A. CÀ CHUA
Giớ i thi ệu chung
Cà chua (Lycopersicon esculent um) là m ộ t lo ại rau ph ổ biến và đượ c tiêu
dùng r ộng rãi vớ i s ố l ượng l ớn. Ở các n ước Lào, Vi ệt Nam và Ca mbodia c ũng như
ở nhi ều nước khác, cà chua thường đượ c tiêu thụ t ại ch ỗ như mộ t m ón ăn tươi ho ặc
n ấu chín, và chế biến thành mộ t vài d ạng s ản ph ẩm khác nh ư n ước số t, n ước cà
chua u ố ng, dạng b ộ t, d ạng nhuyễn. N goài giá trị kinh t ế, cà chua và các s ản ph ẩm
củ a cà chua còn là nguồn di nh d ưỡng cho c ơ thể người, v ớ i nguồn axít folic,
vitamin C, kali, và quan trọ ng h ơ n là hợp ch ất carotenoi d (ti ền vitamin A có hoạt
tính kháng oxy hóa), trong đó có m ặt nhi ều nh ất là lycopene, sau đ ó là β-carotene,
γ -carotene và phytoene. Các chất dinh d ưỡng khác trong cà chua c ó vitam in E, các
nguyên t ố vi l ượng, hợ p ch ất flavonoid, phytosterol, và m ộ t vài loại vitamin tan
trong n ước (Beecher, 1998).
Mặc dù đ ã có nhi ều sự phát triển về loại gi ống có chất l ượng t ố t và th ờ i hạn
b ảo qu ản dài, cũ ng như s ự c ải tiến về h ệ thống s ản xu ất, đối vớ i cà chua v ẫn ch ư a
có s ự ti ến tri ển đ áng kể đặ c bi ệt là ở các n ước đ ang phát triển nh ư Lào, Vi ệt Nam và
Cambodia, t ổ n sau thu ho ạch l ớn do thu ho ạch không đúng th ờ i đ iểm nên t ỷ l ệ thố i
h ỏng và t ổn th ương c ơ h ọ c cao. Và h ậu qu ả là giá bá n tại ru ộng t hấp, nhưng giá bá n
lẻ v ẫn cao, sự thua thi ệt thu ộ c về người nông dân và ng ười tiêu dùng, thu nh ập của
nông dân th ấp. M ộ t s ố y ếu tố gây tổn th ất sau thu ho ạch và mộ t s ố y ếu tố c ó tính kỹ
thu ật ba o gồ m thu ho ạch, x ử l ý v à b ảo qu ản không đ úng cách, bao gói và hệ thống
v ận ch uyển kém, thiếu các kho b ảo qu ản, và thiếu kỹ thu ật ch ế biến.
Trong lần tập hu ấn gần đ ây nhất, các nguyê n nhâ n gây t ổ n th ất, sự liên quan
đế n kỹ thuật, và vi ệc phát tri ển nghiên cứu công ngh ệ sau thu ho ạch cho cà chua
tươi và cà chua c hế biến, phù hợp vớ i t ừng n ước đượ c th ảo lu ận. Trong hộ i th ảo đ ào
tạo này, cá c công ngh ệ đơn gi ản và chi phí th ấp, và các kỹ n ăng thự c hà nh đối vớ i
từ ng giai đo ạn khác nhau c ủ a công ngh ệ sau thu ho ạch, t ừ thu ho ạch đế n ch ế biến,
cũ ng đượ c gi ớ i thi ệu. Các công ngh ệ này là k ết qu ả tr ực tiếp ho ặc gián tiếp của vi ệc
nghiên cứ u. Chủ đề này đề c ập đế n cà chua t ươi trên th ị tr ường, không nhằm vào
các quy trình chế biến.
69 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 1995 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công nghệ sau thu hoạch và kế hoạch tập huấn dự án RETA 6208, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
AVRDC-ADB RETA 6208
Cải thiện sinh kế nông thôn thông qua phát triển công nghệ sau thu hoạch ở các
nước Lào, Việt Nam và Cambodia
TÀI LIỆU TẬP HUẤN
Công nghệ
`
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn vsau thu
hoạch và kế
hoạch tập
huấn dự án
RETA 6208
ề Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 1 of 69
Danh sách
Các tác giả tham gia biên soạn
1. TS. Antonio L. Acedo Jr. Chuyên gia tư vấn về công nghệ sau hoạch,
Dự án ADB-AVRDC RETA 6208 (Tham gia biên soạn phần A, B, C,
D và F).
E-mail: junacedo@yahoo.com ;
Website: www.avrdc.org/postharvest
2. TS. Chu Doãn Thành. Điều phối viên Quốc gia, Dự án ADB-AVRDC
RETA 6208; Trưởng Bộ môn Bảo quản chế biến , Viện Nghiên cứu rau
quả, Trâu Quì, Gia Lâm, Hà Nội (Tham gia biên soạn phần A và B).
E-mail: chudoanthanh@yahoo.com ;
Website: www.freewebtown.com/bqcb
3. ThS. Borarin Buntong. Chuyên gia về công nghệ sau thu hoạch, Khoa
Công nghiệp nông thôn, Đại học tổng hợp Hoàng gia, Phnom Penh,
Cambodia. (Tham gia biên soạn phấn C).
E-mail: borarin@yahoo.com
4. Mr. Vilayphone Keosilapheth. Chuyên gia về chế biến thực phẩm.
Khoa công nghệ sau thu hoạch và chế biến, Đại học tổng hợp Quốc gia
Lào, Vientiane, Lào. (Tham gia biên soạn phần D).
E-mail: VLP.keosilapheth@yahoo.com
5. TS. Sing Ching Tongdee. Chủ tịch hiệp hội các nhà buôn bán và xuất
khẩu trái cây Thái Lan, Kangkok, Thái Lan. (Biên soạn phần E).
E-mail: sctongdee@yahoo.com
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 2 of 69
Danh sách
các cán bộ tham gia biên dịch tài liệu sang tiếng Việt
1. TS. Chu Doãn Thành. Điều phối viên Quốc gia, Dự án ADB-AVRDC
RETA 6208; Trưởng Bộ môn Bảo quản chế biến , Viện Nghiên cứu rau
quả, Trâu Quì, Gia Lâm, Hà Nội.
2. KS. Lương Thị Song Vân. Cán bộ Bộ môn bảo quản chế biến, Viện
nghiên cứu rau quả, Trâu Quì, Gia Lâm, Hà Nội.
3. KS. Nguyễn Thị Hạnh. Cán bộ Bộ môn Bảo quản chế biến, Viện
nghiên cứu rau quả, Trâu Quì, Gia Lâm, Hà Nội.
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 3 of 69
Mục lục
A. Cà chua 6
Giới thiệu chung 6
Thu hoạch và xử lý tại ruộng 6
Các công đoạn trong nhà đóng gói 10
Bảo quản 20
Vận chuyển 25
Tiêu thụ 28
Tài liệu tham khảo 29
B. Ớt cay 32
Giới thiệu chung 32
Thu hoạch và xử lý tại ruộng 32
Các công đoạn trong nhà đóng gói 33
Bảo quản 35
Vận chuyển và tiêu thụ 36
Tài liệu tham khảo 37
C. Kỹ thuật sấy ớt và cà chua 38
Giới thiệu 38
Xử lý nguyên liệu 38
Các chế độ và thiết bị sấy 40
Tài liệu tham khảo 52
Bài tập thực hành 54
D. Kỹ thuật chế biến Paste và Puree cà chua 55
Chế biến paste cà chua 55
Chế biến puree cà chua 58
Bài tập thực hành 59
E. Quản lý chất lượng rau quả 60
Mở đầu 60
Giới thiệu chung 60
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 4 of 69
Các đặc thù riêng của rau quả 60
Công cụ quyết định sự tồn tại và tính cạnh tranh của rau quả 62
Thông tin quản lý hệ thống cung cấp rau quả 63
Kết luận 64
Phụ chương 64
F. Huấn luyện tổ chức tập huấn 67
Giới thiệu chung 67
Lập kế hoạch tập huấn 67
Lập kế hoạch tập huấn tiếp theo (TMP) 69
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 5 of 69
CÔNG NGHỆ SAU THU HOẠCH CÀ CHUA ỚT TƯƠI
A. CÀ CHUA
Giới thiệu chung
Cà chua (Lycopersicon esculentum) là một loại rau phổ biến và được tiêu
dùng rộng rãi với số lượng lớn. Ở các nước Lào, Việt Nam và Cambodia cũng như
ở nhiều nước khác, cà chua thường được tiêu thụ tại chỗ như một món ăn tươi hoặc
nấu chín, và chế biến thành một vài dạng sản phẩm khác như nước sốt, nước cà
chua uống, dạng bột, dạng nhuyễn. Ngoài giá trị kinh tế, cà chua và các sản phẩm
của cà chua còn là nguồn dinh dưỡng cho cơ thể người, với nguồn axít folic,
vitamin C, kali, và quan trọng hơn là hợp chất carotenoid (tiền vitamin A có hoạt
tính kháng oxy hóa), trong đó có mặt nhiều nhất là lycopene, sau đó là β-carotene,
γ-carotene và phytoene. Các chất dinh dưỡng khác trong cà chua có vitamin E, các
nguyên tố vi lượng, hợp chất flavonoid, phytosterol, và một vài loại vitamin tan
trong nước (Beecher, 1998).
