- Suy thoái đa dạng sinh học dẫn đến :
+ Mất cân bằng sinh thái
+ Ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của con người
+ Đe dọa sự phát triển bền vững của trái đất.
+ Mặt khác sinh vật và hệ sinh thái là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm, công cụ, nhiên liệu Do vậy khi hệ sinh thái bị suy thoái sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt, nguồn lương thực hằng ngày làm cho con người phải đối mặt với nguy cơ đói nghèo, thiếu thốn.
+ Suy giảm nguồn gen và đặc biệt là biến đổi khí hậu dẫn đến hàng loạt các thảm họa thiên nhiên đe dọa cuộc sống của con người.
5) Biện pháp khắc phục
- Nâng cao ý thức của con người trong bảo vệ các loài sinh vật.
- Ngăn cấm các hành vi săn bắn khai thác động vật hoang dã, nghiêm cấm nạn khai thác , phá rừng bừa bải.
- Hạn chế ô nhiểm môi trường do các hoạt động cưa con ngườiXây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên.
- Có các chiến lược phát triển đúng đắn
18 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 1190 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đa dạng sinh học và suy thoái đa dạng sinh học - Bảng báo cáo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BẢNG BÁO CÁO
* Bảng 1.1 :Phân công từng thành viên trong nhóm.
1.
Nguyễn Mạnh Hùng
Tìm câu hỏi,thiết kế powerpoint, kiểm tra chỉnh sửa bài tiểu luận
2.
Võ Tấn Lợi
Tìm nội dung, sưu tầm hình ảnh về đa dạng sinh học, suy thoái đa dạng sinh học
3.
Nguyễn Phước Đại
Sàn lọc, chọn ý, viết báo cáo, xây dựng bài tiểu luận
Đa dạng sinh học
Khái niệm đa dạng sinh học :
Là sự khác nhau giữa các sinh vật sống ở tất cả mọi nơi, bao gồm: các hệ sinh thái trên cạn, sinh thái trong đại dương và các hệ sinh thái thuỷ vực khác, cũng như các phức hệ sinh thái mà các sinh vật là một thành phần trong đó. Thuật ngữ đa dạng sinh học này bao hàm sự khác nhau trong một loài, giữa các loài và giữa các hệ sinh thái khác nhau
Các giá trị của đa dạng sinh học:
- Đa dạng sinh học gồm tính đa dạng, trạng thái khác nhau về đặc tính hoặc chất lượng của sinh vật.
- Sự đa dạng và tính khác nhau của các loài sinh vật sống và các phức hệ sinh thái mà chúng tồn tại trong đó. Tính đa dạng có thể hiểu là một số lượng xác định các đối tượng khác nhau và tần số xuất hiện tương đối của chúng. Đối với đa dạng sinh học, những đối tượng này được tổ chức ở nhiều cấp độ, từ các hệ sinh thái phước tạp đến các cấu trúc hoá học là cơ sở phân tử của vật chất di truyền. Do đó, thuật ngữ này bao hàm các hệ sinh thái, các loài, các gen khác nhau và sự phong phú tương đối của chúng. (theo OTA, 1987).
- Đa dạng sinh học còn là sự đa dạng của các sinh vật trên trái đất, bao gồm cả sự đa dạng về di truyền của chúng và các dạng tổ hợp. Đây là một thuật ngữ khái quát về sự phong phú của sinh vật tự nhiên, hỗ trợ cho cuộc sống và sức khoẻ của con người. Khái niệm này bao hàm mối tương tác qua lại giữa các gen, các loài và các hệ sinh thái (như quan niệm của Reid & Miller, 1989).
- Giá trị của đa dạng sinh học là vô cùng to lớn và có thể chia thành hai loại giá trị: giá trị trực tiếp và giá trị gián tiếp. Giá trị kinh tế trực tiếp của tính đa dạng sinh học là những giá trị của các sản phẩm sinh vật mà được con người trực tiếp khai thác và sử dụng cho nhu cầu cuộc sống của mình; còn giá trị gián tiếp bao gồm những cái mà con người không thể bán, những lợi ích đó bao gồm số lượng và chất lượng nước, bảo vệ đất, tái tạo, giáo dục, nghiên cứu khoa học, điều hòa khí hậu và cung cấp những phương tiện cho tương lai của xã hội loài người.
Việt Nam là nước có mức độ đa dạng sinh học cao :
Về địa hình
- Việt Nam là một trong những quốc gia nằm phần đông bán đảo Đông Dương, thuộc trung tâm khu vực Đông Nam Á với tổng diện tích đất liền là 330.541km2 , trải dài từ 15 vĩ độ Bắc xuống Nam trải rộng trên 7 kinh tuyến. Bắc giáp Trung Quốc, Tây giáp Lào, Campuchia, Đông và Đông Nam giáp biển Đông. Bờ biển trải dài 3260 km.
- Địa hình Việt Nam đa dạng, trong đó 3/4 là diện tích đồi núi và cao nguyên. Khối núi cao nhất là dãy Hoàng Liên Sơn, phân chia Bắc Bộ làm hai phần Tây Bắc và Đông Bắc có điều kiện sinh thái khác biệt nhau, tiếp đén là dãy Trường Sơn kéo dài chạy suốt từ Trung Bộ đén vùng cực Nam nối tiếp với đồng bằng Nam Bộ. Vùng Bắc Bộ, khu vực Đông Bắc hình vòng cung chạy theo hướng Đông Bắc-Tây Nam, độ cao trung bình 1000m, chỉ có những đầu nguồn sông Lô, sông Gâm mới có những đỉnh núi cao trên 2000m. Vùng núi Tây Bắc có những đỉnh núi cao nhất nước ta, độ cao trung bình 2000m, đỉnh Phan Xi Păng, thuộc dãy Hoàng Liên Sơn cao 3143m, hướng núi chủ yếu lá Tây Bắc-Đông Nam, giống như mái nhà khổng lồ dốc xuống phía đòng bằng sông Hồng. Vùng núi Bắc Bộ và Trung Bộ có nhiều dãy núi đá vôi với nhiều hang động. Khoảng giữa dãy trường Sơn là vùng núi trung bình từ 800-1000m. Vùng cao nguyên trung phân là vùng đồi đất xám Đông Nam Bộ.
