Sự cố môi trường biển Formosa đã
gây ảnh hưởng lớn đến các hộ khai thác
thủy sản gần bờ ở góc độ ngừng hoặc giảm
thời gian khai thác dẫn đến mất thu nhập.
Giá trị thiệt hại của nhóm KTTS đa dạng
sinh kế khoảng 307,53 triệu đồng, cao hơn
so với mức 226,13 triệu đồng của nhóm
chuyên KTTS. Với tỷ lệ thiệt hại so với
mức thu nhập trước sự cố của cả 02 nhóm
hộ đều trên 100% đã cho thấy mức độ thiệt
hại do sự cố môi trường biển Formosa gây
ra bởi các hộ khai thác thủy sản gần bờ ở
Thừa Thiên Huế là rất lớn, đặc biệt là
nhóm hộ chuyên khai thác thủy sản có tỷ lệ
thiệt hại so với thu nhập hàng năm lên đến
123,31%.
Trước các tác động của sự cố môi
trường biển Formosa năm 2016, cả 02
nhóm hộ gồm chuyên KTTS và KTTS đa
dạng sinh kế đã có các giải pháp ứng phó
khác nhau. Trong đó, nhóm chuyên KTTS
tập trung vào việc cải tiến trong KTTS để
duy trì hoạt động sinh kế chính này. Trong
khi nhóm còn lại lựa chọn hướng duy trì và
mở rộng các hoạt động sinh kế theo hướng
đa dạng hơn. Kết quả nhóm KTTS đa dạng
sinh kế có quá trình phục hồi tốt hơn với tỷ
lệ giá trị thu nhập phục hồi khoảng
77,88%, cao hơn khoảng 10% so với nhóm
còn lại. Tỷ lệ hộ tự đánh giá đã phục hồi
hoàn toàn về thu nhập của nhóm hộ KTTS
đa dạng sinh kế cũng khá cao, khoảng
62,5% so với 53,42% của nhóm chuyên
KTTS.
Nhờ sở hữu các nguồn vốn sinh kế
tốt hơn, cùng với chiến lược đa dạng hóa
sinh kế từ đầu nên nhóm hộ KTTS đa dạng
sinh kế đã phân tán và giảm thiểu rủi ro
cho hoạt động sinh kế chính là KTTS. Sau
khi sự cố Formosa xảy ra, nhóm hộ KTTS
đa dạng hóa không chỉ duy trì mà còn tiếp
tục mở rộng và tìm kiếm thêm các hoạt
động sinh kế mới để bổ sung vào nguồn
thu nhập bị mất do không thể tiến hành
KTTS. Rõ ràng, đa dạng hóa sinh kế là yếu
tố có ảnh hưởng tích cực đến năng lực
chống chịu của các hộ KTTS gần bờ trước
sự cố môi trường biển Formosa năm 2016.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đa dạng sinh kế với khả năng phục hồi sau sự cố ô nhiễm môi trường biển Formosa 2016 đối với ngư dân khai thác thủy sản gần bờ tỉnh Thừa Thiên Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2075-2084
2075
ĐA DẠNG SINH KẾ VỚI KHẢ NĂNG PHỤC HỒI SAU SỰ CỐ
Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG BIỂN FORMOSA 2016 ĐỐI VỚI NGƯ DÂN
KHAI THÁC THỦY SẢN GẦN BỜ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Nguyễn Ngọc Truyền*, Trần Cao Úy, Nguyễn Viết Tuân
Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế.
*Tác giả liên hệ: nguyenngoctruyen@huaf.edu.vn
Nhận bài: 02/03/2020 Hoàn thành phản biện: 14/04/2020 Chấp nhận bài: 16/10/2020
TÓM TẮT
Nghiên cứu này xem xét vai trò của đa dạng sinh kế đến “năng lực chống chịu” của hộ khai
thác thủy sản biển ven bờ bị ảnh hưởng bởi sự cố môi trường biển Formosa năm 2016. Năng lực
chống chịu của hộ được thể hiện thông qua mức độ tác động của sự cố và sự phục hồi sau sự cố. Các
hộ được chọn nghiên cứu là hộ khai thác thủy sản biển gần bờ tỉnh Thừa Thiên Huế gồm nhóm
chuyên khai thác thủy sản (KTTS) không đa dạng và nhóm KTTS đa dạng sinh kế. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, thời gian ảnh hưởng của sự cố đến nhóm hộ chuyên KTTS dài hơn nhóm hộ KTTS đa
dạng sinh kế. Mặc dù giá trị thiệt hại về thu nhập của nhóm hộ KTTS đa dạng sinh kế cao hơn
(khoảng 307,53 triệu đồng), nhưng tỷ lệ thiệt hại so với thu nhập của nhóm hộ này thấp hơn so với
nhóm hộ chuyên KTTS (107,1% so với 123,31%). Sau 30 tháng, nhóm KTTS đa dạng sinh kế có quá
trình phục hồi tốt hơn với tỷ lệ giá trị thu nhập phục hồi khoảng 77,88%, cao hơn khoảng 10% so với
nhóm còn lại. Đa dạng sinh kế của hộ KTTS được xem là yếu tố ảnh hưởng tích cực nâng cao năng
lực chống chịu của hộ đối với sự cố môi trường và phục hồi các hoạt động sinh kế.