Mặc dù đã có nhiều sự phát triển về loại giống có chất lượng tốt và thời hạn
bảo quản dài, cũng như sự cải tiến về hệ thống sản xuất, đối với cà chua vẫn chưa
có sự tiến triển đáng kể đặc biệt là ở các nước đang phát triển như Lào, Việt Nam và
Cambodia, tổn sau thu hoạch lớn do thu hoạch không đúng thời điểm nên tỷ lệ thối
hỏng và tổn thương cơ học cao. Và hậu quả là giá bán tại ruộng thấp, nhưng giá bán
lẻ vẫn cao, sự thua thiệt thuộc về người nông dân và người tiêu dùng, thu nhập của
nông dân thấp. Một số yếu tố gây tổn thất sau thu hoạch và một số yếu tố có tính kỹ
thuật bao gồm thu hoạch, xử lý và bảo quản không đúng cách, bao gói và hệ thống
vận chuyển kém, thiếu các kho bảo quản, và thiếu kỹ thuật chế biến.
Trong lần tập huấn gần đây nhất, các nguyên nhân gây tổn thất, sự liên quan
đến kỹ thuật, và việc phát triển nghiên cứu công nghệ sau thu hoạch cho cà chua
tươi và cà chua chế biến, phù hợp với từng nước được thảo luận. Trong hội thảo đào
tạo này, các công nghệ đơn giản và chi phí thấp, và các kỹ năng thực hành đối với
từng giai đoạn khác nhau của công nghệ sau thu hoạch, từ thu hoạch đến chế biến,
cũng được giới thiệu. Các công nghệ này là kết quả trực tiếp hoặc gián tiếp của việc
nghiên cứu. Chủ đề này đề cập đến cà chua tươi trên thị trường, không nhằm vào
các quy trình chế biến.
Thu hoạch và xử lý tại ruộng
Bốn yếu tố chính được quan tâm trong và ngay sau khi thu hoạch cà chua là
độ chín thu hoạch, thời gian thu hoạch, phương pháp thu hoạch và xử lý quả đã thu
hoạch tại ruộng. Bất kỳ sự thiếu sót nào đối với những yếu tố này đều dẫn đến giảm
chất lượng quả, thậm chí là tổn thất hoàn toàn.
Độ chín thu hoạch: Cà chua có thể thu hoạch khi quả đã đạt độ chín-xanh (đã
thuần thục về mặt sinh lý nhưng còn xanh vỏ), hoặc ngả màu, hoặc chín hoàn toàn,
tùy vào mục đích sử dụng, thời gian vận chuyển, hoặc khoảng cách từ nơi sản xuất
đến nơi tiêu dùng hoặc thị trường.
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 6 of 69
Đối với những thị trường ở xa, hoặc đòi hỏi thời gian tồn trữ lâu, cà chua
được thu hoạch khi còn xanh hoặc hơi đỏ (đang chuyển màu). Là một thứ quả hô
hấp đột biến, cà chua thu hoạch khi còn xanh nhưng đã thuần thục thì có thể chín
tiếp tự nhiên, và có thể đạt đến chất lượng tối ưu. Ngược lại, quả non sẽ không đạt
được màu sắc và hương thơm tốt, và sẽ dễ dàng bị hư hỏng sau thu hoạch (Bautista
and Acedo, 1987).
Hình 1: Mẫu cà chua đạt độ chín-xanh có thể thu hoạch
Cà chua chín-xanh được xác định bằng ví dụ mẫu cụ thể như ảnh 1. Mẫu đại
diện này được cắt chéo, và nếu như các hạt của mặt cắt không bị cắt, và các quả thì
tương đồng nhau về kích thước, hình dạng, thì được coi là chín. Trong suốt quá
trình vận chuyển, cà chua chín-xanh có thể chịu được điều kiện bề mặt lưu trữ ráp,
xù xì tốt hơn, vì thế mà việc tổn thất chất lượng và số lượng là tối thiểu. Tuy nhiên,
cà chua chín-xanh có thể không đạt độ chín yêu cầu khi đến thời điểm bán hoặc tiêu
thụ, nên việc để cho quả chín tự nhiên sau thu hoạch, hoặc làm chín nhân tạo là cần
thiết. Quả có màu hồng hoặc chín đỏ thường được thu hoach do nhu cầu của người
tiêu dùng hoặc nhà chế biến.
Hình 2: Thu hoạch cà chua ở trạng thái chín khác nhau dựa vào màu vỏ
Đối với các thị trường gần, cà chua có thể thu hoạch khi đang ngả màu, có
màu hồng hoặc chín hoàn toàn. Các trạng thái này có thể xác định dễ dàng và chắc
chắn dựa vào màu vỏ (Hình 2). Trạng thái khác nhau về độ chín của cà chua được
minh họa dựa vào bảng màu trong buổi hội thảo cuối. Hơn nữa, hiện nay có rất
nhiều giống cà chua là sản phẩm của công nghệ sinh học như cà chua ESL thời hạn
bảo quản dài, biến đổi gen hoặc không (Suslow và Cantwel, 2005). Những giống
khác nhau này nếu thu hoạch quả ở trạng thái chín-xanh thì quá trình chín sẽ bị ảnh
hưởng. Vì vậy, ít nhất quả phải được thu hoạch khi vỏ đã hồng.
Thời gian thu hoạch: Nên thu hoạch khi trời mát, và tốt nhất là vào buổi
sáng, vì khi đó nhiệt độ thấp có thể giảm thiểu sự tăng nhiệt độ của quả, đồng thời
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 7 of 69
tăng hiệu quả thu hoạch. Bắt đầu thu hoạch khi sương sớm đã tan hết, hoặc nếu thu
hoạch vào lúc quá sớm thì cần cẩn thận chú ý điều này để tránh gây hại cho những
cây vẫn còn quả cho đợt thu hoạch sau.
Không nên thu hoạch khi trời mưa hoặc ngay sau khi mưa, vì tỷ lệ mắc bệnh
có thể cao hơn (Bautista và Acedo, 1987). Nước mưa có thể tích tụ trên cuống quả,
là nơi xâm hại chính của vi sinh vật, tạo điều kiện thuận lợi cho vi sinh vật phát
triển. Tuy nhiên, nếu không tránh được điều này, quả cần phải được rửa sạch và làm
khô trước khi bao gói (Xem phần Các công đoạn trong nhà đóng gói). Việc rửa và
làm khô càng cần thiết đối với quả từ các cây không có cọc đỡ hoặc không có lưới
chắn đất, vì đất là nguồn chứa vi sinh vật gây hại, có thể bám vào quả đặc biệt là
trong mùa mưa.
Phương pháp thu hoạch: Phương pháp thu hoạch thường dùng là hái quả
bằng tay (Hình 3)
Hình 3: Thu hoạch cà chua bằng tay
Hái quả ra khỏi cây cần tránh gây tổn thương cây, và không cần thiết phải rời
đi phần cuống nhỏ, làm lộ ra phần cuối cuống, là nơi trao đổi khí chủ yếu của quả
(ví dụ, đây là nơi thoát hơi nước, gây mất nước và giảm khối lượng; là lối vào của
O2 và lối ra của CO2, vì thế làm tăng cường độ hô hấp và các hoạt động trao đổi
chất khác). Một việc khác cần lưu ý khi thu hoạch là phải quan sát để tránh tổn
thương cơ giới, như một vết thương nhỏ gây ra do móng tay của người thu hoạch.
Những vết thương nhỏ như thế có thể không dễ dàng nhận thấy ở những quả xanh,
nhưng sẽ thấy sau khi vết thương chuyển sang màu đen.
Hình 4: Dụng cụ thu hoạch cà chua với bề mặt nhẵn
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 8 of 69
Dụng cụ chứa khi thu hoạch, tốt nhất là được làm bằng nhựa có bề mặt nhẵn
(như thùng hoặc khay nhựa nhỏ). Dụng cụ này thường thuận tiện cho việc đựng một
lượng nhỏ, và không gây tổn thương quả.