- 1/4 diện tích còn lại là vùng đồng bằng với 2 đồng bằng châu thổ lớn là ĐB sông Hồng và ĐB sông Cửu Long, ở giữa là đồng bằng nhỏ hẹp duyên hải miền Trung.
- Hệ thống sông ngòi Việt Nam dày đặc, chỉ tính những con sông dài trên 10km đã có trên 2500 sông. Trung bình cứ cách 20km lại có 1 con sông chảy ra biển, một vài con sông ở phía Bắc đổ về phía Trung Quốc và một số ở cao nguyên đổ ra lưu vực sông Mê Kông. Phần lớn các con sông đều dốc mạnh, nước chảy xiết, nhiều ghềnh thác.
Lượng mưa
- Lượng mưa trung bình 1700-1800mm/năm. Ở miền núi có nơi trên 3000mm. Nhưng cũng có vài nơi lượng mưa chỉ dưới 500mm. Độ ẩm không khí tương đối lớn, khoảng 80%. Số ngày mưa nhiều, trung bình trên 100 ngày/năm, có nơi lên đén 150 ngày/năm. Do ảnh hưởng của chế độ gió mùa nên lượng mưa phân bố không đều, hình thành hai mùa, mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa kéo dài 6-7 tháng/năm, lượng mưa mùa này chiếm 80-85% lượng mưa cả năm.
Khí hậu
- Mặc dù nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, song vì vị trí địa lí kéo dài lại chịu ảnh hưởng của độ cao địa hình nên khí hậu không đồng nhất trong cả nước.
- Nhiệt đọ trung bình hằng năm tăng dần từ Bắc xuống Nam và càng lên cao thì nhiệt độ càng giảm.
- Điểm nổi bật của khí hậu VN là nóng ẩm và mưa nhiều theo mùa. Vị trí địa lí địa hình, chế độ gió mùa đã tao ra thời tiết ở từng vùng rất khác nhau. Miền Bắc có mùa hè nóng ẩm, lượng mưa lớn, mùa đông thì ít mưa hơn và rất lạnh. Miền Trung có gió mùa đông ngắn hơn, ít lạnh hơn miền Bắc, mưa tập trung nhiều vào những tháng cuối năm. Mùa hè chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam nên rất nóng và khô. Miền Nam nóng quanh năm có hai mùa mưa và khô rõ rệt.
→ Những yếu tố về vị trí địa lý, địa hình, khí hậu, đát đai và các yếu tố sinh thái khác đã hình thành nên các hệ sinh thái đa dạng. Mỗi hệ sinh thái đều mang những đặc thù riêng, tất cả tạo nên nguồn tài nguyên sinh vật phong phú, đa dạng và rất độc đáo. Việt Nam là một trong những nước có sự đa dạng sinh học được xếp vào loại cao trên thế giới, một trong những trung tâm đa dạng sinh học của khu vực Đông Nam Á.
Sự đa dạng sinh học :
Đa dạng gen di truyền
- Là tất cả các gen di truyền khác nhau của tất cả các thể thực vật, động vật, nấm và vi sinh vật. Đa dạng di truyền tồn tại trong một loài và giữa các loài khác nhau.
- Là sự đa dạng về thành phần gen của các cá thể trong cùng một loài và giữa các loài khác nhau; là sự di truyền gen có thể di truyền được trong một quần thể hoặc giữa các quần thể.
- Là biểu hiện sự đa dạng của các biến dị có thể di truyền trong một loài, một quần xã của các loài, các quần xã.
→ Xét cho cùng, đa dạng di truyền chính là sự biến dị tổ hợp trình tự của bốn cặp bazơ cơ bản thành phần của axit nucleic, tạo thành mã di truyền. Tập hợp các biến dị gen trong một quần thể giao phối cùng loài có được nhờ chọn lọc. Mức độ sống sót của các biến dị khác nhau dẫn đến tần suát khác nhau của các gen trong tập hợp gen. Điều này cũng tương tự trong tiến hóa của quần thể. Như vậy, tầm quan trọng của biến dị gen là rất rõ ràng: nó tạo ra sự thay đổi tiến hóa tự nhiên cũng như chọn lọc nhân tạo. Chỉ một phần nhỏ (thường nhỏ hơn 1%) vật chất di truyền của các sinh vật bậc cao là được biểu hiện ra ngoài thành các tính trạng kiểu hình hoăc chức năng của sinh vật; vai trò của những AND còn lại và tầm quan trọng của các biến dị gen của nó vẫn chưa được làm rõ. Ước gtinhs cứ 109 gen khác nhau phân bố trên sinh giới thì có 1 gen không có đóng góp với toàn bộ đa dạng di truyền. Đặc biệt, những gen kiểm soát quá trình sinh hóa cơ bản, được duy trì sự tồn tại của các gen khác cũng tương tự như vậy. Hơn nữa một số lớn các biến dị phân tử trong hệ thống miễn dịch của đọng vạt có vú dduocj quy định bởi một số ljuongjw nhỏ cá gen di truyền.