Từ khóa: Formosa, Đa dạng hóa sinh kế, Khai thác thủy sản
FISHERY HOUSEHOLDS’ LIVELIHOOD DIVERSIFICATION AFTER
THE FORMOSA ENVIRONMENTAL INCIDENT IN 2016 IN COASTAL
AREA OF THUA THIEN HUE PROVINCE
Nguyen Ngoc Truyen*, Tran Cao Uy, Nguyen Viet Tuan
University of Agriculture and Forestry, Hue University.
ABSTRACT
This study examined the role of livelihood diversity on the resilience capacity of coastal fishing
households affected by the Formosa incident in 2016. The resilience capacity of househoulds was
characterized by the impact level of the incident and post-incident recovery. The households selected
in this study were nearshore fishing groups in Thua Thien Hue province, including two fishing groups
of undiversified and diversified livelihood. The results showed that the impact duration of the incident
on undiversified livelihood fishery group was longer than that on the diversified livelihood group.
Although the value of income loss of the households group with diversification was higher (about
307.53 million VND), the rate of income loss of this group was lower than that of their counterparts
(107.1% compared to 123.31%). After 30 months, the diversified livelihood group had better recovery
with the proportion of income recovered at roughly 77.88%, about 10% higher than that of the other
group. Diversified livelihood of fishing households was considered as the positive influence on
improving their resilience to environmental incidents and restoration of livelihood activities.
Keywords: Formosa, Diversify livelihoods, Fisheries
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3)-2020:2075-2084
2076 Nguyễn Ngọc Truyền và cs.
I. MỞ ĐẦU
Sinh kế là một khái niệm được sử
dụng rộng rãi trong các nghiên cứu xã hội
liên quan đến hoạt động sống của các hộ
hoặc các cộng đồng dân cư. Robert
Chambers là người đầu tiên sử dụng khái
niệm này và cho rằng “sinh kế gồm năng
lực, tài sản, cách tiếp cận (sự dự trữ, tài
nguyên, quyền sở hữu, quyền sử dụng) và
các hoạt động cần thiết cho cuộc sống”.
Sinh kế ngư dân ven biển chủ yếu dựa vào
các nguồn lực con người và nguồn lực tự
nhiên hay tài nguyên như rừng, mặt nước
nuôi trồng thủy sản, nguồn lợi biển, sông
ngòi, đất canh tác, đa dạng sinh học
(Nguyễn Lê Hiệp và cs., 2019). Do vậy,
sinh kế của hộ luôn bị tác động bởi các yếu
tố môi trường gây ra tình trạng dễ bị tổn
thương (Lê Ngọc Tuấn, 2013).
Đa dạng hóa sinh kế về lý thuyết có
thể giúp các hộ gia đình tự bảo vệ mình
khỏi các cú sốc môi trường và kinh tế và sẽ
ít bị tổn thương hơn (Ellis và Allison,
2004). Đa dạng sinh kế được xem như là
một giải pháp để duy trì sự ổn định về sinh
kế của hộ trong các điều kiện khó khăn. Đa
dạng sinh kế được định nghĩa là quá trình
các nông hộ xây dựng và thực hiện một
danh mục các hoạt động đa dạng cùng sự
hỗ trợ của xã hội để tồn tại và cải thiện
mức sống của họ (Ellis, 1998). Đa dạng
sinh kế đề cập đến nỗ lực của các cá nhân
và hộ gia đình nhằm tìm ra các cách thức
mới để tăng thu nhập và giảm rủi ro do tác
động của môi trường sống (Abubakar và
cs., 2018). Đa dạng sinh kế bao gồm cả các
hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp
được thực hiện để tạo thêm thu nhập bên
cạnh các hoạt động sản xuất nông nghiệp
chính của hộ, chẳng hạn như: mở thêm
hoạt động sản xuất mới, làm thuê, kinh
doanh dịch vụ hay thậm chí di cư. Đa dạng
sinh kế không nhất thiết phải đồng nghĩa
với đa dạng hóa thu nhập (Ellis, 1998). Đa
dạng hóa là một xu hướng có tính phổ biến
trong nông nghiệp xuất phát từ yêu cầu của
việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực sản
xuất và giảm thiểu rủi ro gây ra bởi các cú
sốc từ môi trường sản xuất và thị trường
nông nghiệp (Ellis, 1998).
