LỜI NÓI ĐẦU
Là người con của đất Kiên Giang, tôi không thể không tự hào quê hương mình có nhiều địa danh đẹp nổi tiếng như đảo Phú Quốc, rừng U Minh Thượng, Hòn Tre, Hòn Nghệ, hòn Phụ Tử Nhưng cái tôi tâm đắc nhất vẫn là U Minh Thượng nơi mang vẻ đẹp hoang dã, gần gũi với thiên nhiên, đậm màu sắc quê hương. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, U minh Thượng là căn cứ địa của cách mạng, là nuôi giấu chiến sĩ chống giặc. Ngày nay, U Minh Thượng là một trong những vùng đất ngập nước với diện tích rừng quý hiếm nhất Đông Nam Á, đồng thời là khu bảo tồn sinh quyển thế giới. Mức độ đa dạng về thành phần loài ở đây khó có khu bảo tồn vùng đất ngập nước nào trong khu vực sánh được. Chính bởi lẽ đó mà tôi đã chọn U Minh thượng làm đề tài cho bài tiểu luận này.
Bài tiểu luận này nhằm giới thiệu về Đa dạng sinh học ở Vườn Quốc Gia U Minh Thượng, hiện trạng sử dụng, bảo tồn cũng như phương hướng giải quyết các vấn đề liên quan đến Đa dạng sinh học tại đây.
Nguồn tài liệu: từ các trang web
Do sự hiểu biết có hạn, nên bài tiểu luận còn nhiều thiếu sót. Tôi mong nhận được sự đóng góp từ thầy và các bạn để những bài tiểu luận sau sẽ tốt hơn.
MỤC LỤC
I. Vài nét về U Minh Thượng
II. Mức độ đa dạng sinh học ở U Minh Thương
II.1 Đa dạng loài thực vật
II.2 Đa dạng loài động vật
III. Giá trị của VQG U Minh Thượng
IV. Thách thức đối với đa dạng sinh học của U Minh Thượng
9 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 3032 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đa dạng sinh học ở vườn quốc gia U Minh Thượng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Là người con của đất Kiên Giang, tôi không thể không tự hào quê hương mình có nhiều địa danh đẹp nổi tiếng như đảo Phú Quốc, rừng U Minh Thượng, Hòn Tre, Hòn Nghệ, hòn Phụ Tử…Nhưng cái tôi tâm đắc nhất vẫn là U Minh Thượng nơi mang vẻ đẹp hoang dã, gần gũi với thiên nhiên, đậm màu sắc quê hương. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, U minh Thượng là căn cứ địa của cách mạng, là nuôi giấu chiến sĩ chống giặc. Ngày nay, U Minh Thượng là một trong những vùng đất ngập nước với diện tích rừng quý hiếm nhất Đông Nam Á, đồng thời là khu bảo tồn sinh quyển thế giới. Mức độ đa dạng về thành phần loài ở đây khó có khu bảo tồn vùng đất ngập nước nào trong khu vực sánh được. Chính bởi lẽ đó mà tôi đã chọn U Minh thượng làm đề tài cho bài tiểu luận này.
Bài tiểu luận này nhằm giới thiệu về Đa dạng sinh học ở Vườn Quốc Gia U Minh Thượng, hiện trạng sử dụng, bảo tồn cũng như phương hướng giải quyết các vấn đề liên quan đến Đa dạng sinh học tại đây.
Nguồn tài liệu: từ các trang web
www.daongoc.vn/kham-pha-rung-u-minh-thuong-huyen-u-minh-thuong-kien-...
www.moitruongdulich.vn/index.php?...
www.wattpad.com/576274
Cùng nhiều trang web khác
Do sự hiểu biết có hạn, nên bài tiểu luận còn nhiều thiếu sót. Tôi mong nhận được sự đóng góp từ thầy và các bạn để những bài tiểu luận sau sẽ tốt hơn.