Đa dạng nguồn gen ở VN
* Đa dạng nguồn gen trong nông nghiệp
- Theo đánh giá của Jucovski (1970), Việt Nam là một trong 12 trung tâm nguồn gốc giống cây trồng của thế giới. Mức độ ĐDSH của hệ thực vật cây trồng ở Việt Nam cao hơn nhiều so với dự đoán.
* Nguồn gen giống cây trồng, vật nuôi
- Ở Việt Nam, hiện nay đang sử dụng trong sản xuất nông nghiệp 16 nhóm các loài cây trồng khác nhau như cây lương thực chính, cây lương thực bổ sung, cây ăn quả, cây rau, cây gia vị, cây làm nước uống, cây lấy sợi, cây thức ăn gia súc, cây bóng mát, cây công nghiệp, cây lấy gỗ với tổng số trên 800 loài cây trồng với hàng nghìn giống khác nhau. Có 3 nhóm cây trồng đang được nông dân sử dụng.
– Các giống cây trồng bản địa: Nhóm giống cây trồng này hiện nay đang chiếm vị trí chủ đạo đối với nhiều loại cây trồng. Trong số nhóm giống cây trồng này có những giống đã được nông dân sử dụng và lưu truyền hàng nghìn năm nay.
– Các giống cây trồng mới: Là những giống cây có khả năng cho năng suất cao và có một số đặc tính tốt khác như: phẩm chất nông sản tốt, khả năng chống chịu sâu bệnh cao được các nhà khoa học chọn lọc, lai tạo thành. Những năm gần đây các giống cây trồng được các nhà khoa học chọn lọc và lai tạo mới cũng như các loại giống cây trồng được nhập nội, trước khi đưa ra sản xuất rộng rãi, được hội đồng khoa học Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét công nhận như lúa: 156 giống; ngô: 47 giống; đậu tương: 22 giống; cao su: 14 giống; cà phê: 14 giống
– Các giống cây trồng được nông dân ở các tỉnh biên giới trao đổi với nhau qua biên giới hoặc mua bán qua đường tiểu ngạch.
- Hiện nay, Ngân hàng gen cây trồng Quốc gia đang bảo tồn 12.300 giống của 115 loài cây trồng. Đây là tài sản quý của đất nước, phần lớn không còn trong sản xuất và trong tự nhiên nữa. Một bộ phận quan trọng của số giống này là nguồn gen bản địa với nhiều đặc tính quý mà duy nhất chỉ nước ta có.
- Về vật nuôi, hiện nay Việt Nam có 14 loài gia súc và gia cầm đang được chăn nuôi chủ yếu bao gồm 20 giống lợn trong đó có 14 giống nội, 21 giống bò (5 giống nội), 27 giống gà (16 giống nội), 10 giống vịt (5 giống nội), 7 giống ngan (3 giống nội), 5 giống ngỗng (2 giống nội), 5 giống dê (2 giống nội), 3 giống trâu (2 giống nội), 1 giống cừu, 4 giống thỏ (2 giống nội), 3 giống ngựa (2 giống nội), bồ câu, hươu và nai (có khoảng 10 ngàn con hươu nai được nuôi trong toàn quốc).
* Đặc trưng đa dạng nguồn gen
– Các biểu hiện của kiểu gen ở Việt Nam rất phong phú. Riêng kiểu gen cây lúa có đến hàng trăm kiểu hình khác nhau, thể hiện ở gần 400 giống lúa khác nhau.
– Các kiểu gen ở Việt Nam thường có nhiều biến dị, đột biến. Trong đó có những biến dị xảy ra dưới tác động của các yếu tố tự nhięn (sấm, chớp, bức xạ..), có những đột biến xảy ra do những tác nhân nhân tạo. Đây là một trong những nguồn tạo giống mới.
– ĐDSH gen ở Việt Nam chứa đựng khả năng chống chịu và tính mềm dẻo sinh thái cao của các kiểu gen.
Đa dạng về loài
- Tập hợp các dẫn liệu nghiên cứu, điều tra cơ bản đã có từ trước đến nay, thành phần loài thực vật, động vật ở Việt Nam được thống kê thì nhóm sinh vật vi tảo ở vùng nước ngọt được xác định là 1.438 loài chiếm 9,6% so với thế giới (số loài có trên thế giới là 15.000); thực vật bậc cao có khoảng 11.400 loài chiếm 5% so với thế giới (số loài có trên thế giới là 220.000); bò sát có 296 loài chiếm 4,7% so với thế giới (số loài có trên thế giới là 6.300)
- Theo các tài liệu thống kê, Việt Nam là một trong 25 nước có mức độ ĐDSH cao trên thế giới với dự tính có thể có tới 20.000-30.000 loài thực vật. Việt Nam được xếp thứ 16 về mức độ ĐDSH (chiếm 6,5% số loài có trên thế giới).
Đa dạng loài trong hệ sinh thái trên cạn
– Khu hệ thực vật: Tổng kết các công bố về hệ thực vật Việt Nam, đă ghi nhận có 15.986 loài thực vật ở Việt Nam. Trong đó, có 4.528 loài thực vật bậc thấp và 11.458 loài thực vật bậc cao. Trong số đó có 10 % số loài thực vật là đặc hữu.
– Khu hệ động vật: cho đến nay đã thống kê được 307 loài giun tròn, 161 loài giun sán ký sinh ở gia súc, 200 loài giun đất, 145 loài ve giáp, 113 loài bọ nhảy, 7.750 loài côn trùng, 260 loài bò sát, 120 loài ếch nhái, 840 loài chim, 310 loài và phân loài thú.
