Phân tích trình tự ADN ở một phần gen COI ty thể của
cá dìa công thu được ở vùng biển Quảng Nam – Đà Nẵng,
cho thấy các quần đàn Cửa sông Thu Bồn, Cù Lao Chàm
và Vịnh Đà Nẵng không khác nhau, có nghĩa là thuộc một
quần đàn di truyền. Tuy nhiên đây mới chỉ là nghiên cứu
bước đầu và dùng một loại thông tin là ADN ty thể, vì vậy
cần có một nghiên cứu rộng ở nhiều vị trí khác dọc vùng
biển Việt Nam và sâu hơn (thêm thông tin về ADN trong
nhân) để có thể đưa ra chiến lược quản lý nguồn lợi quý giá
này cho Việt Nam nói chung. Sự vận chuyển giống cá dìa
từ vùng Quảng Nam – Đà Nẵng đến nơi khác cần được lưu
ý (hạn chế / nghiêm cấm) khi cấu trúc quần đàn tổng thể
chưa xác định được. Điều này sẽ giảm thiểu rủi ro về mặt
sinh học cho cá dìa công tự nhiên nơi nhập g
4 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 444 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đa dạng di truyền quần thể cá dìa công (siganus guttatus) ở vùng biển Quảng Nam–Đà Nẵng dựa trên kết quả phân tích chuỗi adn của vùng gen cytochrome oxidase I ADN ty thể, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
92 Nguyễn Thị Tường Vi, Võ Sĩ Tuấn, Nguyễn Văn Long
ĐA DẠNG DI TRUYỀN QUẦN THỂ CÁ DÌA CÔNG (SIGANUS GUTTATUS) Ở
VÙNG BIỂN QUẢNG NAM – ĐÀ NẴNG DỰA TRÊN KẾT QUẢ PHÂN TÍCH
CHUỖI ADN CỦA VÙNG GEN CYTOCHROME OXIDASE I ADN TY THỂ
GENETIC DIVERSITY OF THE ORANGE-SPOTTED SPINEFOOT (SIGANUS GUTTATUS)
POPULATION IN QUANG NAM – DANANG SEA BASED ON THE ADN ANALYSIS OF
THE GENETIC REGION CYTOCHROME OXIDASE I DNA IN MITOCHONDRIAL
Nguyễn Thị Tường Vi1, Võ Sĩ Tuấn2, Nguyễn Văn Long2
1Trường Đại học Sư phạm- Đại học Đà Nẵng; nttvi@ued.udn.vn
2Viện Hải dương học; longhdh@gmail.com
Tóm tắt - Cá dìa công (Siganus guttatus) hiện đang bị khai thác
đến mức cạn kiệt, chưa kể đến các rủi ro về đa dạng sinh học do
việc di chuyển giống từ nơi này đến nơi khác, việc tìm hiểu cấu
trúc quần thể trong thời điểm này để có biện pháp quản lý đúng
đắn là cần thiết. Mẫu cá dìa công thu được từ 3 vùng biển: Cửa
sông Thu Bồn, biển Cù Lao Chàm và Đà Nẵng. Kết hợp với các
trình tự từ GenBank, nghiên cứu khảo sát sự đa dạng và khác biệt
di truyền. Kết quả cho thấy các quần đàn cá dìa công ở các vùng
biển Cù Lao Chàm, Đà Nẵng và Cửa sông Thu Bồn có 9 kiểu gen
Cytochrome Oxidase I (COI) thuộc 3 nhóm chính. Ở mức độ quần
thể cả 3 quần đàn cá tại 3 khu vực nghiên cứu không có sự khác
nhau về mặt di truyền. Điều này chứng tỏ cá dìa công ở vùng biển
Quảng Nam – Đà Nẵng cùng một quần thể và khá đa dạng về mặt
di truyền, do đó cần được bảo tồn để đảm bảo sự tồn tại của loài.
