật về môi trường kể từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường là biểu hiện rõ nét về sự cấp bách của vấn đề môi trường và dẫn đến một hệ quả tất yếu là phải đào tạo, giáo dục công dân những kiến thức về pháp luật môi trường. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì các loại quan hệ kinh tế là rất đa dạng. Điều đó đòi hỏi không thể chỉ áp dụng một loại công cụ trong công tác quản lý và bảo vệ môi trường mà nó đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các loại công cụ mà đặc biệt là các công cụ kinh tế. Các công cụ kinh tế gồm nhiều loại, kinh nghiệm của các nước đã chỉ ra rằng không thể chỉ áp dụng một loại biện pháp, một loại công cụ giản đơn với một vài biện pháp, một vài công cụ đơn lẻ nào đó là có thể điều chính được sự đa dạng về chủ thể cũng như phương thức sản xuất quản lý và bảo vệ môi trường. Các công cụ kinh tế để quản lí môi trường như: phí,thuế môi trường, giấy phép ô nhiễm, quyền sở hữu, thuế đầu vào, thuế sản phẩm, thuế xuất nhập khẩu, thuế phân biệt, hệ thống đặt cọc – hoàn trả, phí sử dụng tài nguyên, phí tiếp cận, lệ phí quản lí và hành chính LỜI MỞ ĐẦU NỘI DUNG I/ Khái niệm công cụ quản lý kinh tế 1. Khái niệm 2. Vai trò 3. Nguyên tắc cơ bản trong việc sử dụng các công cụ kinh tế II/ Một số công cụ kinh tế được sử dụng trong quản lý môi trường 1. Chính sách thuế 2. Phí môi trường 3. Hệ thống đặt cọc – hoàn trả 4. Giấy phép môi trường có thể chuyển nhượng 5. Ký quỹ môi trường 6. Trợ cấp môi trường 7. Nhãn sinh thái KẾT LUẬN

doc22 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2562 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công cụ kinh tế trong quản lý môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU NỘI DUNG I/ Khái niệm công cụ quản lý kinh tế Khái niệm Vai trò Nguyên tắc cơ bản trong việc sử dụng các công cụ kinh tế II/ Một số công cụ kinh tế được sử dụng trong quản lý môi trường Chính sách thuế Phí môi trường Hệ thống đặt cọc – hoàn trả Giấy phép môi trường có thể chuyển nhượng Ký quỹ môi trường Trợ cấp môi trường Nhãn sinh thái KẾT LUẬN LỜI MỞ ĐẦU Bảo vệ môi trường ngày nay đã trở thành một trong những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Bằng những biện pháp và chính sách khác nhau, Nhà nước ta đang can thiệp mạnh mẽ vào các hoạt động của cá nhân, tổ chức trong xã hội để bảo vệ các yếu tố của môi trường, ngăn chặn việc gây ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường. Trong những biện pháp mà nhà nước sử dụng trong lĩnh vực này, pháp luật đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Sự xuất hiện và vai trò ngày càng tăng của các quy định pháp luật về môi trường kể từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường là biểu hiện rõ nét về sự cấp bách của vấn đề môi trường và dẫn đến một hệ quả tất yếu là phải đào tạo, giáo dục công dân những kiến thức về pháp luật môi trường. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì các loại quan hệ kinh tế là rất đa dạng. Điều đó đòi hỏi không thể chỉ áp dụng một loại công cụ trong công tác quản lý và bảo vệ môi trường mà nó đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các loại công cụ mà đặc biệt là các công cụ kinh tế. Các công cụ kinh tế gồm nhiều loại, kinh nghiệm của các nước đã chỉ ra rằng không thể chỉ áp dụng một loại biện pháp, một loại công cụ giản đơn với một vài biện pháp, một vài công cụ đơn lẻ nào đó là có thể điều chính được sự đa dạng về chủ thể cũng như phương thức sản xuất quản lý và bảo vệ môi trường.  Các công cụ kinh tế để quản lí môi trường như: phí,thuế môi trường, giấy phép ô nhiễm, quyền sở hữu, thuế đầu vào, thuế sản phẩm, thuế xuất nhập khẩu, thuế phân biệt, hệ thống đặt cọc – hoàn trả, phí sử dụng tài nguyên, phí tiếp cận, lệ phí quản lí và hành chính… I/ KHÁI NIỆM CÔNG CỤ QUẢN LÝ KINH TẾ KHÁI NIỆM Công cụ quản lý về môi trường là các phương thức hay biện pháp hành động thực hiện công tác quản lý môi trường của Nhà nước, các tổ chức khoa học và sản xuất. Công cụ quản lý môi trường rất đa dạng, mỗi một công cụ có một chức năng và phạm vi tác động nhất định, liên kết và hỗ trợ lẫn nhau.   Khi nhắc đến các công cụ quản lý về môi trường không thể không nhắc đến công cụ kinh tế. Công cụ kinh tế ( còn gọi là công cụ thị trường hay các cách tiếp cận thị trường) đang ngày càng được nhiều nước sử dụng. Đây chính là sử dụng sức mạng của thị trường để bảo vệ môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái. Tuy nhiên, khi áp dụng công cụ này được cân nhắc một cách chặt chẽ để các công cụ này phù hợp với hệ thống tài chính, tập quán, truyền thống và năng lực của hệ thống hành chính, hệ thống thể chế cùa từng nước.   