- Trong hệ thống các khu bảo vệ vùng Đông Dương – Mã Lai của IUCN, Việt Nam được xem là nơi giàu về thành phần loài và có mức độ đặc hữu cao so với các nước trong vùng phụ Đông Dương. Động vật giới Việt Nam có nhiều dạng đặc hữu: hơn 100 loài và phân loài chim, 78 loài và phân loài thú đặc hữu. Riêng trong số 25 loài thú linh trưởng đã được ghi nhận ở Việt Nam có tới 16 loài, trong đó có 4 loài và phân loài đặc hữu của Việt Nam, 3 phân loài chỉ phân bố ở Việt Nam và Lào, 2 phân loài chỉ có ở vùng rừng hai nước Việt Nam – Campuchia.
Đa dạng loài trong hệ sinh thái đất ngập nước nội địa
- Các thủy vực nước ngọt nội địa Việt Nam rất đa dạng về hệ thực vật cũng như hệ động vật, bao gồm các nhóm vi tảo, rong, các loài cây cỏ ngập nước và bán ngập nước, động vật không xương sống và cá.
– Vi tảo: đă xác định được có 1.438 loài tảo thuộc 259 chi và 9 ngành;
– Cho đến nay đã thống kê và xác định được 794 loài động vật không xương sống. Trong đó, đáng lưu ý là trong thành phần loài giáp xác nhỏ, có 54 loài và 8 giống lần đầu tiên được mô tả ở Việt Nam. Riêng hai nhóm tôm, cua (giáp xác lớn) có 59 loài thì có tới 7 giống và 33 loài (55,9% tổng số loài) lần đầu tiên được mô tả. Trong tổng số 147 loài trai ốc, có 43 loài (29,2% tổng số loài), 3 giống lần đầu tiên được mô tả, tất cả đều là những loài đặc hữu của Việt Nam hay vùng Đông Dương. Điều đó cho thấy sự đa dạng và mức độ đặc hữu của khu hệ tôm, cua, trai, ốc nước ngọt nội địa Việt Nam là rất lớn.
– Theo các dẫn liệu thống kê, thành phần loài cá các thủy vực nước ngọt nội địa Việt Nam bao gồm trên 700 loài và phân loài, thuộc 228 giống, 57 họ và 18 bộ. Riêng họ cá chép có 276 loài và phân loài thuộc 100 giống và 4 họ, 1 phân họ được coi là đặc hữu ở Việt Nam. Phần lớn các loài đặc hữu đều có phân bố ở các thủy vực sông, suối, vùng núi.
Đa dạng loài trong các hệ sinh thái biển và ven bờ
- Đặc tính của khu hệ sinh vật biển Việt Nam thể hiện rő ở đặc tính nhiệt đới, đặc tính hỗn hợp, đặc tính ít đặc hữu và đặc tính khác biệt bắc – nam. Trong vùng biển nước ta đă phát hiện được chừng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình và thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau, trong đó có hai vùng biển: Móng Cái – Đồ Sơn, Hải Vân – Vũng Tàu có mức độ đa dạng sinh học cao hơn các vùng còn lại. Đặc biệt, tại vùng thềm lục địa có 9 vùng nước trồi có năng suất sinh học rất cao, kèm theo là các bãi cá lớn. Tổng số loài sinh vật biển đã biết ở Việt Nam có khoảng 11.000 loài, trong đó cá (khoảng 130 loài kinh tế) có 2.458 loài; rong biển có 653 loài; động vật phù du có 657 loài; thực vật phù du có 537 loài; thực vật ngập mặn có 94 loài; tôm biển có 225 loài
- Các nghiên cứu về biến động nguồn lợi đă cho thấy danh sách khu hệ cá biển của Việt Nam đến tháng 1/2005 là 2.458 loài, tăng 420 loài so với danh sách được lập năm 1985 (có 2.038 loài) và đã phát hiện thêm 7 loài thú biển mới.
Một số loài sinh vật mới được phát hiện trong thời gian gần đây ở Việt Nam
- Trong khoảng 10 năm trở lại đây, từ các kết quả điều tra cơ bản các vùng lãnh thổ khác nhau ở Việt Nam, một số loài mới được phát hiện và mô tả, trong đó nhiều chi, loài mới cho khoa học. Một số các nhóm sinh vật trước đây chưa được nghiên cứu, nay đã có những dẫn liệu bước đầu như nhóm giáp xác bơi nghiêng ở biển, dơi, kiến, ốc ở cạn
- Một số kết quả điều tra cơ bản gần đây về các loài quý hiếm cũng cho thấy quần thể loài Rái cá lông mũi – loài tưởng đã tuyệt chủng, nay lại thấy ở khu bảo tồn U Minh thượng (Kiên Giang). Các loài mới được phát hiện đã làm phong phú thêm cho sinh giới của Việt Nam, trong khi một số loài khác, đặc biệt các loài có giá trị kinh tế đã biết lại có xu hướng giảm số lượng hoặc có nguy cơ tuyệt chủng.
Đặc trưng đa dạng loài ở Việt Nam
– Số lượng các loài sinh vật nhiều, sinh khối lớn. Tính ra bình quân trên 1 km2 lãnh thổ Việt Nam có 4,5 loài thực vật, gần 7 loài động vật, với mật độ hàng chục nghìn cá thể. Đây là một trong những mật độ đậm đặc các loài sinh vật so với thế giới.
– Cấu trúc loài rất đa dạng. Do đặc điểm địa hình, do phân hóa các kiểu khí hậu, cấu trúc các quần thể trong nội bộ loài thường rất phức tạp. Có nhiều loài có hàng chục dạng sống khác nhau.