Abstract - The orange-spotted spinefoot (Siganus guttatus) is a fish
of great economic value. It is currently being exploited to the point of
exhaustion, not to mention the biodiversity risks associated with seeds
migrating from one place to another. It is essential to find out about
the population structure of Siganus guttatus at this point in order to
ensure better management. Fish samples are collected from three
sea areas: Thu Bon estuary, Cu Lao Cham sea and Da Nang. In
combination with the sequences from GenBank, the study
investigates genetic diversity and differentiation. The results show that
Siganus guttatus populations in Cu Lao Cham, Da Nang and Thu Bon
estuary have 9 COI genotype in three groups. At the population level,
3 fish group in study area do not have different genetics.This indicates
that the rabbit fish in the Quang Nam - Da Nang sea area is quite
diverse in terms of genetics and should be preserved.
Từ khóa - cá dìa công (Siganus guttatus); COI mtDNA; đa dạng
gen; biển Đà Nẵng; biển Cù Lao chàm; cửa sông Thu Bồn
Key words - orange-spotted spinefoot (Siganus guttatus); COI
mtDNA; genetic diversity; Da Nang sea; Cu Lao Cham sea; Thu
Bon estuary
1. Đặt vấn đề
Cá dìa công là loài có kích thước nhỏ và giai đoạn cá
con thường sống ở vùng cửa sông và rừng ngập mặn. Cũng
như đa số các loài thuộc họ Siganidae, cá dìa công có giá
trị kinh tế cáo, thịt cá trắng và ngon nên được ưa chuộng,
vì vậy đối tượng này thường bị khai thác quá mức (Soliman
và cộng sự (CS), 2009). Thông tin về cấu trúc quần đàn
đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng chiến lược
quản lý bền vững nguồn lợi biển (Ward và Grewe, 1994).
Hiện nay có rất nhiều nghiên cứu sử dụng di truyền phân
tử để tìm hiểu cấu trúc quần đàn để giúp đưa ra chính sách
bảo vệ nguồn lợi. Đến thời điểm này, số lượng các công bố
về cấu trúc quần đàn của các loài thuộc họ cá dìa còn khá
hạn chế. Mặc dù các thông tin di truyền về microsatellites,
single nucleotide polymorphism và cả hệ gen có thể đưa ra
thông tin tối ưu hơn, nhưng vì điều kiện chưa cho phép nên
nghiên cứu này chỉ có thể sử dụng phương pháp khả thi
nhất là dùng chuỗi ADN của một phần gen COI trong ty
thể. COI được sử dụng rộng rãi vì có mức độ biến dị cao ở
mức có thể dùng để so sánh giữa các quần đàn. Vì vậy mục
tiêu của nghiên cứu này là bước đầu nghiên cứu đa dạng di
truyền và cấu trúc quần thể của cá dìa công (S. guttatus) ở
vùng biển Quảng Nam – Đà Nẵng dùng chuỗi ADN ty thể
một phần vùng gen COI.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Thu mẫu
Thu 90 mẫu cá dìa công (Siganus guttatus) từ tháng
8/2014 đến tháng 1/2015 ở ba địa điểm: Cửa sông Thu Bồn,
Cù Lao Chàm và biển Đà Nẵng (mỗi địa điểm thu 30 mẫu).
Mẫu cá cửa sông Thu Bồn được thu bằng nhũi. Các mẫu cá
biển Đà Nẵng và Cù Lao Chàm được thu bằng lưới rạn, câu
và lặn. Địa điểm thu mẫu thể hiện ở Hình 1.
Cắt khoảng 1 cm2 vây ngực của các cá thể ngâm cồn
80, để trong từng lọ riêng biệt có dán nhãn và ghi rõ thông
tin về nguồn gốc mẫu. Mẫu vây cá được gửi đến Trung tâm
Đa dạng Sinh học Biển (MARBEC) - Đại học Université
Montpellier II, Pháp phân tích.