VAI TRÒ Công cụ kinh tế là những chính sách, biện pháp nhằm tác động tới chi phí và lợi ích của những hành động kinh tế thường xuyên tác động tới môi trường, tăng cường ý thức trách nhiệm trước việc gây ra hủy hoại môi trường đồng thời tác động đến hành vi của cá nhân theo hướng có lợi cho môi trường. Từ những ứng dụng trong thực tiễn cho thấy, vai trò của công cụ kinh tế trong việc sử dụng quản lý nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường, hơn hẳn với các loại công cụ khác như công cụ điều hành và kiểm soát : → Tăng hiệu quả chi phí: từ thực tiễn của việc áp dụng các công cụ kinh tế cho quản lý môi trường, người ta đã rút ra kết luận rằng nếu cùng một mục tiêu môi trường cần đạt được như nhau khi sử dụng công cụ kinh tế (EIs) so với công cụ điều hành và kiểm soát (CAC) thì công cụ kinh tế có chi phí thấp hơn. Sử dụng công cụ kinh tế là liên quan đến giá cả, vì vậy việc sử dụng giá cả và cung cấp tính linh hoạt trong việc ứng phó với những tín hiệu giá cả, cho phép các cá nhân và doanh nghiệp tìm kiếm đến chi phí có tính hiệu quả hơn trong khả năng lựa chọn của họ.  → Khuyến khích nhiều hơn cho việc đổi mới: công cụ kinh tế không ra lệnh cho chiến lược kiểm soát mà những người gây ô nhiễm phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, nó có tác động đến hoạt động kinh tế một cách tích cực để phát triển và lựa chọn chi phí kiểm soát hiệu quả mà không theo quy ước nào. → Khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin tốt hơn: như đã nêu ở trên, công cụ kinh tế cơ bản dựa vào thị trường, bản thân chúng sẽ phát hiện ra chiến lược hiệu quả chi phí, cho phép gặp gỡ các mục tiêu môi trường cần đạt thông qua việc chi phí hiệu quả nhất. Công cụ kinh tế hướng tới sức mạnh thị trường để xác định việc lựa chọn công nghệ có chi phí thấp nhất, với tính chất vượt trội này cho thấy khi chúng ta sử dụng công cụ CAC khó có thể thực hiện được. → Tăng hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường: do chi phí thấp khi sử dụng chúng, mặt khác chúng tác động đến quyền lợi kinh tế của các cá nhân hay doanh nghiệp, do vậy người ta phải tính đến việc sử dụng nguồn tài nguyên như thế nào là tiết kiệm và hiệu quả nhất mà không ảnh hưởng tới doanh thu và lợi nhuận. → Hành động nhanh chóng và mềm dẻo hơn: công cụ kinh tế cho phép thực hiện một cách nhanh chóng, linh hoạt và mềm dẻo so với việc sử dụng công cụ CAC, bởi lẽ nó có thể được điều chỉnh kịp thời thông qua cơ chế giá cả thị trường, sử dụng tín hiệu thị trường thường cho phép nhận được những thông tin phản hồi nhanh hơn và nắm bắt được tính hiệu quả của việc thực hiện quản lý sử dụng EIs.  Ngoài những vai trò và tính hơn hẳn của công cụ kinh tế nêu trên, công cụ kinh tế còn có những vai trò khác trong việc thúc đẩy định hướng hành động ngày càng thân thiện hơn với môi trường trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra thường xuyên; đồng thời, làm cho sự thay đổi hành vi của người sản xuất và người tiêu dùng trong nền kinh tế, đây là yếu tố rất quan trọng liên quan đến công cụ giáo dục và nâng cao nhận thức quản lý nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường nhằm hướng tới một sự phát triển có tính bền vững.  Công cụ kinh tế chỉ có thể áp dụng có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường. Hiện nạy, công cụ kinh tế đã và đang được ứng dụng rộng rãi trên thế giới đặc biệt là tại các nước công nghiệp phát triển OECD. Ở các nước đang phát triển, chính sách môi trường thường sử dụng hai loại công cụ chủ yếu là mệnh lệnh và kiểm soát ( hay pháp lý) và kinh tế. Các công cụ khác như công cụ kỹ thuật quản lý, công cụ giáo dục, truyền thông cũng được sử dụng nhằm bổ sung, hỗ trợ và góp phần hoàn chỉnh hai công cụ pháp lý và kinh tế.   3. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ  Công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường được áp dụng dựa trên hai nguyên tắc cơ bản đã được quốc tế thừa nhận là nguyên tắc " Người gây ô nhiễm phải trả tiền" (PPP) và " Người hưởng thụ phải trả tiền".   a- Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền bắt nguồn từ các sáng kiến do Tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) đề xuất hợp tác vào các năm 1972 và 1974. Nguyên tắc này xuất phát từ những luận điểm của Pigow về nền kinh tế phúc lợi. Trong đó, nội dung quan trọng nhất là một nền kinh tế lý tưởng là giá cả các loại hàng hóa và dịch vụ có thể phản ánh đầy đủ các chi phí xã hội, kể cả các chi phí môi trường ( bao gồm các chi phí chống ô nhiễm, khai thác tài nguyên cũng như những dạng ảnh hưởng khác tới môi trường). Giá cả phải "nói lên sự thật" về những chi phí sản xuất và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Nếu không, sẽ dẫn đến việc sử dụng bừa bãi các nguồn tài nguyên, làm cho ô nhiễm trở nên trầm trọng hơn so với mức tối ưu đối với xã hội.   “Người gây ô nhiễm phải trả tiền “ có nghĩa là buộc người gây ô nhiễm(doanh nghiệp , cá nhân hay chính quyền ) phải trả hoàn toàn các chi phí về sự phá hoại môi trường do hoạt động của họ gây ra . Điều này sẽ khuyến khích người ta giảm sự phá hoại đó, ít ra cũng ở mức mà chi phí biên của việc giảm ô nhiễm bằng chi phí biên của sự tổn hại do ô nhiễm đó gây ra. Phương pháp sử dụng các công cụ kinh tế nhấn mạnh ích lợi của các công cụ kinh tế được dùng để thay đổi thái độ của con người thông qua cơ chế về giá cả. Muốn vậy thì tổng chi phí sản xuất ra một hàng hóa hay dịch vụ bao gồm chi phí của tất cả tài nguyên được sử dụng phải được tính đủ vào giá của nó. Việc sử dụng không khí, nước, hay đất cho việc loại bỏ hay cất giữ chất thải cũng là sử dụng các tài nguyên giống như các đầu vào của sản xuất. Tình trạng định giá không tính đủ chi phí sử dụng các tài nguyên môi trường và không xác định rõ quyền sở hữu đối với tài nguyên môi trường dẫn đến việc khai thác và sử dụng quá mức và có thể làm phá hủy hoàn toàn nguồn tài nguyên đó. Nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” tìm cách sửa đổi “thất bại thị trường” bằng cách buộc người gây ô nhiễm phải tính toán đầy đủ chi phí sản xuất ( chi phí sử dụng tài nguyên và làm ô nhiễm )thông qua các công cụ như thuế ô nhiễm, lệ phí ô nhiễm, giấy phép ô nhiễm... b- Nguyên tắc " người hưởng thụ phải trả tiền" chủ trương tạo lập một cơ chế nhằm đạt được các mục tiêu về môi trường. Đối nghịch với việc người trực tiếp gây ô nhiễm phải trả tiền, người hưởng thụ một môi trường đã được cải thiện cũng phải trả một khoản phí. Có thể hiểu nguyên tắc tắc này là tất cả những ai hưởng lợi do có được môi trường trong lành không bị ô nhiễm, thì đều phải nộp phí. Nguyên tắc này đưa ra giải pháp bảo vệ môi trường với một cách nhìn nhận riêng. Nguyên tắc chủ trương việc phòng ngừa ô nhiễm và cải thiện môi trường cần được hỗ trợ từ phía những người muốn thay đổi hoặc những người không phải trả giá cho các chất gây ô nhiễm.   II/ MỘT SỐ CÔNG CỤ KINH TẾ ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG THUẾ TÀI NGUYÊN Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, một số doanh nghiệp đơn thuần chỉ sử dụng thành phần môi trường thì chủ yếu các doanh nghiệp vừa sử dụng thành phần môi trường vừa khai thác sử dụng tài nguyên. Như vậy thông qua các cơ cấu kinh tế, chinh sách thuế được chia làm hai loại: Thuế tài nguyên và thuế môi trường.   *) Thuế tài nguyên:   "Là loại thuế gián thu, thu từ các hoạt động khai thác tài nguyên, do người sử dụng tài nguyên đóng góp". Từ trước đến nay tình trạng khai thác bừa bãi, sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên ở nước ta cũng như ở các nước khác rất phổ biến dẫn đến các nguy cơ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy thoái môi trường. Trước thực tế đó, việc phát triển và cải tiến các loại thuế sử dụng khai thác tài nguyên thiên nhiên sẽ có vai trò cốt yếu.  Mục đích của thuế tài nguyên là : - Hạn chế các nhu cầu không cấp thiết trong sử dụng tài nguyên. - Hạn chế các tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác và sử dụng - Tạo nguồn thu cho Ngân sách và điều hoà quyền lợi của các tầng lớp dân cư về việc sử dụng tài nguyên. Thuế tài nguyên phải được sử dụng từng bước đế tránh làm mất cân bằng kinh tế, phải hợp lý điều chỉnh có lợi cho kinh tế xã hội. Nếu muốn giảm suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường, Chính phủ cần tăng thuế. Ngước lại nếu muốn tăng việc làm, giảm thất nghiệp cần giảm thuế. Cơ cấu tính thuế tài nguyên phải được thay đổi phù hợp với khả năng công nghệ của doanh nghiệp, phương thức quản lý của Nhà nước và điều kiện địa chất kỹ thuật của khu vực khai thác tài nguyên để bảo đảm có sự phân biệt đối với các doanh nghiệp hoặc hoạt động gây ra các tổn thất tài nguyên và suy thoái môi trường ở các mức độ khác nhau; nguyên tắc chung là: hoạt động càng gây nhiều tổn thất tài nguyên và suy thoái môi trường thì càng phải chịu thuế cao hơn. Việc xác định đúng đắn phương pháp tính thuế tài nguyên là rất quan trọng , sẽ góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư công nghệ , kỹ thuật và năng lực quản lý nhằm làm giảm tổn thất tài nguyên , đặc biệt là các tài nguyên không tái tạo. Thuế tài nguyên gồm: thuế sử dụng đất, thuế sử dụng nước, thuế rừng, thuế tiêu thụ năng lượng, thuế khai thác tài nguyên khoáng sản…. *) Thuế môi trường: Tại khoản 1, điều 112, luật bảo vệ môi trường 2005 quy định: " Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất kinh doanh một số loại sản phẩm gây tác động xấu, lâu dài tới môi trường và sức khỏe con người thì phải nộp thuế môi trường". Theo quy định này thì thuế môi trường là khoản đóng góp của thể nhân và pháp nhân khi sử dụng thành phần môi trường. Như vậy, trong trường hợp này, thuế sử dụng vào các thành phần môi trường sẽ có xu hướng phát triển thêm thu nhập cho ngân sách nhà nước. Thuế môi trường dùng để khuyến khích, bảo vệ và nâng cao hiệu suất sử dụng các yếu tố môi trường, hạn chế các tác nhân gây ra ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn quy định. Nguyên tắc đánh thuế: thuế phải lớn hơn chi phí để giải quyết phế thải và khắc phục ô nhiễm. Biện pháp đánh thuế sẽ gây sức ép, buộc nhà sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu suất sử dụng nguyên, nhiên liệu hoặc thay thế nguyên, nhiên liệu ít gây ô nhiễm hơn, áp dụng kỹ thuật chống ô nhiễm. Các loại thuế môi trường chủ yếu:   - Thuế ô nhiễm bầu không khí   - Thuế ô nhiễm tiếng ồn   - Thuế ô nhiễm các nguồn nước   Chính phủ các nước còn áp dụng các biện pháp giảm thuế nhằm khuyến khích các hoạt động có lợi cho môi trường như giảm thuế cho các ngành sản xuất phân bón vi sinh thay cho phân bón hóa học, các ngành công nghiệp xử lý rác thải, nước thải, sản xuất " sản phẩm xanh". Do sử dụng thành phần môi trường nên các tổ chức, cá nhân bắt buộc phải nộp thuế và nó không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho người sử dụng các thành phần môi trường bởi mục đích của việc đánh thuế môi trường là nhằm bảo vệ môi trường, giữ cho môi trường trong lành phục vụ sự nghiệp phát triển lâu bền của đất nước.   2. PHÍ MÔI TRƯỜNG Phí môi trường là công cụ kinh tế nhằm đưa chi phí môi trường vào giá sản phẩm theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” .Việc áp dụng phí môi trường đã có hậu quả rõ nét nhằm thay đổi hành vi của các đối tượng gây ô nhiễm, khuyến khích họ giảm lượng chất gây ô nhiễm thải ra ngoài môi trường. Ngoài ra phí bảo vệ môi trường còn có mục đích khác là tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước để đầu tư, khắc phục cải thiện môi trường(thu gom xử lý phế thải, nước thải , hỗ trợ các nạn nhân của ô nhiễm ) . Hiện nay nước thải, khí thải và các loại chất thải rắn của các cơ sở sản xuất kinh doanh, nhà hàng... đang là nguồn gây ô nhiễm chính môi trường đất, nước, không khí. Để có vốn đầu tư, khắc phục và cải thiện môi trường cũng như khuyến khích các đối tượng gây ô nhiễm có biện pháp kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm, Nhà nước ta đã xây dựng chương trình thu phí bảo vệ môi trường như một giải pháp sử dụng các công cụ kinh tế bảo vệ môi trường...   Theo đó, "phí là khoản thu của ngân sách nhà nước nhằm bù đắp một phần khoản chi đầu tư, bảo dưỡng các công trình công cộng và duy trì các hoạt động của nhà nước". Phí môi trường được coi là một công cụ kinh tế để góp phần bảo vệ môi trường bởi vì nó được áp dụng với 2 mục đích: một là để chi cho các hoạt động cải thiện môi trường sinh thái, hai là khuyến khích người gây ô nhiễm giảm lượng chất ô nhiễm thải ra môi trường. Như vậy, phí môi trường là những khoản tiền phải trả cho việc sử dụng môi trường với tư cách là nơi chứa đựng chất thải. Thực hiện nguyên tắc " người sử dụng phải trả tiền" nhiều nước quy định thu phí và lệ phí tùy theo mục đích sử dụng và hoàn cảnh như: phí vệ sinh thành phố, phí nuôi và giết mổ gia súc trong các đô thị, phí cung cấp nước cho sinh hoạt và tưới tiêu trên đồng ruộng, lệ phí đường phố, lệ phí sử dụng bờ biển, danh lam, thắng cảnh...Việc áp dụng phí là một vấn đề mới trong kiểm soát ô nhiễm và cái mới đó thường khó được chấp nhận. Phạm vi áp dụng của các loại phí môi trường gồm:   *) Phí đánh vào nguồn ô nhiễm: Là loại phí đánh vào các chất gây ô nhiễm được thải ra môi trường nước (BOD, COD,TSS, kim loại nặng …) , khí quyển( SO2, cacbon,CFCs), đất(rác thải, phân bón ) hoặc gây tiếng ồn, ảnh hưởng tới môi trường xung quanh. Biện pháp này có tác dụng khuyến khích các tác nhân gây ô nhiễm giảm lượng chất ô nhiễm thải ra môi trường và tăng thêm nguồn thu cho Chính phủ để sử dụng vào việc cải thiện chất lượng môi trường. Phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm được sử dụng rộng rãi nhất là các chất gây ô nhiễm nguồn nước mặn. Ngoài ra, tại một số nước, phí này còn được dùng để đánh vào chất gây ô nhiễm không khí, tác nhân gây ra tiếng ồn( máy bay).. Phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm được xác định trên cơ sở khối lượng và hàm lượng ( nồng độ) các chất gây ô nhiễm . Tuy nhiên việc áp dụng loại phí này đối với chất gây ô nhiễm không khí có phần phức tạp do rât khó kiểm soát lượng ô nhiễm thải ra để tính mức thu phí.   *) Phí đánh vào người sử dụng:   Là tiền phải trả do được sử dụng các hệ thống công cộng xử lý và cải thiện chất lượng môi trường như hệ thống thoát nước, thu gom và xử lý rác thải, phí sử dụng nước sạch , phí sử dụng đường và bãi đỗ xe , phí sử dụng danh lam thắng cảnh, phí hành chính, nhằm đóng góp tài chính cho việc cấp phép , giám sát và quản lý hành chính đối với môi trường Các khoản thu từ loại phí này được dùng để góp phần bù đắp chi phí bảo đảm cho hệ thống này hoạt động. Loại phí này chủ yếu được áp dụng đối với các loại chất thải có thể kiểm soát. Chính vì vậy có 2 cách thu chủ yếu là thu theo số lượng và chất lượng chất thải; và thu theo mức cố định đối với tổ chức cá nhân( hiện nay phí này được gọi là phí vệ sinh). Mục đích chính của phí này chủ yếu là nhằm tăng nguồn thu cho Chính phủ và đối tượng thu là những cá nhân hay đơn vị trực tiếp sử dụng hệ thống dịch vụ công cộng.  