Một số nhận xét, đánh giá và
khuyến nghị
- Việc thể chế hóa quan điểm, đường
lối chính sách dân tộc của Đảng trên lĩnh
vực công tác cán bộ là một nhiệm vụ chính
trị quan trọng đã được Quốc hội, Chính phủ
quan tâm chỉ đạo thực hiện với tinh thần
trách nhiệm hướng tới xây dựng và nâng cao
số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ dân tộc,
vùng dân tộc từng bước đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới của đất nước. Nhiều văn
bản luật đã được ban hành, nhiều nghị định,
thông tư, văn bản hướng dẫn khác đã được
cụ thể hóa nhằm đưa chủ trương, đường lối
đi vào cuộc sống.
- Lĩnh vực giáo dục phát triển nguồn
nhân lực, nâng cao dân trí, tạo nguồn cho
đào tạo bồi dưỡng cán bộ là người dân tộc
được quan tâm đặc biệt với hàng chục văn
bản quy phạm pháp luật được ban hành, bao
gồm: giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên
biệt, các trường nội trú, giáo dục đại học,
bồi dưỡng và tuyển dụng, sử dụng cán bộ
công chức, viên chức đến chính sách thu hút
cán bộ đến làm việc đối với địa bàn đặc biệt
khó khăn.
- Định hướng xây dựng hệ thống chính
trị cơ sở, xây dựng và tăng cường năng lực
đội ngũ cán bộ cấp cơ sở là người dân tộc
thiểu số cũng được thể chế hóa thành quy
định của pháp luật. Tuy nhiên, việc thể chế
hóa mới dừng lại ở các quyết định của Thủ
tướng Chính phủ mà chưa được nâng lên
điều chỉnh tầm nghị định hay văn bản luật.
- Việc thể chế hóa chính sách xây dựng
đội ngũ cán bộ dân tộc cho cả hệ thống chính
trị và bộ máy nhà nước còn chưa được quan
tâm đầy đủ. Cho đến nay, mới chỉ có Nghị
định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011
của Chính phủ quy định về chính sách đối
với cán bộ dân tộc thiểu số. Đây cũng là một
sự thiếu hụt về cơ chế chính sách trong việc
đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số, nhất là việc xây dựng
đội ngũ cán bộ trí thức người dân tộc, những
quy định bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ dân
tộc ở các ngành kinh tế - kỹ thuật, các cơ
quan trong bộ máy nhà nước ở cấp tỉnh và
nhất là bộ ngành trung ương .
Khuyến nghị
- Rà soát lại hệ thống văn bản pháp
quy có liên quan để bổ sung những yêu cầu
cần thiết nhằm tăng cường sự tham gia của
đội ngũ cán bộ dân tộc trong bộ máy nhà
nước với một tỷ lệ phù hợp, cơ cấu ngành
nghề và các vị trí quản lý phù hợp.
- Sửa đổi một số chính sách giáo dục
liên quan đến thực hiện chế độ cử tuyển về
công tác đào tạo, trong đó có ngành nghề
đào tạo, đối tượng đào tạo. Sửa đổi chế độ
tuyển dụng công chức, viên chức tập trung
ưu tiên cho con em dân tộc thiểu số phù hợp
với đặc điểm cơ cấu dân số.
- Một số chính sách khác cần được
bổ sung như: quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm
cán bộ dân tộc trong hệ thống bộ máy nhà
nước; xây dựng đội ngũ trí thức người dân
tộc, chính sách đối với người tiêu biểu của
các dân tộc thiểu số (không chỉ đơn thuần
là người tiêu biểu ở cấp cơ sở như mục tiêu
chính sách hiện nay). Cụ thể hóa thêm chính
sách cán bộ đối với một số vùng nhóm dân
tộc để đáp ứng yêu cầu thực tiễn của sự
nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 261 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Công tác thể chế, cụ thể hóa đường lối, chính sách dân tộc của Đảng trong lĩnh vực cán bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Văn kiện Đại hội IV.
COÂNG TAÙC THEÅ CHEÁ, CUÏ THEÅ HOÙA ÑÖÔØNG LOÁI,
CHÍNH SAÙCH DAÂN TOÄC CUÛA ÑAÛNG TRONG LÓNH VÖÏC CAÙN BOÄ
Nguyễn Lâm Thành*
Tóm tắt:
Bài viết hệ thống hóa các quan điểm, đường lối của Đảng trong lĩnh
vực cán bộ dân tộc thiểu số và công tác thể chế, cụ thể hóa đường lối,
chính sách dân tộc của Đảng về vấn đề này từ năm 2001 đến nay, từ đó
đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách dân tộc của Đảng
trong lĩnh vực cán bộ trong thời gian tới.