Lưu trữ trên đồng ruộng: Cần tránh ném quả vào rổ thu hoạch, hoặc không
nên quăng kéo mạnh các rổ thu hoạch. Nếu không, những va chạm đó có thể dẫn
đến những triệu chứng không nhìn thấy được như vết thâm nâu hoặc đen ở phần
hạt. Các sọt lớn được sử dụng thuận tiện cho việc chứa đựng và vận chuyển sản
phẩm từ đồng ruộng đến nơi đóng gói. Nên sử dụng các rổ nhựa, nhưng cũng có thể
sử dụng các vật chứa đơn giản như sọt tre. Đối với các sọt tre, hoặc thùng gỗ, có thể
lót lá hoặc giấy báo cũ để bảo vệ quả tránh bề mặt của vật chứa.
Các thao tác không đúng cách trong quá trình lưu giữ trên đồng ruộng bao
gồm: ném quả vào thùng chứa, làm rơi hoặc kéo mạnh dụng cụ chứa trong quá trình
vận chuyển. Những thao tác này có thể dẫn đến cả các tổn thương vật lý nhìn thấy
và không nhìn thấy. Các vết thương nhìn thấy có thể là các vết cắt, lỗ thủng hoặc
vết trầy xước. Ngoài việc ảnh hưởng đến chất lượng cảm quan, các tổn thương vật
lý còn làm tăng sự mất nước và tốc độ chín, và dẫn đường cho vi sinh vật xâm hại.
Hình 5: Quả nóng lên do bị phơi dưới ánh mặt trời suy giảm nhanh chất lượng do
mất nước, quả nhăn nheo và tăng tốc độ chín.
Cà chua sau thu hoạch được giữ tạm thời dưới bóng râm, tránh phơi ra dưới
ánh nắng mặt trời, vì điều này gây rám nắng, mất nước nhanh dẫn đến khô nhăn, và
tích lũy nhiệt độ thúc đẩy quá trình chín. Sự tăng nhiệt độ của quả thường thấy khi
quả bị phơi nắng một đến hai giờ. Nhiệt độ tích tụ bên trong quả sẽ được giải phóng
sau đó và làm tăng nhiệt độ bên trong vật liệu bao gói, vật chuyên chở hoặc khu lưu
trữ. Đồng thời nó làm tăng cường độ hô hấp. Để loại bỏ nhiệt, cần làm mát sơ bộ
(xem phần Các công đoạn trong nhà đóng gói).
Quả được thu hoạch ở những độ chín khác nhau có thể phân loại trong quá
trình thu hoạch và quá trình lưu giữ trên đồng, bằng cách để chúng trong các vật
chứa khác nhau hoặc trong các thùng chứa có ngăn.
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 9 of 69
Hình 6: Dụng cụ thu hoạch và vận chuyển có tấm ngăn chia quả xanh và quả chín.
Phân loại quả tùy thuộc vào kích thước và đồng thời có thể phân loại khuyết
tật nếu người thu hái có kinh nghiệm. Nếu không, quả sẽ được vận chuyển đến nhà
bao gói để làm việc này.
Các công đoạn trong nhà đóng gói
Hoạt động chính trong nhà bao gói là đóng gói trước khi bảo quản hoặc vận
chuyển đến thị trường. Mặc dù vậy, các công việc khác trước khi bao gói cũng cần
thực hiện sao cho tổn thất là thấp nhất trong suốt quá trình vận chuyển và tồn trữ, và
đạt được yêu cầu chất lượng trong suốt quá trình lưu thông trên thị trường và tiêu
dùng. Các công việc trước bao gói đối với cà chua bao gồm làm sạch, phòng ngừa
thối hỏng, phân loại tuyển chọn, xử lý kiểm soát quá trình chín, và làm mát sơ bộ.
Đồng thời cần thiết kế một nhà bao gói.
Nhà đóng gói đơn giản: Một kết cấu đơn giản có mái che hoặc nhà một tầng
có thể được cải thiện thành một khu cho các công đoạn bao gói trong nhà khác
nhau, được minh họa trong hình 7A (FAO, 1986). Thực tế sử dụng cho cà chua
được thể hiện ở hình 7B. Yêu cầu tối thiểu là sàn và mái che thích hợp, sự thông gió
đầy đủ, và có khu phân loại, bao gói, xử lý theo yêu cầu của từng mặt hàng (ví dụ
rửa sạch/làm khô, xử lý chín), và lưu giữ quả đã đóng gói. Sàn nhà tối thiểu cho một
tấn quả được lưu trữ là 20m2.
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 10 of 69
Hình 7. Nhà bao gói cà chua đơn giản, nơi tiến hành các hoạt động như lựa chọn,
làm sạch và đóng gói.
Ở các nước Lào, Cambodia và Việt Nam, nhiều căn nhà của nông dân được
xây dựng cao hơn 8 – 10 feet (1 feet = 0,3048 m) so với mặt đất, và khoảng trống
được dùng làm nơi nghỉ ngơi hoặc nơi lưu trữ các dụng cụ nông nghiệp. Hoặc
khoảng đất trống này có thể chuyển thành nhà bao gói, nếu không gian không đủ thì
có thể mở rộng bằng mái che.
Làm sạch và kiểm soát thối hỏng: Có thể sử dụng vải mềm lau sạch quả
trong quá trình phân loại, hoặc có thể rửa bằng nước sạch, sau đó phải làm khô.
Trong quá trình rửa, nước rửa có thể bị nhiễm bẩn và chứa vi sinh vật gây thối hỏng
nếu không thường xuyên thay nước. Để xử lý phòng bệnh, có thể sử dụng các chất
thông thường được phép sử dụng (General-Regarded-Ss-Safe - GRAS) như Clo
dưới dạng chất tẩy rửa (5.25% HypoChlorit NaOCl), và muối cacbonat như
Natricacbonat. Những nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng, phương pháp xử lý đơn
giản này sẽ làm giảm thối hỏng một cách có hiệu quả. Tuy vậy, đối với từng giống
phải sử dụng nồng độ thuốc thích hợp. Khi xử lý bằng HypoClorit, cần lưu ý một số
điểm sau đây:
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 11 of 69
1. Rửa trong nước Clo (NaOCl 50-70ppm) trong 2 phút, sau đó rửa bằng nước,
có thể phòng ngừa sự thối hỏng gây ra do vi khuẩn, nấm mốc và nấm men
(Ogawa và Manji, 1984).
2. Như một chất tẩy uế cho cà chua, 4 thìa cà phê (tương đương 20 ml) thuốc
tẩy thương mại được thêm vào một Gallon nước sạch (1 Gallon = 4,53 lit),
sẽ tương đương với NaOCl khoảng 250 ppm (Bautista và Acedo, 1987).
3. Tình trạng suy giảm chất lượng của cà chua trong quá trình làm mát bằng
bay hơi, có thể được hạn chế nhờ nhúng trong NaOCl một phút, nhưng với
nồng độ cao hơn, khoảng 0.5 – 1.0%, tuy nhiên điều này có thể không an
toàn (Acedo, 1997).
Khi sử dụng muối cacbonat (ví dụ kiềm cacbonat hoặc phổ biến là
Natricacbonat), nồng độ 3% (30g/l) thì nên dùng để phun lên quả hoặc nhúng quả,
sau đó rửa với nước (Smilanick 2002).
Sau khi rửa, cần làm khô quả vì sự ẩm ướt bên trong vật chứa sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho vi khuẩn phát triển. Việc này có thể thực hiện dễ dàng bằng cách lau
quả, hoặc quạt bằng không khí thích hợp. Trong suốt quá trình rửa hoặc làm khô, có
thể tiến hành một số công việc trước bao gói như phân loại tuyển chọn.
Phân loại/tuyển chọn: Cà chua có chất lượng tốt luôn là sự lựa chọn đầu tiên
của người tiêu dùng. Vì thế, phân loại hay tuyển chọn luôn là việc làm có lợi. Phân
loại và tuyển chọn có thể thay thế cho nhau, nhưng thật ra giữa chúng vẫn có sự
khác biệt. Khi phân loại dựa trên tiêu chuẩn lựa chọn chính thức của công nghiệp
thì được gọi là sự tuyển chọn. Những quá trình đơn giản hơn gọi là phân loại.