Phí đánh vào người sử dụng còn nhằm mục đích hạn chế việc sử dụng quá mức các dịch vụ môi trường. *) Phí đánh vào sản phẩm:   Là loại phí được áp dụng đối với những loại sản phẩm gây tác hại tới môi trường một khi chúng được sử dụng trong các quá trình sản xuất, tiêu dùng hay loại bỏ chúng.   Loại phí này được áp dụng với những sản phẩm chứa chất độc hại và với một khối lượng nhất định chúng sẽ gây tác hại tới môi trường. Ví dụ như : PVC, CFCs, kim loại nặng , xăng pha chì , các nguyên liệu chứa cac bon , sulphat , thủy ngân , chai , hộp ,túi nilong… Phí đánh vào sản phẩm có thể được sử dụng thay cho phí gây ô nhiễm nếu vì lý do nào đó người ta không thể trực tiếp tính được phí đối với các chất gây ô nhiễm. Loại phí này có thể đánh vào là nguyên liệu đầu vào, sản phẩm trung gian hay thành phẩm, tùy theo từng trường hợp. Phí này có mục đích là khuyến khích giảm ô nhiễm bằng giảm việc sử dụng, tiêu thụ các sản phẩm bị thu phí và tăng nguồn thu cho Chính phủ. Mức phí do đó sẽ tùy thuộc vào mục tiêu đặt ra đối với loại phí này là gì.   Phí đánh vào sản phẩm được sử dụng rộng rãi ở các nước OECD dưới dạng phụ phí tính vào giá xăng dầu , phân bón , thuốc trừ sâu , bột tẩy giặt … 3. HỆ THỐNG ĐẶT CỌC – HOÀN TRẢ Hệ thống đặt cọc hoàn trả bao gồm việc ký một số tiền cho các sản phẩm có tiềm năng gây ô nhiễm. Nếu các sản phẩm được đưa trả về một số điểm thu hồi quy định hợp pháp sau khi sử dụng, tức là tránh khỏi bị ô nhiễm, tiền ký thác sẽ hoàn trả.Mục đích của hệ thống đạt cọc- hoàn trả là thu gom những thứ mà người tiêu thụ đã dùng vào một trung tâm để tái chế ,tái sử dụng hoặc tiêu hủy một cách an toàn đối với môi trường . Hệ thống này có thể được áp dụng cho bất kỳ sản phẩm nào mà chúng đòi hỏi một sự tập trung cao để tái sản xuất nhằm đảm bảo an toàn cho việc đặt cọc và hạn chế bớt những hàng hóa ít có giá trị sử dụng mà lại có thể gây ra mức ô nhiễm nhiều hơn. Ví dụ như: những chuyến tàu thủy vận chuyển xe ô tô, những container thuốc trừ sâu..Khi có các hoạt động có nguy cơ ảnh hưởng xấu tới môi trường, chủ doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh phải sản xuất kinh doanh phải đặt cọc một khoản tiền đảm bảo việc thực hiện các biện pháp khắc phục môi trường. Hơn nữa cơ cấu kinh tế này áp dụng sẽ nâng cao tài nguyên cũng như xử lý vi phạm được dễ dàng hơn khi chủ doanh nghiệp không khôi phục môi trường thì nhà nước sẽ sử dụng số tiền này để thuê các tổ chức, cá nhân khác tiến hành khôi phục môi trường.   Bởi vậy, đặt cọc hoàn trả được coi là một trong những ứng cử viên sáng giá cho các chính sách nhằm giúp nền kinh tế thoát khỏi chu trình sản xuất tuyến tính ( khai khoáng -> nguyên liệu thô -> sản phẩm -> phê thải ) và hướng tới chu trình tuần hoàn trong đó các tài nguyên được tái chế , tái sử dụng tới mức tối đa có thể được . Phạm vi sử dụng các hệ thống đặt cọc – hoàn trả bao gồm : Các sản phẩm mà khi sử dụng có khả năng gây ô nhiễm môi trường nhưng có thể xử lý , tái chế hoặc tái sử dụng . Các sản phẩm làm tăng lượng chất thải , cần các bãi thải có quy mô lớn và tốn nhiều chi phí tiêu hủy Các sản phẩm chứa chất độc , gây khó khăn đặc biệt cho việc xử lý , nếu tiêu hủy không đúng cách sẽ gây nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe cho con người Hệ thống đặt cọc hoàn trả tỏ ra rất thích hợp với việc quản lý các chât thải rắn. Các quốc gia thuộc tổ chức OECD đã áp dụng khá thành công hệ thông đặt cọc – hoàn trả đối với các sản phẩm đồ uống , bia , rượu (đựng trong chai nhựa hoặc thủy tinh ) mang lại hiệu quả cao cho việc thu gom các phế thải . Hiện nay các nước này đã và đang mở rộng hệ thống đặt cọc – hoàn trả sang các lĩnh vực khác như vỏ tàu, ô tô cũ , dầu nhớt , ắc quy có chứa chì , thủy ngân , cadimi,vỏ chai đựng thuốc trừ sâu , các đồ điện da dụng như máy thu hình , tủ lạnh , điều hòa không khí… Thực tiễn cho thấy mức đăt cọc là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến hiệu quả của hệ thống đặt cọc-hoàn trả. Các mức đạt cọc thấp sẽ không tạo ra động cơ kinh tế đủ mạnh cho việc thu gom và tái chế phế thải. Ngoài ra các yếu tố như nhận thức và ý thức của người sản xuất và tiêu dùng đối với vấn đề thu gom phế thải , khả năng tổ chức , quản lý hệ thống thu gom cũng như vấn đề công nghệ tái chế đều có ảnh hưởng không nhỏ đến sự hoạt động và thành công của hệ thống. 