Đa dạng hóa hoạt động sinh kế nhưng
không gây suy giảm tài nguyên thiên nhiên
sẽ góp phần làm ổn định thu nhập và giảm
áp lực vào tài nguyên thiên nhiên (Midgley
và cs., 2017). Đa dạng hoá sinh kế có vai
trò hết sức to lớn là tạo ra sự ổn định, tăng
khả năng chống đỡ với bối cảnh tổn
thương của con người và nông hộ với
chiến lược sinh kế, đồng thời sử dụng được
một cách hiệu quả và linh động các nguồn
vốn sinh kế sẵn có. Đa dạng hoá sinh kế
còn góp phần tạo ra môi trường thể chế,
chính sách thông thoáng và thuận lợi cho
công tác phát triển cộng đồng và công cuộc
giảm đói nghèo.
Thảm họa môi trường biển Formosa
2016 đã gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất
và sinh hoạt của ngư dân, đến những hộ
nuôi thủy sản ven bờ, ảnh hưởng đến du
lịch biển và cuộc sống của cư dân 04
tỉnh miền Trung gồm Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
Nguyên nhân gây nên hiện tượng này được
xác định là do nguồn thải của Công ty
Formosa Hà Tĩnh (Chau và Sun, 2016) bắt
đầu từ tháng 4 năm 2016. Sự cố môi
trường này ngoài việc gây ra hiện tượng
các loài thủy hải sản chết hàng loạt đã tác
động mạnh mẽ đến đời sống người dân các
cộng đồng thủy sản ven biển miền Trung.
Các hộ nuôi trồng thiệt hại về vốn đầu tư
và mất nguồn thu; hộ khai thác không thể
ra khơi do nguồn nước nhiễm độc; hộ kinh
doanh dịch vụ phải đóng cửa do vắng
khách và không có nguồn cung đầu vào.
Trong bối cảnh tính bị tổn thương ngày
càng gia tăng do sự cố môi trường này tác
động kéo dài đến tháng 4 năm 2017 và
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2075-2084
2077
thậm chí lâu hơn nữa, đa dạng sinh kế
được xem là giải pháp phù hợp nhất để
nâng cao năng lực phục hồi của các cộng
đồng ven biển miền Trung.
Để làm rõ tác động của sự cố môi
trường biển năm 2016 đến hoạt động sinh
kế và làm thế nào người dân khắc phục
được sự cố đó, nghiên cứu “Đánh giá vai
trò đa dạng hóa sinh kế với khả năng phục
hồi sau sự cố ô nhiễm môi trường biển
năm 2016 đối với ngư dân khai thác thủy
sản gần bờ tỉnh Thừa Thiên Huế” được
tiến hành. Mục tiêu của nghiên cứu tập
trung vào (1) tìm hiểu tác động của sự cố
môi trường biển năm 2016 sinh kế của ngư
dân KTTS gần bờ; (2) xác định sự đa dạng
các hình thức sinh kế sau sự cố ô nhiễm
môi trường biển của ngư dân KTTS gần bờ
và (3) mức độ phục hồi sinh kế của ngư
dân sau sự cố 30 tháng.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chọn điểm nghiên cứu: Nghiên cứu
đã chọn 3 điểm để thực hiện thu thập thông
tin bao gồm xã Quảng Công (Quảng Điền),
xã Phú Diên (Phú Vang) và thị trấn Lăng
Cô (Phú Lộc) của tỉnh Thừa Thiên Huế, là
những xã có hoạt động KTTS chịu tác
động trực tiếp từ sự cố môi trường biển
Formosa 2016.
Phương pháp thu thập số liệu:
Số liệu thứ cấp được thu thập từ các
thống kê thiệt hại, công tác hỗ trợ, bồi
thường, các chính sách của Chính phủ có
liên quan đến sự cố môi trường biển năm
2016; báo cáo tình hình kinh tế-xã hội của
địa phương từ 2016 - 2018; báo cáo công
tác đền bù, hỗ trợ cho người dân tại các
vùng nghiên cứu theo số liệu thống kế của
UBND các xã và huyện từ 2016 - 2018;
báo cáo những hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp
cho người dân chịu thiệt hại từ sự cố môi
trường.
Số liệu sơ cấp được thu thập thông
qua phương pháp đánh giá nông thôn có sự
tham gia (PRA) với các công cụ phỏng vấn
người am hiểu và phỏng vấn hộ. Phỏng
vấn người am hiểu được tiến hành tại các
xã nghiên cứu (n = 10/mỗi xã/thị trấn) bao
gồm chủ tịch xã/ thị trấn, phó chủ tịch xã/
thị trấn, các phòng ban chức năng (cán bộ
địa chính nông nghiệp, trưởng thôn) và
nông dân nòng cốt. Nội dung phỏng vấn
tập trung vào thu thập các dữ liệu ở cấp độ
cộng đồng về các chỉ tiêu thiệt hại, công
tác chỉ đạo ứng phó với sự cố, các giải
pháp hỗ trợ và cơ chế giám sát, đánh giá
tác động của sự cố đến đời sống của người
dân. Phỏng vấn hộ được tiến hành với 210
hộ bằng bảng hỏi bán cấu trúc. Nhóm hộ
được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên
và được chia thành 02 nhóm bao gồm
nhóm đa dạng sinh kế (trên 02 nguồn thu
nhập trở lên) và nhóm không đa dạng sinh
kế (chỉ 01 nguồn thu từ khai thác thủy
sản). Tiêu chí chọn hộ tập trung vào các hộ
chịu tác động trực tiếp từ sự cố ô nhiễm
môi trường biển năm 2016 tại 03 xã/thị
trấn. Danh sách để lựa chọn hộ KTTS dựa
vào danh sách thống kê thiệt hại của các
xã/thị trấn đã chọn và được lựa chọn ngẫu
nhiên. Nội dung phỏng vấn tập trung chủ
yếu vào tác động của sự cố đến sinh kế, lao
động của hộ, các giải pháp sinh kế của hộ
đã thực hiện để ứng phó và vai trò của đa
dạng sinh kế đến khả năng phục hồi của
các hộ KTTS.