Phân loại hay tuyển chọn bắt đầu bằng việc phân biệt những quả có chất
lượng tốt với những quả kém chất lượng, hoặc bị khuyết tật (những quả bị rạn nứt,
biến dạng, thối hỏng, bị côn trùng hại, hoặc bị các vết thương vật lý). Những quả tốt
sau đó sẽ tiếp tục được phân loại theo mức độ chất lượng, dựa vào kích thước và độ
chín. Nhờ thế, phân loại và tuyển chọn sẽ xác định chất lượng và giá thành của sản
phẩm hàng hóa khi đưa ra thị trường. Nếu thiếu các tiêu chuẩn chất lượng thì đó sẽ
là rào cản thương mại, và sẽ cản trở sự phát triển và tính cạnh tranh trong công
nghiệp. Trong thời đại tăng cường mở rộng thương mại và toàn cầu hoá thị trường,
các nước đang phát triển cần có cơ quan tiêu chuẩn hóa và kiểm tra tiêu chuẩn lựa
chọn.
Phân loại và tuyển chọn sẽ tránh được sự hư hỏng sớm của quả. Nếu để lẫn
các loại quả khác nhau về chất lượng, quả bị bệnh hoặc bị tổn thương với các quả
lành lặn sẽ làm tăng tỷ lệ thối hỏng, vì quả chất lượng kém hoặc quả bị tổn thương
rất nhạy cảm với sự phát sinh bệnh, dễ dàng bị nhiễm bệnh từ quả bị bệnh, và có thể
dẫn đến hư hỏng cả những quả lành lặn khác. Quả bị bệnh hoặc bị tổn thương cơ
giới thường sản sinh ra nhiều ethylene, một hoocmon thúc đẩy quá trình chín và già
hoá. Vấn đề này sẽ trở nên nguy hiểm nếu quả được tiêu thụ ở thị trường xa, những
nơi mà thời gian vận chuyển có thể phải kéo dài 3 – 5 ngày, nhiệt độ sẽ tăng, tạo
điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển. Cũng không nên để lẫn quả chưa chín với
quả chín, đặc biệt là trong suốt thời gian dài vận chuyển và lưu trữ, vì quả chín sẽ
sinh ra lượng ethylene cao, gây ra sự chín sớm của những quả chưa chín.
Ở các nước Lào, Việt Nam và Cambodia và nhiều nước đang phát triển khác,
không có tiêu chuẩn lựa chọn nào với cà chua. Sự phân loại giữa nơi cung cấp và
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 12 of 69
nơi có nhu cầu lại khác nhau. Có thể phân loại dựa trên kích thước (ví dụ A-lớn, B-
trung bình, C-nhỏ, D-rất nhỏ), màu sắc, hoặc trạng thái chín, và không bị khuyết tật.
Sự phân loại theo giống cũng quan trọng vì cà chua có rất nhiều loại giống, khác
nhau về độ nhạy cảm với những tổn thương cơ giới, và tốc độ chín. Cà chua có thịt
dầy thường chịu được lưu trữ trong những vật dụng bề mặt gồ ghề tốt hơn so với
những giống thịt mỏng. Nếu cả hai giống này được lưu trữ trong cùng một nơi, thì
tổn thương cơ giới ở những quả mỏng thịt có thể dẫn đến thối hỏng hoặc giảm chất
lượng những quả có thịt dầy, và làm tăng tốc độ chín. Một số nông dân thường
trồng và thu hoạch hai hoặc vài giống cùng một lúc. Các quả khác giống được bao
gói lẫn trong cùng một thùng chứa vẫn có thể giữ được chất lượng nếu nơi sản xuất
ở gần nơi tiêu thụ. Tuy vậy, nếu muốn thiết lập một cái tên cho sản phẩm có chất
lượng tốt của mình, người nông dân cần phân loại sản phẩm theo kích cỡ hoặc yêu
cầu chất lượng của người tiêu dùng. Có thể dán nhãn hoặc đóng dấu cho sản phẩm,
con dấu phải được bảo vệ và đề cao nguồn cung cấp cà chua chất lượng cao. Vì tiêu
chuẩn lựa chọn cà chua chưa được sử dụng cho công nghiệp ở các nước đang phát
triển trong đó có Lào, Cambodia và Việt Nam nên cách phân loại được đề nghị dưới
đây có thể dùng để tham khảo:
Loại A, lớn: Cà chua của cùng một giống, có cùng trạng thái chín, cùng hình
dạng, không khuyết tật (khuyết tật do côn trùng hại, tổn thương vật lý, thối hỏng,
biến dạng,)
Loại A, trung bình: Chất lượng yêu cầu như loại trên, nhưng khác về kích cỡ.
Loại A, nhỏ: Chất lượng yêu cầu như trên, nhưng khác về kích cỡ.
Loại B, lớn: Cà chua của cùng một giống, khuyết tật trên bề mặt hoặc khuyết
tật nhẹ (khuyết tật nhẹ nghĩa là không ảnh hưởng đến chất lượng quả khi ăn và ảnh
hưởng không lớn đến chất lượng cảm quan của cả lô hàng).
Loại B, trung bình: Chất lượng yêu cầu như trên, nhưng khác về kích cỡ.
Loại B, nhỏ: Chất lượng yêu cầu như trên, nhưng khác về kích cỡ.
Loại C, đa kích cỡ: Cà chua của cùng một giống, không được phân loại theo
trạng thái chín, nhưng không có quả chín hoàn toàn, có khuyết tật nhẹ như loại B,
nhiều kích cỡ.
Suslow và Cantwel (2005) đã đưa ra chỉ số chất lượng tiêu chuẩn cho các
giống cà chua khác nhau, trước hết là dựa trên sự tương đồng về hình dáng, và
không có khuyết tật, hư hỏng. Kích cỡ không phải là yếu tố để tuyển chọn chất
lượng nhưng có lẽ ảnh hưởng khá nhiều đến chất lượng về mặt thương phẩm. Các
chỉ số chất lượng này như sau:
- Hình dạng: có cùng một kiểu hình dạng (hình tròn, hình cầu, hình cầu dẹt)
- Màu sắc tương đồng (từ đỏ cam đến đỏ đậm, vàng nhạt). Không có màu
xanh.
- Biểu hiện bên ngoài: Trơn mịn, sẹo cuống nhỏ. Không có các vết rạn nứt,
rám nắng, vết thương do côn trùng, vết thương cơ giới, hoặc vết bầm tím.
- Độ cứng: Chịu được áp lực. Không bị biến dạng do chín nẫu.
Trong quá trình phân loại, tuyển chọn, công nhân phải có kỹ năng thành thạo. Để
công đoạn này được tiến hành dễ dàng, nên có công cụ hỗ trợ, ví dụ như bàn
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 13 of 69
phân loại đơn giản được làm bằng các thanh tre (bề mặt tiếp xúc với quả phải
nhẵn) với khung gỗ, như hình 7B. Một số kiểu thiết kế khác ở Hình 8.
Hình 8: Bàn phân loại cà chua.
Một cái bàn phân loại di động, như hình 9, được thiết kế theo kiểu có thể
đóng vào hoặc dỡ ra, có máy điều chỉnh chiều cao phù hợp và thuận tiện cho người
phân loại, có bàn quay với đường phân chia (Reyes, 1998)
Hình 9: Bàn phân loại quay, di động.
Hơn nữa, để tăng hiệu quả và độ chính xác công việc trong quá trình phân loại,
tuyển chọn, ánh sáng phải được cung cấp đầy đủ, và công nhân làm việc phải có
thời gian nghỉ ngơi phù hợp.
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 14 of 69
Kiểm soát sự chín: Sự chín của cà chua có thể được làm chậm lại hoặc tăng cường,
hoặc cải thiện.
- Làm chậm quá trình chín là mục đích chính của tích luỹ, bảo quản, để kéo
dài tuổi thọ sau thu hoạch. Tránh quá trình chín sớm trong khi vận chuyển cũng rất
quan trọng. Các biện pháp kỹ thuật khác nhau để làm chậm quá trình chín và kéo
dài tuổi thọ được nhắc đến trong phần tồn trữ.
- Việc thúc đẩy quá trình chín cũng cần dùng đến, đặc biệt là đối với những
quả thu hoạch ở trạng thái chín-xanh để đáp ứng nhu cầu của thị trường tiêu
dùng,và thậm chí những quả được thu hoạch ở trạng thái khác nhau có thể đạt được
độ chín đồng đều theo yêu cầu. Cà chua chín đỏ thường là nhu cầu của người tiêu
dùng hoặc nhà chế biến. Chỉ nên làm chín nhân tạo những quả đã trưởng thành, vì
quả non chín ép sẽ không tốt. Phương pháp làm chín khác nhau có một cơ chế
chung để tăng tốc độ chín là xử lý ethylene hoặc những chất tương tự (như
axetylene) trong một khoảng thời gian đủ để kích thích quả sản sinh ethylene ở mức
cao. Việc sử dụng khí ethylene đòi hỏi chi phí cao và máy móc phức tạp. Có thể làm
chín cà chua bằng một số kỹ thuật đơn giản như sau:
1. Sử dụng nguyên liệu thực vật sản sinh khí ethylene cao như lá cây của
Gliricidia sepium và Samanea saman, hoặc những quả đã chín, đang chín. Những
nguyên liệu này thường được sử dụng với lượng thích hợp là 10% trọng lượng quả
(cứ 10 kg quả, thì sử dụng 1 kg nguyên liệu thực vật này), trộn lẫn với quả trong
một buồng kín 2-3 ngày, sau đó đưa quả ra khỏi phòng và để chín tự nhiên trong
điều kiện thoáng.
