Công nghiệp VN trong sự nghiệp CNH-HĐHMỤC LỤC
PHẦN I : MỞ ĐẦU
PHẦN II: NỘI DUNG
I/ Vai trò của công nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
1. Vị trí và vai trò của công nghiệp
2. Vai trò của công nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa
3. Kinh nghiệm công nghiệp hoá, hiện đại hóa của thế giới
II/ Công nghiệp và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời gian qua
1. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở Việt Nam
2. Thực trang công nghiệp Việt Nam trong những năm qua
3. Nguyên nhân chủ yếu gây nên hạn chế về phát triển công nghiệp Việt Nam
III/ Phương hướng và giải pháp phát huy vai trò công nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
1. Phương hướng phát huy vai trò công nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
2. Các giải pháp chủ yếu để phát triển công nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
PHẦN III: KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
39 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1726 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa - Hiện đại hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i Đại biểu toàn quốc lần thứ V
và “Trước mắt là kế hoạch 5 năm 1986-1990, phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được 3 chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”3 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V
.
Từ quan điểm và chủ trương mới trên Đảng và Nhà nước ta đã cụ thể hóa bằng cơ chế và bằng các chính sách biện pháp thực hiện cụ thể là: chính sách kinh tế nhiều thành phần, chính sách kinh tế đối ngoại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chính sách tài chính tiền tệ kiềm chế lạm phát, chuyển cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Nhờ vậy nền kinh tế đã vượt qua trạng thái suy giảm lạm phát đáng kể, điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, tiếp tục công nghiệp hóa. Lạm phát từ mức 3 con số năm 1986: 5887,2%; năm 1987:417,6% ; năm 1988: 410,9%; giảm xuống còn hai con số năm 1989: 30%; năm 1990: 52,8%. Tốc độ tăng bình quân hàng năm của tổng sản phẩm xã hội là 4,8%. Thu nhập quốc dân: 3,9%; giá trị tổng sản lượng công nghiệp 5,2%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp 3,5%; giá trị xuất khẩu 28%; giá trị nhập khẩu 8%. Một số mặt hàng xuất khẩu cơ bản được hình thành như dầu mỏ, than đá, lâm hải sản, gạo. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong tất cả các lĩnh vực tăng nhanh. Thu nhập quốc dân năm 1991 tăng 2,4% so với năm 1990, năm 1992 tăng 5,4% so với 1991. Sản lượng công nghiệp tăng 5,3% (1991) và 15,5% (1992).
Cơ cấu công nghiệp bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng thích hợp và có hiệu quả hơn. Năm 1986 cơ cấu tổng sản lượng công nghiệp, ngành điện lực chiếm 3,66%; cơ khí 9,65%; hóa chất phân bón cao su 8,26% thì năm 1990 tỷ trọng tương ứng các ngành đó là 5,1% - 15,9% - 9,4%.
Giữa các ngành công nghiệp nhóm A và công nghiệp nhóm B đã bước đầu có sự điều chỉnh trong sự phát triển theo hướng chú trọng thích đáng hơn đến các ngành công nghiệp nhóm B để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước và để sử dụng tốt hơn các nguồn lực với kỹ thuật truyền thống lao động. Công nghiệp ngoài quốc doanh đã được phát triển chiếm 31,4% (1976) và 43% (1989) còn công nghiệp quốc doanh năm 1989 chiếm 57%.
Để tiếp tục những quan điểm, chủ trương chính sách đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ VII đã chỉ rõ: “Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường XHCN điều quan trọng nhất là phải cải tiến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển, phát triển lực lượng sản xuất CNH theo hướng hiện đại gắn liền với việc phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của XHCN không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân”1 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
. Đại hội Đảng VII cũng xác định mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm (1991-1995): “Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế”2 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
.
Quá trình đổi mới đã tạo nên được những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, thành tựu CNH trong những năm 1991,1992,1993 cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực tế hơn so với nhiều năm trước đây - lạm phát được kiềm chế, tốc độ tăng giá trị xuất khẩu lớn hơn tổng sản phẩm xã hội. Cán cân thanh toán chuyển từ thiếu hụt 9% GDP giữa năm 1980 sang thặng dư 2%GDP. Tổng sản phẩm trong nước 1991 tăng 6,1% so với năm 1990. Trong đó giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 10,4%; nông nghiệp tăng 1,9%; xuất khẩu tăng 13,2%.
Sự phát triển công nghiệp trong những năm đổi mới không chỉ thể hiện ở tốc độ tăng trưởng mà quan trọng hơn là ở sự chú trọng đổi mới công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp, và ở sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng sản xuất gắn với thị trường trong và ngoài nước, phát triển nhanh các ngành có lợi thế so sánh, các ngành có tác động đến sự phát triển chung của nền KTQD và đa dạng hóa các loại hình tổ chức kinh doanh. Ngành dầu khí có sự phát triển vượt bậc, ngành than có khối lượng xuất khẩu vượt 1,6 triệu tấn, ngành sản xuất điện phát triển mạnh, ngành dệt và may mặc cũng phát triển phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm đã có bước tiến mới góp phần đưa sản lượng gạo xuất khẩu đạt 2 triệu tấn.
Qua nghiên cứu hai giai đoạn phát triển của CNH ta thấy trong suốt 30 năm qu quá trình CNH XHCN ở nước ta đã giành được thành tựu và thắng lợi. Kiên trì thực hiện CNH không chỉ trong những năm hòa bình mà ngay cả trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại. Bước đầu tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật trong các ngành KTQD nhất là trong công nghiệp (điện, dầu mỡ, xi măng, luyện kim...) thúc đẩy quá trình thay đổi từ giản đơn, lạc hậu trì trệ kém hiệu quả, dần dần tiến tới một cơ cấu có nhiều ngành, nhiều thành phàn trong những năm đàu của quá trình đổi mới CNH-HĐH đã mang sắc thái mới, đã có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung và bước đầu đồng bộ hóa, cụ thể bằng cơ chế và chính sách. Do vậy CNH-HĐH đã được tiến hành phù hợp hơn với hoàn cảnh quốc tế và điều kiện khả năng trong nước, các tiềm năng nguồn lực của đất nước bước đầu được khơi dậy, kinh tế phát triển thực chất hơn. Tạo ra nguồn lao động và đội ngũ lao động dồi dào với trình độ dân trí được nâng cao, tỷ trọng lao động có trình độ nghề nghiệp kỹ thuật ngày càng cao.
Tuy nhiên, quá trình CNH-HĐH ở nước ta hơn 30 năm qua còn những tồn tại:
Quá trình CNH diễn ra quá chậm
Phân công lao động xã hội phát triển chậm chạp, cơ cấu kinh tế thiếu năng động, hiệu quả thấp, chứa đựng nhiều bất hợp lý, nhiều mặt mất cân đối nghiêm trọng... chưa kết hợp tốt cơ cấu ngành với cơ cấu thành phần và cơ cấu lãnh thổ trong một trạng thái đồng bộ, năng động có hiệu quả để thực hiện tốt các mục tiêu chung của phát triển kinh tế xã hội.
Trình độ trang bị kỹ thuật công nghệ thấp kém, mất cân đối, đổi mới chậm.
Sự nghiệp CNH-HĐH phải đương đầu với nhiều khó khăn mâu thuẫn do sai lầm trước đây để lại và do thử thách mới đưa tới. Đó là tỷ lệ thất nghiệp còn cao, đời sống thấp, tỷ lệ tích lũy và đầu tư thấp, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn về vốn và thị trường sản xuất.
2. Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong những năm qua:
Trong những năm gần đây, nhất là trong quá trình đổi mới, khu vực công nghiệp phải đương đầu với những khó khăn khá gay gắt. Do những khuyết điểm, sai lầm trong quá khứ về chính sách cơ cấu và chính sách đầu tư, đến nay công nghiệp nước ta có trên 4584 xí nghiệp nhưng trình độ công nghệ chỉ đạt từ 60%-70% mức trung bình của thế giới. Thậm chí có loại chỉ bằng 15-20%. Nhiều loại thiết bị sử dụng đã làm cho mức hao phí nguyên liệu gấp 2 đến 3 lần mức trung bình của thế giới. Nét nổi bật là thiết bị cũ, thiếu phụ tùng thay thế, thiếu bảo dưỡng và sửa chữa nên thiết bị ngày càng xuống cấp nghiêm trọng. Theo con số kiểm kê ngày 1-1-1990 TSCĐ của công nghiệp (chủ yếu là công nghiệp quốc doanh) lên tới gần 29.000tỷ động, giá trị còn lại hơn 16.500 tỷ đồng. Trong đó máy móc thiết bị được sử dụng trực tiếp để làm ra sản phẩm chỉ chiếm 26%, còn nhà cửa vật kiến trúc chiếm tỷ trọng đến 36%.
Do chưa ý thức đầy đủ về giá thành và chất lượng, nhất là chưa có quan điểm rõ ràng trang việc nâng cao đặc tính kỹ thuật của sản phẩm và quy trình sản xuất nên giá thành sản phẩm sản xuất thường cao, chất lượng kém, hình dáng xấu, vì thế sản phẩm khó tiêu thụ. Trong thời gian qua chỉ có 70% sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Nhiều xí nghiệp đòi hỏi được trang bị và HĐH nhưng lại gặp phải khó khăn về nguồn vốn đầu tư.
Phần lớn các xí nghiệp chỉ mới hoạt động 50%-60% công suất máy. Trình độ sử dụng tài sản thấp phổ biến là làm việc 1 ca (36%). Hệ số sinh lợi của vốn cố định (lợi nhuận trên 1000đồng VCĐ) trong năm 1989: bình quân toàn quốc đạt 70 đồng trong đó công nghiệp chỉ đạt 30 đồng.
Sự phát triển quá lớn về lượng của các xí nghiệp công nghiệp địa phương càng làm gay gắt thêm tình trạng mất cân đối của nền kinh tế và gây lãng phí lớn trong sử dụng vốn đầu tư, tài nguyên, nguyên vật liệu. Hiện nay bình quân mỗi tỉnh, thành phố có 60%-70% xí nghiệp công nghiệp, quá khả năng cho phép của một địa phương.
Tuy nhiên cùng với chính sách chuyển dịch cơ cấu, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế theo đường lối Đại hội lần thứ VII của Đảng đề ra, nhiều cơ sở kinh tế, nhất là các xí nghiệp quốc doanh trung ương đang thích ứng dần với môi trường kinh doanh mới, bước đầu duy trì, ổn định và phát triển sản xuất. Nhiều loại sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng nhanh và chất lượng nâng lên rõ rệt, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường như điện, than, dầu thô, máy biến thế, xi măng, động cơ điezen... Điểm nổi bật là hầu hết các xí nghiệp dần dần gắn sản xuất với thị trường, chú ý đầu tư chiều sâu, đổi mới mặt hàng, quan tâm đến chi phí giá thành. Một số xí nghiệp bắt đầu làm ăn có lãi thực sự và tăng nhanh khoản nộp cho ngân sách Nhà nước (như liên hiệp xí nghiệp xi măng năm 1990 nộp ngân sách gấp 19 lần năm 1991). Nhiều điển hình tốt xuất hiện như liên hiệp xí nghiệp dệt Long An; Liên hiệp xí nghiệp giày dép xuất khẩu Hải Phòng, xí nghiệp điện cơ thống nhất Hà Nội; xí nghiệp bột giặt Ticơ thành phố Hồ Chí Minh...
Đây là những chuyển biến bước đầu trong công nghiệp và có thể xem xét đánh giá thực trạng cơ cấu công nghiệp Việt Nam trong thời gian qua:
Thời gian năm 1955-1975:
Đây là thời kỳ phát triển sôi động nhất của nền công nghiệp nước ta. Sau hòa bình lập lại ở miền Bắc chúng ta đã nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh. Cho đến nay hầu hết nhà máy lớn còn tồn tại và phát huy tác dụng đều được xây dựng trong thời kỳ này như: cơ khí Hà Nội, cơ khí Trần Hưng Đạo, cơ khí Trung tâm (Cẩm Phả), Khu Gang thép Thái Nguyên, phân đạm Hà Bắc, phân lân Văn Điển, Apatít Lào Cai... Hàng loạt nhà máy điện được xây dựng mới: điện Vinh, Lao Cai, Uông Bí, Ninh Bình, Quảng Ninh,... được khôi phục cải tạo và phát triển.
Trong công nghiệp nhẹ, chúng ta đã xây dựng một số cơ sở tương đối lớn như khôi phục và mở rộng nhà máy liên hiệp dệt Nam Định, xây dựng nhà máy dệt kim 8/3.
Do những nỗ lực trên giá trị tổng sản lượng công nghiệp đã tăng lên với nhiệp điều nhanh.
Tóm lại, đó là thời kỳ công nghiệp phát triển công nghiệp theo chiều rộng với số vốn đầu tư khá lớn và cũng nhanh chóng phát huy tác dụng, mức huy động công suất máy móc, thiết bị khá cao. Với cơ cấu công nghiệp như vậy góp phần vào việc phát triển các ngành kinh tế khác, trước hết là nông nghiệp có tác động trực tiếp vào nâng cao mức sống toàn dân. Với chủ trương xây dựng kinh tế địa phương làm hậu cần tại chỗ nên công nghiệp địa phương thời kỳ phát triển mạnh nhất là ngành cơ khí địa phương.
Tính đến năm 1975 miền Bắc có 1337 xí nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh với 35,5 vạn lao động, khu vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp 309 hợp tác xã cùng hàng vạn tổ sản xuất với 60,4 vạn lao động. Giá trị tổng sản lượng đạt 4 tỷ đồng chiếm 24% trong tổng thu nhập quốc dân (miền Bắc bằng 53,6% tổng sản lượng công nông nghiệp).
Sản phẩm bình quân đầu người:
Điện: 63KWh vải: 4,5m
Than: 214kg Giấy: 0,24kg
Xi măng: 15,3kg Đường: 0,54kg
Thời kỳ năm 1976 đến năm 1985:
Sau khi thống nhất đất nước, công nghiệp miền Bắc với sự bổ sung của miền Nam đã có thay đổi nhất định. Đây là thời kỳ cả nước có nhiều biến động. Vừa qua khỏi cuộc chiến tranh kéo dài mấy thập kỷ lại bước vào cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và phía Tây Nam của Tổ quốc. Nền kinh tế bị bao vây, Trung Quốc cắt viện trợ, các nước phương Tây tẩy chay chúng ta thì chỉ còn lại Liên Xô (cũ). Trong thời kỳ này nhiều dự án đầu tư với số vốn lớn đã không thực hiện được. Nhiều máy móc thiết bị toàn bộ nhập về không lắp ráp được hoặc xây dựng xong phải đóng cửa vì thiếu nguyên vật liệu v.v...