– Khả năng thích nghi của loài cao. Thích nghi của các loài được thực hiện thông qua các đặc điểm thích nghi của từng cá thể, thông qua chuyển đổi cấu trúc loài. Loài sinh vật ở Việt Nam nói chung có đặc tính chống chịu cao đối với các thay đổi của các yếu tố và điều kiện ngoại cảnh.
Đa dạng hệ sinh thái của VN
Hệ sinh thái trên cạn
- Trong các kiểu hệ sinh thái trên cạn thì rừng có sự đa dạng về thành phần loài cao nhất, đồng thời đây cũng là nơi cư trú của nhiều loài động, thực vật hoang dã và vi sinh vật có giá trị kinh tế và khoa học. Các kiểu hệ sinh thái tự nhiên khác có thành phần loài nghèo hơn. Kiểu hệ sinh thái nông nghiệp và khu đô thị là những kiểu hệ sinh thái nhân tạo, thành phần loài sinh vật nghèo nàn.
- Xét theo tính chất cơ bản là thảm thực vật bao phủ đặc trưng cho rừng mưa nhiệt đới ở Việt Nam, có thể thấy các kiểu rừng tiêu biểu: rừng kín vùng thấp, rừng thưa, trảng truông, rừng kín vùng cao, quần hệ lạnh vùng cao. Trong đó, các kiểu và kiểu phụ thảm thực vật sau đây có tính ĐDSH cao hơn và đáng chú ý hơn cả: kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới; kiểu rừng thưa cây lá rộng hơi khô nhiệt đới; kiểu rừng kín cây lá rộng, ẩm á nhiệt đới núi thấp; kiểu phụ rừng trên núi đá vôi.
Hệ sinh thái đất ngập nước
- Công ước Ramsar định nghĩa “Đất ngập nước là những vùng đầm lầy, than bùn hoặc vùng nước bất kể là tự nhiên hay nhân tạo, thường xuyên hay tạm thời, có nước chảy hay nước tù, là nước ngọt, nước lợ hay nước biển kể cả những vùng nước biển có độ sâu không quá 6 mét khi triều thấp”.
- Đất ngập nước (ĐNN) Việt Nam rất đa dạng về loại hình và hệ sinh thái, thuộc 2 nhóm ĐNN: ĐNN nội địa, ĐNN ven biển. Trong đó có một số kiểu có tính ĐDSH cao:
– Rừng ngập mặn ven biển: Rừng ngập mặn có các chức năng và giá trị như cung cấp các sản phẩm gỗ, củi, thủy sản và nhiều sản phẩm khác; là bãi đẻ, bãi ăn và ương các loài cá, tôm, cua và các loài thủy sản có giá trị kinh tế khác; xâm chiếm và cố định các bãi bùn ngập triều mới bồi, bảo vệ bờ biển chống lại tác động của sóng biển và bão tố ven biển; là nơi cư trú cho rất nhiều loài động vật hoang dã bản địa và di cư (chim, thú, lưỡng cư, bò sát).
– Đầm lầy than bùn: đầm lầy than bùn là đặc trưng cho vùng Đông Nam Á. U Minh thượng và U Minh hạ thuộc các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau là hai vùng đầm lầy than bùn tiêu biểu còn sót lại ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.
– Đầm phá: thường thấy ở vùng ven biển Trung bộ Việt Nam. Do đặc tính pha trộn giữa khối nước ngọt và nước mặn nên khu hệ thủy sinh vật đầm phá rất phong phú bao gồm các loài nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Cấu trúc quần xã sinh vật đầm phá thay đổi theo mùa rõ rệt.
– Rạn san hô, cỏ biển: đây là các kiểu hệ sinh thái đặc trưng cho vùng biển ven bờ, đặc biệt rạn san hô đặc trưng cho vùng biển nhiệt đới. Quần xã rạn san hô rất phong phú bao gồm các nhóm động vật đáy (thân mềm, giáp xác), cá rạn. Thảm cỏ biển thường là nơi cư trú của nhiều loại rùa biển và đặc biệt loài thú biển Dugong.
– Vùng biển quanh các đảo ven bờ: ven bờ biển Việt Nam có hệ thống các đảo rất phong phú. Vùng nước ven bờ của hầu hết các đảo lớn được đánh giá có mức độ ĐDSH rất cao với các hệ sinh thái đặc thù như rạn san hô, cỏ biển
Việt Nam có 2 vùng ĐNN quan trọng là ĐNN vùng cửa sông đồng bằng sông Hồng và ĐNN đồng bằng sông Cửu Long:
– ĐNN ở vùng cửa sông đồng bằng sông Hồng có diện tích 229.762 ha. Đây là nơi tập trung các hệ sinh thái với thành phần các loài thực vật, động vật vùng rừng ngập mặn phong phú, đặc biệt là nơi cư trú của nhiều loài chim nước.
– ĐNN đồng bằng sông Cửu Long có diện tích đất ngập nước 4.939.684 ha. Đây là bãi đẻ quan trọng của nhiều loài thủy sản di cư từ phía thượng nguồn sông Mê Công. Những khu rừng ngập nước và đồng bằng ngập lũ cũng là những vùng có tiềm năng sản xuất cao. Có 3 hệ sinh thái tự nhiên chính ở đồng bằng sông Cửu Long, đó là hệ sinh thái ngập mặn ven biển; hệ sinh thái rừng tràm ở vùng ngập nước nội địa và hệ sinh thái cửa sông.
Mỗi kiểu hệ sinh thái ĐNN đều có khu hệ sinh vật đặc trưng của mình. Tuy nhiên, đặc tính khu hệ sinh vật của các hệ sinh thái này còn phụ thuộc vào từng vùng cảnh quan và vùng địa lý tự nhiên.