2. Sử dụng dung dịch Etan (chế phẩm thương mại là Ethrel giống với ethylene
dạng lỏng) ở nồng độ 2500-5000 ppm, nhúng trong 5 phút.
3. Sử dụng đất đèn (CaC2), cho một lượng ít vào đống quả giữ trong phòng
nhỏ, nền nhà và khối cà chua phải được phủ kín bằng bao tải trong 2 ngày để
acetylene giải phóng ra từ đất đèn khi nó phản ứng với nước, sau đó bao tải chắn
được dỡ đi, để quả chín. Trong một vài trường hợp, quả được chứa trong thùng
chứa lớn, sau đó đất đèn được đưa vào trong một túi nhỏ, phủ kín trong 2 ngày.
Khoảng 0.25-0.5 kg CaC2 được gói trong giấy báo và để trong một sọt tre 80 kg.
Quả xanh sẽ chuyển sang có màu đỏ sau 1 ngày từ khi xử lý, trong khi để chín tự
nhiên thì phải mất 6-7 ngày. Cần chú ý rằng phản ứng của CaC2 và nước sẽ sinh ra
acetylene là một phản ứng toả nhiệt, vì thế không xử lý trong thời gian kéo dài vì sẽ
dẫn đến tổn thương nhiệt của quả, và dù quả chín cũng chỉ đạt được màu cam hoặc
vàng, thay vì màu đỏ.
- Ở các nước nhiệt đới thì cải thiện sự chín rất quan trọng, ví dụ như Lào,
Việt Nam và Cambodia, nơi mà điều kiện nhiệt độ cao là chủ yếu, thuờng dao động
từ 27 – 320C, không thuận lợi cho sự hình thành màu đỏ của quả cà chua. Nhiệt độ
chín tối ưu để cho giá trị cảm quan tốt và chất lượng dinh dưỡng là 200C (Suslow và
Cantwell 2005). Nhiệt độ này cho màu sắc tốt nhất và giữ được nhiều vitamin C
nhất. Màu đỏ của quả cà chua là do carotenoid, lycopene, được tổng hợp ở nhiệt độ
khoảng từ 13 – 250C. Cao hơn khoảng nhiệt độ này sẽ cho màu vàng cam hoặc vàng
nhạt, vì β-carotene được tổng hợp nhiều hơn, trong khi thấp hơn khoảng nhiệt độ đó
thì quả có thể bị tổn thương lạnh (không chín được, hoặc bị nâu hóa bề mặt). Màu
đỏ hình thành ở quả cà chua không phải là một vấn đề ở những vùng đất cao, nơi có
nhiệt độ thấp, hoặc khi lưu trữ ở kho lạnh trong các chợ bán buôn, bán lẻ. Ở những
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 15 of 69
vùng đất thấp hoặc khi nhiệt độ cao, có thể làm cho cà chua chín đỏ bằng cách giữ
quả trong khu mát, hoặc trong môi chất làm mát dễ bay hơi (ví dụ mùn cưa ẩm, chất
làm mát bay hơi – xem thêm trong phần Bảo quản).
Làm lạnh sơ bộ. Làm giảm nhanh chóng nhiệt độ sản phẩm, một quá trình
được gọi là làm lạnh sơ bộ, có thể giúp giữ được chất lượng thông qua việc làm
chậm các hoạt động trao đổi chất. Làm lạnh ngay sau khi thu hái có thể giữ chất
lượng rau quả ở mức tốt nhất sau thu hoạch. Nếu được thực hiện kết hợp với bảo
quản lạnh, nó có thể làm giảm thời gian làm lạnh. Làm lạnh không khí cưỡng bức là
có hiệu quả nhất nhưng phòng mát lại phổ biến hơn (theo Suslow và Cantwell,
2005). Một phương pháp đơn giản và nhanh chóng của làm lạnh sơ bộ là sử dụng
nước lạnh. Làm lạnh nước đơn giản và giá thấp đã được thực nghiệm tại Viện
Nghiên cứu rau quả, Hà Nội, xem hình 10. Hệ thống này gồm một bộ khung được
làm từ những ống nước và hai loại vật liệu lót- đầu tiên là những tấm tre đan, tấm
cót và tiếp theo là tấm nilon để phủ lên trên- trước khi cho nước vào. Nước được
làm lạnh đến 100C bằng cách cho đá. Quả có thể được nhúng ngập trong nước lạnh
đến khi nhiệt độ tâm quả đạt 10-13oC.
Hình 10. Mô hình làm lạnh sơ bộ đơn giản thực hiện tại Viện NC Rau quả, Hà Nội
Với quy mô nhỏ, làm lạnh sơ bộ có thể thực hiện bằng những cái rổ nhựa
hoặc thùng chứa cứng, cùng với nước và đá vụn, như ví dụ ở hình 11.
Hình 11. Dụng cụ làm lạnh sử dụng đá vụn và nước trong thùng nhựa
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 16 of 69
Bao gói. Hệ thống bao gói không chỉ có chức năng để chứa sản phẩm mà
quan trọng hơn, nó còn được sử dụng như một yếu tố bảo vệ sản phẩm hữu hiệu,
giúp sản phẩm tránh những tác động cơ học và những nguyên nhân làm hao tổn
khác. Các chức năng khác của bao bì là để cung cấp các thông tin về sản phẩm bên
trong như: khối lượng và định giá bán của sản phẩm, xuất xứ sản phẩm v.v… Có
nhiều loại bao bì khác nhau được sử dụng để bao gói và vận chuyển cà chua nhưng
phổ biến nhất là các sọt tre và sọt gổ có dung tích chứa thay đổi từ 20-60 kg (Hình
12). Một số ít trường hợp sử dụng sọt nhựa mặc dù chúng khá đắt, nhưng vẫn được
giới thiệu bởi chúng rắn chắc và có thể tái sử dụng, hoặc trả lại, chúng có bề mặt
mềm và dễ vệ sinh và có thể xếp thành chồng cao.
A CB
Hình 12. Vật đựng cà chua: A-Sọt tre, B-Sọt gỗ, C-Sọt nhựa
Ở những nước đang phát triển, sọt tre được dùng phổ biến vì giá rẻ và tre là
nguyên liệu truyền thống và thông dụng. Tuy nhiên không giống như những vật liệu
cứng khác, nếu không sử dụng những biện pháp bảo vệ phù hợp thì tác dụng bảo vệ
rau quả từ những tổn thương vật lý của sọt tre là rất thấp. Sọt tre thường có bề mặt
sắc và ghồ ghề, chúng không thể chồng lên nhau mà không làm dập những quả ở
lớp dưới nếu không sử dụng tấm gỗ lót hoặc nắp đậy bằng gỗ giữa các lớp, và các
sọt trống không thể chồng lên nhau để tiết kiệm không gian nếu không được thiết kế
với những cạnh chéo theo đáy như ở hình 12A. Thùng gỗ cứng bảo vệ sản phẩm tốt
hơn sọt tre nhưng nếu không lót bề mặt một cách cẩn thận thì nó có thể là nguyên
nhân gây nên nhiều tổn thương ở rau quả. Muốn tiết kiệm không gian khi tồn trữ
các thùng trống thì có thể thiết kế các thùng gỗ ở dạng có thể gập lại, xếp lại được
(Hình 13A) trong khi đó sọt nhựa có thể làm các cạnh xiên (Hình 13B).
A B
Hình 13. Thùng gỗ xếp được (A) và sọt nhựa có cạnh xiên (B).
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 17 of 69
Để tránh hoặc hạn chế thấp nhất các thương tổn vật lý và những hao tổn khác
ở quả, khi bao gói cần chú ý thực hiện những điểm sau:
a. Sử dụng bao bì sạch
b. Nếu tài liệu bao gói được sử dụng phổ biến, việc đóng gói dễ được thực hiện
đồng đều. Những bao gói chứa từ 40-50 kg là quá nặng. Người đóng gói thường
làm rơi hoặc ném chúng hơn là nhấc chúng lên một cách nhẹ nhàng trong suốt quá
trình đóng gói và vận chuyển.
c. Sử dụng những vật lót và vật đệm hoặc những vật liệu dùng để lót như giấy
báo, lá...(Hình 14). Với thùng gỗ, có thể dán sẵn những tấm bìa các tông mỏng phía
bên trong (Hình 15).