Phương pháp phân tích số liệu:
Phân tích định tính, định lượng:
thông tin định tính được tổng hợp, phân
tích thành các nhận định, sơ đồ, bảng biểu.
Thông tin định lượng được xử lý thống kê
mô tả về trung bình, độ lệch chuẩn, tỷ lệ %
trên phần mềm Excel 2010.
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3)-2020:2075-2084
2078 Nguyễn Ngọc Truyền và cs.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm sinh kế của hộ khai thác
thủy sản gần bờ
Các đặc điểm liên quan đến nguồn
vốn sinh kế như nguồn nhân lực, nguồn
vốn tài chính, nguồn vốn vật chất, nguồn
vốn tự nhiên hay nguồn vốn xã hội có ảnh
hưởng quan trọng đến khả năng chống chịu
cũng như năng lực phục hồi của hộ. Kết
quả nghiên cứu về nguồn nhân lực cho
thấy, số lao động của hộ tương đối lớn nếu
so với quy mô nhân khẩu của hộ. Trung
bình hộ chuyên khai thác có khoảng 04
nhân khẩu thì có đến 03 lao động; tương tự
hộ KTTS đa dạng sinh kế có khoảng 05
nhân khẩu thì có đến 04 lao động chính.
Độ tuổi trung bình của chủ hộ tương đối
cao, khoảng trên 50 tuổi trong khi số năm
đi học của chủ hộ ở mức trung bình của
khu vực nông thôn ven biển, khoảng 06
năm đi học (Bảng 1).
Bảng 1. Các đặc điểm của hộ khai thác thủy sản (KTTS) gần bờ ở các điểm nghiên cứu
Đặc điểm
Nhóm hộ
Bình quân chung
(n = 210)
Hộ chuyên KTTS
(không đa dạng)
(n = 146)
Hộ KTTS đa dạng
sinh kế
(n = 64)
Nguồn nhân lực của hộ
- Số khẩu (khẩu) 4,32 ± 1,65 5,06 ± 1,58 4,54 ± 1,63
- Số lao động (LĐ) 3,43 ± 1,29 4,22 ± 1,10 3,67 ± 1,18
- Tuổi chủ hộ 50,06 ± 6,05 53,59 ± 5,21 51,14± 5,67
- Trình độ học vấn (lớp) 6,02 ± 2,32 5,92 ± 3,11 5,99 ± 2,67
Nguồn vốn tài chính của hộ
- Tổng vốn sản xuất/hộ/năm (triệu đồng) 29,01 ± 15,34 43,95 ± 22,40 33,50 ±19,12
- Tỷ lệ vốn tự có so với tổng vốn SX (%) 95,71 89,13 92,45
- Tỷ lệ vốn vay từ người thân so với tổng vốn
SX (%)
1,87 7,82 4,8
- Tỷ lệ vốn vay tổ chức khác so với tổng vốn
SX (%)
2,50 3,14 2,78
Nguồn vốn vật chất của hộ (triệu đồng)
- Thiết bị chế biến 4,30 ± 3,23 8,67 ± 2,56 5,81 ± 2,89
- Ngư cụ khai thác 24,24 ± 5,32 27,95 ± 3,48 25,42 ± 4,52
- Nhà ở 320,93 ± 236,12 338,83 ± 168,86 326,41 ± 191,24
- Phương tiện sinh hoạt 16,15 ± 6,32 20,52 ± 8,24 17,52 ± 7,44
- Phương tiện khai thác 94,37 ± 20,54 98,61 ± 16,42 94,85 ± 18,34
- Tổng tài sản của hộ 459,83 ± 271,24 494,52 ± 198,16 469,90 ± 236,18
Nguồn vốn tự nhiên của hộ (m2)
- Đất ở 214,66 ± 182,12 244,31 ± 145,86 229,49 ± 164,64
- Đất nông nghiệp - 500*
- Diện tích nuôi trồng thủy sản 3375,82 ± 1261,64 4085,25 ± 987,38 3730,54 ± 1141,86
Nguồn vốn xã hội của hộ (% hộ tham gia)
- Tham gia đoàn thể 56,80 64,14 59,12
- Tham gia hội nghề nghiệp (Hội nghề cá) 13,07 23,48 16,24
- Liên kết, làm ăn với các đối tác ngoài thôn 0,71 - 0,52
- Liên kết nhóm thương lái 24,77 18,80 22,92
- Trao đổi thông tin, kinh nghiệm từ làng xóm,
họ hàng
58,93 70,33 62,47
± Độ lệch chuẩn; *: Chỉ 01 hộ có đất nông nghiệp
Nguồn: Số liệu điều tra (2018)
Về nguồn vốn tài chính, tổng vốn
đầu tư cho sản xuất/năm của các nhóm hộ