Hệ sinh thái biển
- Việt Nam có đường bờ biển dài 3.260 km và vùng đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km2 với nguồn tài nguyên sinh vật biển khá phong phú. Trong vùng biển nước ta đã phát hiện được chừng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng ĐDSH biển khác nhau.
Đặc trưng của đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam
– Tính phong phú và đa dạng của các kiểu hệ sinh thái: Với một diện tích không rộng, nhưng trên lãnh thổ Việt Nam có rất nhiều kiểu hệ sinh thái khác nhau. Ở từng vùng địa lý không lớn cũng tồn tại nhiều kiểu hệ sinh thái.
– Thành phần các quần xã trong các hệ sinh thái rất giàu. Cấu trúc quần xã trong các hệ sinh thái phức tạp, nhiều tầng bậc, nhiều nhánh. Điểm đặc trưng này làm cho đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam có nhiều điểm khác biệt so với các nước khác trên thế giới.
– Tính phong phú của các mối quan hệ giữa các yếu tố vật lý và các yếu tố sinh học, giữa các nhóm sinh vật với nhau, giữa các loài, giữa các quần thể trong cùng một loài sinh vật. Mạng lưới dinh dưỡng, các chuỗi dinh dưỡng với nhiều khâu nối tiếp nhau làm tăng tính bền vững của các hệ sinh thái. Các mối quan hệ năng lượng được thực hiện song song với các mối quan hệ vật chất rất phong phú, nhiều tầng, bậc thông qua các nhóm sinh vật: tự dưỡng (sinh vật sản xuất), dị dưỡng (sinh vật tiêu thụ), hoại sinh (sinh vật phân hủy) trong các hệ sinh thái ở Việt Nam là những chuỗi quan hệ mà ở nhiều nước khác trên thế giới không có được.
– Các hệ sinh thái ở Việt Nam có đặc trưng tính mềm dẻo sinh thái cao, thể hiện ở sức chịu tải cao; khả năng tự tái tạo lớn; khả năng trung hòa và hạn chế các tác động có hại; khả năng tự khắc phục những tổn thương; khả năng tiếp nhận, chuyển hóa, đồng hóa các tác động từ bên ngoài.
– Các hệ sinh thái ở Việt Nam phần lớn là những hệ sinh thái nhạy cảm. Tính mềm dẻo sinh thái của các hệ sinh thái ở Việt Nam làm cho các hệ đó luôn ở trong trạng thái hoạt động mạnh, vì vậy, thường rất nhạy cảm với các tác động từ bên ngoài, kể cả các tác động của thiên nhiên, cũng như những tác động của con người.
Sự suy thoái đa dang sinh học
Khái niệm :
- Là sự suy giảm chất lượng và số lượng của các loài sinh vật, gây ảnh hưởng xấu cho đời sống của con người và thiên nhiên
2) Nguyên nhân dẫn đến suy thoái đa dạng sinh học :
*Nguyên nhân trực tiếp
- Khai thác, sử dụng không bền vững tài nguyên sinh vật:
+ Khai thác gỗ trong giai đoạn từ 1986-1991 các lâm trường quốc doanh đã khai thác trung bình 3,5 triệu m3 gổ mổi năm, và 1-2 m3 khai thác ngoài kế hoạch.
+ Khai thác củi hàng năm lên đến khoảng 21 triệu tấn để phục vụ nhu cầu sử dụng trong gia đình , lớn gấp 6 lần lượng gổ xuất khẩu hằng năm đây là nguyên nhân cơ bản tác động đến đa dạng sinh học
+ Khai thác động vật hoang dã (gấu, chồn, hổ, tê giác,)
+ Khai thác các thực vật khác trong số khoảng 3300 loài thực vật cho các sản phẩm ngoài gổ như song mây tre nứa cây thuốc , cây tinh dầu đã được khai thác dể dùng và bán ra thị trường,trong nước cũng như xuất khẩu.
+ Chuyển đổi phương thức sử dụng đất đất trong thời gian gần đây do nhu cầu phát triển kinh tể xã hội các hệ sinh thái tự nhiên với tính ĐDSH cao bị thu hẹp diện tích hoặc chuyển sang hệ sinh thái thứ sinh.
- Ô nhiểm môi trường
+ Nhiều thành phần môi trường bị suy thoái, tình trạng ô nhiễm do các nguồn thải khác nhau (nước thải, khí thải, chất thải rắn) là nguyên nhân đe doạ tới ĐDSH.
- Suy giảm hoặc mất sinh cảnh sống
+ Cháy rừng do điều kiện khí hậu, ở Việt Nam khả năng cháy rừng vào mua khô là rất lớn, trung bình mổi năm có 25000-100000ha rừng bị cháy ở VN
+ Thiên tai (lũ quét, xạc lỡ, biển xâm lấn)
- Di nhập các loài ngoại lai
*Các nguyên nhân sâu xa về kinh tế xả hội và chính sách
- Tăng trưởng dân số năm 1999, VN có hơn 76,3tr người, mức tăng trưởng dân số là 18%/năm
- Sự di dân từ vùng này sang vùng khác
- Việt Nam là một quốc gia còn nghèo, cuộc sống còn phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp và tài nguyên. Mức nghèo đói thể hiện rõ nhất ở các vùng núi phía Bắc và cao nguyên Trung Bộ đồng thời cũng là nơi có mức ĐDSH cao nhất.
- Chính sách kinh tế vỉ mô
Hiện trạng suy thoái đa dạng sinh học :
- Việt Nam là nước có mức độ đa dạng sinh học khá cao, đứng thứ 10 thế giới, nhưng mức độ suy thoái đa dạng sinh học cũng đứng vào top TG.