Abstract:
This article provides the systematization of the viewpoints and directive
lines of the Party in the ethnic minority cadres and institutional activities,
concretization of the Party’s directive lines and policies on this matter
since 2001. The solutions ware then recommended improving the
Party’s ethnic policy in cadre’s arrangements in the coming time.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: dân tộc thiểu số; vùng dân
tộc thiểu số; chính sách dân tộc;
chính sách dân tộc trong lĩnh vực
cán bộ; thể chế hóa chính sách dân
tộc trong lĩnh vực cán bộ
Lịch sử bài viết
Nhận bài: 15/05/2017
Biên tập: 25/05/2017
Duyệt bài: 29/05/2017
Article Infomation:
Keywords: ethnic minority,
ethnic minority areas, ethnic
minority policy, ethnic minority
policy on cadre’s arrangements,
institutionzation of ethnic minority
policy on cadre’s arrangements
Article History:
Received: 15 May 2007
Edited: 25 May 2007
Appproved: 29 May 2017
1. Một số quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng trên lĩnh vực cán bộ dân
tộc thiểu số và vùng dân tộc thiểu số
Là quốc gia có nhiều dân tộc, Đảng
ta luôn xác định đường lối, chính sách dân
tộc có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến
lược cách mạng, trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc “Chính
sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để
quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân
tộc, tạo những điều kiện cần thiết để xoá bỏ
tận gốc sự chênh lệnh về trình độ kinh tế,
văn hoá giữa các dân tộc ít người và dân tộc
đông người, làm cho tất cả các dân tộc đều
có cuộc sống ấm no, văn minh và hạnh phúc,
đoàn kết giúp nhau tiến bộ, cùng làm chủ tập
thể Tổ quốc Việt Nam XHCN”1.
* TS, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội.
CHÑNH SAÁCH
39Số 11(339) T6/2017
Để thực hiện được đường lối và mục
tiêu đúng đắn đó, công tác cán bộ được xem
là nền tảng quan trọng nhằm thực hiện đường
lối, chính sách dân tộc. Như Bác Hồ đã nói:
“Cán bộ là dây chuyền của bộ máy. Nếu dây
chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù
tốt, dù chạy toàn bộ máy vẫn tê liệt”2.
Đường lối về công tác cán bộ trong
chính sách dân tộc được thể hiện rõ nét trong
các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nghị quyết số 22 NQ/TW của Bộ Chính
trị ngày 27/11/1989 Về một số chủ trương,
chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội
miền núi đã chỉ rõ: “Đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với miền núi; kiện toàn tổ
chức và tăng cường chất lượng đội ngũ cán
bộ của các cơ quan tham mưu, đủ sức giúp
trung ương cả trong công tác nghiên cứu,
ban hành chính sách cũng như kiểm tra việc
tổ chức thực hiện chính sách dân tộc, chính
sách kinh tế xã hội ở miền núi”3.
Qua từng kỳ Đại hội Đảng, nội dung
về công tác cán bộ luôn được đề cập trong
các văn kiện của Đảng. Đó là: Văn kiện Đại
hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII
(1996): “Có chính sách ưu tiên đào tạo
cán bộ cho cơ sở. Ban hành các chính sách
khuyến khích cán bộ công tác ở vùng cao,
vùng sâu, cán bộ miền xuôi lên công tác ở
miền núi. Tổ chức các đội trí thức mới ra
trường tình nguyện xuống các bản, làng
giúp đồng bào dân tộc”; Văn kiện Đại hội
đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001):
“Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong
việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu
số. Động viên, phát huy vai trò của những
người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và
ở địa phương. Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc,
chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp
hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng
tự ti, mặc cảm dân tộc”; Văn kiện Đại hội
đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X (2006):
“Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị cơ sở vùng dân tộc thiểu số; động
viên, phát huy vai trò của những người tiêu
biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách
ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí
thức người dân thiểu số. Cán bộ công tác ở
vùng dân tộc thiểu sô và miền núi phải gần
gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của
đồng bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận.
Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia
rẽ dân tộc”; Nghị quyết số 24/TW của Hội
nghị Trung ương lần thứ Bảy, khoá IX về
Công tác dân tộc (2003) - là một nghị quyết
chuyên đề quan trọng, trong đó nhấn mạnh
đến việc quan tâm phát triển, bồi dưỡng
nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số, thể hiện ở những nội
dung cơ bản sau:
- Về phương châm, phương pháp tiến
hành xây dựng đội ngũ cán bộ: “Thực hiện
tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số cho
từng vùng, từng dân tộc. Trong những năm
trước mắt, cần tăng cường lực lượng cán bộ
có năng lực, phẩm chất tốt đến công tác ở
vùng dân tộc Coi trọng việc bồi dưỡng,
đào tạo thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa
vụ quân sự làm nguồn cán bộ bổ sung cho
cơ sở; nghiên cứu sửa đổi tiêu chuẩn tuyển
dụng, bổ nhiệm và các cơ chế, chính sách đãi
ngộ cán bộ công tác ở vùng dân tộc và miền
núi, nhất là những cán bộ công tác lâu năm
ở miền núi, vùng cao”. Trong xây dựng hệ
thống chính trị cơ sở, có “Chính sách động
viên, bồi dưỡng, hướng dẫn và phát huy vai
trò của những người có uy tín trong đồng
bào dân tộc trong việc thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các địa bàn
dân cư vùng dân tộc và miền núi”.
2 Hồ Chí Minh, “Sửa đổi lề lối làm việc”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3 Nghị quyết số 22/TW của Bộ Chính trị Ban chấp hành TW Khóa VI, Về phát triển kinh tế, xã hội vùng miền
núi và đồng bào dân tộc.
CHÑNH SAÁCH
40 Số 11(339) T6/2017
4 Khoản 5, mục 4.
5 Khoản 6, mục 4.
- Tổ chức bộ máy hệ thống cơ quan
làm công tác dân tộc: “Kiện toàn và chăm lo
xây dựng hệ thống tổ chức cơ quan làm công
tác dân tộc từ trung ương đến địa phương.
Tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ
cán bộ làm công tác dân tộc để làm tốt công
tác tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa
phương trong thực hiện chính sách dân tộc.
Một số bộ, ngành cần tổ chức bộ phận và có
cán bộ chuyên trách làm công tác dân tộc”.
- Phân công nhiệm vụ tổ chức thực
hiện: “Ban cán sự đảng Uỷ ban Dân tộc phối
hợp với Ban Tổ chức Trung ương, Ban cán
sự đảng Bộ Nội vụ hướng dẫn về tổ chức bộ
máy làm công tác dân tộc ở các nơi cần thiết;
khẩn trương xây dựng quy hoạch, kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số ở
các vùng dân tộc và miền núi; đề xuất chính
sách đặc thù, thống nhất trong cả nước nhằm
sử dụng có hiệu quả số học sinh là con em
đồng bào dân tộc thiểu số đã được đào tạo”4.
Nghị quyết cũng yêu cầu: “Ban cán
sự đảng Uỷ ban Dân tộc cùng Ban Dân vận
Trung ương thường xuyên theo dõi, kiểm
tra, đôn đốc và định kỳ báo cáo Bộ Chính
trị, Ban Bí thư kết quả thực hiện nghị quyết;
trong quá trình triển khai, cần bám sát thực
tế, kịp thời phát hiện, đề xuất, kiến nghị
để điều chỉnh, bổ sung cụ thể hóa các chủ
trương, chính sách, giải pháp nhằm thực
hiện thắng lợi nghị quyết”5.
Đối với một số dân tộc, Ban Bí thư
cũng có một số văn bản chỉ đạo liên quan
lĩnh vực công tác cán bộ:
- Thông tri số 03-TT/TW, ngày
17/10/1991 về công tác đối với đồng bào
Chăm, yêu cầu: “Có kế hoạch xây dựng và
củng cố tổ chức cơ sở Đảng trong vùng dân
tộc. Phát triển đảng viên là người Chăm.
Trên có sở xây dựng đội ngũ trung kiên, cốt
cán, lựa chọn những đoàn viên, học viên ưu
tú để đào tạo, bồi dưỡng trở thành cán bộ,
đảng viên”.
- Chỉ thị số 68-CT/TW, ngày 18/4/1991
về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer:
“Có kế hoạch xây dựng và củng cố tổ chức
cơ sở Đảng ở vùng đồng bào dân tộc Khmer.
Phát triển đảng viên là người dân tộc Khmer
phù hợp với đặc điểm dân tộc Khmer. Trên
cơ sở xây dựng đội ngũ trung kiên, cốt cán,
lựa chọn những đoàn viên, hội viên ưu tú
(kể cả trong sư sãi) để đào tạo, bồi dưỡng trở
thành cán bộ, đảng viên.