Hình 1. Sơ đồ vị trí thu mẫu cá dìa công cửa sông Thu Bồn,
Cù Lao Chàm và biển Đà Nẵng
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 9(130).2018 93
2.2. Chiết xuất ADN, nhân bản gen COI và giải trình tự
ADN được chiết xuất dùng Kit PureLink® Genomic
DNA (Life Techomogies, USA) theo hướng dẫn của nhà sản
xuất. Một đoạn của vùng gen COI được nhân bản dùng phản
ứng chuỗi polymerase (polymerase chain reaction, gọi tắt là
PCR). Phản ứng PCR được thực hiện dùng hai đoạn ADN mồi
FishF1 (5’-TCAACCAACCACAAAGACATTGGCAC-3’)
và FishR1 (5’-TAGACTTCTGGGTGGCCAAAGAATCA-
3’) (Durand và CS, 2012). Thể tích phản ứng PCR là 50µL,
trong đó có 5 µL dung dịch đệm và 1 đơn vị enzyme GoTaq
DNA polymerase (Promega), 2µL dNTPs (5 mM), 0,5 µL
mỗi ADN mồi (10mM), 1,5 µL MgCl2 (25 mM) và khoảng
50 ng ADN. Điều kiện nhiệt độ cho phản ứng PCR như sau:
Tách chuỗi ADN ở 92°C trong 3 phút, 35 vòng lặp của tách
chuỗi 92°C trong 1 phút, gắn mồi ADN ở 52°C trong 45 giây,
và tổng hợp AND ở 72°C trong 1,5 phút; và kết thúc tổng hợp
ADN ở 72°C trong 5 phút (Durand và CS, 2012).
2.3. Phân tích số liệu
Phần mềm MEGA phiên bản 6.0 (Tamura và CS, 2013)
được dùng để xem và sắp xếp vị trí của các nucleotides.
MEGA cũng được dùng để tính mức độ khác nhau và xây
dựng mối quan hệ tiến hóa giữa các kiểu gen.
Sự khác nhau giữa các quần đàn được kiểm tra dùng
“exact test” dựa trên tần số kiểu gen, và so sánh giữa từng
cặp quần đàn dùng phân tích sai khác di truyền phân tử
(analysis of molecular variance, hay AMOVA) (Excoffier
và CS, 1992) dùng 1.000 lần hoán vị của số liệu có được.
3. Kết quả nghiên cứu
Trong số 90 mẫu phân tích, 34 mẫu được giải trình tự
thành công đoạn gen COI dài 629 basepairs (bp). Gồm có
11 mẫu vùng cửa sông Thu Bồn, 12 mẫu vùng biển Cù Lao
Chàm và 11 mẫu từ biển Đà Nẵng. Trong số mẫu giải trình
tự thành công, có tổng cộng 9 kiểu gen, và có 11 vị trí có
nucleotide thay đổi. Thành phần nucleotide trung bình là
A = 24,8%, C = 27,4%, T = 29,1% và G = 18,7%.
Sự khác nhau giữa 9 kiểu gen ở 11 vị trí có nucleotide
thay đổi và phân bố kiểu gen ở các quần đàn được trình bày
ở Bảng 1. Kiểu gen 1 và 4 khá phổ biến (41,7% và 25,0%) ở
quần đàn Cù Lao Chàm, trong khi đó kiểu gen 1 và 5 lại phổ
biến (mỗi kiểu gen chiếm 25%) ở quần đàn biển Đà Nẵng.
Các kiểu gen 4, 5, 6 nhìn thấy nhiều ở quần đàn Cửa sông
Thu Bồn. Kiểu gen 9 chỉ phát hiện ở quần đàn Cửa sông Thu
Bồn với tần suất thấp (10,0%). Trong ba quần đàn, Cù Lao
Chàm có ít số kiểu gen và biến đổi nucleotide nhất (Bảng 1).