4. GIẤY PHÉP MÔI TRƯỜNG CÓ THỂ CHUYỂN NHƯỢNG Giấy phép môi trường chuyển nhượng ( hay còn gọi là quota ô nhiễm) là loại giấy phép xả thải mà người sử dụng được cấp có quyền chuyển nhượng số lượng, chất lượng xả thải của cơ sở mình cho người khác(đơn vị cần giấy phép để xả thải ). Loại giấy này cho phép được đổ phế thải hay sử dụng một nguồn tài nguyên đến một mức định trước do pháp luật quy định và được chuyển nhượng bằng cách đấu thầu hoặc trên cơ sở quyền sử dụng đã có sẵn. Giấy phép môi trường thường được áp dụng cho các tài nguyên môi trường khó có thể quy định quyền sở hữu và vì thế thường bị sử dụng bừa bãi như không khí, đại dương. Công cụ này được áp dụng ở một số nước, ví dụ giấy phép (quota) khai thác cá ngừ và sử dụng nước ở Australia, giấy phép ô nhiễm không khí ở Mỹ, Anh và một số nước thành viên của OECD như Canađa, Đức, Thuỵ Điển.Thị trường giấy phép xả thải vận hành theo quy luật cung cầu như các thị trường thông thường nhưng lại có đặc điểm gần giống thị trường chứng khoán ở chỗ giao dịch các chứng chỉ, các giấy phép mang một giá trị nhất định với giá cả được định đoạt theo chủ quan, kỳ vọng và dự báo của các bên tham gia giao dịch. Nguyên lý cơ bản của thị trường giấy phép thải (hay thị trường môi trường) là việc đặt ra giới hạn tối đa về lượng khí thải hoặc nước thải nào đó ở mức thống nhất với chỉ tiêu môi trường tại một vùng hay khu vực cụ thể. Một khi tổng lượng thải cho phép thấp hơn lượng thải mà các đơn vị hoạt động trong vùng muốn thải thì sẽ tạo nên sự khan hiếm về quyền được thải và làm cho nó có giá ở thị trường. Để thực hiện công cụ này, trước hết Nhà nước phải xác định mức sử dụng môi trường chấp nhận được để trên cơ sở đó phát hành giấy phép. Việc này không đơn giản và cũng đòi hỏi chi phí thực hiện khá lớn. Sau khi quy định mức thải tối đa trong vùng, có thể phát không giấy phép cho các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn dựa trên một số căn cứ nào đó hoặc tổ chức bán đấu giá. Cách thực hiện được nhiều người tán thành nhất là phân phối giấy phép dựa vào mức độ ô nhiễm hoặc hiện trạng tác động môi trường của từng doanh nghiệp, nói cách khác là thừa kế quyền được thải quá khứ. Khi đã có giấy phép, các doanh nghiệp tự do giao dịch, mua đi bán lại số giấy phép đó; giá giấy phép trên thị trường sẽ điều tiết nhu cầu trong phạm vi tổng hạn mức. Những giấy phép chuyển nhượng này ưu việt hơn thuế trong trường hợp cần xác lập một mức độ tối đa số rác thải hoặc định mức sử dụng tài nguyên. Giấy phép chuyển nhượng sẽ không có hiệu lực khi những phế thải bị hạn chế đến một tỉ lệ rất nhỏ so với toàn bộ chi phí sản phẩm, lúc đó sẽ không còn tác dụng khuyến khích sự tham gia nữa. Nói chung, nó được coi là một biện pháp tạm thời trong khi chờ đợi đạt được tiêu chuẩn chính xác hơn. Tuy nhiên, ưu điểm đáng kể nhất của loại công cụ này là sự kết hợp giữa tín hiệu giá cả , hạn mức ô nhiễm,và cải tiến công nghệ So với các loại thuế môi trường hay phí ô nhiễm thì thị trường giấy phép mang tính chắc chắn, bảo đảm hơn về kết quả đạt mục tiêu môi trường vì dù giao dịch mua bán như thế nào thì tổng lượng giấy phép vẫn nằm trong phạm vi kiểm soát ở số phát hành ban đầu. - Khi được phép mua bán các quuota ô nhiễm sẽ hình thành thị trường quota ô nhiễm, từ đó tổng chi phí giảm thải của xã hội giảm xuống . - Khi các tác nhân gây ô nhiễm khác nhau sẽ dẫn đến chi phí giảm nhẹ ô nhiễm cũng khác nhau. Người gây ô nhiễm nào có biện pháp giảm ô nhiễm rẻ hơn việc mua giấy phép xả thải thì họ sẽ bán lại các giấy phép đó cho người gây ô nhiễm khác. Bằng cách này người gây ô nhiễm sẽ tối thiểu hóa chi phí ô nhiễm và mức phát thải ô nhiễm. - Trong trường hợp có thêm nhiều cơ sở gây ô nhiễm mới được đưa vào hoạt động, khi đó đường cầu đối với quota ô nhiễm sẽ dịch chuyển sang phải. Trong trường hợp này nhà nước muốn duy trì mức ô nhiễm thì vẫn giữ mức cấp giấy quota là W, nhưng giá lại tăng từ P lên P'.Như vậy doanh nghiệp sẽ phải lựa chọn 1 trong 2 phương án: + Mua quota ô nhiễm nếu như việc đầu tư để giảm nhẹ ô nhiễm cao hơn. + Sẽ đầu tư trang thiết bị để giảm nhẹ ô nhiễm, nếu như đầu tư để giảm nhẹ ô nhiễm thấp hơn mua giấy phép . Điều này chứng tỏ lợi ích của quota trong việc tối thiểu hóa chi phí ô nhiễm và là xuất phát cho các cải tiến về công nghệ, kỹ thuật có lợi cho môi trường. Tuy có những ưu điểm như vậy nhưng thị trường giấy phép vẫn chưa được áp dụng rộng rãi do các nhà môi trường và công chúng nói chung chưa quen với khái niệm “quyền được thải” nên khó chấp nhận việc các doanh nghiệp có giấy phép thải khí hay nước thải vào môi trường. Các nhà quản lý thì cho rằng việc kinh doanh giấy phép thải phức tạp, khó kiểm soát hơn so với việc thu thuế hay phí môi trường quen thuộc, đã có sẵn bộ máy hành chính tài chính để thực hiện. Hơn nữa, việc quan trắc môi trường, theo dõi mức độ ô nhiễm hoặc thành quả môi trường tại các doanh nghiệp theo các chỉ tiêu đề ra trong chương trình giấy phép cũng được coi là vấn đề khó khăn, phức tạp. Kinh nghiệm của một số nước cho thấy công cụ giấy phép thích hợp cho việc áp dụng trong một số điều kiện nhất định như sau: - Chất ô nhiễm cần