Thành quả lớn nhất của thời kỳ này là đã cố gắng duy trì năng lực sản xuất của công nghiệp nhẹ và thực phẩm đồng thời xây dựng một số cơ sở như giấy Bãi Bằng, điện Phả Lại, điện Hòa Bình, Trị An, xi măng Bỉm Sơn và Hoàng Thạch...
Kết quả đã làm cho tài sản cố định tăng 2,5 lần số lượng xí nghiệp quốc doanh tăng 1,4 lần. Số lượng công nhân tăng 1,3 lần, khối lượng sản phẩm tăng gấp 2 lần.
Nguyên nhân chủ yếu là cơ sở sản xuất nhiều, lực lượng lao động đông đặc, song mất cân đối (thiếu điện, nguyên liệu, phụ tùng thay thế v.v...) nên không huy động được công suất vốn có, chậm đưa cơ sở mới đầu tư vào hoạt động. Sản phẩm thiếu thị trường tiêu thụ.
Thời kỳ năm 1986 cho đến nay:
Nét nổi bật là hầu hết các cơ sở công nghiệp cấp huyện và một số cấp tỉnh, thành quản lý đều đứng bên bờ vực của phá sản. Đối với ngành cơ khí chế tạo máy móc thiết bị già cỗi, lạc hậu mặt hàng không thích hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. Các cơ sở sửa chữa cơ khí hầu hết đều không có việc làm, rơi vào tình trạng bế tắc. Một số ít cơ sở công nghiệp tìm đường ra bằng cách đa dạng hóa sản phẩm, chuyển mạnh sang sản xuất theo đơn đặt hàng của các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, xây dựng, giao thông vận tải.
Ngành luyện kim cả kim loại màu và kim loại đen cũng gặp không ít khó khăn sản xuất cầm chừng. Ngành dệt và may còn duy trì và phát triển được do nhập nguyên liệu nước ngoài. Nhiều cơ sở đã mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị như dệt khổ rộng, nâng cấp sản phẩm, tạo nguyên liệu cho ngành may có điều kiện sản xuất những loại quần áo đáp ứng nhu cầu thị hiếu nước ngoài.
Ngành năng lượng nhờ sự đầu tư tập trung của Nhà nước đã phát triển khá mạnh do đưa vào sử dụng những cơ sở năng lượng quy mô lớn. Bên cạnh đó là những thành tựu về khai thác dầu lửa ở thềm lục địa phía Nam góp một tỷ trọng đáng kể trong nguồn thu của ngân sách Nhà nước.
Qua nghiên cứu quá trình biến đổi cơ cấu ngành công nghiệp ta thấy được ta thấy được mới chỉ là những buổi ban đầu của công nghiệp, khó khăn vẫn còn lớn, nhiều xí nghiệp đang đứng trước quy mô phá sản thua lỗ kéo dài, không có khả năng hoàn trả vốn.
3. Nguyên nhân chủ yếu gây nên hạn chế về phát triển công nghiệp Việt Nam:
Thông qua việc nghiên cứu thực trạng nền công nghiệp Việt Nam trong thời gian qua, ta đã thấy được những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế của nền công nghiệp nước ta. Những thành tựu do công nghiệp đạt được thật vô cùng to lớn góp phần nâng cao TNQD, giúp cho các ngành khác phát triển, bản thân ngành công nghiệp đạt được những thành tựu to lớn, đã từng bước xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật, dần dần hình thành các khu công nghiệp hóa. Giá trị tổng sản lượng của công nghiệp trong nền KTQD ngày càng tăng.
Bên cạnh đó những hạn chế về sự phát triển công nghiệp không nhỏ, trình độ kỹ thuật chưa cao, chưa phát huy hết vai trò chủ đạo của mình trong nên KTQD. Công nghiệp còn vấp phải nhiều khó khăn mà một trong những nguyên nhân làm cho công nghiệp không phát huy hết vai trò của mình là :
Trong quá trình phát triển công nghiệp nước ta đã gặp phải một khó khăn lớn là phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ .
Cuộc chiến tranh đã gây nên nhiều thiệt hại cho nền kinh tế nước ta , trong đó công nghiệp chịu một phần không nhỏ. Nhiều cơ sở công nghiệp nhà máy bị phá hủy gây nên tình trạng nền công nghiệp khó khăn để phát triển . Mỹ muốn nước ta quay trở lại thời kỳ đồ đá do vậy phá hoại nền kinh tế một cách nặng nề .
Quá trình quản lý kinh tế của Đảng đã mắc nhiều sai lầm , chủ quan duy ý trí , nóng vội trong chủ trương CNH ,HĐH đất nước bằng con đường đẩy mạnh phát triển công nghiệp nặng. Do vậy làm cho công nghiệp khỏi phát huy được vì không thể một chốc một lát phát triển ngay công nghiệp nặng mà phải qua phát triển công nghiệp và công nghiệp nhẹ . Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp kéo dài đã gây không ít khó khăn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong phát triển công nghiệp lực lương sản xuất là một yếu tố quan trọng góp phần không nhỏ, lực lượng sản xuất phát triển cho phù hợp với đặc điểm và tính chất của quan hệ xã hội. Do vậy lực lượng sản xuất không phát triển thì không thể phát triển được công nghiệp .
Chúng ta chưa xác định rõ ràng hướng đi của CNH cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của đất nước. Hướng CNH phụ thuộc nhiều vào quá trình CNH ở Liên Xô (cũ) do vậy quá trình CNH ở nước ta diễn ra chậm. Quá trình CNH có quan hệ đến quá trình phát triển công nghiệp làm cho quá trình phát triển công nghiệp cũng chậm lại.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội có ảnh hưởng rất nhiều đến việc hình thành và phát triển công nghiệp nước ta. Từ chiến lược đề ra cơ cấu công nghiệp hợp lý nhằm sử dụng tốt nhất mọi tiềm năng của đất nước về lao động, tài nguyên, tiền vốn, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội với hiệu quả cao.
Quá trình phân công lao động ở nước ta chưa thực sự phát huy tác dụng, việc chuyên môn hóa bước đầu được thực hiện nhưng chưa cao, các mối liên hệ giữa các ngành đã được hình thành nhưng chưa chặt chẽ. Việc đưa khoa học kỹ thuật vào nước ta còn ồ ạt, thiếu chọn lọc. Quá trình chuyển giao công nghệ không chọn được công nghệ phù hợp nhập vào trong nước những công nghệ quá lạc hậu hoặc quá hiện đại mà chúng ta không sử dụng được do yếu về trình độ. Có những công nghệ nhập về lại phải mời chuyên gia về gây tốn kém và không sử dụng hết công suất của máy.
Đối với những nước chậm phát triển như nước ta, tài nguyên thiên nhiên là nhân tố quan trọng trong việc phát triển công nghiệp. Với tiềm năng nguyên liệu hiện có chúng ta có điều kiện hình thành các ngành công nghiệp đặc biệt là các ngành công nghiệp khai thác và công nghiệp chế biến và thu hút được lực lượng lớn lao động. Tuy nhiên việc khai thác tài nguyên của nước ta chưa hợp lý, làm cạn kiệt những nguồn tài nguyên thiên nhiên quý và không chú trọng cải tạo khôi phục những nguồn tài nguyên hữu hạn.
Trong điều kiện hiện nay của nước ta, nền kinh tế là nền kinh tế mở do vậy thị trường không còn bó hẹp trong nước mà đã mở rộng ra khu vực và thế giới. Nhưng sản phẩm công nghiệp của nước ta không chinh phục được thị trường, chưa được thị trường chấp nhận, do vậy sản phẩm sản xuất không bán được ra thị trường thế giới.