- Chỉ thị số 62-CT/TW, ngày 8/11/1995
về tăng cường công tác người Hoa trong tình
hình mới: “Các cấp uỷ đảng, chính quyền,
mặt trận và các đoàn thể nhân dân cần có kế
hoạch cụ thể chăm lo phát triển đảng viên,
đoàn viên, hội viên và xây dựng lực lượng
cốt cán người Hoa. Lựa chọn, đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ người Hoa có phẩm chất đạo
đức, tình cảm cách mạng trong sáng để làm
nòng cốt trong công tác người Hoa, phục vụ
yêu cầu trước mắt và lâu dài”
- Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 23/9/2004
về một số công tác ở vùng dân tộc Mông:
“Chăm lo bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán
bộ và xây dựng lực lượng cốt cán trong các
bản, làng, các dòng họ, trong các chức sắc
tôn giáo, tạo thành một đội ngũ cán bộ cơ
sở vững ở vùng dân tộc Mông. Ban Tổ chức
TW cùng với Ban Tổ chức và Cán bộ của
Chính phủ xây dựng chính sách đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng, đãi ngộ đối với cán bộ cơ
sở, trưởng bản, già làng, trưởng dòng họ,
cán bộ nghỉ hưu, lực lượng vũ trang... tham
gia hoạt động trong vùng dân tộc Mông, chú
ý kết hợp tốt giữa các thế hệ cán bộ, đồng
thời nghiên cứu chính sách thu hút các loại
cán bộ đến công tác ở vùng dân tộc Mông”.
CHÑNH SAÁCH
41Số 11(339) T6/2017
Có thể nói, đường lối, chính sách
dân tộc của Đảng về công tác cán bộ được
thể hiện nhất quán với quan điểm, đường
lối chính sách dân tộc nói chung, thể hiện
nguyên tác “bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ” giữa các dân tộc, giữa đồng bào đa số
và đồng bào dân tộc thiểu số; bảo đảm phù
hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu cách
mạng trong từng giai đoạn; phương châm
và phương pháp tiến hành xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc và vùng dân tộc có trọng tâm,
trọng điểm gắn với việc phát triển giáo dục,
nguồn nhân lực hướng tới mục tiêu nâng cao
số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, xây
dựng và củng cố hệ thống chính trị các cấp,
nhất là tuyến cơ sở.
Căn cứ vào tình hình thực tiễn, quan
điểm, đường lối của Đảng đặt những mục
tiêu, nội dung và phương cách tiến hành trên
lĩnh vực công tác cán bộ đối với chính sách
dân tộc tập trung vào những vấn đề sau:
- Công tác giáo dục, đào tạo, nâng cao
dân trí, phát triển nguồn nhân lực nhằm tạo
nguồn cán bộ phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội và chiến lược công tác cán bộ dân tộc và
vùng dân tộc, trong đó có xây dựng đội ngũ
trí thức người dân tộc.
- Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí
sử dụng đội ngũ cán bộ dân tộc trong bộ máy
nhà nước cả ở trung ương và địa phương,
bảo đảm sự tham gia đại diện hợp lý về
quyền chính trị và quản lý phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
- Xây dựng và củng cố hệ thống chính
trị cơ sở vùng dân tộc vững mạnh, bao gồm
cả việc tăng cường đội ngũ cán bộ người
Kinh và hướng tới xây dựng nòng cốt là đội
ngũ cán bộ người dân tộc trong vùng dân tộc.
Đây là ba nhóm vấn đề được tập trung
thể chế hóa bằng những luật pháp, chính
sách, chương trình cụ thể.
2. Công tác thể chế, cụ thể hóa đường lối,
chính sách dân tộc của Đảng trên lĩnh vực
công tác cán bộ từ năm 2001 đến nay
2.1. Trong công tác giáo dục, tạo
nguồn cán bộ
- Luật Giáo dục năm 2005 và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục
năm 2009, có quy định những nội dung liên
quan đến thiết chế trong hệ thống giáo dục
về trường phổ thông dân tộc nội trú, trường
phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại
học là nơi đào tạo con em dân tộc thiểu số,
vùng đặc biệt khó khăn. Luật cũng quy định
về chế độ cử tuyển trong ưu tiên xét, cử chọn
vào học hệ đại học, cao đẳng cũng như việc
bố trí phân công công tác sau khi tốt nghiệp.
