Công nghệ nhiệt trong xử lý chất thải rắn

LỜI MỞ ĐẦU Chất thải rắn nếu không được quản lý tốt sẽ làm mất vệ sinh môi trường đô thị, gây ô nhiễm và chứa đựng nguy cơ tiềm ẩn gây nguy hại đối với sức khỏe con người cũng như các hệ sinh thái. Kinh nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới đã chứng tỏ quy trình công nghệ quản lý chất thải rắn phải bắt đầu được phân loại từ nguồn. Trên cơ sở đó áp dụng các biện pháp xử lý khác nhau nhằm đảm bảo tận dụng được các loại rác có thể tái chế, tái sử dụng, đồng thời xử lý triệt để các chất thải nguy hại. Rất nhiều nước đang tìm kiếm công nghệ mới trong xử lý rác thải do thiếu các khu chôn lấp như tăng cường các quy chế của quốc gia, đạt được mục tiêu giảm thiểu khí thải gây hiện tượng nóng lên toàn cầu, tăng cường nghĩa vụ của người phát thải. Xử lý rác thải bao hàm động cơ mang tính môi trường, kinh tế và chính trị, xã hội. Xử lý rác thải hiện nay đang sử dụng làm giảm đáng kể những hạn chế của thiếu khu chôn lấp và giảm chi phí xử lý đốt rác nhờ lò đốt, nhưng lại có hạn chế là gánh nặng về rất nhiều chi phí để tái xử lý rác thải như các chất có hại và tro phát sinh trong quá trình đốt. Ứng dụng công nghệ đốt để xử lý chất thải công nghiệp và chất thải nguy hại đang ngày càng được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Tuy nhiên, ở nước ta công nghệ đốt vẫn còn khá mới mẻ. Trong những năm gần đây, nhiều đơn vị đã chế tạo lò đốt để xử lý chất thải công nghiệp và chất thải nguy hại nhưng do thiếu cơ sở khoa học khi tính toán nên hiệu quả đốt chưa cao, còn gây ô nhiễm thứ cấp. Vì vậy, đề tài đã tập trung nghiên cứu công nghệ đốt để xử lý một số chất thải công nghiệp và chất thải nguy hại phổ biến hiện nay. Kết quả là xây dựng được các công thức thực nghiệm để tính toán, thiết kế lò đốt đạt hiệu quả đốt cao đồng thời đảm bảo các chỉ tiêu kinh tế - môi trường. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 4 PHẦN NỘI DUNG 5 1. LÝ THUYẾT CHÁY: 5 2. XỬ LÝ CHẤT THẢI RẮN BẰNG PHƯƠNG PHÁP NHIỆT 6 2.1. Định nghĩa xử lý CTR bằng phương pháp nhiệt: 6 2.2. Phân loại hệ thống xử lý CTR bằng phương pháp nhiệt: 6 2.3. Một số ưu điểm và nhược điểm của phương pháp xử lý CTR bằng nhiệt. 7 3. MỘT SỐ CÔNG NGHỆ NHIỆT ĐỂ XỬ LÝ CHẤT THẢI RẮN. 8 3.1. CÔNG NGHỆ ĐỐT CTR: 8 3.1.1.Các nguyên tắc cơ bản của quá trình cháy 9 3.1.2.Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình cháy 11 3.1.3. Một số công nghệ đốt chất thải điển hình 20 3.2. CÔNG NGHỆ PLASMA: 32 3.3. CÔNG NGHỆ KHÍ HOÁ 34 3.3.1.Khí hoá là gì? 34 3.3.2. Hệ thống khí hóa 35 3.3.3. Các phản ứng hoá học xảy ra trong quá trình khí hoá: 39 3.3.4. Một số ứng dụng của công nghệ khí hóa 40 3.4. CÔNG NGHỆ NHIỆT PHÂN 40 3.4.1. Các giai đoạn cơ bản của quá trình đốt chất thải trong lò nhiệt phân 41 3.4.2. Kiểm soát các quá trình đốt 44 3.4.3. Một số ưu điểm và nhược điểm của hệ thống nhiệt phân 45 4. CÁC HỆ THỐNG KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG CHO CÁC QUÁ TRÌNH NHIỆT. 46 4.1. Kiểm soát ô nhiễm không khí 46 4.2. Thiết bị kiểm soát ô nhiễm không khí: 49 4.3. Hệ thống kiểm soát dioxin/furan 50 4.4. Hệ thống kiểm soát CTR còn lại 50 PHẦN KẾT LUẬN 52 TÀILIỆUTHAMKHẢO .53

doc49 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 3260 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công nghệ nhiệt trong xử lý chất thải rắn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ự cháy là oxy không khí, trong đó có lẫn thành phần nitơ, khi ở nhiệt độ cao sẽ xảy ra phản ứng giữa oxy và nitơ. Do đó, thường tiến hành đốt ở chế độ cấp dư khí, nhưng nếu đưa không khí lạnh vào trong lò nhiều sẽ làm nguội lò, nhiệt độ giảm, gây tổn thất nhiệt. Các lò đốt hiện nay thường cấp dư khí trong khoảng 1,05¸21,1. Từ biểu đồ cho thấy: khi đốt thiếu khí, nhiệt độ đốt cao nhưng quá trình cháy diễn ra không hoàn toàn, còn khi đốt dư khí thì quá trình đốt diễn ra hoàn toàn nhưng nhiệt độ buồng đốt thấp. Dựa vào đặc tính này nên công nghệ đốt nhiệt phân áp dụng đốt thiếu khí cho buồng sơ cấp và đốt dư khí cho buồng thứ cấp. Mỗi loại chất thải đem đốt có nhiệt trị khác nhau và lượng không khí lý thuyết cung cấp cho quá trình cháy cũng khác nhau. Hệ số dư không khí cho phép tính thể tích sản phẩm cháy và thể tích buồng đốt. Trong quá trình đốt, không phải lúc nào cũng có thể tính toán được lượng không khí cần cung cấp cho quá trình cháy vì thành phần của chất thải đầu vào luôn biến động, do đó cần phải kiểm soát quá trình đốt thông qua một số thông số khác để quá trình vận hành dễ dàng hơn như: nhiệt độ, hệ số dư không khí, nồng độ CO, CO2, Oxi, bụi Nhu cầu cấp khí của một số chất thải Chất thải Lượng không khí lý thuyết (m3 không khí / kg chất thải) Polyetylen 12,3 PET 4,2 Photoresist 5,7 Polystyren 10,0 Polyuretan 3,9 PVC 6,2 Giấy 3,1 Bệnh phẩm 3,1 Cacton 2,3 Nhựa 5,9 Vải 4,1 Cao su 9,2 Thực phẩm 3,6 Rác vườn 3,3 (Nguồn: Standard Handbook of Hazadous Waste Treatment and Disposal,Mc Graw-Hill) Trong các trường hợp cụ thể của quá trình đốt, ta có thể tính toán lượng không khí cần thiết cho quá trình đốt như sau: Đốt vừa đủ khí Lượng không khí cần thiết cho quá trình đốt CTR được tính toán dựa trên các phương trình phản ứng giữa thành phần cacbon, hydro và lưu huỳnh trong phần hữu cơ của CTR đô thị với oxy không khí như sau: C + O2 CO2 2H2 + O2 2H2O S + O2 SO2 12 32 4 32 32 32 Đốt dư khí Vì tính chất không đồng nhất của CTR nên khó đốt hoàn toàn CTR với một lượng vừa đủ không khí tính theo lý thuyết. Trong một số hệ thống đốt CTR, chế độ cấp dư khí được sử dụng nhằm đảm bảo sự xáo trộn tốt và mọi thành phần trong CTR tiếp xúc tốt với không khí. Lượng dư không khí cho quá trình đốt ảnh hưởng đến nhiệt độ và thành phần của khí đốt sinh ra. Khi phần trăm dư lượng không khí tăng, oxy trong khí lò tăng, nhiệt độ lò giảm. Do đó, điều chỉnh lượng không khí dư cung cấp là một phương pháp để kiểm soát nhiệt độ lò đốt. Nhiệt độ có ảnh hưởng đến sự xuất hiện của các khí gây mùi trong thành phần của khói lò. Khi t0lò 9820C (18000F ) thì sự phát sinh các khí gây mùi như dioxin, furan, các chất hữu cơ bay hơi (VOC) và các chất độc tiềm tàng khác là thấp nhất. c. Nhiệt trị Nhiệt trị của chất thải rắn là lượng nhiệt sinh ra khi đốt hoàn toàn một đơn vị khối lượng CTR (kcal/kg). Nhiệt trị của CTR cần được quan tâm khi ứng dụng công nghệ đốt chất thải nhằm tận dụng năng lượng hoặc đốt kèm với nhiên liệu trong các công nghệ khác như đốt nồi hơi, nung clinker… Nhiệt trị có liên quan đến quá trình sinh nhiệt khi cháy. Nhiệt trị thấp của nhiên liệu rắn, lỏng tính theo công thức của Mendeleep: Q (kcal/kg) = 81C + 300H – 26 (O- S) – 6(9A + W) (Vì thành phần của clo, flo và nitơ thấp nên được bỏ qua trong tính toán nhiệt trị) Trong đó: C, H, O, S, A, A, W