Bên cạnh đó là những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể. Mỗi giai đoạn lịch sử phát triển đều có một trình độ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất do vậy công nghiệp phải thường xuyên thay đổi và điều chỉnh cho phù hợp điều kiện lịch sử.
Từ tất cả những nguyên nhân trên nên công nghiệp nước ta hiện nay chưa phát huy hết vai trò của mình. Những thành tựu mà công nghiệp đạt được thật đáng kể tuy là công nghiệp có những hạn chế.
III/ Phương hướng và giải pháp phát huy vai trò công nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
1. Phương hướng phát huy vai trò công nghiệp trong quá trình CNH-HĐH đất nước.
Một số quan điểm và định hướng về phát triển cơ cấu công nghiệp trong quá trình CNH-HĐH đất nước.
Hiệu quả kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn cơ bản và quan trọng nhất, chi phối các tiêu chuẩn khác và chi phối quá trình CNH-HĐH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Hiệu quả xã hội là mục tiêu còn hiệu quả kinh tế là phương tiện. Hiệu quả kinh tế xã hội có liên quan đến yêu cầu của sự phát triển kinh tế thị trường văn minh gắn với hiện đại hóa kỹ thuật công nghệ, gắn với cơ cấu kinh tế mở cửa và chiến lược thị trường hướng ngoại, gắn với mô hình phát triển chiều sâu, gắn với việc tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Trong thời đại ngày nay công nghiệp hóa phải gắn với HĐH. Phải triệt để khai thác lợi thế phát triển, muốn phát triển công nghiệp, từ những yêu cầu vượt qua ranh giới nước nghèo, rút ngắn khoảng cách lạc hậu của nước ta so với nước văn minh.
Gắn một cách hữu cơ giữa việc xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa với phát triển mô hình kinh tế thị trường và theo sau đó là mô hình cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Quan điểm này phản ánh mối quan hệ về sự phát triển giữa lực lượng sản xuất (gắn với khoa học công nghệ) quan hệ sản xuất (gắn với quan hệ kinh tế hàng hoá - tiền tệ).
Quá trình xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đặt trong sự gắn bó giữa công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ cùng với cơ cấu kinh tế mở cửa và theo đó là chiến lược thị trường hướng ngoại... Quan điểm này bắt nguồn từ sự phát triển không đều về lợi thế so sánh giữa các nước với nhau và xu hướng quốc tế hóa gắn với sự xuất hiện những gay cấn mang tính toàn cầu.
Những bài học kinh nghiệm của quá trình xây dựng và phát triển công nghiệp nước ta:
Từ thực trạng của công nghiệp đất nước và những kết quả bước đầu của công nghiệp đất nước và những kết quả bước đầu của quá trình đổi mới, từ việc xem xét và đánh giá một cách toàn diện hơn quá trình xây dựng cơ cấu công nghiệp trong mấy chục năm qua nhất là từ năm 1976 đến nay, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
Vốn đầu tư bỏ ra cho quá nhiều dự án, không ưu tiên và xem xét một cách toàn diện và khoa học, do đó thời gian xây dựng được kéo dài, nhiều công trình dở dang.
Chưa dự tính một cách đúng đắn những hạn chế nguồn vốn, nguyên liệu (đặc biệt là nguyên liệu nhập khẩu) nên công suất thiết bị sử dụng và hiệu quả hoạt động thấp.
Một nền công nghiệp khép kín mang nặng tính tự cung tự cấp được hình thành, việc phát triển hướng nền xuất khẩu không được quan tâm đúng mức.
Các xí nghiệp không được chuyên môn hóa đầy đủ , thiết bị lạc hậu thiếu đồng bộ, thiếu sự hợp tác với nhau, đặc biêt thiếu sự liên kết ngang, ít có quan hệ giữa các đơn vị và với các ngành kinh tế khác .
Yếu tố thị trường bị xem nhẹ, vì vậy công tác cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm không được quan tâm đầy đủ .
Chưa có biện pháp và chính sách thỏa đáng đối với tiểu thủ công nghiệp và sử dụng các thành phần kinh tế khác để có thể khai thác có hiệu quả hơn tiềm năng và các ngành nghề truyền thống cũng như thu hút lực lượng lao động vào sản xuất .
Đúng như Đại hội lần thứ VI của Đảng đã nhận định, chúng ta đã đề ra những chỉ tiêu quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, không coi trọng đúng sức việc khôi phục xắp xếp lại nền kinh tế, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung giải quyết về vấn đề lương thực, thực phẩm , phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khảu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
Trên những bài học kinh nghiệm trên ta rút ra phương hướng , biện pháp phát triển đối với quá trình CNH - HĐH và phát triển công nghiệp nước ta.
Phương hướng và biện pháp CNH - HĐH các ngành KTQD ở nước ta
* Phương hướng CNH-HĐH các ngành KTQD nươc ta trong những năm tới .
- Phát triển các ngành KTQD dựa trên cơ sở và kỹ thuật công nghệ ngày càng hiện đại nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng là " thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh ", tiến lên hiện đại trong một xã hội thật dân chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỹ cương, xóa bỏ áp bức bất công, tạo điều kiện cho nhân dân có cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc " (Võ Văn Kiệt - báo Nhân dân 9/2/l993.
- Phát triển đồng thời cả 3 lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trong một hệ thống mở với cơ cấu năng động, có hiệu quả và chuyển dịch theo huớng CNH,HĐH.
- Phát triển công nghiệp chế biến gắn bó các nông lâm ngư nghiệp để đáp ứng nhu cầu trong nước đẩy mạnh xuất khẩu, phát huy lợi thế sinh thái, bảo vệ môi trường và tài nguyên.
- Phát triển mạnh công nghiệp hàng tiêu dùng để thỏa mãn nhu cầu các loại thông thường, tăng mức đáp ứng, nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của nhân dân và đẩy mạnh xuất khẩu tạo nhiều việc làm , tạo nguồn tích lũy ban đầu cho CNH.
- Phát triển có sự lựa chọn các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, khai thác và chế biến khoáng sản. Ưu tiên phát triển các ngành xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật (đường, cầu cống , điện , nước ...) phục vụ cho sản xuất và đời sống .
- Phát triển mạnh các ngành và các hoạt động dịch vụ với một cơ cấu đa dạng, chất lượng ngày càng cao , trình độ ngày càng văn minh hiện đại để khai thác tốt nhất mọi nguồn lực gắn liền với phục vụ tốt nhất các ngành sản xuất vật chất và các ngành này thực hiện tốt mục tiêu chung của chiến lượng phát triển kinh tế - xã hội .
- Công nghiệp hóa các ngành KTQD phải dựa trên cơ sở áp dụng nhanh chóng và có hiệu quả tiến bộ khoa học và công nghệ vào tất cả các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ ... Do vậy mục tiêu và phương hướng của quá trình này là:
- Nâng cao trình độ trang bị kỹ thuật và đổi mới công nghệ trong tất cả các nganh công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ nhằm tạo ra nhiều sản phẩm và dịchu vụ có chất lương tốt hơn chi phí thấp hơn, lợi nhuận cao hơn và tạo ra nhiều việc làm hơn.
- Kết hợp kỹ thuật và công nghiệp nhiều trình độ theo hướng sử dụng totó kỹ thuật và công nghiệp hiện có chưa được khai thác và sử dụng tốt, hiện đại hóa kỹ thuật và công nghệ truyền thống đi thẳng vào kỹ thuật và công nghệ hiện đại ở nơi có nhu cầu và có điều kiện.