- Luật Giáo dục đại học năm 2012 tại
Điều 12 có quy định chính sách của Nhà
nước về phát triển giáo dục đại học: “Thực
hiện chính sách ưu tiên đối với các đối tượng
được hưởng chính sách xã hội, đối tượng ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”6.
- Luật Thanh niên năm 2005 tại khoản
4 Điều 24 có quy định về chính sách của
Nhà nước đối với thanh niên dân tộc: Đào
tạo, bồi dưỡng thanh niên ưu tú người dân
tộc thiểu số để tạo nguồn cán bộ quản lý,
lãnh đạo.
Căn cứ văn bản Luật, Chính phủ đã
ban hành nhiều Nghị định, Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ cụ thể hóa những quy
định trên.
Liên quan trực tiếp đối tượng con em
dân tộc có: Nghị định số 134/2006/NĐ-CP
ngày 14/11/2006 của Chính phủ quy định chế
độ cử tuyển vào các cơ sở giáo dục trình độ đại
học, cao đẳng, trung cấp thuộc hệ thống giáo
dục quốc dân, Quyết định số 2123/QĐ-TTg
ngày 22/11/2010 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Đề án phát triển giáo dục
6 Khoản 8.
CHÑNH SAÁCH
42 Số 11(339) T6/2017
7 Điều 8. Chính sách đầu tư và sử dụng nguồn lực.
8 Khoản 7, Điều 10. Chính sách phát triển giáo dục và đào tạo.
9 Khoản 2, Điều 37. Phương thức tuyển dụng công chức.
10 Khoản 4, Điều 38. Nguyên tắc tuyển dụng công chức.
đối với các dân tộc rất ít người giai đoạn
2010-2015; Quyết định số 1640/QĐ-TTg
ngày 21/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án Củng cố và phát triển hệ thống
trường phổ thông dân tộc nội trú giai đoạn
2011-2015 ; Quyết định số 66/2013/QĐ-TTg
ngày 11/11/2013 quy định chính sách chi
phí học tập đối với sinh viên là người dân
tộc thiểu số tại các cơ sở giáo dục đại học.
Liên quan đến chế độ chính sách
có: Nghị định số 61/2006/NĐ-CP ngày
20/6/2006 của Chính phủ về chính sách đối
với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công
tác ở trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Quyết
định số 82/2006/QĐ-TTg ngày 14/4/2006
và Quyết định số 152/2007/QĐ-TTg ngày
14/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về học
bổng chính sách đối với học sinh, sinh viên
học tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống
giáo dục quốc dân.
- Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, ngày
14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân
tộc, một chính sách đặc thù, cũng quy định
việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng,
quản lý nguồn lao động là người dân tộc
thiểu số tại chỗ, có chế độ đãi ngộ hợp lý7.
Chỉ rõ trách nhiệm của các cấp chính quyền
địa phương trong việc tiếp nhận sử dụng đối
tượng cử tuyển sau đào tạo: “Chính quyền
địa phương, nơi có con em dân tộc thiểu số
thi đỗ vào Đại học, Cao đẳng và sinh viên
được cử đi học hệ cử tuyển, có trách nhiệm
tiếp nhận và phân công công tác phù hợp với
ngành nghề đào tạo sau khi tốt nghiệp”8.
Nhìn chung, lĩnh vực giáo dục, đào
tạo được thể chế hóa khá đầy đủ, tạo nền
tảng quan trọng cho việc thúc đẩy phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, làm tiền đề
cho công tác cán bộ dân tộc và vùng dân tộc.
Tuy nhiên, việc thể chế hóa cho mục tiêu
xây dựng đội ngũ trí thức người dân tộc
thiểu số theo tinh thần Văn kiện Đại hội đại
biểu Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) chưa
được làm rõ và quan tâm đúng mức.
2.2. Trong lĩnh vực quy hoạch, đào
tạo và bố trí sử dụng cán bộ
- Luật Cán bộ, công chức năm 2008
quy định: “Người có đủ điều kiện quy định
tại khoản 1 Điều 36 của Luật này cam kết
tình nguyện làm việc từ 05 năm trở lên ở
miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng
xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì được
tuyển dụng thông qua xét tuyển”9. Trong
nguyên tắc tuyển dụng công chức cũng quy
định ưu tiên xét tuyển cho đối tượng là người
dân tộc thiểu số: “Ưu tiên tuyển chọn nguời
có tài năng, người có công với nước, người
dân tộc thiểu số”10.