Diện tích rừng có chất lượng suy giảm :
- Rừng là HST có độ ĐDSH cao nhất, là nơi nuôi dưỡng và sinh cư của hầu hết các loài động thực vật hoang dại. Năm 1943, diện tích rừng của Việt Nam là 14,3 triệu ha với tỷ lệ che phủ là 43%. Điều đáng chú ý là rừng trong thời kỳ này là rừng tự nhiên, chất lượng tốt. Đến những năm 1990-1995, diện tích rừng suy giảm rất mạnh, chỉ còn trên 9 triệu ha, tỷ lệ che phủ chỉ còn 27-28%. Điều đặc biệt quan trọng là tính trạng mất rừng phòng hộ đầu nguồn, ven biển đã gây những tác động nguy hiểm như xói mòn, trượt đất, lũ quét, hoang mạc hóa (ven biển). Độ che phủ của rừng trên các vùng lưu vực sông chính giảm:
+ Lưu vực sông Đà chỉ còn dưới 11%, lưu vực sông Hồng 23%, lưu vực sông Chảy-sông Lô-sông Gâm 27%, lưu vực sông Se San 31%, lưu vực sông Sê Rê Pôc 29%, lưu vực sông Đồng Nai 25%. Vùng lưu vực sông Cả, diện tích rừng che phủ còn tương đối khả quan, chiếm 39%. Trong khi đó, độ che phủ rừng ở vùng lưu vực sông Ba cách đây 5 năm là 37% thì nay chỉ còn không quá 23%.
+ Các vùng rừng ngập mặn ven biển các tỉnh Đông và Tây Nam Bộ vẫn tiếp tục bị xâm hại, diện tích rừng ngập mặn trồng không bù lại diện tích rừng đã bị mất.
- Trong những năm gần đây, do có kế hoạch trồng mới rừng nên độ che phủ của rừng tăng nên đáng kể. Tuy nhiên, diện tích rừng có chất lượng (rừng gỗ nhiệt đới tự nhiên nhiều tầng) vẫn có xu hướng suy giảm. Điều đó gây suy giảm ĐDSH. Theo các dẫn liệu thống kê (Báo cáo hiện trạng môi trường năm 2001), đến năm 1999, vùng Tây Nguyên chiếm 33,1%, vùng Bắc Trung Bộ chiếm 19,4% và vùng duyên hải Nam Trung Bộ chiếm 17,3% tổng diện tích rừng của cả nước. Đây là những vùng còn nhiều rừng nhất đồng thời cũng là những vùng có độ ĐDSH cao nhất ở Việt Nam.
Bảng 6.5. Diễn biến diện tích rừng qua các thời kỳ (ĐV: triệu ha)
Loại rừng
Năm
1943
1976
1980
1985
1990
1995
1999
2003
Tổng diện tích
14,3
11,168
10,608
9,892
9,176
9,302
10,945
11,784
Rừng trồng
0
0,092
0,422
0,584
0,745
1,050
1,524
1,919
Rừng tự nhiên
14,3
11,076
10,186
9,308
8,431
8,252
9,421
9,865
Độ che phủ (%)
43,0
33,8
32,0
30,0
27,8
28,2
32,2
35,8
Nguồn: Bộ NN&PTNT tính đến tháng 12/2003.
Hình 6.2. Diễn biến diện tích rừng qua các thời kỳ (ĐV: triệu ha)
Hình 6.3. Độ che phủ rừng toàn quốc tại các thời điểm
Số lượng cá thể giảm :
- Các nghiên cứu, thống kê cho thấy số lượng một số loài quý hiếm đang bị giảm rõ rệt (bảng 6.6)
Bảng 6.6. Tình trạng diễn biến số lượng một số loài động vật, thực vật quý hiếm, có giá trị kinh tế ở Việt Nam.
TT
Loài
Thời gian
Trước 1970 (cá thể)
Số liệu 1999 (cá thể)
1
Tê giác một sừng
15 - 17
5 - 7
2
Voi
1500 - 2000
100 -150
3
Hổ
Khoảng 1000
80-100
4
Bò xám
20 - 30
Không rõ
(cần nghiên cứu thêm)
5
Bò tót
3000 - 4000
300 - 350
6
Bò rừng
2000 - 3000
150 - 200
7
Hươu xạ
2500 - 3000
150 - 170
8
Hươu cà toong
700 - 1000
60-80
9
Hươu vàng
300 - 800
rất hiếm gặp
10
Sao la
loài mới phát hiện
số lượng không nhiều
11
Mang lớn
loài mới phát hiện
300-500
12
Mang Trường Sơn
loài mới phát hiện
số lượng không nhiều
13
Cheo cheo Napu
200 - 300
Rất hiếm gặp
14
Vượn đen tuyền
-
350 - 400
15
Vượn Hải nam
100
Không rõ (hiếm gặp)
16
Vượn Bạc má
Hàng nghìn
350 - 400
17
Vượn má hung
Hàng nghìn
150-200
18
Voọc đầu trắng
600 - 800
60-80
19
Voọc mũi hếch
800 - 1000
111 - 191
20
Voọc gáy trắng
-
300 - 350
21
Voọc mông trắng
-
80-100
22
Công
Hàng nghìn
rất hiếm
23
Gà lôi lam mào đen
-
Rất hiếm
24
Gà lôi lam mào trắng
-
Rất hiếm
25
Cá cóc tam đảo
Hàng nghìn
200 - 300
26
Cá sấu
Hàng nghìn
100 - 150
27
Sâm ngọc linh
Khai thác 6-8 tấn / năm
Khoảng 100-150kg/ năm
28
Vỏ cây bời lời
Chỉ riêng vùng núi Ngọc linh có thể khai thác 20 tấn/ năm
Khoảng 7 -8 tấn/ năm
Nguồn: Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, 2002.