Bảng 1. Tần số các kiểu gen COI ở ba địa điểm thu mẫu và các tham số đa dạng nucleotide, số kiểu gen,
đa dạng kiểu gen, và số nucleotide thay đổi trong từng quần đàn
Kiểu gen
Vị trí Cù Lao
Chàm
Biển Đà
Nẵng
Cửa sông
Thu Bồn 34 73 169 220 262 268 313 319 547 556 622
Kiểu gen 1 A C C C T A G A A G G 0,417 0,250 0,100
Kiểu gen 2 . . . . . . . . . . A 0,167 0,100
Kiểu gen 3 G . . . C . . G . . . 0,083 0,083
Kiểu gen 4 G . T . . G . . G . . 0,250 0,083 0,200
Kiểu gen 5 G . . T C . . G . . . 0,083 0,250 0,200
Kiểu gen 6 G T T . . G . . G . . 0,083 0,200
Kiểu gen 7 . . . . . . . . . A . 0,167 0,100
Kiểu gen 8 G . . . C . A G . . . 0,083
Kiểu gen 9 G . T . . . . . G . . 0,100
Số kiểu gen 5 7 7
Số vị trí nucleotide
thay đổi
8 10 10
Chú thích: Các con số viết dọc là vị trí nucleotide thay đổi. Dấu chấm có nghĩa là nucleotide giống với kiểu gen 1.
Bảng 2. Mức độ khác nhau giữa các quần đàn dựa trên tần số kiểu
gen của gen COI (Số trong ngoặc là P-value của “exact test”)
Quần đàn Cù Lao Chàm
Vịnh Đà
Nẵng
Cửa sông
Thu Bồn
Cù Lao Chàm -
Vịnh Đà Nẵng 0,002 (0,34) -
Cửa sông Thu Bồn 0,025 (0,32) 0,016 (0,80) -
Mức độ khác nhau giữa các quần đàn thông qua chỉ số
𝐹𝑆𝑇được thể hiện ở Bảng 2. Giữa 3 quần đàn thì khoảng
cách di truyền giữa quần đàn Cù Lao Chàm và Cửa sông
Thu Bồn là lớn nhất (𝐹𝑆𝑇=0,025). Sự khác nhau này có ý
nghĩa thống kê (P>0,05, (Bảng 2)).
Mối quan hệ tiến hóa giữa các loài Siganus và các mẫu
S. guttatus thu được trong nghiên cứu này được trình bày ở
Hình 2. Khoảng cách di truyền giữa các kiểu gen COI được
tóm tắt ở Bảng 3. Nhìn chung về mặt di truyền, S. guttatus
có hai nhóm: nhóm 2 có ba kiểu gen 3, 5 và 8, các kiểu gen
còn lại thuộc nhóm 1 (Hình 2), tuy nhiên sự phân chia này
không hoàn toàn rõ ràng do tỷ lệ bootstrap support thấp
(30%). Khoảng cách di truyền trung bình giữa hai nhóm
này là 0,007. Nhóm 1 cũng được chia làm hai nhóm với tỷ
lệ bootstrap cao (84%): Nhóm 1.1 và nhóm 1.2, và khoảng
cách di truyền trung bình giữa hai nhóm này cũng là 0,007.
Giữa các nhóm 1.1, 1.2 và 2 thì khoảng cách di truyền giữa
nhóm 1.1 và 2 là lớn nhất (0,009).
94 Nguyễn Thị Tường Vi, Võ Sĩ Tuấn, Nguyễn Văn Long
Bảng 3. Khoảng cách di truyền giữa các kiểu gen COI tìm thấy ở các mẫu cá dìa công.
Kiểu gen 1 2 3 4 5 6 7 8
2 0,002
3 0,005 0,006
4 0,006 0,008 0,008
5 0,006 0,008 0,002 0,010
6 0,008 0,010 0,010 0,002 0,011
7 0,002 0,003 0,006 0,008 0,008 0,010
8 0,006 0,008 0,002 0,010 0,003 0,011 0,008
9 0,005 0,006 0,006 0,002 0,008 0,003 0,006 0,008
Hình 2. Quan hệ di truyền tiến hóa giữa các loài thuộc giống Siganus dựa trên chuỗi ADN của một phần gen COI
Chú thích: CSTB = Cửa sông Thu Bồn, VĐN = Biển Đà Nẵng, CLC = Cù Lao Chàm.