- Luật Viên chức năm 2010 cũng có
một số điều khoản quy định liên quan đến
đối tượng vùng dân tộc thiểu số. Ví dụ như
Điều 6. Các nguyên tắc quản lý viên chức:
“Thực hiện bình đẳng giới, các chính sách
ưu đãi của Nhà nước đối với viên chức là
người có tài năng, người dân tộc thiểu số,
người có công với cách mạng, viên chức làm
việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu,
vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và các
chính sách ưu đãi khác của Nhà nước đối
với viên chức” (khoản 4).
Tuy nhiên, hai văn bản luật nêu trên
không quy định rõ những đối tượng đặc thù
là người dân tộc thiểu số mà được tính chung
trong phạm vi điều chỉnh vùng khó khăn và
CHÑNH SAÁCH
43Số 11(339) T6/2017
đặc biệt khó khăn, nên chính sách không
thực sự rõ nét và khó khăn trong triển khai
thực tế, từ khâu tuyển dụng khi hướng các
ưu tiên vào xây dựng đội ngũ cán bộ người
dân tộc ở địa phương.
Trên cơ sở các văn bản luật, Chính
phủ đã ban hành một số văn bản trong lĩnh
vực như: Nghị định số 116/NĐ-CP ngày
24/12/2010 của Chính phủ về chính sách đối
với cán bộ, công chức, viên chức và người
hưởng lương trong lực lượng vũ trang công
tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn; Nghị định số 29/2012/NĐ-CP
ngày của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng
và quản lý viên chức; Nghị định số 05/2011/
NĐ-CP về công tác dân tộc quy định những
nội dung cụ thể về chính sách cán bộ, như
tại “Điều 11. Chính sách cán bộ người dân
tộc thiểu số:
Khoản 1. Cán bộ người dân tộc thiểu
số có năng lực và đủ tiêu chuẩn phù hợp
quy định của pháp luật, được bổ nhiệm vào
các chức danh cán bộ chủ chốt, cán bộ quản
lý các cấp. Ở các địa phương vùng dân tộc
thiểu số, nhất thiết phải có cán bộ chủ chốt
người dân tộc thiểu số.
Khoản 2. Đảm bảo tỷ lệ hợp lý cán bộ
người dân tộc thiểu số, ưu tiên cán bộ nữ,
cán bộ trẻ tham gia vào các cơ quan, tổ chức
trong hệ thống chính trị các cấp.
Khoản 3. Các Bộ, ngành, địa phương
có trách nhiệm quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, bổ nhiệm, sử dụng đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số.
Và phân giao nhiệm vụ tại khoản 4: Bộ
Nội vụ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành
liên quan có trách nhiệm quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành nội dung Điều này”
Cụ thể hóa Điều 11, ngày 11/9/2014
Bộ Nội vụ và Ủy ban Dân tộc đã ký Thông
tư liên tịch quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành chính sách cán bộ, công chức, viên
chức người dân tộc thiểu số.
Nhằm tăng cường năng lực thực tiễn
đội ngũ cán bộ công tác ở vùng dân tộc, Thủ
tướng Chính phủ cũng ban hành Chỉ thị số
38/2004/CT-TTg ngày 9/11/2004 “Về việc
đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc
thiểu số đối với cán bộ, công chức công tác
ở vùng dân tộc, miền núi”.
2.3. Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở
Trong giai đoạn từ 2000 đến 2010,
trên cơ sở định hướng của Nghị quyết số
17-NQ/TW ngày 18/3/2002 về “Đổi mới,
nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở
xã, phường”, Chính phủ đã ban hành nhiều
quyết định phê duyệt Đề án chính sách đào
tạo cán bộ, công chức phục vụ xây dựng hệ
thống chính trị cơ sở cho các khu vực. Có
thể kể đến các quyết định sau: Quyết định
số 335/2005/QĐ-TTg ngày 16/12/2005 về
Thành lập phân viện Hành chính quốc gia
khu vực Tây Nguyên để đào tạo cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn các tỉnh Tây
Nguyên; Quyết định số 34/2006/QĐ-TTg
ngày 8/2/2006 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn người dân tộc
thiểu số; Quyết định số 28/2007/QĐ-TTg
ngày 28/2/2007 của Thủ tướng Chính phủ
về việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức xã phường, thị trấn các tỉnh khu vực
miền núi phía Bắc giai đoạn 2007-2010;
Quyết định số 106 /QĐ-TTg ngày 13/2/2007
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án
“Một số giải pháp tăng cường công tác đào
tạo, bồi dưỡng và tạo nguồn đội ngũ cán bộ
hệ thống chính trị cơ sở vùng Tây Bắc, giai
đoạn 2007-2010” v.v..