là phần trăm trọng lượng của các nguyên tố cacbon, hydro, oxy, lưu huỳnh, tro, ẩm trong chất thải. Nếu CTR có nhiệt trị không đáng kể thì đốt không phải là giải pháp xử lý thích hợp. Nói chung, nếu CTR có nhiệt trị thấp hơn 556 kcal/kg thì không có khả năng đốt. Tuy nhiên, có những trường hợp ngoại lệ. Nhiệt trị một số thành phần của CTR được cho trong bảng sau: Thành phần Nhiệt trị trung bình (kcal/kg) Thực phẩm 1112 Rác làm vườn 1558 CTR sinh hoat 2501 Gỗ 4448 Giấy 4004 Carton 3894 Nhựa dẻo 7788 Cao su 5563 Vải 4194 Da 4194 (Nguồn: Standard Handbook of Hazadous Waste Treatment and Disposal, Mc Graw-Hill) Với công nghệ đốt nhiệt phân, thì nhiệt trị của CTR không phải là yếu tố quan trọng mà nhiệt hoá học có vai trò quan trọng hơn. Khi nhiệt phân chất thải, sinh ra khí gas, khí gas cháy sinh ra nhiệt. d. Năng lượng Năng lượng sinh ra từ quá trình đốt dưới 2 dạng bao gồm nhiệt năng của khí lò và một dạng nhiệt năng khác được chuyển hoá thành nhiệt của thành lò, nhiên liệu thêm vào, tro nhờ quá trình đối lưu, nhiệt, bức xạ... Việc tính toán để dự đoán nhiệt năng của quá trình đốt là rất cần thiết. Vì nhiệt lượng sinh ra trong quá trình đốt có thể được thu hồi nhờ quá trình trao đổi nhiệt từ khí sinh ra có nhiệt độ cao. Nhiệt lượng thu hồi này có thể tận dụng cho các thiết bị tiêu thụ nhiệt: lò hơi, lò luyện kim, lò nung, lò thủy tinh, máy phát điện... 3.1.3. Một số công nghệ đốt chất thải điển hình a. Các hệ thống lò đốt Các hệ thống lò đốt có thể được thiết kể để vận hành với 2 loại CTR: CTR chưa phân loại và CTR đã phân loại (phần còn lại sau khi đã tách phần có khả năng tái sinh được đem đi đốt). Hệ thống lò đốt CTR chưa phân loại Trong hệ thống này, CTR phải được xử lý sơ bộ trước khi đưa vào phễu lò đốt. Trước khi chuyển CTR vào phễu lò đốt, người điều khiển cần trục phải loại bỏ bằng phương pháp thủ công - những vật không thích hợp với lò đốt. Tuy nhiên, giả định rằng toàn bộ CTR đều có thể cho vào hệ thống bao gồm chất không cháy có kích thước lớn (như tủ lạnh...) và thậm chí là những chất nguy hại tiềm tàng. Do đó, hệ thống lò đốt phải được thiết kế sao cho có thể vận hành với những chất thải như thế mà không làm hỏng thiết bị hay làm bị thương người vận hành. Giá trị nhiệt trị tạo ra bởi CTR chưa phân loại này thay đổi rất lớn, phụ thuộc nhiều vào thời tiết, mùa trong năm, và nguồn gốc phát sinh. Mặc dù còn nhiều điểm hạn chế, hệ thống này vẫn được ưu tiên sử dụng và phổ biến. Một trong những thành phần quan trọng nhất của hệ thống lò đốt này là hệ thống ghi lò. Nó gồm nhiều chức năng: vận chuyển CTR trong lò, trộn đều CTR, phân phối không khí vào lò. Có nhiều loại ghi lò khác nhau phụ thuộc vào kiểu chuyển động, kiểu rung và quay. Hệ thống lò đốt CTR đã phân loại (RDF) Hệ thống lò đốt đã phân loại tại nguồn là cải tiến của hệ thống lò đốt chưa phân loại tại nguồn. Trong lò đốt, RDF được đốt trên một ghi lò di động. Hệ thống lò đốt phải được thiết kế đặc biệt cho RDF, đôi khi lò hơi sử dụng than đá cũng có trang bị thêm bộ phận đốt RDF hay phối trộn than đá và RDF, hiệu quả cao. Đặc điểm củahệ thống lò đốt RDF có hiệu quả cao về năng lượng, độ ẩm và tro. RDF có thể ở dạng sợi nhỏ, viên tròn hay hình khối. Chi phí lò cao nhưng thuận lợi trong việc vận chuyển và lưu trữ. Các dạng RDF đều có thể đốt cháy riêng hay trộn với than đá. So với CTR chưa phân loại tại nguồn, RDF có nhiệt trị cao, hệ thống lò đốt RDF nhỏ gọn và hiệu quả hơn nhiều lần do bởi tính đồng nhất của RDF nên hệ thống được kiểm soát tốt hơn và thiết bị kiểm soát ô nhiễm không khí cũng hoạt động hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, hệ thống ngoại vi được thiết kế thích hợp nên có thể xử lý tốt kim loại, nhựa và những thành phần tạo khí nguy hại khác. b.Đốt hở thủ công Đây là kỹ thuật đốt chất thải đã có từ rất lâu. CTR được đổ hoặc vun thành đống trên mặt đất rồi đốt, không có thiết bị hỗ trợ. Với phương pháp này, quá trình đốt không triệt để, không có hệ thống kiểm soát khí thải nên gây ô nhiễm môi trường không khí và vì cháy hở nên dễ gây sự cố nguy hiểm.Phương pháp đốt hở thủ công tiện lợi để đốt các chất nổ như thuốc nổ TNT, Dynamite. Để đốt các loại chất thải có khả năng cháy nổ cao người ta đốt trong các lò hở, nhưng lò được xây hoặc đào sâu xuống đất, hoặc lò có thêm các thiết bị phụ trợ để quá trình đốt được an toàn. c. Đốt bằng các thiết bị chuyên dụng Với các tác hại nghiêm trọng về mặt môi trường khi đốt hở thủ công, các hệ thống đốt CTR đã ra đời với rất nhiều mẫu thiết kế khác nhau và ngày càng được cải tiến nhằm làm tăng tính hiệu quả cho quá trình đốt. Cấu tạo của các thiết bị đốt chuyên dụng đốt chất thải thường có những thành phần sau: Bộ phận nhận chất thải và bảo quản chất thải. Bộ phận nghiền và phối trộn chất thải. Bộ phận cấp chất thải Buồng đốt sơ cấp. Buồng đốt thứ cấp. Thiết bị làm nguội khí hay nồi hơi chạy bằng nhiệt dư để giảm nhiệt độ. Hệ thống rửa khí. Quạt hút để hút không khí vào lò khi duy trì áp suất âm. Ống khói Tuy nhiên, một trong những thành phần quan trọng nhất của hệ thống lò đốt là hệ thống ghi lò. Nó gồm nhiều chức năng: vận chuyển CTR trong lò, trộn đều CTR, bơm không khí vào lò. Có nhiều loại ghi lò khác nhau phụ thuộc vào kiểu chuyển động, kiểu rung và quay. Những lò đốt khác nhau thì chủ yếu khác nhau về buồng đốt sơ cấp. Dưới đây là một số hệ thống đốt CTR với các ưu nhược điểm riêng thích hợp cho từng loại chất thải cũng như thành phần chất thải và điều kiện kinh tế của đơn vị đầu tư. Lò đốt một cấp Là một trong những kỹ thuật đốt ra đời sớm, sử dụng trước những năm 1960, chưa đạt tiêu chuẩn qui định đối với khí thải sinh ra do đốt. Cấu tạo của lò tương đối đơn giản, chủ yếu gồm buồng đốt để đốt hỗn hợp CTR và vật liệu cháy. Buồng đốt được chia làm 2 ngăn nhờ ghi lò: ngăn trên chứa CTR cần thiêu huỷ, ngăn dưới để đốt vật liệu nhằm cung cấp nhiệt và duy trì nhiệt độ đốt. Trong buồng đốt, CTR được đốt trên ghi lò (không có béc đốt hoặc có bộ phận đốt hỗ trợ với béc đốt). Vật liệu lò thường là gạch đất nung nên tuổi thọ không cao. Nguồn nguyên liệu cung cấp nhiệt cho lò chủ yếu là củi gỗ, mùn cưa ... Mặc dù lò một cấp cũng là một thiết bị đốt chuyên dụng nhưng nếu xét toàn bộ quá trình thì cũng có thể xem đây là quy trình thủ công hở bởi nhiệt độ, bụi, khí thải không được kiểm soát mà đưa trực tiếp vào không khí. Các công việc như đưa CTR vào lò, cung cấp nguyên liệu cháy, điều khiển quá trình cháy, thu hồi tro thải đều do công nhân lò đốt thực hiện theo phương thức thủ công. Sơ đồ cấu tạo của lò một cấp Một số ưu điểm và nhược điểm của lò đốt một cấp là: Nhược điểm Không giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường do khí thải Năng suất thấp. Phụ thuộc nhiều vào thời