- Tây Nguyên là nơi có truyền thống thuần dưỡng voi rừng. Các số liệu thống kê ở tỉnh Đắc Lắc cho thấy : năm 1980 có 500 con voi được thuần dưỡng, năm 1996 - 299 con, năm 1997 chỉ còn 169 con. Từ năm 1991 đến 1997 số lượng voi thuần dưỡng giảm 56,8%.
- Loài Sao la P. nghetinhensis từ khi phát hiện năm 1994 đến nay đã có 16 con bị bắt để nuôi thử nghiệm nhưng đã chết hết, chưa kể số lượng cá thể loài này đã bị mắc bẫy và bị dân địa phương bắt làm thịt. Loài này phân bố dọc dãy Trường Sơn nhưng chưa rõ số lượng cá thể hiện nay là bao nhiêu. Gần đây (27/7/2004), WWF đã tổ chức hội thảo về Sao la ở vườn quốc gia Pù Mát để cảnh báo nguy cơ giảm số lượng của loài mới phát hiện này.
- Nguồn thuỷ sản nước ngọt tự nhiên nhiều nơi bị giảm sút nghiêm trọng. Vùng đồng bằng sông Cửu Long, năm 1970 có sản lượng 85.000 tấn/năm, chỉ còn 66.000 tấn trong năm 1990. Sản lượng cá đánh bắt ở sông Hồng năm 1960 là 4.685 tấn, năm 1970 : 2.645 tấn, và năm 1990 ước tính khoảng 500 tấn (Nguyễn Văn Hảo, 1970,1995). Như vậy, sản lượng khai thác các tự nhiên đã giảm 9,5 lần. Số lượng các loài cá có tập tính di cư đẻ trứng ở thượng nguồn các sông Hồng như các mòi, cá cháy hoặc cá tra ở sông Mê Kông đã giảm hẳn.
- Tại vùng ven biển, tình trạng khai thác bừa bãi nguồn tài nguyên sinh vật vùng nước ven bờ cũng đang gia tăng mạnh mẽ, làm cạn kiệt sinh vật trong các HST ven bờ và nguồn thuỷ sinh vật giai đoạn con non cư trú ở đây. Các kết quả thống kê trong 10 năm trở lại đây, năng xuất mẻ lưới khai thác tôm chỉ bằng 45% -78% so với năng xuất thời kỳ 1975-1985.
Số lượng các loài trong Sách Đỏ tăng :
- Sau một quá trình điều tra nghiên cứu lâu dài, các nhà sinh học đã công bố 2 tập “Sách đỏ Việt Nam” : Phần Động vật (1992, 2000) và phần Thực vật (1995). Những tài liệu này đã nêu 365 loài động vật và 356 loài thực vật quý hiếm có nguy cơ bị tiêu diệt ở các mức độ khác nhau, đồng thời mô tả chi tiết về vùng phân bố, tập tính sinh thái, hiện trạng cùng với các biện pháp bảo vệ được công bố (bảng 6.8). Năm 2002-2003, theo tiêu chuẩn mới của IUCN, Sách Đỏ Việt Nam đã được các nhà khoa học soạn thảo lại. Trong đó, số lượng các loài động, thực vật được đưa vào Sách đỏ lần này cao hơn số lượng đã công bố ở trên (417 loài động vật, 450 loài thực vật). Điều đó cho thấy tình trạng suy giảm số lượng cá thể các loài quý hiếm, có giá trị khai thác ngày càng tăng.
Bảng 6.7. Phân hạng các loài bị đe doạ được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam
Lớp
Phân hạng
Nguy cơ tuyệt chủng
Dễ tổn thương
Bị đe doạ
Hiếm
Chưa xác định
Thú
30
23
1
24
Chim
14
6
32
31
Bó sát - Lưỡng cư
8
19
16
11
Cá
6
24
13
29
3
Không xương sống
10
24
9
29
3
Thực vật bậc cao
24
54
81
150
24
Thực vật bậc thấp
7
2
7
3
Hậu quả :
- Suy thoái đa dạng sinh học dẫn đến :
+ Mất cân bằng sinh thái
+ Ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của con người
+ Đe dọa sự phát triển bền vững của trái đất.
+ Mặt khác sinh vật và hệ sinh thái là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm, công cụ, nhiên liệu Do vậy khi hệ sinh thái bị suy thoái sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt, nguồn lương thực hằng ngày làm cho con người phải đối mặt với nguy cơ đói nghèo, thiếu thốn.
+ Suy giảm nguồn gen và đặc biệt là biến đổi khí hậu dẫn đến hàng loạt các thảm họa thiên nhiên đe dọa cuộc sống của con người.
Biện pháp khắc phục
- Nâng cao ý thức của con người trong bảo vệ các loài sinh vật.
- Ngăn cấm các hành vi săn bắn khai thác động vật hoang dã, nghiêm cấm nạn khai thác , phá rừng bừa bải.
- Hạn chế ô nhiểm môi trường do các hoạt động cưa con ngườiXây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên.
- Có các chiến lược phát triển đúng đắn
* Các tài liệu tham khảo :
- www.biodivn,com
- www.tinmoitruong.vn
- https//:123doc.org
- vi.wikipedia.org
- vietnam.panda.org
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- da_dang_sinh_hoc_va_suy_thoai_da_dang_sinh_hoc_3165_2083673.docx