Các ký tự trong ngoặc là GenBank Accession Number. Các số ở nhánh của cây tiến hóa là bootstrap support
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 9(130).2018 95
Ngoài số mẫu phân tích trong nghiên cứu này, chuỗi
COI của một số mẫu Siganus guttatus từ Philippines, Trung
Quốc và Thái Lan cũng được tải về từ ngân hàng gen để so
sánh. Ngoài ra, chuỗi COI của một số loài Siganus khác
cũng dùng để xây dựng mối quan hệ tiến hóa giữa các loài.
4. Thảo luận
Thông thường các quần đàn phân bố ở các vùng địa lý
khác nhau của các loài ở biển không khác biệt nhiều.
Nghiên cứu của Bernardi và CS (2001) công bố rằng các
quần đàn của loài Dascyllus trimaculatus phân bố cả vùng
biển Indo – Tây Thái Bình Dương không có sự khác biệt
dù chúng sống ở các vùng đảo cách xa nhau đến 750 km.
Đây là do đặc tính đẻ trứng trôi nổi hoặc khả năng di cư
của cá làm cho các quần đàn cá có thể di chuyển qua lại
giữa các khu vực khác nhau. Khá nhiều nghiên cứu nhận
thấy không có sự khác biệt giữa các quần đàn cách nhau cả
hàng trăm đến hàng nghìn km (Mukai và CS, 2009; Visram
và CS, 2010; DiBattista và CS, 2011).
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy, các quần đàn cá
dìa S. guttatus ở các vùng Cù Lao Chàm, Vịnh Đà Nẵng và
Cửa sông Thu Bồn mặc dù đa dạng về kiểu gen (9 kiểu gen)
nhưng ở mức độ quần thể thì các quần đàn không có sự
khác nhau về mặt di truyền, nghĩa là cá dìa S. guttatus ở 3
khu vực đều cùng một quần thể.
Tuy nhiên, để đưa ra biện pháp quản lý phù hợp nguồn
lợi S. guttatus cần tiến hành thu mẫu với quy mô rộng hơn.
Việc nghiên cứu trên quy mô rộng sẽ giúp có thêm thông
tin tổng thể về loài cá quý này ở Việt Nam. Hơn thế nữa,
hiện nay giống cá dìa công đang được thu mua ở vùng Cửa
sông Thu Bồn và bán ở các tỉnh phía nam miền Trung để
nuôi cá thịt, việc di chuyển giống như thế có thể gây ảnh
hưởng không tốt đối với nguồn lợi hiện có nếu quần đàn tự
nhiên nơi nhập giống khác với quần đàn nơi xuất giống.
Nghiên cứu này tìm thấy 9 kiểu gen COI cá dìa công
thuộc 3 nhóm chính. Điều này chứng tỏ cá dìa công ở vùng
biển Quảng Nam – Đà Nẵng khá đa dạng về mặt di truyền.
Tính đa dạng này cần được bảo tồn để đảm bảo sự tồn tại
của loài. Nếu cá dìa công giống vùng Cửa sông Thu Bồn bị
tiếp tục khai thác, sự đa dạng này sẽ mất đi và gây rủi ro cho
việc tồn tại của loài cá quý này tại vùng biển Quảng Nam –
Đà Nẵng. Loài này được thuần hóa và đưa vào sinh sản nhân
tạo và sản xuất giống phục vụ nuôi trồng thủy sản, sự đa
dạng này sẽ là cơ sở ban đầu rất tốt cho công tác chọn giống.