kiểm soát thải ra từ nhiều nguồn khác nhau nhưng gây tác động môi trường tương tự nhau (ví dụ các nhà máy điện cùng thải SO2 góp phần vào nguy cơ chung của nạn mưa axit). - Có sự chênh lệch lớn trong chi phí giảm thải của các doanh nghiệp do nhiều yếu tố (công nghệ, tuổi thọ máy móc, thiết bị, quản lý ...) - Số lượng doanh nghiệp tham gia thị trường với tư cách là người mua và người bán giấy phép phải tương đối lớn để tạo được một thị trường mang tính cạnh tranh và năng động. 5. KÝ QUỸ MÔI TRƯỜNG Ký quỹ môi trường là công cụ kinh tế áp dụng cho các hoạt động kinh tế có tiềm năng gây ô nhiễm và tổn thất môi trường. Nguyên lý hoạt động của hệ thống ký quỹ môi trường cũng tương tự như của hệ thống đặt cọc - hoàn trả. Nội dung chính của ký quỹ môi trường là yêu cầu các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh trước khi tiến hành một hoạt động đầu tư phải ký gửi một khoản tiền (hoặc kim loại quý, đá quý, hoặc các giấy tờ có giá trị như tiền) tại ngân hàng hay tổ chức tín dụng nhằm bảo đảm sự cam kết về thực hiện các biện pháp để hạn chế ô nhiễm, suy thoái môi trường. Mục đích chính của việc ký quỹ là làm cho người có khả năng gây ô nhiễm, suy thoái môi trường luôn nhận thức được trách nhiệm của họ từ đó tìm ra các biện pháp thích hợp ngăn ngưà ô nhiễm, suy thoái môi trường. Trong quá trình thực hiện đầu tư và sản xuất, nếu các doanh nghiệp / cơ sở có các biện pháp chủ động ngăn chặn, khắc phục không để xẩy ra ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường, hoàn nguyên hiện trạng môi trường đúng như cam kết thì họ sẽ được nhận lại số tiền đã ký quỹ đó. Ngược lại nếu bên ký quỹ không thực hiện đúng cam kết hoặc phá sản thì số tiền đã ký quỹ sẽ được rút ra từ tài khoản ngân hàng / tổ chức tín dụng để chi cho công tác khắc phục sự cố, suy thoái môi trường. Ký quỹ môi trường tạo ra lợi ích cho Nhà nước vì không phải đầu tư kinh phí khắc phục môi trường từ ngân sách. Ký quỹ môi trường cũng khuyến khích các doanh nghiệp tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường. Các doanh nghiệp sẽ có lợi ích do lấy lại được vốn khi không để xẩy ra ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường. Với mục đích và nguyên lý hoạt động như vậy, rõ ràng số tiền ký quỹ phải lớn hơn hoặc xấp xỉ với kinh phí cần thiết để khắc phục môi trường nếu doanh nghiệp gây ra ô nhiễm và suy thoái môi trường. Nếu số tiền ký quỹ quá nhỏ so với chi phí bảo vệ môi trường, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng từ bỏ việc nhận lại số tiền ký quỹ đó và không thực hiện các cam kết bảo vệ môi trường của mình. Công cụ ký quỹ môi trường đã được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt với các hoạt động công nghiệp như khai thác mỏ, khai thác rừng hoặc đại dương. 6. TRỢ CẤP MÔI TRƯỜNG Trợ cấp môi trường là công cụ kinh tế quan trọng được sử dụng ở rất nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước thuộc tổ chức OECD. Trợ cấp môi trường có thể dưới các dạng sau: - Trợ cấp không hoàn lại - Các khoản cho vay ưu đãi - Cho phép khấu hao nhanh - Ưu đãi thuế (miễn, giảm thuế) Chức năng chính của trợ cấp môi trường là giúp đỡ các ngành công - nông nghiệp và các ngành khác khắc phục ô nhiễm môi trường trong điều kiện khi tình trạng ô nhiễm môi trường quá nặng nề hoặc khả năng tài chính của doanh nghiệp không chịu đựng được đối với việc xử lý ô nhiễm. Trợ cấp cũng còn nhằm khuyến khích các cơ quan nghiên cứu và triển khai các công nghệ sản xuất có lợi cho môi trường hoặc các công nghệ xử lý ô nhiễm. Tuy nhiên, trợ cấp có thể gây ra sự không hiệu quả. Các nhà sản xuất có thể đầu tư quá mức vào kiểm soát và xử lý ô nhiễm (làm giảm ô nhiễm nhiều hơn so với mức tối ưu cũng là không hiệu quả). Trường hợp ngược lại, trợ cấp không được hạch toán toàn bộ vào chi phí giảm ô nhiễm mà một phần được dùng để hạ thấp chi phí sản xuất cá nhân, làm tăng lợi nhuận. Trợ cấp môi trường chỉ là biện pháp tạm thời, nếu vận dụng không thích hợp hoặc kéo dài sẽ dẫn đến phi hiệu quả kinh tế vì trợ cấp đi ngược với nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, nó tạo ra sự thay đổi số công ty (vào - ra tự do đối với ngành công nghiệp), thay đổi mức hoạt động của ngành công nghiệp mà mục đích giảm ô nhiễm lại không đạt được. Vì vậy, trợ cấp môi trường chỉ có thể thực hiện trong một thời gian cố định với một chương trình có hoạch định và kiểm soát rõ ràng, thường xuyên. 