Quyết định số 253/2003/QĐ-TTg,
ngày 05/3/2003 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt Đề án “Một số giải pháp
củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng
Tây Nguyên” giai đoạn 2002 - 2010 đề ra
các giải pháp:
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức về lý luận chính trị, quản lý nhà nước,
CHÑNH SAÁCH
44 Số 11(339) T6/2017
chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ
cơ sở, nhất là đối với các chức danh Bí thư,
Phó Bí thư Đảng uỷ (Chi bộ) xã, Bí thư, Phó
Bí thư Chi bộ trực thuộc Đảng bộ cơ sở; Chủ
tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ
tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, uỷ viên
Uỷ ban nhân dân, người đứng đầu các tổ
chức chính trị - xã hội;
- Tổ chức bồi dưỡng kiến thức về
đường lối, chính sách dân tộc và tôn giáo
của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho cán
bộ, công chức, trước hết ưu tiên đối với cán
bộ, công chức đang làm việc ở vùng dân tộc
hoặc thường xuyên tiếp xúc với đồng bào
dân tộc thiểu số;
- Chú trọng công tác đào tạo nguồn
cán bộ tại chỗ, đáp ứng biên chế cho đội ngũ
cán bộ cơ sở, đủ về số lượng, coi trọng chất
lượng, nhất là về phẩm chất chính trị, có
phương pháp công tác và tác phong công tác
sâu sát cơ sở, gần gũi với nhân dân;
Trong tình hình mới, Thủ tướng Chính
phủ đã ký quyết định số 124/QĐ-TTg ngày
16/1/2014 phê duyệt Đề án tiếp tục củng
cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây
Nguyên giai đoạn 2014-2020.
Đối với người có uy tín vùng đồng bào
dân tộc
Nghị định số 05/2011/NĐ-CP quy
định: “Chính sách đối với người có uy tín
ở vùng dân tộc thiểu số: Người có uy tín ở
vùng dân tộc thiểu số được bồi dưỡng, tập
huấn, được hưởng chế độ đãi ngộ và các ưu
đãi khác để phát huy vai trò trong việc thực
hiện chính sách dân tộc ở địa bàn dân cư,
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của
địa phương”11.
Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị số
06/2008/CT-TTg, ngày 01/02/2008 về phát
huy vai trò người có uy tín trong đồng bào
dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc và ban hành Quyết định
18/2011/QĐ-TTg, ngày 18/3/2011 về chính
sách đối với người có uy tín trong đồng bào
dân tộc thiểu số; Quyết định số 56/2013/
QĐ-TTg, ngày 07/10/2013 về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của Quyết định
số 18/2011/QĐ-TTg, ngày 18/3/2011 của
Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với
người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu
số. Bộ Tài chính và Ủy ban Dân tộc ban
hành Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT/
UBDT-BTC ngày 10/1/2014 quy định chi
tiết và hướng dẫn thực hiện chính sách đối
với người có uy tín trong đồng bào dân tộc
thiểu số.
Đối với một số vùng dân tộc
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 718/QĐ-TTg ngày 15/5/2014
về việc “Phê duyệt Đề án củng cố, tăng
cường đội ngũ cán bộ dân tộc Mông trong
hệ thống chính trị cơ sở các xã địa bàn trọng
yếu vùng Tây Bắc giai đoạn 2014 - 2018”.
Điểm đáng lưu ý trong đó là, các xã
trọng yếu có dưới 50% dân số người dân tộc
Mông được hợp đồng hai nhân viên; xã có
trên 50% dân số là người dân tộc Mông được
hợp đồng ba nhân viên. Số này nằm ngoài
quy định trong Nghị định số 92/2009/NĐ-CP
của Chính phủ về chức danh, số lượng,
một số chế độ, chính sách đối với cán bộ,
công chức ở xã, phường, thị trấn và những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã; Nghị định số 29/2013/NĐ-CP ngày
18/4/2013 về sửa đổi, bổ sung Nghị định số
92/2009/NĐ-CP của Chính phủ và Chương
trình tăng cường trí thức trẻ cho các xã thuộc
61 huyện nghèo.
Việc triển khai các chương trình, chính
sách trên đã tăng cường một cách đáng kể
số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ cơ
11 Điều 12 Nghị định số 05/NĐ-CP.
CHÑNH SAÁCH
45Số 11(339) T6/2017
sở, trong đó có cán bộ công chức người dân
tộc thiểu số, góp phần thực hiện tốt các chủ
trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà
nước và hoàn thành cơ bản các mục tiêu
chính trị, kinh tế xã hội và bảo đảm an ninh
quốc phòng đã đề ra.