tương đối thấp, trung bình khoảng 33,5
triệu (± 19,12). Mặc dù nhóm hộ KTTS
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2075-2084
2079
theo hướng đa dạng sinh kế có mức đầu tư
cao hơn (khoảng 43,95 ± 22,40 triệu) so
với nhóm chuyên KTTS (29,01 ± 15,34
triệu) nhưng tỷ lệ vốn tự có của nhóm hộ
này lại thấp hơn so với nhóm chuyên
KTTS (89,13% so với 95,71%); phần vốn
còn lại của cả 02 nhóm hộ chủ yếu được
huy động từ vay mượn người thân (lần lượt
là 7,82% và 3,14%). Kết quả này cho thấy
nhóm hộ KTTS đa dạng sinh kế có sự chủ
động về nguồn vốn thấp hơn so với nhóm
hộ chuyên KTTS.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy,
mặc dù nguồn vốn đầu tư cho sản xuất của
các nhóm hộ tương đối thấp nhưng giá trị
tài sản của hộ tương đối cao so với mặt
bằng chung ở khu vực nông thôn hiện nay.
Cụ thể, tổng giá trị tài sản trung bình của
cả 02 nhóm hộ khoảng 470 triệu đồng và
không có sự chênh lệch đáng kể về tổng
giá trị tài sản và giá trị từng loại tài sản
giữa 02 nhóm hộ. Phần lớn giá trị tài sản
đến từ nhà ở (326,41 triệu đồng), phương
tiện khai thác thủy sản (94,85 triệu đồng),
ngư cụ khai thác (25,42 triệu đồng) và
phương tiện sinh hoạt (17,52 triệu đồng).
Nguồn vốn tự nhiên của các hộ khai
thác thủy sản gần bờ chủ yếu đến từ diện
tích NTTS và đất ở. Trong đó, diện tích
NTTS của hộ tương đối lớn, bao gồm hệ
thống các ao cao triều nuôi tôm hoặc nuôi
xen ghép các loại thủy hải sản. Trung bình
hộ KTTS đa dạng sinh kế sở hữu khoảng
4.100 m2 diện tích ao NTTS, cao hơn
khoảng 700 m2 so với nhóm hộ chuyên
KTTS. Trong khi đó, diện tích đất (bao
gồm diện tích nhà ở và diện tích vườn,
chuồng) không có nhiều khác biệt giữa 02
nhóm hộ, khoảng 230 m2/ hộ. Đáng chú ý
là khác biệt về diện tích nuôi trồng thủy
sản trung bình giữa các hộ tương đối lớn
(độ lệch chuẩn khoảng 1141,86 m2)
Đối với nguồn vốn xã hội, phần lớn
các hộ tiếp cận thông tin, học hỏi kiến thức
và kinh nghiệm làm ăn thông qua việc
tham gia vào các hội đoàn thể (khoảng
60% số hộ) và từ mối quan hệ hàng xóm,
họ hàng (62,47% số hộ). So sánh giữa 02
nhóm hộ thì tỷ lệ tiếp cận các nguồn vốn
xã hội của nhóm KTTS đa dạng sinh kế
cao hơn so với nhóm chuyên KTTS ngoại
trừ hoạt động liên kết với nhóm thương lái
để tiêu thụ sản phẩm (24,77% số hộ
chuyên KTTS so với 18,8% của nhóm còn
lại).
3.2. Tác động sinh kế của sự cố đến hộ
KTTS ven bờ
3.2.1. Thời gian ảnh hưởng của sự cố
Thời gian ảnh hưởng của sự cố đến
hoạt động khai thác được xác định là
khoảng thời gian hộ ngừng hoặc giảm
cường độ khai thác. Kết quả khảo sát 210
hộ khai thác thủy sản gần bờ tại các xã Phú
Diên, Quảng Công và thị trấn Lăng Cô chỉ
ra rằng 100% các hộ phải ngừng hoàn toàn
các hoạt động khai thác thủy sản gần bờ
cũng như các hoạt động liên quan đến dịch
vụ và trao đổi các mặt hàng thủy sản. Tổng
thời gian bị ảnh hưởng của cả 02 nhóm hộ
khá tương đồng, tuy nhiên thời gian ngừng
khai thác hoàn toàn và thời gian giảm khai
thác của 02 nhóm hộ có sự khác nhau đáng
kể (Bảng 2).