5. Kết luận
Phân tích trình tự ADN ở một phần gen COI ty thể của
cá dìa công thu được ở vùng biển Quảng Nam – Đà Nẵng,
cho thấy các quần đàn Cửa sông Thu Bồn, Cù Lao Chàm
và Vịnh Đà Nẵng không khác nhau, có nghĩa là thuộc một
quần đàn di truyền. Tuy nhiên đây mới chỉ là nghiên cứu
bước đầu và dùng một loại thông tin là ADN ty thể, vì vậy
cần có một nghiên cứu rộng ở nhiều vị trí khác dọc vùng
biển Việt Nam và sâu hơn (thêm thông tin về ADN trong
nhân) để có thể đưa ra chiến lược quản lý nguồn lợi quý giá
này cho Việt Nam nói chung. Sự vận chuyển giống cá dìa
từ vùng Quảng Nam – Đà Nẵng đến nơi khác cần được lưu
ý (hạn chế / nghiêm cấm) khi cấu trúc quần đàn tổng thể
chưa xác định được. Điều này sẽ giảm thiểu rủi ro về mặt
sinh học cho cá dìa công tự nhiên nơi nhập giống, cũng như
bảo tồn tính đa dạng cá vùng xuất giống.
Lời cảm ơn: Tác giả xin chân thành cảm ơn Dr. Jean-
Dominique Durand (Institut de Recherche pour le
Développement, France) và Dr. Nguyễn Thị Thu Thủy
(Department of Agriculture, Victoria, Australia) đã giúp đỡ
trong việc giải trình tự ADN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bernardi, G., Holbrook, S.J., Schmitt, R.J., 2001. Gene flow at three
spatial scales in a coral reef fish, the three-spot dascyllus, Dascyllus
trimaculatus. Marine Biology 138, 457-465.
[2] Excoffier, L., Smouse, P.E., Quattro, J.M., 1992. Analysis of
molecular variance inferred from metric distances among DNA
haplotypes: application to human mitochondrial DNA restriction
data. Genetics 131, 479-491.
[3] DiBattista, J.D., Wilcox, C., Craig, M.T., Rocha, L.A., Bowen,
B.W., 2011. Phylogeography of the Pacific Blueline Surgeonfish,
Acanthurus nigroris, reveals high genetic connectivity and a cryptic
endemic species in the Hawaiian archipelago. Journal of Marine
Biology 2011, 1-17.
[4] Durand, J.D., Shen, K.N., Chen, W.J., Jamandre, B.W., Blel, H., Diop,
K., Nirchio, M., Garcia de León, F.J., Whitfield, A.K., Chang, C.W.,
Borsa, P., 2012. Systematics of the grey mullets (Teleostei:
Mugiliformes: Mugilidae): molecular phylogenetic evidence
challenges two centuries of morphology-based taxonomy. Molecular
Phylogenetics and Evolution 64, 73-92.
[5] Mukai, T., Nakamura, S., Nishida, M., 2009. Genetic population
structure of a reef goby, Bathygobius cocosensis, in the northwestern
Pacific. Ichthyology Research 56, 380-387.
[6] Soliman, V., Bobiles, R.U., Yamaoka, K., 2009. Overfishing in three
siganid species (Family: Siganidae) in Lagonoy Gulf, Philippines.
Kuroshio Science 2, 145-150.
[7] Tamura, K., Stecher, G., Peterson, D., Filipski, A., Kumar, S., 2013.
MEGA6: Molecular Evolutionary Genetics Analysis Version 6.0.
Molecular Biology and Evolution 30, 2725-2729.
[8] Visram, S., Yang, M.C., Pillay, R.M., Said, S., Henriksson, O.,
Grahn, M., Chen, C.A., 2010. Genetic connectivity and historical
demography of the blue barred parrotfish (Scarus ghobban) in the
western Indian Ocean. Marine Biology 157, 1475-1487.
[9] Ward, R.D., Grewe, P.M., 1994. Appraisal of molecular genetic
techniques in fisheries. Review of Fish Biology and Fisheries 4.
(BBT nhận bài: 10/8/2018, hoàn tất thủ tục phản biện: 17/9/2018)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- da_dang_di_truyen_quan_the_ca_dia_cong_siganus_guttatus_o_vu.pdf