- Chú trọng áp dụng công nghệ vừa có hiệu quả về mặt kỹ thuật, vừa có hiệu quả cao về kinh tế xã hội và bảo vệ được môi trường .
- Thực hiện phương pháp tổ chức sản xuất và tổ chức lao động khoa học trong tổ chức quản lý quá trình phát triển kinh tế xã hôi.
Công nghiệp hóa các ngành KTQD phải thúc đẩy phân công lao động xã hội theo hướng phát triển sản xuất hàng hóa lớn. Quá trình này cần có điều kiện và biện pháp thực hiện sau:
- Giải quyết vấn đề sở hữu: khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, chú trọng phát triển các công ty cổ phần, xí nghiệp liên doanh đưa chúng trở thành loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu. Sắp xếp lại các xí nghiệp quốc doanh theo hướng đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả và làm cho xí nghiệp quốc doanh có tác dụng như là một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước .
- Giải quyết vấn đề huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả.
- Giải quyết tốt quan hệ phát triển với đầu tư tiết kiệm và tiêu dùng, tăng tỷ lệ đầu tư trong GDP lên trên 2o% chủ yếu bằng chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tăng nhanh và nhiều phần đầu tư từ tư nhân và doanh nghiệp.
- Khôi phục mọi nguồn vốn trong nước đồng thời thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài: liên doanh hợp tác kinh doanh .
- Quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh .
- Thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất và đời sống.
- Trên cơ sỏ quán triệt chiến lược con người cần có hệ thống biện pháp đồng bộ về phân bố, sử dụng đào tạo, bồi dưỡng người lao động.
- Phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của liên kết kinh tế giữa các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân,.
- Đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao vai trò của nhà nước đối với sự nghiệp CNH-HĐH nhanh và có hiệu quả ...
Phương hướng phát triển công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:
Nhận thức và đánh giá đúng vai trò chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về mặt phương pháp luận và về tổ chức chỉ đạo thực tiễn. Từ kinh nghiệm của các nước có điểm suất phát giống như nước ta, từ điều kiện cụ thể về tài nguyên lao động và các nguồn lực khác cũng như những nguồn lực có thể thu hút từ bên ngoài, sự lựa chọn cơ cấu và định hướng phát triển những lĩnh vực kinh tế chủ yếu, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện sự kết hợp chặt chẽ, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau giữa hai lĩnh vực này trong hệ thống kinh tế mở là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Vì vậy phải có ý thức phát triển nông -lâm ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiêm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế-xã hội, tăng tốc độ và tỷ trọng công nghiệp, mở rộng kinh tế dịch vụ, tăng cường cơ sở hạ tầng, bước đầu đưa nền kinh tế vượt khỏi tình trạng nông nghiệp lạc hậu. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của nông nghiệp đạt khoảng 4%-5%, của công nghiệp đạt khoảng 10%-l2% (trích: chiến lược ổn định và phát triển kinh tế -xã hội đến năm 2000- nhà xuất bản sự thật - Hà nội - l990 )
Trên cơ sở đó tạo ra những tiền đề cần thiết để thực hiện thắng lợi chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội mà Đại hội lần thứ VII của Đảng đã đề ra, tạo điều kiện cho quá trình CNH,HĐH đất nước cho giai đoạn tiếp theo .
Từ một nước nông nghiệp phổ biến là sản xuất nhỏ, trong điều kiện của nền kinh tế mở, sự lựa chọn cơ cấu và định hướng phát triển các lĩnh vực kinh tế chủ yếu là một nhiệm vụ đặc biệt có ý nghĩa. Trong thập kỷ tới, nông nghiêp vẫn có vị trí quan trọng, giá trị sản lượng không ngừng tăng lên, song tỷ trọng của nó trong nền kinh tế sẽ giảm dần trong tổng sản phẩm quốc dân và cùng với quá trình ấy là sự tăng lên của các ngành sản xuất công nghiệp. Vì vậy cần khắc phục tình trạng thuế gắn bó giữa công nghiệp và nông nghiệp nhằm đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của nông nghiệp (bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp) ở cả đầu vòa và đầu ra. Như vậy công nghiệp phải đảm bảo các nguồn phân bón thuốc trừ sâu, công cụ, máy móc thiết bị phụ tùng chế biến bảo quản... đồng thời đáp ứng nhu cầu về việc làm cho ngưới lao động nâng cao đời sống nhân dân và nhu cầu xuất khẩu... Theo hướng phát triển đó, quá trình phát triển công nghiệp của nước ta cần đảm bảo yêu cầu khách quan sau đây:
-Thực hiện sự kết hợp giữa phát triển công nghiệp và nông nghiệp.
- Xây dựng công nghiệp với nhiều loại hình công nghệ sử dụng nhiều lao đông.
- Xây dựng công nghiệp với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế.
- Xác định ngành công nghiệp mũi nhọn đã có chính sách đầu tư thoả đáng và tạo điều kiện thâm nhập thị trường thế giới .
- Mở rộng và phát triển quan hệ hợp tác quốc tế thu hút vốn đầu tư và kỹ thuật của nước ngoài tạo bước nhảy vọt trong kỹ thuật và công nghệ .
Với những yêu cầu khách quan trên, phương hướng phát triển công nghiệp trong thời gian tới là:
- Phương hướng chủ yếu và quan trọng nhất là xây dựng một cơ cấu kinh tế công nghiệp hợp lý. Cơ cấu công nghiệp là số lượng ngành công nghiệp chuyên môn hóa và mối liên hệ kinh tế sản xuất giữa các ngành đó biểu hiện quan hệ tỷ lệ về mặt lượng trong lĩnh vực sản xuất giữa các ngành đó với nhau. Cơ cấu ngành công nghiệp phản ánh những tác dụng chủ yếu sau:
- Trình độ phát triển và mức độ hoàn chỉnh công nghiệp của đất nước : Công nghiệp càng phát triển và cơ cấu càng hoàn chỉnh thì càng phát huy vai trò chủ đạo đối với nền kinh tế quốc dân. Nó cho phép xác lập nên những cân đố mới mang lại hiệu quả kinh tế lớn hơn cho công nghiệp và cho nền KTQD.
- Cho thấy mức độ tự chủ của nền kinh tế nước nhà. Sự xuất hiện ngày càng nhiều số lượng các ngành chuyên môn hóa và sự liên hệ giữa chúng với nhau bảo đảm cho việc sản xuất ngày càng nhiều với chất lượng cao, các mặt hàng về tư liệu sản xuất, và tư liệu tiêu dùng phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu, tăng cường tiềm lực kinh tế.
- Cho thấy trình độ phát triển kỹ thuật và trình đô xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của công nghiệp cũng như các ngành khác của nền KTQD.
- Cho thấy trình độ năng suất lao động xã hội và mức độ hiệu quả của sản xuất công nghiệp. Với cơ cấu công nghiẹp hoàn chỉnh cho ta thấy được năng suất lao động ngày càng tăng lên. Bởi vì trong quá trình sản xuất chúng ta đã áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, tận dụng hết công suất máy móc, làm cho tốc độ tăng sản lượng lớn hơn tốc độ tăng đầu tư, giá thành sản hàng năm hạ xuống, năng suất lao động tăng lên.
- Việc xây dựng cơ cấu ngành công nghiệp gắn với quá trình CNH là một nội dung quan trọng trong quá trình CNH-HĐH đất nước. Nó thể hiện mức độ hoàn chỉnh hợp lý của sự phát triển của bản thân công nghiệp về mặt phân công lao đông thể hiện cáhc thực hiện mối quan hệ cân đối theo những tỷ lệ nhất định trong quá trình từng bước xây dựng một nền công nghiệp tương đối hoàn chỉnh trong khuôn khổ của một nền kinh tế độc lập, tự chủ .