tiết Cần nhiều công nhân cho một ca làm việc, điều kiện làm việc của công nhân rất nặng nhọc, độc hại, dễ bị các bệnh nghề nghiệp. Lò vận hành không liên tục, thời gian nghỉ giữa hai mẻ đốt lớn. Hiệu quả đốt của lò thấp. Ưu điểm: Thiết kế và xây dựng lò khá đơn giản, Chi phí xây dựng lò thấp. Sử dụng lò đốt thủ công để xử lý CTR không cần diện tích đất và thời gian nhiều như các phương pháp phân huỷ CTR nhờ chôn lấp. Lò đốt nhiều cấp Là loại lò đốt chất thải dạng bùn đặc từ các nhà máy xử lý nước thải, có thể đốt triệt để chất thải, khí thải ra môi trường đạt tiêu chuẩn quy định. Cấu tạo của lò đốt nhiều cấp được thể hiện như sau: Lò đốt nhiều cấp được thiết kế gồm những đơn nguyên liên tiếp vòng quanh, cái này ở trên cái kia. Thường có từ 5 - 9 đơn nguyên cho một kiểu lò điển hình. Với một trục thẳng đứng ở trung tâm của hệ thống, mỗi đơn nguyên có một cánh khuấy được gắn vào trục trung tâm, tạo ra các khoang rỗng hình vanh khuyênh ở bên trong lò đốt. CTR sau khi đưa vào lò sẽ được lưu trữ lại các khoang rỗng này. Răng của các cánh khuấy sẽ cào bùn vào trong các lỗ hình vành khuyên và hướng về phía tâm của buồng lò, nơi bùn sẽ rơi xuống các cạnh của lớp chịu nhiệt và đi xuống đơn nguyên tiếp theo. Hệ thống cấp khí được thiết kế ở phía dưới của hệ thống. Nhiệt độ tối thiểu của lò 7600F và thời gian lưu ít nhất là 0,5 s để có thể phân huỷ phần lớn các hợp chất hữu cơ. Lò đốt chất lỏng Lò đốt chất lỏng gồm một thùng sắt chịu nhiệt hình trụ, một lớp vật liệu nền như cát sillic, đá vôi và các vật liệu gốm…, một đĩa đỡ dạng lưới sắt và một miệng cấp khí. Lớp vật liệu nền sẽ được "lỏng hoá" nhờ khí nén ở áp suất cao. CTR đô thị, than,… được đưa vào lò đốt ở vị trí trên mặt hoặc dưới đáy lớp vật liệu nền đã được lỏng hoá ở nhiệt độ cao. Chất thải nguy hại lỏng được đốt trực tiếp trong lò đốt bằng cách phun vào vùng ngọn lửa hay vùng cháy của lò phụ thuộc vào nhiệt trị của CTR. Chất lỏng sôi trong lò có nhiệm vụ xáo trộn đều và truyền nhiệt cho CTR, có thể bổ sung thêm gas hoặc dầu nhằm tăng nhiệt độ của chất lỏng trong lò. Lò được duy trì ở nhiệt độ khoảng 10000C. Thời gian lưu của chất thải lỏng trong lò từ vài phần giây đến 2,5 giây. Sau khi nhiệt độ đã tăng đến nhiệt độ yêu cầu thì không cần bổ sung thêm gas / dầu vì lớp chất lỏng có khả năng duy trì nhiệt độ đến 24 giờ. Loại, hình dáng, kích cỡ của lò đốt chất lỏng phụ thuộc vào tính chất của CTR, thiết kế béc phun, tường lò và điều kiện cấp khí. Lò đốt chất lỏng được ứng dụng để xử lý nhiều loại chất thải khác nhau như: CTR đô thị, bùn, than và nhiều loại hoá chất khác, kể cả hoá chất nguy hại. Khi sử dụng lò đốt chất lỏng với vật liệu nền là đá vôi cho phép xử lý CTR có hàm lượng lưu huỳnh cao với sự phát sinh khí SO2 là ít nhất. Ưu điểm Đốt được chất thải lỏng nguy hại. Không yêu cầu lấy tro thường xuyên. Thay đổi nhiệt độ nhanh chóng theo tốc độ nhập liệu. Chi phí bảo trì thấp. Nhược điểm Chỉ áp dụng được đối với các chất lỏng có thể nguyên tử hoá. Cần cung cấp khí, nhiên liệu phụ như gas/dầu để quá trình cháy triệt để hơn, tránh ngọn lửa tác động lên gạch chịu lửa. Dễ bị nghẹt béc phun khi chất thải lỏng có cặn. Lò đốt thùng quay Đây là loại lò đốt chất thải có nhiều ưu điểm bởi quá trình xáo trộn CTR tốt, đạt hiệu quả cao và hiện nay, được sử dụng khá phổ biến ở các nước tiên tiến. Lò đốt thùng quay được sử dụng để xử lý các loại chất thải nguy hại dạng rắn, bùn, cặn và cả dạng lỏng. Ở Mỹ, lò đốt thùng quay chiếm tới 75% số lò đốt chất thải nguy hại, lò đốt tầng sôi chiếm 10%, còn lại 15% là các loại lò khác. Thùng quay hoạt động ở nhiệt độ khoảng 11000C, sử dụng chất thải nguy hại làm nguyên liệu. Đây là phương pháp tiêu hủy chất thải bằng cách đốt cùng với nhiên liệu thông thường khác để tận dụng nhiệt cho các thiết bị tiêu thụ nhiệt như: nồi hơi, lò nung, lò luyện kim, lò nấu thủy tinh, lò nung xi măng... Lượng chất thải bổ sung vào lò đốt có thể chiếm 12 - 25% tổng lượng nhiên liệu. Mô hình lò đốt thùng quay Lò đốt thùng quay là lò đốt hai cấp gồm: buồng sơ cấp và buồng thứ cấp Lò sơ cấp: Lò sơ cấp là một trống quay hình trụ chịu nhiệt, quay với tốc độ điều chỉnh được (0,5 - 1 vòng/phút), có nhiệm vụ đảo trộn CTR trong quá trình cháy. Lò đốt được đặt hơi dốc với độ nghiêng 1 - 5 %, nhằm tăng thời gian cháy của chất thải và vận chuyển tự động tro ra khỏi lò đốt. CTR được nạp vào từ phía trên của lò dưới dạng nén hay thuỷ lực tuỳ thuộc vào tính chất lý học của chất thải. Khi đốt CTR, lò sơ cấp quay giúp cho cho quá trình xử lý được triệt để. Thời gian lưu của CTR trong lò là 0,5 - 1,5 giờ, lượng chất thải nạp vào chiếm 20% thể tích lò. Phần đầu của lò đốt có lắp một bec phun dầu hoặc gas kèm quạt cung cấp cho quá trình đốt nhiên liệu nhằm đốt nóng hệ thống lò đốt. Tốc độ phun gas vào lò khoảng 3,1 m/s nhằm hạn chế tối đa sự thất thoát. Khi nhiệt độ lò đạt 8000C thì CTR mới được đưa vào để đốt. Trong buồng đốt sơ cấp, nhiệt độ lò quay được khống chế từ 800 - 9000C, nếu chất thải cháy tạo đủ năng lượng giữ được nhiệt độ này thì bộ đốt phun dầu/gas tự động ngắt. Khi nhiệt độ hạ thấp hơn 8000C thì bộ đốt tự động làm việc trở lại. Sản phẩm khí sinh ra trong quá trình đốt ở lò sơ cấp được đốt tiếp tục ở buồng thứ cấp. Buồng đốt thứ cấp (buồng đốt phụ) Đây là buồng đốt tĩnh, nhằm để đốt các sản phẩm bay hơi, chưa cháy hết bay lên từ buồng sơ cấp. Nhiệt độ ở đây thường từ 950 – 11000C. Thời gian lưu của khí cháy ở buồng thứ cấp từ 1,5 - 2 giây. Hàm lượng oxy dư tối thiểu cho quá trình cháy là 6%. Buồng thứ cấp có các tấm hướng dòng để khí thải vừa được thổi qua vùng lửa cháy của bộ phận đốt dầu phun vừa được xáo trộn mãnh liệt để cháy triệt để. Khí thải sau đó được làm nguội và qua hệ thống xử lý trước khi qua ống khỏi thải ra môi trường. Kích thước cơ bản: Đường kính:1,5-3,6m, chiều dài: 3-9m Sao cho: đường kính/chiều dài = 4/1 Ưu điểm Áp dụng cho cả chất thải rắn và lỏng Có thể đốt riêng chất lỏng và chất rắn hoặc đốt kết hợp. Không bị nghẹt gi lò (vỉ lò) do quá trình nấu chảy. Có thể nạp chất thải ở dạng thùng hoặc khối. Linh động trong cơ cấu nạp liệu. Cung cấp khả năng xáo trộn chất thải và không khí cao. Lấy tro liên tục mà không ảnh hưởng đến quá trình cháy. Kiểm soát được thời gian lưu của chất thải lỏng trong thiết bị. Có thể nạp chất thải trực tiếp mà không cần phải xử lý sơ bộ gia nhiệt chất thải. Có thể vận hành ở nhiệt độ trên 14000C. Nhược điểm Lôi cuốn các hạt, phân tử vào trong dòng khí gas, thành phần tro trong khí thải cao. Gia công lò khó. Chi phí đầu tư cao. Vận hành phức tạp. Yêu cầu lượng khí dư lớn do thất thoát qua các khớp nối. Tổn thất nhiệt đáng kể trong tro thải. Chất thải vô cơ có thể kết xỉ gây khó khăn cho công tác bảo trì, bảo dưỡng thùng