Sinh viên
MỤC LỤC
I. Vài nét về U Minh Thượng
II. Mức độ đa dạng sinh học ở U Minh Thương
II.1 Đa dạng loài thực vật
II.2 Đa dạng loài động vật
III. Giá trị của VQG U Minh Thượng
IV. Thách thức đối với đa dạng sinh học của U Minh Thượng
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VQG
BTTN
ĐDSH
ĐBSCL
Vườn Quốc Gia
Bảo Tồn Thiên Nhiên
Đa Dạng Sinh Học
Đồng Bằng Sông Cửu Long
I. Vài nét về U Minh Thượng:
Đường vào U Minh Thượng
Rừng U Minh Thượng
Rừng U Minh nằm ở phía Tây bán đảo Cà Mau, phía Tây giáp vịnh Thái Lan (biển Tây), phía Bắc và Nam bị giới hạn bởi sông Cái Lớn và sông ông Đốc. Rừng U Minh rộng gần 190 ngàn hécta, được chia bởi sông Trẹm thành hai nửa gần bằng nhau: phần phía Bắc là U Minh Thượng thuộc tỉnh Kiên Giang, phía Nam là U Minh Hạ thuộc Cà Mau. Rừng U Minh (U Minh Thượng và U Minh Hạ) là kiểu rừng rất đặc thù, được xếp hạng độc đáo và quí hiếm trên thế giới. Rừng tập trung ở U Minh Thượng nhiều hơn và chủ yếu là loại rừng nguyên sinh. Người Nam Bộ gọi các vùng rừng ngập nước là miệt thứ để phân biệt với miệt vườn. Miệt thứ là xứ cá, miệt vườn là xứ cây ăn trái. Miệt thứ U Minh là vùng rừng tràm sình lầy có gần 20 kênh rạch lớn chảy song song ra Vịnh Thái Lan. Giữa các kênh rạch lớn là hàng trăm kênh rạch nhỏ chằng chịt đầy tôm cá. Khi triều rút, lòng kênh rạch nông và hẹp lại, cá đớp bọt như nồi cơm đang sôi.
Khu bảo tồn thiên nhiên (BTTN) U Minh Thượng được thành lập từ năm 1993 do Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Kiên Giang quản lý, có diện tích 21.800 ha gồm vùng lõi 8100 ha và vùng đệm 13.700 ha. U Minh Thượng được công nhận là vườn quốc gia vào tháng 1 năm 2002, với diện tích 8.053 hécta, nằm trong địa giới của các huyện An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận của tỉnh Kiên Giang, thuộc vùng bán đảo Cà Mau.
Chưa đầy 3 tháng sau khi được công nhận là vườn quốc gia, hàng chục ngàn ha rừng, trong đó có gần chục ha vùng lõi đã bị cháy rụi. Với quyết tâm của chính quyền và người dân nơi đây, rừng đã được khôi phục lại và trở thành một khu du lịch sinh thái nổi tiếng khu vực ĐBSCL. Đến U Minh Thượng,du khách sẽ được tận hưởng không khí trong lành cùng với không gian khoáng đãng, tha hồ nhìn ngắm chim muông, thú rừng, và các loài động thực vật. Nhiều địa chỉ để các bạn tham quan như mảng chim, mảng dơi quạ, tràm nguyên sinh, quần thể Heo Rừng, Rái Cá, Kỳ Đà, và đặc biệt là khu giải trí câu cá Hồ Hoa Mai...
II. Mức độ Đa dạng sinh học ở U Minh Thượng:
Trong hệ sinh thái rừng úng phèn của đồng bằng sông Cửu Long thì chỉ còn duy nhất hệ thực vật rừng của vùng lõi thuộc VQG U Minh Thượng có những đặc điểm của rừng cực đỉnh nguyên sinh. Đó là các ưu hợp rừng tràm hỗn giao và rừng tràm trên đất than bùn với diện tích gần 3000 ha. Các đầm lầy và các sinh cảnh thực vật trên các kênh đê nằm xen kẽ rải rác trong các khu rừng tạo nên những khu cư trú thích hợp cho các loài động vật hoang dã.
Đặc trưng nhất của khu BTTN U Minh Thượng là tập đoàn cây tràm cừ, có thân cao từ 10 đến 20 m, khá thuần nhất, mọc ngay sau lưng rừng Sú Vẹt nếu tính từ biển vào. Tập đoàn cây tràm chứng tỏ môi trường nước của U Minh Thượng đã chuyển sang giai đoạn ngọt hoá, sau lịch sử nhiều năm là một vùng đồng bằng trũng ven biển ngập triều. Dưới bóng tràm, có thể gặp một tập đoàn động thực vật đa dạng vào bậc nhất trong số các khu bảo tồn đất ngập nước ở đồng bằng sông Cửu Long.