2.4. Một số nhận xét, đánh giá và
khuyến nghị
- Việc thể chế hóa quan điểm, đường
lối chính sách dân tộc của Đảng trên lĩnh
vực công tác cán bộ là một nhiệm vụ chính
trị quan trọng đã được Quốc hội, Chính phủ
quan tâm chỉ đạo thực hiện với tinh thần
trách nhiệm hướng tới xây dựng và nâng cao
số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ dân tộc,
vùng dân tộc từng bước đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới của đất nước. Nhiều văn
bản luật đã được ban hành, nhiều nghị định,
thông tư, văn bản hướng dẫn khác đã được
cụ thể hóa nhằm đưa chủ trương, đường lối
đi vào cuộc sống.
- Lĩnh vực giáo dục phát triển nguồn
nhân lực, nâng cao dân trí, tạo nguồn cho
đào tạo bồi dưỡng cán bộ là người dân tộc
được quan tâm đặc biệt với hàng chục văn
bản quy phạm pháp luật được ban hành, bao
gồm: giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên
biệt, các trường nội trú, giáo dục đại học,
bồi dưỡng và tuyển dụng, sử dụng cán bộ
công chức, viên chức đến chính sách thu hút
cán bộ đến làm việc đối với địa bàn đặc biệt
khó khăn.
- Định hướng xây dựng hệ thống chính
trị cơ sở, xây dựng và tăng cường năng lực
đội ngũ cán bộ cấp cơ sở là người dân tộc
thiểu số cũng được thể chế hóa thành quy
định của pháp luật. Tuy nhiên, việc thể chế
hóa mới dừng lại ở các quyết định của Thủ
tướng Chính phủ mà chưa được nâng lên
điều chỉnh tầm nghị định hay văn bản luật.
- Việc thể chế hóa chính sách xây dựng
đội ngũ cán bộ dân tộc cho cả hệ thống chính
trị và bộ máy nhà nước còn chưa được quan
tâm đầy đủ. Cho đến nay, mới chỉ có Nghị
định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011
của Chính phủ quy định về chính sách đối
với cán bộ dân tộc thiểu số. Đây cũng là một
sự thiếu hụt về cơ chế chính sách trong việc
đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số, nhất là việc xây dựng
đội ngũ cán bộ trí thức người dân tộc, những
quy định bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ dân
tộc ở các ngành kinh tế - kỹ thuật, các cơ
quan trong bộ máy nhà nước ở cấp tỉnh và
nhất là bộ ngành trung ương .
Khuyến nghị
- Rà soát lại hệ thống văn bản pháp
quy có liên quan để bổ sung những yêu cầu
cần thiết nhằm tăng cường sự tham gia của
đội ngũ cán bộ dân tộc trong bộ máy nhà
nước với một tỷ lệ phù hợp, cơ cấu ngành
nghề và các vị trí quản lý phù hợp.
- Sửa đổi một số chính sách giáo dục
liên quan đến thực hiện chế độ cử tuyển về
công tác đào tạo, trong đó có ngành nghề
đào tạo, đối tượng đào tạo. Sửa đổi chế độ
tuyển dụng công chức, viên chức tập trung
ưu tiên cho con em dân tộc thiểu số phù hợp
với đặc điểm cơ cấu dân số.
- Một số chính sách khác cần được
bổ sung như: quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm
cán bộ dân tộc trong hệ thống bộ máy nhà
nước; xây dựng đội ngũ trí thức người dân
tộc, chính sách đối với người tiêu biểu của
các dân tộc thiểu số (không chỉ đơn thuần
là người tiêu biểu ở cấp cơ sở như mục tiêu
chính sách hiện nay). Cụ thể hóa thêm chính
sách cán bộ đối với một số vùng nhóm dân
tộc để đáp ứng yêu cầu thực tiễn của sự
nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới
12 Giám sát của Hội đồng Dân tộc năm 2014 cho thấy, số lượng cán bộ, công chức người dân tộc ở các cơ quan trung
ương rất ít, và chỉ có ở các cơ quan ngành xã hội, thiếu vắng trong ngành kinh tế - kỹ thuật. Nhiều địa phương, tỷ lệ
cán bộ dân tộc ở cấp tỉnh cũng rất khiêm tốn.
CHÑNH SAÁCH
46 Số 11(339) T6/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cong_tac_the_che_cu_the_hoa_duong_loi_chinh_sach_dan_toc_cua.pdf