quay. Lò đốt tầng sôi Quy trình hệ thống đốt tầng sôi Thuộc loại lò đốt tĩnh, có lót một lớp gạch chịu lửa bên trong để làm việc với nhiệt độ cao. Đặc điểm của lò là luôn chứa một lớp cát dày 40 – 50 cm với vai trò nhận nhiệt và giữ nhiệt cho lò đốt, bổ sung nhiệt cho CTR ướt. Lớp cát được gió thổi xáo động làm CTR bị tơi ra, xáo trộn theo nên cháy dễ dàng. Chất thải lỏng khi bơm vào lò sẽ bám dính lên bề mặt các hạt cát nóng đang xáo động, nhờ vậy sẽ bị đốt cháy còn thành phần nước sẽ bay hơi hoàn toàn. Gió thổi mạnh vào dưới lớp vỉ đỡ có lỗ nên gió sẽ phân bố đều dưới đáy lò làm lớp đệm cát cùng các phế liệu rắn, nhão đều được thổi tơi, tạo điều kiện cháy triệt để. Khoang phía dưới lò (trên lớp vỉ phân bố gió), là khu vực cháy sơ cấp có nhiệt độ buồng đốt từ 850 – 9200C, còn khoang phía trên phình to hơn là khu vực cháy thứ cấp có nhiệt độ cháy cao hơn (990 – 11000C) để đốt cháy hoàn toàn CTR. Trong lò đốt tầng sôi cần duy trì một lượng cát nhất định nhằm tạo một lớp đệm giữ nhiệt ổn định và hỗ trợ cho quá trình sôi của lớp chất thải đưa vào lò đốt. Khí thải sau đó được làm nguội và qua hệ thống xử lý trước khi qua ống khói thải ra môi trường. Không khí cấp vào lò với lượng dư 25 – 150% so với lý thuyết. Ưu điểm Có thể xử lý cả ba dạng chất thải rắn, lỏng và khí. Thiết kế đơn giản và hiệu quả nhiệt cao. Nhiệt độ khí thải thấp và lượng khí dư yêu cầu nhỏ. Hiệu quả đốt cao do bề mặt tiếp xúc lớn. Lượng nhập liệu không cần cố định. Nhược điểm Khó tách phần không cháy được. Lớp dịch chuyển phải được tu sửa và bảo trì. Lớp đệm có khả năng bị phá vỡ. Cần khống chế nhiệt độ đốt vì nếu cao hơn 8500C có khả năng phá vỡ lớp đệm. Chưa được sử dụng nhiều trong xử lý chất thải nguy hại. 3.2. CÔNG NGHỆ PLASMA: Công nghệ Plasma (PGM) là gì? Công nghệ Plasma PGM là công nghệ hoạt động theo mô hình khép kín. Chất thải được đưa vào buồng phản ứng trục đứng, sau đó qua ba giai đoạn xử lý: Ngọn lửa plasma phun vào chất thải (nhiệt độ plasma 70.000 0C có thể nung chảy chất vô cơ của rác thải ở đáy lò phản ứng). Giai đoạn khí hoá (chủ yếu sinh ra khí CO và H2, các dòng khí nóng sẽ bốc lên theo hướng ngược chiều với khối chất thải) và giai đoạn nhiệt phân, nơi chất hữu cơ bị phân hủy chuyển đổi và kết hợp cùng các khí hóa khác tạo thành khí tổng hợp (như khí nhiên liệu - fuel gas), gọi tắt là syngas. Dòng khí này được dẫn ra khỏi lò phản ứng và trở thành nguyên liệu trong các công đoạn tạo thành năng lượng. SƠ ĐỒ CÔNG NGHỆ HỆ THỐNG PLASMA PGM Ưu điểm của Plasma PGM Không cần xử lý hoặc phân loại rác trước như các phương pháp, công nghệ khác. Phạm vi xử lý rộng và sử dụng nhiệt độ rất cao giúp công nghệ này có thể xử lý tất cả các loại chất thải y tế và chất thải nguy hại (kể cả các loại bệnh phẩm và chất thải dạng lỏng…). Đây cũng là cơ sở có thể mang lại sự tiết kiệm dài hạn. Có khả năng sản sinh ra năng lượng sạch, hoặc các nguyên tố…mà có thể sử dụng hoặc tái sử dụng ở những nơi khác. Công nghệ này cũng có thể giúp chúng ta giảm đi sự phụ thuộc của con người vào nguồn nhiên liệu tự nhiên, giảm lượng khí thải gây ô nhiễm và thu nhỏ diện tích của bãi rác. Ngoài ra Plasma PGM - công nghệ thân thiện môi trường. Vì sản phẩm sau khi xử lý bằng phương pháp Plasma PGM có tính trơ (xỉ thải chứa từ 2- 4% thủy tinh hóa lành tính), thỏa mãn hầu hết các yêu cầu của tiêu chuẩn môi trường thế giới. Sau khi đốt một tấn rác thải, chúng ta sẽ thu được khoảng 1.200 m3 syngas trong khi lượng khí thải rất thấp, chỉ khoảng 120m3 CO2 so với 6000m3 khi đốt bằng lò thường. Các loại nhiên liệu khí tổng hợp này có thể tạo ra năng lượng dùng cho nhà máy hoặc các nhu cầu công nghiệp khác. Đặc biệt, công nghệ Plasma PGM không gây ảnh hưởng xấu đến nước ngầm, nước mặt hoặc đất đai. Bên cạnh đó, ở mức độ triển khai quy mô lớn, công nghệ Plasma PGM cho phép ba quá trình riêng biệt được thực hiện đồng thời trong một lò phản ứng. Chi phí đầu tư cho một lò đốt công nghệ Plasma PGM ngang bằng một lò đốt thông thường, nhưng công nghệ này đã bao gồm công đoạn thủy tinh hóa dư lượng chất rắn, tiết kiệm khâu xử lý tro. 3.3. CÔNG NGHỆ KHÍ HOÁ 3.3.1.Khí hoá là gì? Khí hóa có thể được định nghĩa phổ biến như là sự chuyển đổi nhiệt hóa của cacbon rắn hoặc lỏng trong sản phẩm khí dễ cháy bằng việc cung cấp một tác nhân khí hóa (sự kết hợp các khí khác). Quá trình khí hóa là quá trình đốt các loại vật liệu trong điều kiện thiếu oxy. Gồm có quá trình khí hóa trực tiếp và khí hóa gián tiếp. Quá trình khí hóa trực tiếp xảy ra khi chất xúc tác oxi hóa được sử dụng làm oxihóa từng phần các chất tham gia. Phản ứng oxi hóa cung cấp năng lượng để giữ cho nhiệt độ của quá trình tăng lên. Nếu quá trình không xảy ra với chất oxi hóa, nó được gọi là quá trình khí hóa gián tiếp và cần phải có nguồn năng lượng bên ngoài. Hơi nước được sử dụng phổ biến nhất như là tác nhân của quá trình khí hóa gián tiếp bởi vì nó dễ dàng được tạo ra và gia tăng hàm lượng hydro của khí gay cháy. Sự nhiệt phân là một quá trình khí hóa gián tiếp với khí gas trơ giống như chất xúc tác. Kết quả từ quá trình khí hóa và thay đổi với nhiệt độ tại tiến trình được thực thi, ba phần lớn đầu ra là: Khí dễ cháy Phần chất rắn (hắc ín và dầu) Cacbon nguyên chất và những vật liệu trơ ban đầu. 3.3.2. Hệ thống khí hóa Một hệ thống khí hóa tiêu biểu được tạo bởi ba yếu tố chính: Lò khí hóa dùng cho tạo ra khí đốt, hệ thống làm sạch khí gas được dùng để loại bỏ những những thành phần hỗn hợp từ khí gas bị đốt cháy, và hệ thống phục hồi năng lượng. Hệ thống kết hợp với hệ thống con phù hợp để điều khiển những tác động của môi trường (ô nhiễm không khí, những sản phẩm rác thải cứng, ô nhiễm nước…). a. Lò khí hoá: Một lò khí hoá gồm có 3 phần sau: Lò khí hóa là một lò phản ứng trong đó quá trình chuyển đổi của một quá trình khí hóa trực tiếp với oxi nguyên chất có những thuận lợi giống như quá trình khí hóa gián tiếp. Tuy nhiên, giá thành của oxi được ước lượng là lớn hơn 20% tổng toàn bộ giá thành về điện. Buồng cố định (Fixed bed) Buồng cố định của lò phản ứng đứng được dùng nhiều nhất trong quá trình khí hóa của máy khí hóa và được chia ra làm 2 phần: phần khí hóa trên và phần khí hóa dưới. Dòng khí hóa trên là phần khí hóa dòng ngược, ở đây phế thải được đưa vào từ đỉnh trong khi không khí được đưa vào từ đáy của lò phản ứng. Bên trong lò phản ứng, các phế thải rắn chuyển thành khí có thể cháy trong suốt quá trình di chuyển xuống dưới lò. Phế thải được xử lý từ bắt đầu từ lúc phế thải ở đỉnh lò gồm: Làm khô, nhiệt phân, nén và đốt. Ở vùng đốt, nhiệt độ cao nhất của lò phản ứng cao hơn 12000 C. Cũng như cấu hình của phần khí hóa trên, hắc ín lấy từ vùng nhiệt phân được mang ra theo chiều lên trên do dòng chảy của khí gas nóng: kết quả là