II.1 Đa dạng loài thực vật:
U Minh Thượng có hệ thực vật rất đa dạng và phong phú, gồm 252 loài thực vật có mạch thuộc 84 họ; trong đó có 8 loài rất hiếm như Mốp, Năng Chồi, Lá U Minh, Bèo Tản Nhọn, Nắp Bình, Luân Lan, Mật Cật, Bí Kỳ Nam... và cũng là nơi duy nhất còn lại hệ thực vật của rừng nguyên sinh: Đó là ưu hợp rừng Tràm hỗn giao của rừng Tràm trên đất than bùn.
Trong số 250 loài thực vật U Minh Thượng thì tràm và trâm là hai loài thân gỗ có giá trị cao. Dưới tán của chúng là các loài rau như Dớn, Choai, Súng, Rau Dừa, Rau Muống...Người ta còn cho rằng, rừng Tràm - do khả năng nhả nước (khả năng bốc hơi nước) rất lớn - góp phầm làm khô hạn đầm lầy và hương Tràm góp phần làm sạch không khí. Dưới thảm rễ Tràm là lớp than bùn, nằm cách mặt đất chừng nửa mét và dày từ 2 đến 5 mét. Than bùn ở đây là xác thực vật như Sú, Vẹt, Tràm... bị biến đổi và chôn vùi qua hàng chục, hàng trăm ngàn năm lịch sử địa chất.
Rừng Tràm U Minh Thượng
Bèo Tai Tượng phổ biến ở rừng U Minh
II.2 Đa dạng loài động vật:
U Minh Thượng có 186 loài chim thuộc 39 họ, 12 bộ, chiếm 16,6% so với 828 loài ghi nhận tại Việt Nam. Trong đó có 12 loài có giá trị bảo tồn, 8 loài chim bị đe dọa toàn cầu như: Bồ Nông Chân Xám, Điên Điển, Quắm Đầu Đen, Giang Sen, Gà Đẫy, Giòng Giọc Vàng, Diều Cá Đầu Xám, Đại Bàng Đen... và 32 loài thú thuộc 7 họ, có 7 loài dơi... trong đó có 5 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam như Rái Cá Lông Mũi, Mèo Cá, Cầy Giông Đốm Lớn, Sóc Lửa...
Ở đây có đến 10 loài cá, trong đó có hai loài ghi trong sách đỏ Việt Nam là Cá Trê Trắng và Cá Còm. Cá là loài đặc sản cực kỳ phong phú của U Minh Thượng. Ngoài hai loài cá trên, còn có thể gặp các loại cá Lóc, cá Sặc Bông, cá Trê, cá Rô, cá Thòi Lòi sống chui rúc trong lớp bùn lỏng.
Rái Cá được coi là biểu tượng của U Minh Thượng.
Rái Cá Lông Mũi
Cu Xanh
Quần thể Dơi Ngựa lớn (ở U Minh Thượng khoảng 10.000 con)
Khỉ Bạc Má, đuôi dài
Chim Gà Đẩy
Trăn Vùng U Minh Thượng
III. Giá trị của VQG U Minh Thượng:
Tràm là loại cây đặc trưng của rừng U Minh. Cây tràm có thân nhỏ, thấp hơn cây đước; vỏ cây xốp và trắng, gỗ bên trong rắn chắc. Thân cây cao đến 20 m, tán lá tràm thưa, lá thon nhỏ. Cây tràm có thể sống 25 - 30 năm. Lúc đó nó trở thành cây cổ thụ, gỗ có thể dùng làm nhà. Mùa khô, trái tràm rụng xuống đất và đến mùa mưa, cây tràm con đã lên xanh tốt. Hạt tràm có thể nằm tại khu đất cháy từ 5-10 năm, sau nếu có điều kiện có thể nảy mầm thành cây con. Hoa tràm nở và mùa hè, hoa màu trắng sữa, mọc thành chùm, hương thơm dịu như hương sen. Hương tràm là một sản phẩm được nhiều người ưa thích.
Ngoài cây tràm bản địa, Vườn quốc gia U Minh Thượng còn có hệ động thực vật vô cùng phong phú. Là nơi lưu giữ nhiều loài động vật quý hiếm như Mốp, Năng Chồi, Rái Cá Lông Mũi, Gá Đẩy Java…
Rừng U Minh Thượng còn có nguồn lợi kinh tế dồi dào, gồm các loại cây như đước, vẹt, mắm, cóc, dá, su, tràm, dừa nước... Hàng năm, rừng sản xuất một số lớn lâm sản có giá trị kinh tế cao. Rừng còn bảo vệ phần lớn cho vùng này tránh khỏi nạn ngập lụt. Đặc biệt, vườn Quốc gia U Minh Thượng có chức năng bảo tồn mẫu chuẩn mang cấp Nhà nước về hệ sinh thái rừng tràm ứng phèn trên đất than bùn, bảo tồn hệ sinh học trên nhiều mặt, bảo vệ di tích lịch sử cách mạng xuyên suốt hai thời kì kháng chiến.