Bảng 2. Thời gian ảnh hưởng của sự cố đến hộ khai thác thủy sản (KTTS) gần bờ ở địa bàn
nghiên cứu
(Đơn vị tính: Tháng)
Chỉ tiêu
Hộ chuyên KTTS
(không đa dạng)
Hộ KTTS đa dạng
sinh kế
Bình quân
chung
Thời gian ngừng khai thác hoàn toàn 7,80 ± 3,13 8,82 ± 3,05 8,53 ± 3,73
Thời gian giảm khai thác 15,61 ± 5,22 14,94 ± 6,24 15,14 ± 7,65
Tổng thời gian bị ảnh hưởng bởi sự cố 23,41 ± 5,35 23,76± 5,59 23,67 ± 6,25
± Độ lệch chuẩn
Nguồn: Số liệu điều tra (2018)
Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhóm
hộ không đa dạng sinh kế có thời gian
ngừng khai thác khoảng 7,8 tháng (± 3,13
tháng), ngắn hơn so với nhóm đa dạng
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3)-2020:2075-2084
2080 Nguyễn Ngọc Truyền và cs.
khoảng 1 tháng. Sự khác biệt này xuất phát
từ sự phụ thuộc sinh kế vào hoạt động khai
thác thủy sản của nhóm hộ chuyên KTTS.
Nhóm hộ chuyên KTTS sau khi môi
trường biển tương đối ổn định, họ có xu
hướng khai thác thủy sản sớm hơn so với
nhóm hộ đa dạng sinh kế để mang lại thu
nhập cho cả gia đình. Tổng thời gian
KTTS bị ảnh hưởng của nhóm hộ KTTS
đa dạng sinh kế cao hơn nhóm hộ chuyên
KTTS, khoảng 23,76 tháng so với 23,41
tháng với độ lệch chuẩn dao động trong
khoảng 5 - 6 tháng. Kết quả này hoàn toàn
phù hợp khi nhóm hộ KTTS đa dạng sinh
kế có nhiều lựa chọn về sinh kế hơn nên
khi môi trường biển chưa thực sự ổn định,
họ chấp nhận duy trì các hoạt động sinh kế
khác như làm thuê, làm nông nghiệp hay
khai thác thủy sản trên đầm phá Tam
Giang thay vì sớm quay trở lại nghề khai
thác biển.
Hộp 1. Phản ánh của ngư dân về ảnh hưởng của sự cố Formosa năm 2016 đến hoạt động khai thác
thủy sản ven biển
Những ngày đầu xảy ra sự cố ô nhiễm môi trường biển, mặc dù chưa có cơ quan, đơn vị nào công
bố nguyên nhân nhưng khi quan sát cá chết hàng loạt chúng tôi cũng đã rất lo lắng và không dám ra
khơi đánh bắt nữa; một số thuyền đánh bắt được cá cũng không bán được do không có người mua.
Sự cố ô nhiễm đã kéo dài hơn rất nhiều so với tưởng tượng ban đầu của chúng tôi.
(Ông Nguyễn Văn Khánh, 56 tuổi, xã Quảng Công)
3.2.2 Thiệt hại kinh tế của hộ KTTS ven
biển
Thiệt hại kinh tế của hộ được tính
bằng tổng chi phí sản xuất đầu tư trước sự
cố bị mất do không thể ra khơi và các
khoản mất thu nhập do giảm sản lượng
khai thác, mất thu nhập do ngừng hoặc
giảm các hoạt động khai thác và các hoạt
động sinh kế khác. Kết quả về thiệt hại của
hộ thể hiện ở Bảng 3.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trung
bình mỗi hộ mất 5,54 triệu/tháng chi phí
do ngừng khai thác và có sự khác biệt khá
lớn về giá trị chi phí bị mất trước sự cố
giữa các hộ (khoảng 12,92 triệu đồng).
Cùng với đó, sản lượng khai thác giảm
khoảng gần 40 kg/ngày (nhóm hộ KTTS
đa dạng sinh kế lên đến 49,46 kg/ngày, với
độ lệch chuẩn tương đối lớn, khoảng 69,11
kg) do ngừng thời gian khai thác hay giảm
sản lượng khai thác do thị trường tiêu thụ
hạn chế. Do ngừng hoặc giảm thời gian
khai thác kèm theo sản lượng khai thác
giảm nên thu nhập của các hộ khai thác
thủy sản gần bờ cũng giảm khá lớn, trung
bình 31,23 triệu/tháng/hộ (+18,46 triệu
đồng).