những sản phẩm của gas chứa lượng lớn hắc ín. Tiêu biểu, hơi nóng của gas được chuyển đổi lại bằng sự trao đổi nhiệt trực tiếp với những phế thải đầu vào. Trong phần khí hóa dưới, xuôi dòng, vật liệu than được đưa vào từ đỉnh, không khí được được đưa vào từ phía trên sườn lò trong khi khí gas cháy được lấy ra ở phía dưới sườn lò, hơi nhiệt phân cho phép ảnh hưởng đến sự bẻ gãy về nhiệt cửa hắc ín. Tuy nhiên, sự thay đổi nhiệt độ bên trong không hiệu quả bằng phần trao đổi khí phía trên Buồng hóa lỏng (Fluidisedd bed): Sự hóa lỏng là một thuật ngữ ứng dụng cho tiến trình mà nhờ đó buồng cố định hoạt động tốt, điển hình là cát silic, được biến đổi thành trạng thái lỏng bằng cách tiếp xúc với luồng gas hướng lên (chất xúc tác quá trình khí hóa). Quá trình khí hóa ở vùng hóa lỏng ban đầu phát triển để giải quyết những vấn đề hoạt động của buồng hóa lỏng liên quan đến những phế thải với lượng lớn tro, nhưng chủ yếu làm tăng hiệu suất. Hiệu suất của buồng hóa lỏng bằng khoảng 5 lần ở phần buồng cố định, với giá trị khoảng 2000 kg/(m2h). Buồng hóa lỏng lò phản ứng là những loại khí hóa với các vùng phản ứng khác nhau. Chúng hoạt động ở buồng cách ly về nhiệt tại nhiệt độ thường vào khoảng 700-9000C, thấp hơn nhiệt độ tối đa tại buồng cố định. b. Hệ thống làm sạch khí (tiền xử lý gas): Quá trình tiền xử lý gas được sử dụng để trành ô nhiễm môi trường và các thành phần nguy hiểm, cho hệ thống phục hồi năng lượng hoặc để tăng giá trị nhiệt độ và dung lượng hydrogen. Sự thiết kế hệ thống tiền xử lý phụ thuộc nguyên tắc những công nghệ phục hồi năng lượng trong sử dụng. Quá trình bẻ gãy bằng nhiệt Những rác lấy ra từ nhựa đường có liên kết rất bền vững và rất cứng để bẻ gãy bằng phương pháp nhiệt. Nhiệt độ đòi hỏi vào khoảng 1000-13000C. Hai phương pháp cạnh tranh được sử dụng trong bình không đổi để đạt được nhiệt độ bẻ gãy: sử dụng nhiệt độ của vùng lò đốt và/hoặc gia tăng của quá trình thời gian. Vài ứng dụng hiện đại để chỉnh sửa phần lò phía dưới với chu trình bên trong của gas, đề ra ứng dụng mô hình khí hóa tự động, có thể đạt được hắc in ở mức thập hơn 50 mg/Nm3. Bẻ gãy xúc tác Tiến trình bẻ gãy xúc tác cho sự chuyển đổi nhựa đường cần phản ứng ở nhiệt độ 800 – 900 0C. Quá trình có thể được thực thực thi ở cả buồng hóa lỏng với việc thêm vào chất xúc tác hoặc một lò phàn ứng đặc biệt bên dưới bình khí hóa. Phương pháp đầu tiên sử dụng nhiệt độ của lò phản ứng nhưng tuổi thọ của chất xúc tác không được lâu. Với lò phản ứng thứ hai, chất xúc tác được bạo vệ bởi bộ phận thụ động nhưng đòi hỏi phải thêm vào oxy để oxi hóa khí và gia tăng nghiệt độ. c. Hệ thống phục hồi năng lượng (ERS). Chu kỳ hơi Chu kỳ hơi là sự lựa chọn đơn giản nhất cho việc phục hồi năng lượng. Nó không cần quá trìnhtiền xử lý gas, bởi vì khí thải được đốt trong bộ đốt và không thể phá hủy nồi hơi. Hiệu suất mạng điện tối đa của nhà máy chu kỳ khí hơi khoảng 23%, có thể so sánh với một lò đốt rác hoạt động tốt. Giới hạn của một lò đốt rác cổ điển và nồi hơi chu kỳ hơi khí hóa là nhiệt độ kim loại của ống quá nhiệt, giới hạn thông thường nhỏ hơn 450C để tránh sự ăn mòn quá nhiều bằng HCl có thể có mặt trong ống hơi. Những kết quả giới hạn này ở nhiệt độ dòng hơi thấp hơn so với nhiệt độ turbin và thật vậy toàn bộ hiệu suất điện của nhà máy thấp. Trong nhà máy chu kỳ khí hơi, giới hạn này có thể khắc phục được bằng phương pháp tiền xử lý ga hoặc tích hợp với nhà máy nhiệt điện. Việc tiền xử lý gas có thể loại bỏ được HCl trước khi nó đi vào bình đốt, thật vậy ngọn lựa của gas sạch trong các bếp lò hiện đại cho phép dòng nhiệt độ 5200C, với hiệu suất điện được cải thiện 6%. Sự tích hợp với những nhà máy năng lượng thông thường được gọi “co-firing”: nó cho phép gia tăng sự biểu diễn thuận lợi của chu kỳ dòng hiệu suất cao của nhà máy nhiệt điện. Thông thường, một hệ thống đốt chung được thể hiện trong hai cấu hình tiêu biểu như: đặt bộ đốt gas trong bếp gas riêng biệt chỉ cho giai đoạn bay hơi nước hay là bình đốt gas giống như bếp đốt chất đốt nguyên thủy Động cơ Động cơ đốt tia lửa, thường sử dụng với xăng hoặc dầu lửa, có thể vận hành bằng riêng gas. Động cơ diesel có thể được chuyển đổi thành hoạt động bằng gas sử dụng tỷ lệ áp suất thấp và quá trình cài đặt hệ thống đánh lửa. Bởi vì giá trị nhiệt thấp hơn, động cơ chuyển thành gas với hiệu suất thấp hơn lúc không chuyển; tuy nhiên một động cơ hiện đại có thể được chỉnh sửa để có thể đạt được trên 25% lưới điện đầu ra. Những động cơ có thuận lợi được mạnh mẽ và có dung sai lớn hơn gây ra ô nhiễm lớn hơn turbin gas. Trái lại nếu nếu khí gas bị ép vào trong bình chứa giống điều kiện như turbin gas sẽ dẫn đến kết quả. Khuyết điểm của động cơ là gia tăng châm hiệu suất sử dụng mẫu chu kỳ tổng hợp và tỷ lệ nghèo về kinh tế. Turbine khí Nhà máy điện dựa trên chu kỳ kết hợp tiên tiến, turbin khí có thể cho phép hiệu suất khoảng 60%. Hiệu suất điện đầu ra thấp hơn 40% bởi vì sự tiêu tốn gas ở quá trình tiền xử lý. Chu trình phục hồi hóa học là một sự lựa chọn mới và rất thu hút. Trong trường hợp này, năng lượng trong turbin xả khí ra được sử dụng để nuôi tiến trình tiền xử lý gas, như là một tiến trình xúc tác hoặc tiến trình chuyển đổi hơi. Một turbin khí điển hình phải phù hợp với LHV thấp: cho sự khởi động pha trên, sự đốt cho phép sự hoạt động nhiên liệu lưỡng đôi và buồng đốt lâu hơn cần thiết để cải thiện sử điều khiển của sự phát ra CO. 3.3.3. Các phản ứng hoá học xảy ra trong quá trình khí hoá: Trong một nồi hơi, vật liệu trải qua quá trình cacbon khác nhau: Pyrolysis of carbonaceous fuels Nhiệt phân các nhiên liệu cacbon Gasification of char Khí hoá của than The pyrolysis (or devolatilization) process occurs as the carbonaceous particle heats up.Nhiệt phân (hoặc devolatilization) quá trình xảy ra làm cho hạt carbonaceous nóng lên. Volatiles are released and char is produced, resulting in up to 70% weight loss for coal. Chất dễ bay hơi được giải phóng và than được sản xuất. The process is dependent on the properties of the carbonaceous material and determines the structure and composition of the char, which will then undergo gasification reactions. Quá trình này phụ thuộc vào tính chất của vật liệu cacbon, cấu trúc và thành phần của các tro than, sau đó sẽ trải qua các phản ứng khí hóa. The combustion process occurs as the volatile products and some of the char reacts with oxygen to form carbon dioxide and carbon monoxide , which provides heat for the subsequent gasification reactions.