Hình 14. Sử dụng vật lót trong sọt tre và sọt gỗ
Hình 15.Thùng chứa gỗ-giấy (Bìa cáctông được gián ở các mặt bên trong làm lớp
lót)
d. Không sử dụng những vật chứa quá sâu vì sẽ dễ làm tổn thương quả ở phần
đáy. (Hình 16)
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 18 of 69
B
A
Hình 16. Những thùng chứa quá sâu (A) sẽ làm tổn thương những quả nằm ở phần
đáy, nên sử dụng những thùng chứa cạn (B)
e. Chỉ đóng vừa đủ dung tích chứa của bao bì. Không được ấn quá chặt hoặc đóng
quá đầy dẫn đến những tổn thương do bầm dập (Hình 17)
Hình 17. Những thùng chứa quá chặt làm quả bị hư hỏng
f. Đóng gói những quả có cùng độ chín trong cùng một bao bì. Nếu xếp lẫn
những quả chín với những quả chưa chín có thể dẫn đến sự chín ép của những quả
chưa chín và làm tăng hư hỏng ở những quả chín từ trước.
g. Giữ cố định quả trong bao bì làm cho quả không xê dịch trong suốt quá trình
đóng gói và vận chuyển và hạn chế thấp nhất hư hỏng do va đập. Có thể cố định quả
bằng cách lắc nhẹ bao bì trong quá trình đóng gói để lấp đầy các khoảng trống. Bao
bì được làm đầy tới 1/3 dung tích chứa và lắc nhẹ; sau đó tiếp tục làm đầy đến 2/3
dung tích chứa và lắc lại bao bì lần nữa. Tiếp tục quá trình này cho đến khi bao bì
được làm đầy khít.
h. Cần thao tác cẩn thận trong suốt quá trình đóng gói (như không để rơi quả...)
i. Buộc chặt bao bì bằng dụng cụ chuyên dụng hoặc dây buộc.
j. Xếp vào nơi mát.
Có những biện pháp bao gói có thể giúp làm chậm sự chín và kéo dài thời gian tồn
trữ của cà chua. Một kỹ thuật đơn giản được ứng dụng khá phổ biến ở một số nước
là bao bì cải biến khí quyển (MAP), một loại bao bì chuyên dụng có thể linh động
trong môi trường bảo quản. Loại màng MAP này nên được sử dụng như là yếu tố bổ
sung hơn kết hợp với các vật liệu bao gói khác là một vật liệu bao gói độc lập vì nó
có khả năng chống chịu tác động cơ học kém.
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 19 of 69
Bảo quản
Khi quả được bảo quản thì mục đích chính là trì hoãn sự chín và kéo dài thời
gian tồn trữ quả. Thông thường quả được đem bảo quản tạm thời trong khi chờ vận
chuyển, bốc vác, hoặc chờ đến lúc bán, nhưng nông dân và người buôn bán lại
không muốn sản phẩm của họ bị chín sớm. Như vậy, quả chín sớm trong suốt quá
trình vận chuyển là điều không được mong muốn. Nhưng cũng có nhiều trường
hợp, cà chua được giữ trong một khoảng thời gian nào đó để đợi quả chín và lúc đó
chúng được bảo quản với mục đích làm tăng độ chín nhiều hơn là kéo dài thời gian
tồn trữ quả.
Những kỹ thuật bảo quản khác nhau khi đem ứng dụng ở bất cứ nơi nào đều
phải được kiểm nghiệm cho phù hợp với các điều kiện nơi đó bằng cách sử dụng
các giống địa phương, yếu tố ảnh hưởng đến các phản ứng trong quá trình bảo quản.
Phương pháp hiệu quả nhất để làm chậm chín và kéo dài thời gian bảo quản là bảo
quản ở nhiệt độ thấp. Nếu có cơ sở bảo quản lạnh, nên lưu ý các điều kiện sau đây
(Suslow và Canwell, 2005):
Nhiệt độ: 12.5-15oC với quả xanh; 10-12.5oC với quả ương (có màu đỏ nhạt); 7-
10oC với quả chín (có màu đỏ đậm)
Độ ẩm tương đối: 90-95%
Quả cà chua đạt độ chín kỹ thuật có thể bảo quản được đến 14 ngày trước khi
chín ở 12.5oC mà không làm giảm chất lượng cảm quản và sự biến đổi màu sắc. Ở
nhiệt độ này, sau quá 2 tuần, sự thối hỏng sẽ tăng dần theo thời gian bảo quản. Với
những quả đã đạt độ chín tới (độ chín sử dụng, ăn được), có thể bảo quản được 8-10
ngày ở khoảng nhiệt độ thích hợp. Bảo quản ngắn hạn hoặc hạ nhiệt độ thấp hơn
khoảng nhiệt độ nêu trên đôi khi được áp dụng trong thị trường nhưng sẽ dễ xảy ra
tổn thương lạnh sau một vài ngày. Cà chua sẽ xuất hiện tổn thương lạnh ở nhiệt độ
dưới 10oC nếu giữ quá 2 tuần hoặc ở 5oC nếu để quá 6-8 ngày. Hậu quả của việc tổn
thương lạnh là cà chua sẽ không tiếp tục chín một cách bình thường, không đạt
được màu sắc và hương vị tự nhiên, quả bị mềm, bề mặt bị lõm, thâm hạt, và tăng
nguy cơ hư hỏng (đặc biệt là mốc đen gây ra bởi vi khuẩn Alternaria spp.). Bên
cạnh đó, độ ẩm tương đối cao cũng cần thiết cho việc giữ chất lượng cà chua ở mức
cao nhất có thể và chống lại sự mất hơi nước (làm nhăn vỏ quả). Độ ẩm cao kéo dài
cũng là điều kiện thuận lợi để phát triển mốc trên bề mặt quả hoặc nhũn cuống.
Ở những nước đang phát triển bao gồm CLV, những cơ sở bảo quản lạnh vẫn còn
hiếm. Những phương pháp bảo quản khác là rất cần thiết. Sau đây là những phương
pháp bảo quản cà chua đơn giản và rẻ tiền.
Bao gói điều biến khí quyển (MAP). MAP là một phương pháp đơn giản và
rẻ tiền làm ức chế sự chín của quả bằng cách tạo ra môi trường khí có ít khí CO2 và
nhiều khí O2. MAP còn tạo ra môi trường ẩm làm giảm sự mất hơi nước. MAP
được tạo ra một cách đơn giản bằng cách cho quả vào trong một túi chất dẻo (hình
18). Màng nilon cũng có thể được dùng làm vật liệu lót trong các thùng chứa, hoặc
để che phủ, đậy các pallet.
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 20 of 69
MAP fruits
Hình 18. Cà chua bảo quản MAP và không bảo quản MAP sau 6 ngày ở điều kiện
thường (25-33oC)
Fruits stored in open
Những loại màng MAP có sẵn nhiều ở các nước châu Á bao gồm các nước
lào, Việt Nam và Cambodia là các loại túi LDPE và HDPE, màng polypropylene
(PP) với các độ dày khác nhau. Sự phát triển công nghệ trong việc ứng dụng màng
MAP để tăng thời gian bảo quản cà chua gồm có như sau:
1. Cà chua giống ‘Daniella hybrid’ (thời gian bảo quản dài) ở các trạng thái quả
xanh, quả ương và quả có màu đỏ đóng trong túi PE có độ dày 44.4 µm và bảo quản
ở 20oC kéo dài thời gian bảo quản bằng cách trì hoãn sự chín thông qua sự biến đổi
màu sắc, hàm lượng lycopen, độ cứng và cũng làm giảm nhiều sự hao hụt khối
lượng (Ait- Oubahou, 1991) .
2. Cà chua giống ‘Liberto’ ở trạng thái hồng giữ được rất tốt trong túi PE có độ
dày 50 µm và túi PP có độ dày 25µm ở 13oC. Quả cà chua vẫn cứng sau 60 ngày
bảo quản và có sự hao hụt khối lượng thấp nhất và chất khô hòa tan cao nhất.
Những loại màng khác (PP 20µm, PVC 10µm) có tác dụng thấp nhất. Cà chua để ở
môi trường bên ngoài thì quá chín sau 30 ngày bảo quản (Batu và Thompson,
1998).
3. Túi PE có độ dày 0.04mm được xem như một loại túi tái sử dụng có thể chứa
được 90kg cà chua giống ‘Improved Pope’ trong các rổ nhựa, với hình thức này có
thể trì hoãn sự chín tới 10 ngày (từ 11ngày của những quả để ở điều kiện thường
đến 21 ngày với những quả bảo quản trong túi PE) ở 22oC. Kết quả bình quân, số
quả chấp nhận được là 74% với những quả được giữ ở môi trường bên ngoài và
85% với cà chua bảo quản trong túi PE (Yaptenco và cộng sự., 2004).