Để thực hiện mục tiêu CNH-HĐH đất nước chúng ta phải xây dựng một cơ cấu công nghiệp tương đối hoàn chỉnh, cân đối và hiện đại và phải phấn đấu tiến lên xây dựng một cơ cấu công nghiệp tiên tiến, đảm bảo thỏa mãn nhu cầu của nền KTQD với chi phí lao động xã hội ít nhất và thời gian ngắn nhất đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế của toàn bộ sản xuất xã hội. Do đó phải kế hoạch hóa cơ cấu của công nghiệp, cần phải biết phân loại đúng đắn các ngành công nghiệp, phải xác định mối liên hệ sản xuất và vị trí của ngành đó cũng như những nhân tố ảnh hưởng đến nó .
- Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu ngành công nghiệp nhưng có 6 nhân tố cơ bản là: tiến bộ khoa học - kỹ thuật, trình độ và tính chất phát triển công nghiệp, trình độ và tính chất phát triển nông nghiệp tình hình tài nguyên thiên nhiên, điều kiện lịch sử kinh tế chính trị xã hội và trình độ phân công lao động quốc tế.
Các nhân tố này tạo nên một hệ thống phức tạp có quan hệ mật thiết với nhau và đồng thời phát huy tác dụng ảnh hưởng đối với cơ cấu ngành công nghiệp. Qua việc xem xét phân tích các nhân tố cho ta thấy ý nghĩa to lớn của nó trong việc xây dựng một cơ cấu công nghiệp hợp lý và có hệu quả. Một cơ cấu công nghiệp hợp lý và có hiệu quả phải là:
- Một cơ cấu có khả năng phát triển các ngành công nghiệp chuyên môn hóa cũng như các ngành tiểu thủ công nghiêp.
- Một cơ cấu có khả năng sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động.
- Một cơ cấu sử dụng hợp lý nguyên liệu của các ngành khai thác nông lâm, ngư nghiệp.
- Một cơ cấu phải phát triển ngành đáp ứng nhu cầu thiết yếu hiện nay là sản xuất, tiêu dùng và phục vụ xuất khẩu .
Như vậy cơ cấu ngành công nghiệp hơp lý và có hiệu quả phải là cơ cấu ngành đảm bảo cho năng suất lao đông xã hội tăng nhanh thỏa mãn mục đích của nhân dân mà quy luật kinh tế cơ bản yêu cầu.
Một trong những hướng phát triển trong công nghiệp nước ta là phát triển công nghiệp chế biến các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp. Việc hình thành và phát triển hệ thống công nghiệp chế biến không nên phân bố theo địa lý hình thành mà nên theo vùng lãnh thổ trên cơ sở tiềm năng và ưu thế của từng vùng.Như vậy sẽ hình thành các loại xí nghiệp chế biến lương thực thực phẩm, chế biến các sản phẩm nông nghiệp chế biến thủy sản.
Cùng với quá trình hình thành hệ thống công nghiệp chế biến là quá trình phân công lại lao động trong công nghiệp. thu hút một bộ phận đáng kể lao động vào hoạt động chế biến, bảo quản và vận chuyển. Đồng thời từng bưóc hoàn thiện cơ sở hạ tầng để phục vụ cho hoạt động chế biến có hiệu quả hơn. Đối với những xí nghiệp chế biến sản phẩm xuất khẩu cần đầu tư thiết bị đông bộ và hiện đại để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, tạo lập uy tín dtrên thị trường thế giới giảm dần và tiến tới chấm dứt việc xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu.
Phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng hợp tác gia công làm hàng xuất khẩu. Phương châm đúng là tận dụng khả năng của các thành phần kinh tế, sử dụng lao động, tạo ra sản phẩm tiêu dùng nội địa ngày càng nhiều, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân cả về số lượng, chất lượng và chủng loại.
Mở rộng hình thức gia cong, liên doanh hợp tác với nước ngoài để làm hàng xuất khẩu là biện pháp và sách lược quan trọng nhất để từng bước hiện đại hóa các ngành sản xuất hàng tiêu dùng. Chú trọng các ngành may mặc, dệt da cao su, chất dẻo, sứ thủy tinh, dược phẩm, mỹ phẩm, đồ điện tử và cơ khí nhỏ.
Trong quá trình phát triển cần sử dụng nhiều loại hình công nghệ, nhiều loại quy mô khác nhau phát triển rộng khắp ở trong nước với sự tham gia của các thành phần kinh tế, hình thành một số khu chế xuất do nước ngoài đầu tư kinh doanh.
Công nghiệp năng lượng nhiên liệu là ngành công nghiệp nước ta có nhiều tiềm năng. Nhà nước đã chú ý đầu tư cho ngành này, đặc biệt là năng lượng điện. Trong thời gian tới chúng ta vẫn phát triển mạnh nguồn điện, ưu tiên thủy điện, bảo đảm sự đồng bộ và chất lượng của hệ thống truyền tải phân phối và thiết bị bảo vệ để giảm bớt mức tổn hao điện, đáp ứng nhu cầu điện ở Miền trung và Miền Nam, phấn đấu tăng 2,5 đến 3 lần sản lượng điện trong 10 năm tới.
Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác liên doanh với nước ngoài trong việc thăm dò và khai thác, chế biến dầu khí. Xây dựng công nghiệp lọc dầu, sản xuất một số sản phẩm từ dầu khí. Mục tiêu sản lương dùng cho thời kỳ l99l-l995 là từ 2O-25 triệu tấn... Từng bước đưa ngành dầu khí thành ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước .
Xây dựng và phát triển ngành khai thác than ( trữ lượng đã được xác định từ 3-3,3 tỷ tấn) chúng ta đã có tiềm năng để mở rộng ngành khai thác than đặc biệt là than gầy có chất lượng cao. Trong thời gian tới tăng sản lượng khai thác than từ 6-7 triệu tấn, hiện nay, lên khoảng 10 triệu tấn đến năm 2000. Để đạt chỉ tiêu sản lượng này cần có những thiết bị sử lý nguyên liệu, vận chuyển và phát triển cảng kể cả một số cầu tàu để vân chuyển than, sang từng bước hiện đại và hoàn thiện: phương tiện khai thác và vận chuyển chùng ta sẽ mở rộng sự hợp tác với nước ngoài để khai thác một số mỏ với kỹ thuật cao.
Đối với công nghiệp cơ khí, trước hết cần sắp xếp lại các xí nghiệp hiện có. Những xí nghiệp làm ăn thua lỗ, chất lượng kém, cần được tổ chức lại một cách thích hợp, Trọng tâm của ngành là sản xuất các loại phụ tùng, linh kiện thaty thế nhập khẩu để trang bị và sửa chữa cho các ngành khác chế tạo các loại thiết bị canh tác nhỏ thích hợp với nhu cầu và quy mô sản xuất nông nghiệp hiện nay. Sản xuất các loại thiết bị chế biến nông lâm sản và các loại dịch vụ kỹ thuật khác phục vụ sản xuất nông nghiệp. Hợp tác với nước ngoài sản xuất, lắp ráp một số máy móc và thiết bị hiện đại có nhu cầu lớn, hoặc để xuất khẩu, trong đó coi trọng ngành sửa chữa và đóng tàu thủy.
Công nghiệp điện tử và tin học là một trong những ngành còn mới và non trẻ ở nước ta. Vì vậy cần có sự lựa chọn và phát huy năng lực và công nghệ trong nước. Tranh thủ hợp tác quốc tế để phát triển hướng vào đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc, phương tiện tính toàn đồ điện tử dân dụng.