Đốt quá trình tạo ra sản phẩm dễ bay hơi và than phản ứng với oxy để tạo thành carbon dioxide và khí carbon monoxide , cung cấp nhiệt cho các phản ứng khí hoá sau này. Letting C represent a carbon-containing organic compound , the basic reaction here is Phản ứng cơ bản ở đây là The gasification process occurs as the char reacts with carbon dioxide and steam to produce carbon monoxide and hydrogen, via the reaction Quá trình khí hóa xảy : than phản ứng với điôxít cacbon và hơi nước để sản xuất khí carbon monoxide và hydro, thông qua phản ứng In addition, the reversible gas phase water gas shift reaction reaches equilibrium very fast at the temperatures in a gasifier.Ngoài ra, đảo ngược khí giai đoạn nước phản ứng thay đổi khí đạt đến trạng thái cân bằng rất nhanh ở nhiệt độ trong nồi hơi. This balances the concentrations of carbon monoxide, steam, carbon dioxide and hydrogen. Điều này cân bằng nồng độ của khí carbon monoxide, hơi nước, carbon dioxide và hydrogen. In essence, a limited amount of oxygen or air is introduced into the reactor to allow some of the organic material to be "burned" to produce carbon monoxide and energy , which drives a second reaction that converts further organic material to hydrogen and additional carbon dioxide. Về bản chất, oxy hoặc không khí được đưa vào lò phản ứng đốt chát chất hữu cơ để sản xuất khí carbon monoxide và năng lượng , trong phản ứng thứ hai có thể chuyển hóa chất hữu cơ thành hydro và carbon dioxide . 3.3.4. Một số ứng dụng của công nghệ khí hóa Công nghệ khí hóa được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như: khí hóa than, khí hoá trấu dùng trong lò đốt gạch, khí hóa lỏng… Tuy nhiên ta chỉ quan tâm đến côngnghệ khí hóa trong chất thải rắn. Đầu vào của quá trình khí hoá chất thải rắn:để có một tiến trình khí hóa đúng và hiệu quả, thì đòi hỏi đầy đủ vậy liệu carbon đồng nhất. Do đó có rất nhiều loại rác không thể được xử lý trong tiến trình khí hóa và tất nhiên một quá trình tiền xử lý được đòi hỏi. Thay vì có rất nhiều loại rác mà phù hợp trực tiếp cho tiến trình như là: rác giấy ở nhà máy, nhựa tổng hợp, rác thải công nghiệp chế biến gỗ, những rác thải ở vùng đồng quê… 3.4. CÔNG NGHỆ NHIỆT PHÂN Nhiệt phân là quá trình phân hủy hay biến đổi hóa học CTR ở nhiệt độ cao trong điều kiện thiếu oxy. Phản ứng quan trọng nhất trong quá trình nhiệt phân là bẻ gãy mạch liên kết C – C, không có xúc tác, chúng tạo thành những gốc tự do và có đặc tính chuỗi, nhiệt độ càng tăng thì sự cắt mạch càng sâu. Sản phẩm của quá trình nhiệt phân CTR thu được gồm các chất ở dạng khí, lỏng và rắn. Ở nhiệt độ cao, các sản phẩm dạng lỏng một mặt bị hoá hơi và mặt khác tiếp tục bị nhiệt phân cắt mạch tạo thành các sản phẩm đơn giản hơn. Chất rắn hay sản phẩm cốc hoá thu được là do sự phân hoá hydrocacbon đến cacbon tự do. Sản phẩm cuối cùng của quá trình nhiệt phân biến đổi CTR là các chất rắn, lỏng, và khí bao gồm H2, CO, khí axit, tro.... Tóm lại, quá trình nhiệt phân là quá trình thu nhiệt và tốc độ nhiệt phân phụ thuộc vào nhiệt độ, thành phần, cấu trúc chất thải và chế độ cấp khí. Với công nghệ đốt nhiệt phân, nhiệt trị của CTR không phải là yếu tố quan trọng mà nhiệt hoá học có vai trò quan trọng hơn. Khi nhiệt phân, chất thải sinh ra khí gas mà khí gas này sẽ cháy sinh ra nhiệt. Phản ứng nhiệt phân chất thải rắn được mô tả một cách tổng quát như sau: Chất thải ® Các chất bay hơi hay khí gas + cặn Trong đó: khí gas bao gồm CxHy, H2, COx, NOx, SOx và hơi nước. Cặn rắn: cacbon cố định và tro. Quá trình nhiệt phân thuần tuý (hoàn toàn không có oxy) đòi hỏi phải có sự cấp nhiệt cho hệ phản ứng. Nhiệt độ bắt đầu quá trình nhiệt phân của một số chất: than non từ 300 ¸ 4000C, gỗ từ 225 ¸ 3250C, lignin từ 300 ¸ 5000C. nhiệt độ bắt đầu cháy khí gas từ 400 ¸ 6000C.Khi V (lượng không khí cấp tức thời) < V0 (lượng không khí đủ) – vùng thiếu khí, thì nhiệt độ tăng khi lưu lượng không khí tăng. Khi V > V0 (vùng dư khí) thì nhiệt độ sẽ giảm khi lưu lượng không khí cấp vào lò tăng. 3.4.1. Các giai đoạn cơ bản của quá trình đốt chất thải trong lò nhiệt phân Nguyên lý vận hành quá trình nhiệt phân gồm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 là quá trình khí hóa, CTR được gia nhiệt để tách các thành phần dễ bay hơi như khí cháy, hơi nước... ra khỏi thành phần cháy không hóa hơi và tro. Giai đoạn 2 là quá trình đốt các thành phần bay hơi ở điều kiện phù hợp để tiêu hủy hết các cấu tử nguy hại. a. Tại buồng sơ cấp Đốt thiếu oxy (lượng khí cấp khoảng 70 ¸ 80% so với nhu cầu lý thuyết), các quá trình xảy ra gồm: Sấy khô (bốc hơi nước) chất thải: chất thải được đưa vào buồng đốt, thu nhiệt từ không khí nóng của buồng đốt, nhiệt độ của chất thải đạt trên 1000C, quá trình thoát hơi ẩm xảy ra mãnh liệt, khi nhiệt độ tiếp tục tăng sẽ xảy ra quá trình nhiệt phân chất thải và tạo ra khí gas. Quá trình phân huỷ nhiệt tạo khí gas và cặn cacbon: Chất thải bị phân huỷ nhiệt sinh ra khí gas, tức là từ các hợp chất hữu cơ phức tạp tạo thành các chất đơn giản như: CH4, CO, H2… Thực tế, với sự có mặt của oxy và khí gas trong buồng nhiệt phân ở nhiệt độ cao đã xảy ra quá trình cháy, nhiệt sinh ra lại tiếp tục cấp cho quá trình nhiệt phân, như vậy đã sinh ra quá trình “tự nhiệt phân và tự đốt sinh năng lượng” mà không đòi hỏi phải bổ sung năng lượng từ bên ngoài vào do vậy đã tiết kiệm được năng lượng. Thông qua quá trình kiểm soát chế độ cấp khí và diễn biến nhiệt độ buồng đốt sơ cấp sẽ đánh giá được giai đoạn: sấy, khí hoá và đốt cặn trong buồng nhiệt phân. Quá trình nhiệt phân của CTR thường bắt đầu từ 2500C ¸ 6500C. Thực tế, để nhiệt phân chất thải người ta thường tiến hành ở nhiệt độ từ 4250C ¸ 7600C. Khi quá trình nhiệt phân kết thúc, sẽ hình thành tro và cặn cacbon, do vậy người ta gọi giai đoạn này là cacbon hoá. b. Tại buồng thứ cấp Quá trình đốt được cấp dư khí oxy (lượng khí cấp khoảng 110 - 200% so với nhu cầu lý thuyết để đảm bảo cháy hoàn toàn, nhiệt độ khoảng trên 10000C), khí gas sinh ra từ buồng sơ cấp, được đưa lên buồng thứ cấp để đốt triệt để. Tốc độ cháy phụ thuộc vào nhiệt độ và nồng độ chất cháy trong hỗn hợp khí gas. Khi đã cháy hết 80 – 90% khí gas thì tốc độ phản ứng giảm dần. c.Quá trình tạo tro xỉ Giai đoạn cuối mẻ đốt, nhiệt độ buồng đốt nâng tới 9500C để đốt cháy cặn cacbon, phần rắn không cháy sẽ tạo thành tro xỉ. Các giai đoạn của quá trình cháy thực tế không phải tiến hành tuần tự, tách biệt mà tiến hành gối đầu và xen kẽ nhau. Lò nhiệt phân được xem như hai buồng phản ứng nối tiếp nhau với hai nhiệm vụ: buồng sơ cấp làm nhiệm vụ sản xuất khí gas, cung cấp cho buồng thứ cấp để đốt triệt để các chất hữu cơ. Chất lượng khí gas tạo thành phụ thuộc vào bản chất của chất thải được nhiệt phân cũng như điều kiện nhiệt phân ở buồng sơ cấp. Kiểm soát được mối quan hệ giữa buồng sơ cấp và buồng thứ cấp đồng nghĩa với việc kiểm soát được chế độ vận hành lò đốt đạt hiệu quả như mong muốn. 3.4.2. Kiểm soát các quá