Trong ứng dụng riêng màng MAP với điều kiện nhiệt độ cao ở các nước nhiệt đới,
bên trong túi thường xảy ra hiện tượng đọng nước và có thể dẫn đến thối hỏng quả
(Hình 19). Để tránh tình trạng đấy, những loại màng phù hợp với độ dày thích hợp
phải được sử dụng hoặc phải xác định được thời gian tối đa trong bảo quản bằng
MAP trước khi xảy ra các hiện tượng như vậy. Đục lỗ trên túi nilon cũng trở nên
cần thiết. Các lỗ thủng có thể được đục đều đặn bằng cách sử dụng các vật dùng để
dùi thông thường, đinh ghim hoặc những hàng lỗ kim châm siêu nhỏ. Ví dụ, khi sử
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 21 of 69
dụng LDPE 50 µm thì nên đục 4 lỗ đinh ghim cho mỗi 4 kg quả trong khi với sọt gỗ
có kích thước 36 x 48 x 24 thì cần 24 lỗ đinh ghim.
A B
Hình 19. Nước đọng bên trong màng MAP (A) và làm hỏng quả bảo quản bằng
MAP (B)
Bảo quản lạnh bằng phương pháp bay hơi (Evaporative Cooling System). ECS bao
gồm sự bay hơi của nước mang theo yếu tố làm mát. Nước được cung cấp vào
những vùng lân cận của sản phẩm và làm hạ nhiệt trong buồng bảo quản, nhiệt sinh
ra từ chính sản phẩm (nhiệt sinh ra do hô hấp) và do môi trường bên ngoài. Sự giảm
nhiệt độ có thể không quá lớn nhưng độ ẩm có thể tăng lên đạt 90% hoặc cao hơn,
ứng dụng ECS rất có hiệu quả trong việc hạn chế sự mất nước và các quá trình liên
quan đến sự mất nước (như sự héo, sự chín nhanh).
Các phương pháp ECS khác nhau đều có một điểm chung – sự có mặt của nước ở
vùng lân cận sản phẩm:
1. Sử dụng mùn cưa ẩm - Mùn cưa được làm ẩm với nước ở tỉ lệ 1:1 có thể trì
hoãn sự chín của cà chua tới 2 tuần và quả cà chua vẫn tiếp tục chín đỏ (Hình 20)
(Bautista và Acedo, 1987). Mùn cưa phải được làm sạch, bằng cách dội nước sôi,
phơi khô để diệt vi khuẩn. Một kỹ thuật khác để diệt khuẩn là sử dụng dung dịch
Hypochlorite 200ppm để làm ẩm mùn cưa. Quả cà chua nên được xếp thành từng
lớp mỏng, chẳng hạn: một lớp mùn cưa dày khoảng 2 cm, tiếp theo là một lớp quả
sau đó lại phủ lên một lớp mùn cưa, và cứ tiếp tục như thế. Cách này có thể ngăn
không cho bệnh lây lan từ lớp này sang lớp khác. Phương pháp này có thể thực hiện
ở nhiều không gian hoặc trong các vật chứa.
Hình 20. Sử dụng mùn cưa ẩm trong bảo quản cà chua
2. Sử dụng chum, vại làm ẩm – Những cái chum, vại lớn rất sẵn ở các vùng nông
thôn có thể được sử dụng để làm ECS mức trung bình (Hình 21) (Bautista và
Acedo, 1987). Chum được đặt trên một cái khay nước và phủ lên trên bằng một
mảnh vải ẩm hoặc bao tải làm từ sợi đay. Phương pháp này có thể giữ quả cà chua
chậm chín từ 1- 2 tuần.
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 22 of 69
Hình 21. Sử dụng chum vại ẩm để bảo quản cà chua
3. Tủ làm mát nhờ bay hơi – Hình 22 cho thấy Tủ - một kiểu cấu trúc của ECS
có thể giữ cà chua xanh trong thời gian bảo quản lâu gấp đôi so với cà chua bảo
quản ở điều kiện thường (Acedo, 1997a). Kiểu cấu trúc thứ nhất (Hình 22A) gồm có
tủ bảo quản làm bằng gỗ và lưới kim loại, toàn bộ cấu trúc được phủ bởi bao tải đay
được làm ướt bằng nước trong khay đặt trên đỉnh và dưới đáy. Cấu trúc thứ hai
(Hình 22B) là sự cải tiến của cấu trúc thứ nhất. Các cạnh hộp được làm từ tấm Gl
phẳng, có khoảng cách 5x5cm so với cạnh phía ngoài được làm bằng lưới thép tốt.
Khoảng cách 1.5cm giữa hai bức vách bên trong và bên ngoài chứa đầy trấu được
giữ ướt bằng sự tiếp xúc với một tấm vải ngâm ngập trong khay nước đặt trên đỉnh
hộp, có thể thay trấu bằng than củi và mùn cưa. Cấu trúc thứ 3 (Hình 22C) là một
cấu trúc phóng to, khoảng gấp 4 lần kích thước của cấu trúc thứ 2, dùng để bảo
quản số lượng lớn. Nó không có phần nào được làm từ gỗ và được làm từ những vật
liệu bền như các thanh sắt và tấm Gl dày và lưới thép. Để hạ nhiệt, tỏa nhiệt bên
trong tủ, phần đỉnh tủ có bức tường thông gió. Máng đựng nước cũng ở đỉnh tủ với
hệ thống ống nhựa dẫn nước vào lớp trấu dày 5 cm. Toàn bộ cấu trúc này đặt trên
một khay Gl chứa nước.
A B C
Hình 22. Thiết bị làm mát bay hơi để bảo quản cà chua
4. Thiết bị làm mát bay hơi với quạt thông gió – Hình 23 cho thấy cấu trúc này có
hai hộp mỏng trên các cạnh đối nhau có chứa những bó rơm hoặc than (Redulla và
cộng sự., 1984). Nước được cho nhỏ vào than hoặc rơm, và gió làm quay tuabin hút
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 23 of 69
hơi ẩm, khí mát được đưa vào làm mát sản phẩm bên trong tủ mát. Nhiệt độ bên
trong tủ giảm từ 3-5oC trong khi độ ẩm tăng lên khoảng 85%.
Hình 23. Thiết bị làm mát bay hơi với máy hút gió
5. Thiết bị làm mát nhỏ giọt – Thiết bị làm mát bay hơi dưới đây, được xem như
một thiết bị làm mát nhỏ giọt, được làm từ những vật liệu địa phương, như tre và
(Redulla và cộng sự., 1984). Nó gồm thân tủ được làm từ những thanh tre và che
phủ bằng tấm cói được làm ướt bằng nước dẫn từ một cái vại thông qua những ống
tre.
Hình 24. Hệ thống làm mát bay hơi theo kiểu nhỏ giọt
6. Tủ mát không cần năng lượng – Đây là thiết bị làm mát bay hơi, được dựng lên
với hai lớp gạch, không gian giữa hai bức tường trong và ngoài được đổ đầy cát ướt
đẫm nước (Hình 25) (Roy, 1989). Cà chua được đặt bên trong và toàn bộ tủ được
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 24 of 69
phủ bằng một tấm thảm rẻ tiền để giữ ẩm. Suốt thời gian nóng, tủ bảo quản có thể
duy trì 15-18oC và 95%RH.
Hình 25. Thiết bị làm mát bay hơi kiểu buồng làm mát không năng lượng
Các phương pháp kéo dài thời gian bảo quản đơn giản và rẻ tiền khác. Một
biện pháp hữu hiệu nhằm làm chậm sự chín là sử dụng 1-methylcyclopropene (1-
MCP), là chất có tác dụng ức chế hoạt động của ethylene và đã được Ủy ban Môi
trường và Cục kiểm định thuốc và thực phẩm Hoa kỳ (US EPA và FDA) công nhận
là an toàn cho người sử dụng rau quả . Nó có thể làm cà chua chậm chín đến 2 tuần
theo ‘Improved Pope’ với cà chua có thể sử dụng 250ppb 1-MCP trong 24 giờ
(Acedo và cộng sự., 2004). Nó cũng có tác dụng làm chậm chín tương tự trên cà
chua bi với liều lượng sử dụng 110ppb (Opiyo và Ying, 2005). Tuy nhiên, trong cả
hai trường hợp, quả cà chua đều không đạt màu đỏ mong muốn khi đạt sự chín
mềm. Những xử lý đồng thời khác sau khi xử lý 1-MCP có thể cần thiết để quả cà
chua chín một cách bình thường về màu sắc vỏ. Một xử lý khác đã cho thấy cần
thiết sử dụng ethanol (Acedo và cộng sự., 1995). Biện pháp xử lý tốt nhất là 1 ml
ethanol cho mỗi kg cà chua trong 6 giờ bằng cách sử dụng phương pháp bay hơi và
4% ethanol trong 4 phút khi sử dụng phương pháp nhúng ngập.