Phát triển công nghiệp nguyên liệu, vật liệu áp dụng công nghệ và quy mô thích hợp với điều kiện tài nguyên khoáng sản của ta, Trong thập kỷ tới phát triển sản xuất một số sản phẩm hóa chất cơ bản như xút, Sôda, axítsunphuric.... Mở rộng khai thác Apatit và tăng sản lưọng sản xuất phân lân, thuốc trừ sâu, vật liệu xây dựng, một số kim loại chủ yếu. Hợp tác với nước ngoài khai thác chế biến đất hiếm, bôxit quặng sắt, vật liệu xây dựng cao cấp, dành phần thích đáng cho xuất khẩu.
Trong quá trình xây dựng và phát triển, đảm bảo kết hợp giữa công nghiệp dân dụng và công nghiệp quốc phòng để vừa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, vừa tăng cường tiềm lực phát triển đất nước.
Việc xác định phương hướng và biện pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp theo hướng CNH-HĐH phải quán triệt một số quan điểm cơ bản là: quan điểm hiệu quả, quan điểm định hướng (nhất thiết phải theo định hướng CNH nền KTQD mà nội dung cơ bản của nó là chuyển từ trạng thái công nghiệp lạc hậu với năng suất lao động thấp lên công nghiệp tiên tiến với năng suất lao động cao trong tất cả các ngành KTQD. Quan điểm toàn diện cân đối, quan điểm mở cửa (lấy mô hình cơ cấu kinh tế hướng ngoại là chính và quan điểm năng động).
Việc quán triệt các quan điểm đòi hỏi phải hình thành một cơ cấu công nghiệp có lựa chọn. Trong giai đoạn đầu của quá trình CNH ở nước ta cơ cấu đó có thứ tự ưu tiên là ngành công nghiệp chủ yếu, ngành công nghiệp mũi nhọn và các ngành công nghiệp khác.
Ngành công nghiệp chủ yếu là ngành có vị trí hàng đầu trong phát triển công nghiệp.
- Ngành chế biến lương thực, thực phẩm là ngành công nghiệp chủ yếu trong giai đoạn này. Trong thời kỳ 1986-1991 ngành này vẫn giữ được tỷ trọng 22%-28% trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp và cho đến nay vẫn là ngành quan trọng.
- Ngành công nghiệp dệt may: chiếm khoảng 12%-15% giá trị tổng sản lượng công nghiệp. Dự kiến đến năm 2000 nhịp độ phát triển sẽ là 4%-5%.
- Ngành công nghiệp năng lượng: trước đây là ngành không quan trọng nhưng những năm gần đây nó sẽ là ngành quan trọng. Năm 1991 chiếm khoảng 12,6% giá trị tổng sản lượng công nghiệp trong đó điện lực 2,37% và công nghiệp nhiên liệu 7,42%. Riêng ngành dầu khí, dự kiến tốc độ phát triển bình quân mỗi năm sẽ trên 20% và dự tính đến năm 2000 tăng lên 25%.
- Công nghiệp cơ khí và công nghiệp hóa chất hiện là các ngành giữ vị trí chủ yếu trong công nghiệp, mỗi ngành chiếm trên dưới 10% giá trị tổng sản lượng công nghiệp. Những năm gần đây đang có xu hướng chững lại và giảm dần do có khó khăn về thị trường tiêu thụ, công nghệ và vốn đầu tư.
Những ngành công nghiệp mũi nhọn là các ngành có tốc độ phát triển cao, quy mô lớn, công nghệ kỹ thuật hiện đại, có sản phẩm ngày càng nhiều, chất lượng cao xâm nhập vào thị trường thế giới góp phần lớn cho ngân sách Nhà nước. Ngành mũi nhọn thường là ngành dựa khả năng khai thác tài nguyên sử dụng, trình độ tay nghề cao của người lao động và cũng có thể dựa vào các biện pháp huy động vốn đầu tư của nước ngoài để phát triển sản xuất và ứng dụng khoa học hiện đại.
- Công nghiệp khai thác và chế dầu khí: dựa vào khả năng tài nguyên và khả năng thu hút vốn, kỹ thuật từ nước ngoài, có khả năng xuất khẩu lớn.
- Công nghiệp chế biến lương thực (gạo) và thủy sản, ta có khả năng sản xuất thị trường tiêu thụ đang mở rộng.
- Công nghiệp điện tử: có đội ngũ lao động kỹ thuật đông đảo, có khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế.
- Công nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng: nước ta sẵn tài nguyên, thị trường trong và ngoài nước đang có nhu cầu lớn.
Những ngành công nghiệp khác là những ngành có vị trí khác nhau trong cơ cấu nông nghiệp. Đối với nước ta trong giai đoạn đầu quá trình CNH-HĐH việc phát triển các ngành này phải nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của nhân dân, bao gồm cả hàng thay thế nhập khẩu, thỏa mãn nhu cầu tư liệu sản xuất cho nông, lâm, ngư nghiẹp và công nghiệp hàng tiêu dùng, sản xuất hàng sản xuất, thu hút lao động, giải quyết việc làm cho người lao động và nhu cầu khác.
Với cơ cấu công nghiệp như trên, chúng ta không lựa chọn một kiểu chiến lược đơn thuần hướng ra xuất khẩu hay thay thế nhập khẩu mà là sự kết hợp một cách tối ưu hai hướng đó trong một nền kinh tế mở, giao lưu thông suốt trong nước và liên kết hợp tác hòa nhập với bên ngoài.
Tùy những điều kiện cụ thể chúng ta áp dụng những công nghệ và quy mô thích hợp nhằm thu hút nhiều lao động tạo ra những sản phẩm và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Thời gian trước mắt chúng ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn thử thách gay go và những tác động của diễn biến quốc tế phức tạp. Do song quá trình phát triển, chúng ta cần tính toán đến tất cả các yếu tố nói trên để tìm ra hướng đi cũng như các giải pháp hữu hiệu trong thế chủ động bằng nguồn lực và các yếu tố mà mình có thể làm ra và tự chủ được để không ngừng phát triển kinh tế đất nước, thực hiện tốt các mục tiêu của chiến lược ổn định, phát triển kinh tế - xã hội và Đảng đã đề ra.
2. Các giải pháp chủ yếu đã phát triển công nghiệp trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước.
- Dự báo xu thế phát triển của thị trường và nhu cầu cuối thị trường: Đây là giải pháp có vị trí quan trọng đối việc chuyển dịch cơ cấu, bởi vì thị trường là nhân tố khách quan, tác động nhiều mặt đến cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp. Cần sử dụng tổng hợp các phương pháp dự báo, các phương pháp Marketing, các phương pháp toán kinh tế để dự báo đúng xu thế phát triển.
Cần chú ý đầy đủ tới các loại thị trường, trong đó đặc biệt dự báo xu thế vận động của nhu cầu thị trường về sản phẩm công nghiệp như: sức chứa của thị trường, khách hàng, sự biến động của giá cả và lượng hàng theo thời gian, tính cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường trong nước và quốc tế.
- Tạo nguồn vốn và sử dụng vốn có hiệu quả: sử dụng tổng hợp tất cả các biện pháp để huy động vốn và chú ý khả năng thu hồi vốn và khả năng sinh lời của một đồng vốn. Trong giai đoạn đầu của quá trình CNH, do khả năng tích lũy vốn trong nước còn hạn chế, thì việc tạo vốn phải hướng trọng tâm vào các hình thức thu hút vốn nước ngoài với công nghệ hiện đại phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi ngành.