trình đốt a. Tại buồng sơ cấp Ở giai đoạn đầu của quá trình nhiệt phân, diễn ra quá trình sấy, phân hủy chất (tạo khí gas), và cháy một phần khí nhiệt phân, do đó tăng không khí nghĩa là tăng oxy cho quá trình cháy, nhiệt phản ứng toả ra dẫn đến làm tăng nhiệt độ. Khi nhiệt độ tăng, phải giảm lưu lượng cấp không khí. Khi nhiệt độ giảm, phải tăng lưu lượng cấp không khí. Như vậy, đây là quá trình đốt thiếu khí có kiểm soát. Nhiệt độ ở buồng sơ cấp được kiểm soát thông thường từ 300 – 6500C. Lượng khí cấp thường là tăng dần theo thời gian nhiệt phân, để tăng nhiệt độ giai đoạn đốt cuối lên tới 10000C (giai đoạn đốt cặn cacbon). b. Tại buồng thứ cấp Vì buồng đốt thứ cấp có nhiệm vụ đốt cháy hoàn toàn khí gas từ buồng sơ cấp, nhiệt độ cần duy trì trên 11000C khi đốt chất thải nguy hại. Người ta phải dùng detector đầu dò nhiệt tự động được kiểm soát cùng với quạt cấp khí để kiểm soát quá trình đốt. Như vây, khi xử lý chất thải bằng lò nhiệt phân thì các loại chất thải hữu cơ dạng rắn, lỏng, khí đều có thể áp dụng được. Tuy nhiên, CTR phải được nạp từ buồng sơ cấp. Chất lỏng và khí được đốt thẳng ở buồng thứ cấp, lúc này buồng đốt có cải tiến, lắp thêm bộ đốt chất lỏng. Riêng những chất thải có phản ứng thu nhiệt sẽ không được đốt trong lò nhiệt phân. Quá trình xáo trộn chất thải phải hạn chế tối đa. Vì vậy, một số chất dạng bột, bột giấy cũng hạn chế đốt bằng lò nhiệt phân. 3.4.3. Một số ưu điểm và nhược điểm của hệ thống nhiệt phân Ngày nay trên thế giới đã áp dụng rộng rãi quá trình nhiệt phân để xử lý chất thải, nhất là các CTNH nhờ những ưu điểm nổi bật sau: Ưu điểm Quá trình nhiệt phân xảy ra ở nhiệt độ thấp (so với các công nghệ đốt khác). Do vậy, làm tăng tuổi thọ của vật liệu chịu lửa, giảm chi phí bảo trì. Kiểm soát được chế độ nhiệt phân sẽ tiết kiệm được nhiên liệu Quá trình nhiệt phân không đòi hỏi sự xáo trộn nên sẽ giảm được lượng bụi phát sinh. Thông thường, bụi trong khí thải < 200 mg/m3 , trong nhiều trường hợp không cần trang bị thiết bị xử lý bụi. Quá trình nhiệt phân có thể kiểm soát được nhờ bản chất thu nhiệt của nó Chất thải rắn hoặc lỏng bị đồng thể hoá chuyển vào dòng khí có nhiệt lượng cao nhờ quá trình nhiệt phân có kiểm soát. Các cấu tử có thể thu hồi được tập trung trong bã rắn hoặc nhựa để thu hồi Thể tích chất thải giảm đáng kể. Các chất bay hơi có giá trị kinh tế có thể được ngưng tụ để thu hồi. Phần hơi không ngưng tụ, cháy được coi như nguồn cung cấp năng lượng. Vận hành và bảo trì phù hợp với điều kiện Việt Nam. Các chất hữu cơ và các chất độc hại như đioxin, furans, PCBs cháy hoàn toàn. Nhược điểm Một số thành phần trong chất thải lúc nạp liệu để đốt có thể bị giữ lại bởi bã thải ( nhựa đường, than cốc…), tro cũng cần được chôn lấp an toàn. Chất thải có phản ứng thu nhiệt không nên đốt trong lò nhiệt phân. Thời gian đốt lâu hơn so với công nghệ đốt lò quay. 4. CÁC HỆ THỐNG KIỂM SOÁT Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG CHO CÁC QUÁ TRÌNH NHIỆT. Kỹ thuật xử lý CTR áp dụng các quá trình nhiệt phát sinh các một số tác động đến môi trường xung quanh bao gồm: khí, bụi, chất thải rắn, và chất thải lỏng nếu thiết kế lò sai hoặc kiểm soát, vận hành lò đốt không đảm bảo. Do đó, Khi áp dụng phương pháp nhiệt để xử lý CTR, các lò đốt thiết bị phải được trang bị hệ thống kiểm soát sự phát thải. 4.1. Kiểm soát ô nhiễm không khí Các chất ô nhiễm không khí được tạo ra có liên quan trực tiếp đến thành phần chất thải được đốt. Các chất ô nhiễm cần kiểm soát là: NOx, SO2, CO, O3, chì và bụi (PM10). a. Khí NOx NOx: có 2 dạng là NO và NO2; NOx hình thành từ 2 nguồn đó là: nguồn thứ nhất hình thành do phản ứng giữa nitơ và oxy không khí dưới tác dụng của nhiệt; nguồn thứ hai hình thành do phản ứng oxy và nitơ hữu cơ có trong thành phần các loại nhiên liệu sử dụng. NOx là tác nhân dẫn đến việc hình thành chất PAN (Peroxyl Acetal Nitrate) gây nên hiện tượng sương mù. Phản ứng oxi hóa quang hóa: NOxà O3 + PAN NOx còn chuyển thành dạng sol khí ( giọt lỏng) có thể tạo mưa axit. Kỹ thuật khống chế NOx: Đốt thiếu khí có tuần hoàn ở buồng sơ cấp có thể làm giảm được 35% lượng NOx, Xử lý NOx trong khí thải bằng xúc tác hoặc amoniac có thể làm giảm được tới 60% lượng NOx. Nếu sử dụng hỗn hợp than hoạt tính trộn natrihydrocacbonate tỷ lệ 35:65 trọng lượng, có thể giảm 65% NOx, bên cạnh đó có thể xử lý thêm khí thải (khử dioxin / furan, THC, hơi axít). b. Khí SOx và khí axít (HCl, HF) SOx và khí axít (HCl, HF):hình thành do quá trình đốt nhiên liệu có chứa lưu huỳnh, clorua, flourua. Flor chỉ có trong một số ít CTR còn clor thường gặp hơn, ví dụ có trong nhựa PVC… Lưu huỳnh trong các hợp chất được đốt có thể chuyển thành SO2từ 14 ¸ 19%, mức độ chuyển hoá SO2 thành SO3 phụ thuộc vào nhiệt độ và lượng oxy dư trong buồng đốt. Quá trình chuyển clorua, florua thành HCl, HF vào khoảng 46 ¸ 48%. SO2 kích thích hệ hô hấp, làm cay mắt, chảy mũi, gây nên các bệnh như viêm mũi, mắt, viêm họng. Ở nồng độ cao, SO2 là tác nhân gây bệnh tật hoặc gây tử vong đối với những người đã mắc các chứng bệnh liên quan đến phổi như viêm phế quản hay cuốn phổi. SO2 gây mưa acid và sương mù, hủy diệt ao hồ, sông rạch và rừng. Các biện pháp kiểm soát ô nhiễm chủ yếu là sử dụng thiết bị xử lý khí thải bằng các chất hấp phụ, hấp thụ. c. Khí CO và THC CO và THC được hình thành do quá trình đốt CTR có chứa carbon trong điều kiện thiếu, các hợp chất hữu cơ cháy không hoàn toàn. CO phản ứng với hemoglobin trong máu tạo thành carboxylhemoglobyl (HbCO), gây ức chế phản ứng giữa hemoglobin và oxy. Cơ thể con người chỉ thích ứng với oxyhemoglobin (HbO2). Sự thiếu hụt oxy sẽ gây nên hiện tượng nhức đầu, chóng mặt. Hiệu quả của quá trình cháy có thể đánh giá thông qua nồng độ của CO và THC. Thực tế, việc đo nồng độ THC rất phức tạp. Vì thế thường đánh giá hiệu quả cháy thông qua chỉ tiêu CO2, CO. Nếu hiệu quả đạt trên 99,9% hoặc nồng độ CO trong khói thải nhỏ hơn 10ppm thì nồng độ THC trong khí thải không đáng kể. d. Bụi Bụi hình thành do quá trình đốt không hoàn toàn các thành phần vô cơ và hữu cơ có trong chất thải được đốt. Kích thước hạt bụi từ 0,3¸1 chiếm chỉ lệ từ 80¸90% theo khối lượng. Theo lý thuyết, khi quá trình đốt được thực hiện ở nhiệt độ cao, điều kiện oxy hoá tốt thì các chất hữu cơ bị oxy hoá triệt để nhưng thực tế thì không đạt được kết quả như mong muốn nên bụi tạo thành sẽ có một phần là thành phần hữu cơ bị cuốn theo khí thải. Thành phần, tính chất cũng như tải lượng của bụi có liên quan đến thành phần chất thải được đốt, loại lò đốt và quá trình vận hành. Bụi làm giảm thị giác và ảnh hưởng đến sức khỏe. Bụi có kích thước nhỏ hơn 10 mm gọi là bụi hô hấp bởi vì nó có thể đi sâu vào trong phổi. Hiện nay biện pháp kiểm soát bụi