Vận chuyển
Đây là một trong những công đoạn quan trọng trong xử lý cà chua bởi vì bất
cứ một thiếu sót nào trong hệ thống này (như điều kiện vận chuyển nghèo nàn, thao
tác cẩu thả, những sự chậm trễ) đều có thể dẫn đến những hao hụt nghiêm trọng
(Hình 26).
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 25 of 69
Hình 26. Điều kiện vận chuyển nghèo nàn dẫn đến những hao hụt cà chua nghiêm
trọng
Những phương tiện vận chuyển chủ yếu là xe bốc hàng, xe buýt và xe tải và
chúng thường không được làm lạnh. Để hạn chế thấp nhất những hao tổn, cần lưu ý
một số điểm sau:
a. Cách thức xếp hàng phù hợp – đối với các sọt tre, đặt các tấm gỗ ngăn nằm
ngang giữa các lớp trong khối hàng để tránh làm hỏng quả ở các lớp phía dưới
(Hình 27A). Với các loại bao bì như thùng gỗ hoặc sọt nhựa thì không cần thiết
(Hình 27B).
A
B
Hình 27. Cách thức xếp hàng đối với sọt tre (A) và sọt gỗ hoặc sọt nhựa (B) trên
phương tiện vận chuyển
b. Giữ chặt các thùng hàng trong một khối – Đảm bảo cho các thùng hàng trong
cùng một khối để giữ chúng không bị trật ra khỏi khối trong suốt quá trình vận
chuyển, điều có thể dẫn tới sự hư hỏng lớn.
c. Cần che phủ để tránh mưa, nắng và gió to – Sử dụng vải bạt để che phủ tránh
mưa ướt, phơi sản phẩm dưới trời nóng và dưới trời gió mạnh trong quá trình vận
chuyển. Quả bị ẩm ướt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của vi khuẩn và
thối hỏng, còn việc phơi nắng sẽ làm quả bị nóng lên. Phơi bày quả dưới tốc độ gió
cao dẫn đến sự mất hơi nước và làm héo quả.
d. Cần đảm bảo sự thông khí thích hợp để tránh hiện tượng nóng cục bộ hoặc sự
yếm khí làm tăng nhiệt độ và hàm lượng ethylen. Một hệ thống thông khí như ví dụ
ở Hình 28 (Pantastico, 1980). Khi vận chuyển cần che phủ cẩn thận bằng vải bạt và
tấm ngăn gió được làm bằng tấm Gl phẳng đặt cao hơn cabin.
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 26 of 69
Hình 28. Hệ thống thông khí trong xe tải không làm lạnh
e. Thao tác cẩn thận trong khi xếp vào hoặc lấy ra – Nếu không sẽ dễ gây hỏng quả
do va chạm như nứt quả (Hình 29).
Hình 29. Những vết nứt trên quả là biểu hiện của sự hư hỏng do va chạm
Để hạn chế thấp nhất việc làm rơi quả trong suốt quá trình tiến hành và thao
tác, có thể dùng một hệ thống băng tải như ở hình 30A (Pantastico, 1980). Băng tải
gồm 2 ròng rọc và một sợi dây chảo chắc chắn. Một ròng rọc được đặt bên trong xe
tải ở phía đầu thùng xe, cái thứ hai đặt ở một vị trí di động hoặc nơi cố định của nhà
kho. Thùng hàng có thể được treo trực tiếp hoặc đặt vào trong một cái rọ móc để
chuyển hàng lên hoặc xuống xe chở hàng. Sử dụng thang hoặc bục giúp hoạt động
vận chuyển hàng lên xuống được dễ dàng hơn (Hình 30B). Thang có thể di chuyển
được và mặt thang làm bằng gỗ hoặc sắt, chân thang làm bằng sắt.
A
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 27 of 69
B
Hình 30. Hệ thống băng tải (A) và cầu thang (B) giúp bốc và dở hàng thuận tiện
f. Thực hiện vận chuyển vào thời gian mát trong ngày – Điều này giúp bảo vệ quả
khỏi sự tăng hô hấp và suy giảm chất lượng.
g. Tránh những trì hoãn không cần thiết – Những trì hoãn trong suốt quá trình vận
chuyển tăng mức độ hao tổn chất lượng quả.
Tiêu thụ
Đây là khâu quan trọng cuối cùng của hoạt động sau thu hoạch giữa người
sản xuất hoặc người vận chuyển với người mua hoặc người tiêu dùng. Những hoạt
động xử lý ở thị trường quyết định chất lượng cuối cùng của sản phẩm bày bán và
cần cung cấp cho người tiêu dùng chất lượng tốt nhất có thể. Sản phẩm phải có bề
ngoài hấp dẫn, như tươi, không bị khuyết tật, chất lượng cao. Cần có những xử lý
thích hợp, không chỉ quan tâm đến riêng sản phẩm mà còn phải chú ý đến thao tác
của người xử lý. Ở hình 31, ví dụ, sọt đầy cà chua chín có thể được vận chuyển an
toàn hơn bằng xe đẩy hoặc xe chở hàng chuyên dụng.
Hình 31. Vận chuyển các sọt cà chua bằng tay ở chợ
ADB RETA 6208: Tài liệu tập huấn về Công nghệ sau thu hoạch cà chua và ớt cay. Page 28 of 69
Một số hoạt động quan trọng ở thị trường (người bán buôn và bán lẻ) đảm
bảo chất lượng và tính thương phẩm của cà chua như sau:
1. Thực hiện vệ sinh thích hợp – Sản phẩm hư hỏng phải được vứt bỏ, làm sạch cơ
sở đóng gói và bảo quản, khu vực bày bán phải được vệ sinh và lau dọn sạch sẽ. Có
thể sử dụng Chlorine 200ppm để khử trùng khu vực bán hàng.
2. Tái làm sạch – Lau quả làm cho chúng hấp dẫn người tiêu dùng hơn. Rửa quả
bằng nước chlorin hóa đối với những quả bị hư hỏng trong quá trình vận chuyển.
3. Tái lựa chọn, phân loại – Điều này là cần thiết đối với loạt cà chua có chất lượng
không đồng đều, lẫn lộn các độ chín, bị thương tổn do bệnh hoặc do cơ học. Điều
này cũng rất quan trọng trong việc đảm bảo tính đồng đều về chất lượng của sản
phẩm được bày bán.
4. Xử lý rấm chín – Cà chua được tiêu thụ nhiều nhất khi chín, do đó, có thể dấm
chín cà chua trước khi bày bán. Việc xử lý chín cần tuân theo quy định của địa
phương và phải được công bố rộng rãi.
5. Bao gói lại - Ở thị trường bán buôn, sản phẩm được lựa chọn lại và đóng trong
các túi nhỏ hơn, phù hợp hơn với phân phối lẻ.
6. Tránh hư hỏng do ethylene – Cà chua rất nhạy cảm với ethylene sinh ra bởi sự
chín ép. Mặt khác, cà chua chín cũng sản sinh ra hàm lượng lớn ethylene làm cho
quả chín không đúng lúc và làm giảm giá trị của những quả tươi khác, vì thường thị
trường bán buôn và bán lẻ thường bán các loại quả khác nhau. Những sản phẩm
sinh nhiều ethylen và những sản phẩm nhạy cảm với ethylen không nên để chung
trong một phòng hoặc trên cùng ngăn bày bán. Những nguồn sinh ethylen khác
(forklifts, phòng làm chín, quả hỏng) phải được khống chế. Sử dụng hệ thống thông
hơi và chất hấp phụ ethylen (như KMnO4) để làm giảm lượng ethylen trong khu
vực bảo quản.
7. Bảo quản – Tất cả lượng cà chua nhận về không thể phân phối hết trong cùng
một ngày, do đó cần phải bảo quản. Phòng bảo quản với chế độ bảo quản phù hợp là
cần thiết. Phải để ý đến sự tương thích của các loại quả cùng được bảo quản.
Tài liệu tham khảo
Acedo, A.L. Jr. 1997a. Storage life of vegetables in simple evaporative coolers.
Trop. Sci. 37:169-175.
Acedo, A.L. Jr. 1997b. Ripening and disease control during evaporative cooli
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CongnghesauthuhoachvakehoachtaphuanduanRETA6208.pdf