Bảng 3. Thiệt hại của hộ khai thác thủy sản KTTS gần bở do ảnh hưởng của sự cố môi trường biển tại
các điểm nghiên cứu
Chỉ tiêu
Hộ chuyên KTTS
(không đa dạng)
Hộ KTTS đa dạng
sinh kế
Bình quân chung
Mất chi phí SX trước sự cố
(triệu/hộ/tháng)
3,44 ± 0,93 7,05 ± 14,37 5,54 ± 12,92
Sụt giảm sản lượng do ngừng khai
thác (kg/hộ/tháng)
26,64 ± 31,37 49,46 ± 69,11 38,03 ± 61,87
Mất thu nhập do ngừng và giảm KT
(triệu/hộ/tháng)
25,91 ± 20,95 36,57 ± 18,52 31,23 ± 18,46
Mất thu nhập do ngừng và giảm
HĐSK khác (tr/hộ/th)
2,62 ± 18,94 9,46 ± 20,50 6,04 ± 18,42
Tổng thiệt hại do sự cố gây ra
(triệu/hộ)
226,13 ± 164,02 307,53 ± 209,72 266,85 ± 169,74
Tỷ lệ thiệt hại so với thu nhập hàng
năm trước sự cố (%)
123,31 ± 118,26 107,10 ± 86,76 115,20 ± 90,16
± Độ lệch chuẩn
Nguồn: Số liệu điều tra (2018)
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2075-2084
2081
Bên cạnh thu nhập từ khai thác thủy
sản giảm hẳn thì thu nhập từ các hoạt động
sinh kế khác liên quan đến khai thác thủy
sản cũng bị ảnh hưởng. Trung bình thu
nhập của các hộ giảm khoảng 6,04
triệu/tháng/hộ và có sự khác biệt khá lớn
giữa các hộ (khoảng 18,42 triệu đồng).
Tổng thiệt hại về chi phí sản xuất và thu
nhập trong thời gian bị ảnh hưởng bởi sự
cố môi trường biển Formosa lên đến
266,85 triệu/hộ (± 169,74 triệu/hộ). Các chỉ
tiêu thiệt hại về chi phí, sản lượng và thu
thập trong thời gian chịu ảnh hưởng của sự
cố ở nhóm hộ đa dạng sinh kế cao hơn
nhóm hộ không đa dạng sinh kế. Tuy
nhiên, mức độ thiệt hại của hộ đa dạng
thấp hơn nhóm hộ không đa dạng. Những
kết quả nghiên cứu này phù hợp với thực
tiễn sản xuất và thu nhập của các nhóm hộ.
Nhóm hộ đa dạng thiệt hại tổng tiền mặt
cao hơn do nhóm này đầu tư nhiều hơn cho
các hoạt động sinh kế so với nhóm hộ
không đa dạng sinh kế. Tuy nhiên, họ có tỷ
lệ thiệt hại so với thu nhập thấp hơn nhóm
hộ không đa dạng (107,1% so với
123,31%) nhờ ít phụ thuộc vào khai thác
thủy sản và thời gian chịu ảnh hưởng ngắn
hơn.
3.3. Giải pháp ứng phó, phục hồi sinh kế
của hộ
Trước những khó khăn do sự cố môi
trường biển Formosa gây ra, các hộ KTTS
biển gần bờ đã chủ động tìm kiếm các giải
pháp ứng phó nhằm duy trì sinh kế của
mình. Mỗi nhóm hộ có một cách thức tiếp
cận về sinh kế để vượt qua khó khăn, kết
quả thể hiện ở Bảng 4.
Bảng 4. Các giải pháp ứng phó, phục hồi sinh kế của các hộ khai thác thủy sản (KTTS) gần bờ tại các
điểm nghiên cứu
Giải pháp
Hộ chuyên
KTTS
(% hộ)
Hộ KTTS
đa dạng
(% hộ)
BQC
(% hộ)
Hộ đánh giá
là hiệu quả
(% hộ)
Trong khai thác thủy sản
Chuyển sang khai thác xa bờ 29,45 51,56 36,19 71,41
Chuyển sang khai thác tầng nổi 89,73 37,50 73,81 70,00
Cải hoán phương tiện khai thác và ngư lưới cụ 50,68 48,44 50,00 33,33
Trong hoạt động phi thủy sản
Tham gia các HĐSK mới để tăng thêm thu
nhập
20,55 46,90 28,57 85,90
Mở rộng các hoạt động sản xuất đã có - 70,31 21,43 82,22
Đầu tư đào tạo nghề cho lao động của hộ - 7,80 2,38 100
Xuất khẩu lao động (%) - 4,69 1,43 100
Di cư - 9,38 2,86 83,33
Nguồn: Số liệu điều tra (2018)
Đối với hoạt động khai thác thủy
sản, trong bối cảnh sản lượng cá tôm giảm
nghiêm trọng do tình trạng ô nhiễm nguồn
nước gây ra, các hộ KTTS gần bờ đã thay
đổi phương thức khai thác. Việc lựa chọn
thay đổi phương thức khai thác giữa 02
nhóm hộ có sự khác biệt nhau khá rõ. Cụ
thể, có khoảng 51,56% số hộ KTTS đa
dạng đã chuyển sang khai thác xa bờ, cao
gần gấp đôi so với nhóm hộ chuyên KTTS.