trong quá trình đốt là thông qua kiểm soát chế độ đốt đang tỏ ra ngày càng có ưu thế. Ngoài ra có thể xử lý bụi thông qua các thiết bị xử lý như: thiết bị lọc bụi tĩnh điện, thiết bị ventury, thiết bị lọc tay áo, xyclon... e. Các kim loại nặng CTR là hỗn hợp dị thể có thể chứa bảng mạch điện tử, pin chứa các nguyên tố kim loại …khi cháy kim loại ( Cd, Cr, Hg, Pb …) sẽ tạo thành bụi hoặc hơi ( ví dụ Hg hóa hơi ở nhiệt độ thấp 357oC hay 675 oF ). Các kim loại chính trong thành phần khí thải gồm: Sb, As, Hg, Cd, Be, Cr, Cu, Pb, Mn, Mo, Ni, Se, Sn, V, Zn, tồn tại ở các dạng hợp chất như oxít, muối, kích thước các hạt bụi thường nhỏ hơn 2 f. Các hợp chất halogen hữu cơ Là hợp chất nguy hiểm bao gồm PAH (hydrocacbon đa vòng), Polychlorinated dibenzo (PCB), Polychlorinated dibenzodioxin (PCDD), polychlorinated dibenzofuran (PCDF).... PCDD có 75 đồng phân còn PCDF có 135 đồng phân phụ thuộc vào số nguyên tử C liên kết với H hay Cl. Tác hại: có khả năng gây đột biến gen cho thú và con người. Nguyên nhân hình thành trong lò đốt CTR: Dioxin và Furan có sẵn trong CTR đô thị: Thuốc BVTV, giấy, gổ … Hợp chất vòng thơm chứa clo: clorophenol có trong CTR chuyển thành dioxin và furan. Tương tác giữa hidrocacbon vòng thơm và clor: phản ứng giữa lignin (có trong gỗ, giấy, rác vườn… ) và clo phân hủy từ PVC hoặc muối ( NaCl..). Khối lượng các chất ô nhiễm trong khí thải có liên quan trực tiếp đến thành phần, tính chất của chất thải được đốt cũng như công nghệ đốt. Đối với các hợp chất dioxins và furans thì tốc độ sinh ra nhanh khi nhiệt độ buồng đốt trong khoảng 300 – 4000C. Các biện pháp kiểm soát các hợp chất halogen hữu cơ nói chung là kiểm soát chế độ đốt thích hợp trong đó cần quan tâm đến nhiệt độ buồng đốt, nhiệt độ buồng đốt cần duy trì trên 11000C với thời gian lưu từ 1 – 2giây. 4.2. Thiết bị kiểm soát ô nhiễm không khí: Khí và bụi phát sinh trong quá trình đốt CTR có thể được xử lý bằng các thiết bị kiểm soát và phân loại thành các dạng sau: Kiểm soát bụi: phân loại tại nguồn, kiểm soát quá trình đốt, xủ lý bụi bằng lọc tĩnh điện hoặc lọc vải. Thiết bị xử lí bụi: hiện nay biện pháp kiểm soát bụi trong quá trình đốt là thông qua kiểm soát chế độ đốt đang tỏ ra ngày càng có ưu thế. Ngoài ra có thể xử lý bụi thông qua các thiết bị xử lý như: thiết bị lọc bụi tĩnh điện, thiết bị ventury, thiết bị lọc tay áo, xyclon… Bụi PM10 được xử lý hiệu quả bằng 3 công nghệ: (1) Lọc tĩnh điện (EPS), (2) lọc vải, lọc lớp sỏi, (3)Tổ hợp EPS và lọc vải EPS có hiệu quả xử lý bụi rất cao: đối với PM2 (93%), đối với PM10 (99,8%). Hiệu thế 20.000 – 100.000 V, các yếu tố ảnh hưởng: nhiệt độ và độ ẩm. Lọc vải: hiệu quả cao đối với bụi PM0,1. Các thông số thiết kế gồm: diện tích vải lọc, vật liệu lọc (sợi thủy tinh hoặc teflon). Vận tốc lọc: 0,01 grain/dsct. Kiểm soát NOx: phân loại tại nguồn, kiểm soát quá trình đốt, xử lý khí. Xử lí NOx: phân loại tại nguồn, kiểm soát quá trình cháy, xử lý khí cháy Phân loại tại nguồn: tách CHC chứa Nitơ: ví dụ thực phẩm thừa và rác vườn nhằm làm giảm NOx sinh ra Kiểm soát quá trình cháy: a) tuần hoàn khí cháy, b) Phân đoạn quá trình cháy và vận hành quá trình cháy trong điều kiện thiếu oxy, c) xử lý khí thải Kiểm soát SO2 và hơi axit: phân loại nguồn, xử lý bằng tháp rửa khí hoặc lọc khô. Kiểm soát CO và THC: kiểm soát quá trình đốt. Kiểm soát các chất ô nhiễm khác: Phân loại tại nguồn, kiểm soát quá trình đốt, kiểm soát bụi. 4.3. Hệ thống kiểm soát dioxin/furan Dioxin là một chất trong họ Polichorinated dibenzodioxin (PCDD) có hai vòng benzen liên kết với hai nguyên tử oxi. Furan là một chất trong họ Policlorinated dibenzofuran (PCDF) có hai vòng benzen liên kết với một nguyên tử oxi. Liều lượng gây chết 50%: LD50 là 1 /kg trọng lượng cơ thể. Dioxin/Furan có tác hại gây đột biến gen đối với động vật và con người. Dioxin/Furan phát sinh từ quá trình đốt CTR bao gồm: CTR đô thị: thuốc bảo vệ thực vật, giấy, gỗ. Hợp chất vòng thơm chứa clo: clorophenol Tương tác giữa hydocacbon và clor. Dioxin / Furan tổng hợp trong lò đốt chất thải bởi phản ứng giữa lignin (thành phần trong gỗ và giấy) và clor phân huỷ từ PVC hoặc hoạt chất vô cơ NaCl. Kiểm soát sự phát sinh dioxin / furan từ quátrình đốt CTR: Phân loại tại nguồn: tách pin phế thải nhằm làm giảm Cd, Hg. Kiểm soát quá trình cháy: a) nhiệt độ buồng đốt khoảng 18000F, thời gian cháy >1s. Nồng độ CO càng thấp thì lượng dioxin sinh ra càng nhỏ, do đó kiểm soát lượng dioxin sinh ra thông qua kiểm soát nồng độ CO có tính khả thi cao. Kiểm soát bụi: kim loại nặng và đioxin phần lớn nằm trong bụi thu hồi từ thiết bị lọc vải và thiết bị xử lý SO2 khô và ướt ở t0=2840F. 4.4. Hệ thống kiểm soát CTR còn lại Quản lý CTR còn lại là một phần tất yếu trong đốt CTR. Các chất cần kiểm soát bao gồm: Tro đáy lò: kim loại, thủy tinh Tro bay: thu hồi 99% trong thiết bị ESP hoặc lọc vải Cặn từ thiết bị rửa khí khơ Do tính chất dễ phân tán nên tro cần được thu gom trong băng tải kín và vận chuyển trong các thùng kín đến nơi thải bỏ, tro bay thường được tạo ẩm và trộn với tro đáy lò trước khi chơn lấp. Chỉ số tro đáy lò: ABI = [ 1- (a-b)/a]. 10 Trong đó: a – kl mẫu tro ban đầu b – kl mẫu sau khi đốt trong lò nung kín Đ/v CTR đô thị: ABI = 95-99% Được sử dụng làm vật liệu lót đường: hỗn hợp tro bay + tro đáy lò + sữa vôi+ xi măng poolan - gạch xây dựng, sản xuất đá nhân tạo xây dựng ngoài khơi. PHẦN KẾT LUẬN Công nghệ nhiệt để xử lý rác thải thu hồi nguyên liệu và năng lượng hữu dụng từ rác thải, xóa bỏ nhận thức phủ định về lò đốt và loại bỏ các hạn chế của việc chôn lấp, có ưu điểm là chất thải ra ít hơn so với lò đốt rác thải, nhưng vẫn tồn tại mặt phủ định. Nghĩa là, luận chứng mang tính kỹ thuật ít hơn nhưng vẫn có mặt phủ định là khuynh hướng sửa đổi của các doanh nghiệp, luận chứng thương nghiệp hóa của lò đốt, nhiều khách hàng thiếu hiểu biết về công nghệ mới và bất cứ quốc gia nào cũng có những nơi giảm lượng rác thải, vì vậy công nghệ xử lý CTR bằng phương pháp nhiệt sẽ tiếp tục phát triển Bài viết của em xin được kết thúc ở đây .Tuy đã được đầu tư nhiều về thời gian và công sức nhưng chắc chắn không tránh khỏi những khuyết điểm cả về nội dung lẫn hình thức .Vậy em mong có được những ý kiến nhận xét và đóng góp của thầy để bài viết của em hoàn chỉnh hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Lâm Minh Triết – Giáo trình Quản lý chất thải nguy hại, NXB Xây Dựng, Đại học quốc gia TPHCM,2006. Võ Đình Long – Tập bài giảng Quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại, 2008 Nguyễn Tất Tiến, Giáo trình quản lý chất thải nguy hại, NXB Giáo dục, 2003. www.tailieu.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCông nghệ nhiệt trong xử lý chất thải rắn.doc
Tài liệu liên quan