Trong các giai đoạn tiếp theo khi mà nguồn vốn tích lũy bên trong đã đủ lớn thì cần có chính sách tài chính đúng đắn nhằm tập trung vốn để mở rộng sản xuất trên cơ sở giải quyết mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng một cách hợp lý.
- Lựa chọn công nghệ và các yếu tố đầu vào. Việc lựa chọn công nghệ mới và quá trình chuyển giao công nghệ cần theo hướng ưu tiên, có lựa chọn, có trọng điểm. Hiện đại hóa công nghiệp có kết hợp với khai thác công nghệ truyền thống nhằm đạt tốc độ nhanh và có hiệu quả, vừa bảo đảm tính hiện đại, vừa tạo nhiều việc làm, vừa khai thác và sử dụng tốt các tiềm năng về nguyên nhiên vật liệu của đất nước và năng lực sản xuất của ngành.
Xây dựng kết cấu hạ tầng: Ngày nay việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cần đi trước và mở đường cho đầu tư phát triển sản xuất. Kết cấu hạ tầng phải thích ứng với yêu cầu phát triển sản xuất, tạo điều kiện môi trường thuận lợi để đảm bảo hiệu quả đầu tư và sản xuất kinh doanh sau này. Cần đặc biệt chú ý đến hệ thống cung ứng điện năng, hệ thống giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, khả năng phát triển nhanh.
- Một số vấn đề về tăng cường quản lý vĩ mô công nghiệp: Đây là một giải pháp có tác dụng chi phối mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp, công tác này được tiến hành trên nhiều mặt.
+ Hoàn thiện phương pháp phân bố công nghiệp theo lãnh thổ theo hướng kết hợp chuyên môn hóa với phát triển tổng hợp công nghiệp trong từng vùng. Tổ chức mối quan hệ sản xuất giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau trên cơ sở hình thành những khi công nghiệp, những cụm công nghiệp một cách động bồ, trên cơ sở liên kết công nghệ giữa các chuyên ngành mà giảm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế.
+ Xây dựng phương án phân bố sức lao động theo lãnh thổ và theo ngành công nghiệp, chuyên môn hóa phù hợp với phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa.
+ Tăng cường và hoàn thiện hệ thống quản lý công nghiệp theo hướng kinh tế kỹ thuật, theo hướng quản lý tập trung, thống nhất mặt kỹ thuật của sản xuất, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật ngành, quy hoạch phát triển ngành, kiểm tra chất lượng sản phẩm. Tiếp tục xác định rõ chức nwang quản lý Nhà nước của cơ quan quản lý ngành với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Do vậy việc xây dựng cơ cấu ngành công nghiệp hợp lý là một tất yếu khách quan do vai trò chủ đạo của nó. Đồng thời nó là xu thế tất yếu của một cơ cấu công nghiệp hiện đại. Vì vậy mọi ngành mọi cấp cần thực hiện nhiệm vụ quan trọng này của công nghiệp, coi đó là nhiệm vụ mang tính chất chiến lược và sách lược trong giai đoạn CNH-HĐH hiện nay.
Để phát huy hơn nữa vai trò chủ đạo của công nghiệp trong nền KTQD bản thân ngành công nghiệp cần bố trí xây dựng và hoàn thiện cơ cấu của mình.
Có hoàn thiện cơ cấu của mình mới làm cho năng lực sản xuất được tận dụng, năng suất lao động xã hội tăng lên làm cho thu nhập quốc dân tăng lên một cách tương ứng. Có như vậy mới đảm bảo cho việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ ở nước ta.
Phần kết luận
Quá trình hình thành và hoàn thiện cơ cấu công nghiệp là quá trình cụ thể hóa những quan điểm cơ bản, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc vận dụng các quy luật khách quan vào điều kiện cụ thể của đất nước. Trong quá trình CNH-HĐH đất nước như nước ta hiện nay, việc phát triển công nghiệp là một yếu tố hàng đầu, quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân cũng như quá trình CNH-HĐH. Công nghiệp ngày nay - đối với nước ta - đang giữ một vai trò quan trọng, là ngành kinh tế chủ đaiọ trong nền KTQD do vậy nó tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của các ngành khác. Trong điều kiện nước ta hiện nay, cơ cấu ngành công nghiệp đã có sự thay đổi và sự thay đổi đó ngày càng hợp lý hơn, phù hợp hơn và ngày càng có nhiều đóng góp cho nền KTQD, giá trị sản lượng ngành công nghiệp ngày càng gia tăng.
Từ nhận thức được vai trò to lớn của công nghiệp, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm chú trọng đến phát triển công nghiệp. Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách nhằm khuyến khích thúc đẩy công nghiệp phát triển không ngừng nâng cao số lượng và chất lượng sản phẩm công nghiệp.
Quá trình nghiên cứu vai trò của công nghiệp và thực trạng hiện nay ở Việt Nam, chúng ta nhận thấy rằng phát triển công nghiệp trong quá trình CNH-HĐH đất nước là tất yếu khách quan. Có phát triển công nghiệp mới đẩy mạnh được quá trình CNH và quá trình CNH-HĐH chỉ thực hiện được khi có sự phát triển công nghiệp.
Trong giai đoạn hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang chú trọng vào việc phát triển công nghiệp mà mục tiêu là chuyển dịch cơ cấu công nghiệp hợp lý. Đảng và Nhà nước ta đưa ra nhiều định hướng và biện pháp để công nghiệp hóa đất nước theo hướng chuyển dịch đó. Đây cũng chính là quan điểm chiến lược trong đường lối phát triển nền kinh tế xã hội, là nhân tố quan trọng tác động quyết định hiệu quả của nền sản xuất xã hội nhằm phát triển công nghiệp Việt Nam theo hướng CNH-HĐH đất nước. Chúng ta tin tưởng và hy vọng trong chặng đường tiếp theo công nghiệp sẽ ngày càng phát triển đưa nước ta tiến kịp với các nước công nghiệp tiên tiến trên thế giới.
Tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Đại hội Đảng: VI, VIII
2. Đảng Lao động Việt Nam - Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, 1960.
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ: V, VII
4. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
5. Kinh tế chính trị - tập II, NXB giáo dục 1996
6. Kinh tế công nghiệp, ĐH TCKT Hà Nội 1997
7. Chiến lược CNH-HĐH đất nước và cách mạng công nghệ
8. Việt Nam báo cáo kinh tế về CNH và chính sách CNH theo báo cáo số 14645 (ngày 17/10/1995). NXB Thế giới (theo tài liệu Ngân hàng thế giới).
9. CNH - Một số vấn đề về lý luận và kinh nghiệm các nước.
10. CNH hướng ngoại "Sự thần kỳ" của các NIES châu á
Trích dẫn:
[13]: B. Mazlish: "The Berakdown of connections and modorn development", Word Develoment, 1991, Vol.19, N0 3, 31-44.
[14] : J. Ladriere, Les erjeux de la rationalité: Ledefidéla science et de la technologie aux cultures Aubier- Montaigne/UNESCO, 1977.
[15]: Encyclopédie Fcancaise, 1973, tr 6298 - 6308.
[16]: Nguyễn Kế Tuấn: "Bản chất và các mô hình chiến lược công nghiệp hóa" trong: "công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở Việt Nam và các nước trong khu vực".
Chủ biên: Phạm Khiêm ích và Nguyễn Đình Phan. NXB Thống Kê Hà Nội, 1994, tr 48-71.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50288.DOC