IV. Thách thức đối với ĐDSH của U Minh Thượng:
Từ năm 2002, sau trận cháy lớn thiêu rụi gần 4.000ha rừng tràm nguyên sinh tại vườn quốc gia U Minh Thượng, Ban Quản lý vườn tìm cách làm cho rừng tràm ngập nước triền miên để chống cháy, chỗ ngập nông nhất cũng 1m, ngay trong thời điểm mùa nắng. Nhưng do bị ngâm nước trong thời gian dài đã, bộ rễ của cây tràm trở nên suy yếu kiệt quệ. Hiện có khoảng 700 đến 800 ha rừng tràm tự tái sinh sau 7- 8 năm dưới dạng những khóm cây khẳng khiu. Một số vạt rừng nổi như những thảm rừng trôi, do rễ không bám được vào bùn. Khoảng 6.000ha rừng nguyên sinh còn lại sau trận cháy 2002, nhiều cây vàng lá, chết khô từ trên ngọn chết xuống, cây rừng bị ngã đổ hàng loạt do bộ rễ quá suy yếu. Đó là chưa kể trong những năm vừa qua, tỉnh Kiên Giang đã đầu tư đến cả chục tỷ đồng cho việc trồng lại rừng tràm, nhưng tràm không thể phát triển trong điều kiện ngập nước sâu kéo dài. Diện tích rừng tràm giảm sẽ ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của quần thể động thực vật tại đây. Nhất là các loài quý hiếm.
Loài Rái cá quý hiếm ở U Minh Thượng cũng đang có nguy cơ bị tiêu diệt do việc đặt bẫy của người dân. Nguyên do là thời gian gần đây, Rái cá không ăn cá trong rừng mà lại ra ngoài xâm nhập vào các đìa, các vuông nuôi cá của dân vùng đệm để kiếm ăn, nên đã xung đột với người dân. Để bảo vệ cá nuôi, nông dân đặt bẫy, bắt và dùng chó tiêu diệt Rái cá.
Không phải chỉ riêng loài Rái cá mà quần thể chim, cá cũng bị giảm sút nhiều. Một phần là do nạn cháy rừng vào năm 2002 làm mất môi trương sống, nhưng lý do chính vẫn là do con người. Nhiều người vào rừng đặt bẫy chim, bắt cá làm số lượng chim cá ở đây giảm hẳn. Người đến nơi này chỉ còn nghe thấy tiếng chim từng âm thanh một, rõ ràng là từng con một kêu, chứ không phải tiếng của cả đàn chim rộn rã như ngày trước nữa.
V. Bảo vệ ĐDSH VQG U Minh Thượng
Trước những thách thức trên chúng ta cần có những biện pháp bảo vệ hiệu quả để bảo tồn ĐDSH ở U Minh Thượng. Sau đây là một số phương hướng giải quyết theo em là cần thiết nhất:
Tiếp tục xây dựng và phát triển mô hình du lịch sinh thái tại VQG. Vừa giới thiệu được tới du khách về sự đa dạng của quần thể động thực vật và nét đẹp sinh thái nơi đây, vừa tăng giá trị sinh thái của vườn. Mặt khác, tạo nguồn thu ổn định phục vụ các công tác bảo vệ cũng như phát triển bền vững VQG.
Tổ chức các buổi tập huấn nâng cao ý thức người dân sống trong vùng đệm, để họ không săn bắt, tiêu diệt các loài thú quý hiếm của VQG. Nếu thấy thú quý xuất hiện ngoài khu vực cho phép thì báo ngay cho cơ quan quản lý VQG để kịp xử lý.
Ngăn chặn các loài thú trong vườn di chuyển ra khỏi vùng lõi bằng việc tạo nguồn thức ăn phong phú, môi trường sống thuận lợi cho chúng. Nếu thấy chúng ra khỏi rừng thì tìm cách đưa chúng trở lại rừng.
Hợp tác với các cơ quan, tổ chức bảo tồn ĐDSH trong và ngoài nước để nâng cao công tác bảo tồn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- biodiversity_1144.doc