7. NHÃN SINH THÁI Theo tổ chức thương mại thế giới WTO và Ngân hàng thế giới WB thì: Nhãn sinh thái là một loại nhãn được cấp cho những sản phẩm thoả mãn một số tiêu chí nhất định do một cơ quan chính phủ hoặc một tổ chức được chính phủ uỷ nhiệm đề ra. Các tiêu chí này tương đối toàn diện nhằm đánh giá tác động đối với môi trường trong những giai đoạn khác nhau của chu kỳ sản phẩm: từ giai đoạn sơ chế, chế biến, gia công, đóng gói, phân phối, sử dụng cho đến khi bị vứt bỏ. Cũng có trường hợp người ta chỉ quan tâm đến một tiêu chí nhất định đặc trưng cho sản phẩm, ví dụ mức độ khí thải phát sinh, khả năng tái chế, v.v… Các tiêu chuẩn để đánh giá khía cạnh môi trường của sản phấm của Nhãn sinh thái được quy định trong các hệ thống tiêu chuẩn ISO 14024:1999, ISO 14021:1999 và ISO 14025:2000. *) ISO 14024 (Nhãn loại I/ Công bố môi trường kiểu I): Việc dán nhãn phải được bên thứ ba công nhận (không phải do nhà sản xuất hay các đại lý bán lẻ thực hiện), dựa trên phương pháp đánh giá chu trình sống của sản phẩm (Chu trình sống là các giai đoạn kế tiếp và liên kết với nhau của một hệ thống sản phẩm, từ khi tiếp cận nguyên liệu thôi hoặc từ khi phát sinh của các nguồn tài nguyên thiên nhiên cho đến khi thải bỏ cuối cùng). Theo tiêu chuẩn này thì các sản phẩm phải đáp ứng được các yêu cầu khác nhau và thường phụ thuộc vào mức độ khắt khe của tiêu chuẩn và vào cơ quan quản lý tiêu chuẩn. *) ISO 14021 (Nhãn loại II/ Công bố môi trường kiểu II): Do nhà sản xuất hoặc các đại lý bán lẻ tự nghiên cứu, đánh giá và công bố cho mình, đôi khi còn được gọi là “Công bố xanh”, có thể công bố bằng lời văn, biểu tượng hoặc hình vẽ lên sản phẩm do nhà sản xuất hoặc các đại lý bán lẻ quyết định. Công bố loại này phải đáp ứng được một số yêu cầu cụ thể như: phải chính xác và không gây nhầm lẫn, được minh chững và được kiểm tra, xác nhận, tương ứng với sản phẩm cụ thể và chỉ được sử dụng trong hoàn cảnh thích hợp hoặc đã định, không gây ra sự diễn giải sai… Còn đối với việc lựa chọn biểu tượng đặc trưng dựa trên cơ sở chúng đã được thừa nhận hoặc sử dụng rộng rãi, ví dụ như vòng Mobius, dùng cho các công bố về hàm lượng tái chế hoặc tái chế được: *) ISO 14025 (Nhãn loại III/ Công bố môi trường kiểu III): Bao gồm các thông tin định lượng về sản phẩm dựa trên đánh giá chu trình sống của sản phẩm. Mục đích chính là cung cấp dữ liệu môi trường được định lượng và có thể được dùng để thể hiện sự so sánh giữa các sản phẩm. Cũng giống với nhãn kiểu I là việc công bố phải được bên thứ ba công nhận nhưng các thông số môi trường của sản phẩm còn phải được thông báo rộng rãi trong Báo cáo kỹ thuật. Điểm chung của cả ba loại này là đều phải tuân thủ 9 nguyên tắc được nêu trong tiêu chuẩn ISO 14020:1998 (nguyên tắc về tiêu chuẩn đánh giá, các điều khoản áp dụng, thủ tục, phương pháp…) trong đó, điểm mấu chốt là các thông tin đưa ra phải khoa học, chính xác và dựa trên kết quả của quá trình đánh giá vòng đời sản phẩm, các thủ tục phải không cản trở cho hoạt động thương mại quốc tế. Từ định nghĩa trên ta có thể thấy, sản phẩm được dán nhãn sinh thái là một sự khẳng định uy tín của sản phẩm và của nhà sản xuất. Các sản phẩm được dán nhãn sinh thái thường có sức mạnh cạnh tranh cao và giá bán ra thị trường cũng thường cao hơn các sản phẩm cùng loại. Như vậy, nhãn sinh thái là công cụ kinh tế tác động vào nhà sản xuất thông qua phản ứng và tâm lý của khách hàng. Rất nhiều nhà sản xuất đã và đang đầu tư để sản phẩm của mình được công nhận là sản phẩm “xanh”, được dán nhãn sinh thái và điều kiện để được dán nhãn sinh thái ngày càng khắt khe hơn. Nhãn sinh thái thường được xem xét và dán cho các sản phẩm tái chế từ phế thải (như cao su...), các sản phẩm thay thế cho các sản phẩm có tác động xấu đến môi trường, các sản phẩm có tác động tích cực đến môi trường hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh sản phẩm có ảnh hưởng tốt đến môi trường KẾT LUẬN Các công cụ kinh tế là một trong số các công cụ của quản lý môi trường, chúng có thể được sử dụng thay thế hoặc bổ sung cho các công cụ khác của quản lý môi trường. Khi sử dụng các công cụ trong quản lý môi trường chính là sử dụng sức mạnh của thị trường để bảo vệ tài nguyên và môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái. Sự phát triển của kinh tế Việt Nam cũng đã làm tăng sức ép cho môi trường. Nhằm giảm thiểu những tổn hại do hoạt động kinh tế gây ra nhà nước ta đã bước đầu có những nỗ lực lớn trong việc thực thi các biện pháp bảo vệ môi trường, trong đó có việc áp dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường. Tuy còn tương đối mới ở nước ta, nhưng có thể thấy được tính ưu việt của công cụ kinh tế trọng quản lý môi trường. Ở nước ta, khả năng thay thế ngay lập tức ở các công cụ pháp lý truyền thống hiện đại vẫn còn phát huy hiệu lực bằng các công cụ kinh tế mới đang ở giai đoạn nghiên cứu để áp dụng thử. Chính vì thế trong thiết kế các chính sách, chiến lược về môi trường, vấn đề cơ bản sẽ không phải là chọn công cụ kinh tế hay công cụ pháp lý mà là làm thế nào để lựa chọn được sự phối hợp tối ưu giữa các loại hình công cụ này, xuất phát từ thực tiễn kinh tế, chính trị và khả năng thực tế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCng c7909 kinh t7871 trong qu7843n l mi tr4327901ng.doc
Tài liệu liên quan