Ở hướng ngược lại, nhóm hộ chuyên
KTTS phần lớn chuyển sang khai thác tầng
nổi (89,73% số hộ), cao gấp 2,4 lần so với
nhóm hộ KTTS đa dạng sinh kế. Sự khác
biệt này đến từ đặc thù khai thác của cả 02
nhóm hộ. Nhóm hộ KTTS đa dạng sinh kế
có nguồn lực (lao động, nguồn vốn tài
chính) tốt hơn nên có khả năng để đầu tư
khai thác xa bờ. Trong khi đó, với điều
kiện nguồn lực khó khăn hơn nhưng trong
tình thế phải duy trì sinh kế thì các hộ
chuyên KTTS phải chấp nhận thích ứng
bằng cách chuyển sang khai thác tầng nổi
mặc dù sản lượng khai thác ở tầng nước
nổi thường hạn chế. Mặc dù cách thích ứng
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3)-2020:2075-2084
2082 Nguyễn Ngọc Truyền và cs.
khác nhau nhưng tỷ lệ hộ đánh giá về mức
độ hiệu quả của các giải pháp đã được áp
dụng khá tương đồng (khoảng 70% số hộ
có cùng ý kiến).
Giải pháp cải hoán phương tiện khai
thác và ngư lưới cụ cũng là một giải pháp
được cả 02 nhóm hộ áp dụng nhưng tỷ lệ áp
dụng giải pháp này thấp hơn (khoảng 50% số
hộ). Giải pháp này chủ yếu để phục vụ cho
sự thay đổi trong phương thức khai thác từ
tầng đáy sang tầng nổi, từ khai thác gần bờ
sang xa bờ hoặc mua mới các ngư lưới cụ để
đảm bảo năng suất khai thác trong điều kiện
sản lượng cá tôm giảm. Tuy nhiên, theo đánh
giá của các hộ thì hiệu quả của giải pháp ứng
phó này tương đối thấp do chi phí đầu tư cao
nhưng kết quả không như mong đợi (chỉ
khoảng 33,33% số hộ đánh giá giải pháp có
hiệu quả).
Hộp 2. Ý kiến ngư dân về giải pháp sinh kế của hộ sự cố Formosa 2016
Những tháng đầu sau khi sự cố môi trường biển xảy ra, hầu hết các gia đình chỉ biết ở nhà để
trông chờ đến ngày có thể khai thác trở lại. Tất cả các chi phí sinh hoạt, ăn uống đều từ tiền tích lũy
trước đó của gia đình và từ trợ cấp của Chính phủ. Tuy nhiên, khi tình trạng ô nhiễm kéo dài, lượng
cá tôm giảm, chúng tôi phải tính đến việc thay đổi về cách khai thác; vợ con ở nhà phải kiếm thêm
việc để làm, tạo thêm thu nhập.
(Ông Phan Chiến, 47 tuổi, xã Phú Diên)
Đối với các hoạt động phi thủy sản,
sự ứng phó chủ yếu tập trung vào nhóm hộ
KTTS đa dạng sinh kế. Các giải pháp
chính được nhóm hộ này áp dụng để ứng
phó bao gồm: mở rộng các hoạt động sản
xuất đã có và tham gia các hoạt động sinh
kế mới để tăng thêm thu nhập (lần lượt
70,31% và 46,9% số hộ áp dụng). Một số
giải pháp như đầu tư để lao động học nghề
mới, xuất khẩu lao động hoặc di cư cũng
đã được 01 số hộ trong nhóm này thực
hiện nhưng với tỷ lệ thấp (dưới 10% số
hộ). Nếu so với nhóm hộ chuyên KTTS
(chỉ áp dụng duy nhất giải pháp mở rộng
các hoạt động sản xuất đã có với 20,55%
số hộ thực hiện) thì nhóm hộ KTTS đa
dạng hóa dường như linh hoạt hơn trong
ứng phó với tác động của sự cố Formosa.
Sự đa dạng trong các giải pháp ứng phó
xuất phát từ nền tảng lao động của hộ đã
từng tiếp cận với các loại công việc khác
nhau thay vì chỉ chuyên sống dựa vào nghề
biển. Vì vậy, khi sự cố Formosa xảy ra,
khả năng xoay sở để chuyển đổi hoặc tìm
kiếm các hoạt động sinh kế mới của hộ
KTTS đa dạng sinh kế khá dễ dàng hơn.
Đây được xem là một ưu thế trong ứng phó
với rủi ro của nhóm hộ đa dạng sinh kế so
với nhóm chuyên 01 loại hình sinh kế.
3.4. Kết quả phục hồi thu nhập của hộ
sau sự cố 30 tháng
Sau sự cố môi trường biển Formosa
30 tháng kể từ tháng 4/2016, các hoạt động
sinh kế và đời sống các hộ KTTS ven biển
Thừa Thiên Huế bắt đầu phục hồi. Sự phục
hồi này thể hiện rõ qua khía cạnh thu nhập
của hộ và kết quả được thể hiện ở Bảng 5.
Bảng 5. Kết quả phục hồi sinh kế của các nhóm hộ tại các điểm nghiên cứu
Chỉ tiêu Đơn vị
Hộ chuyên khai
thác thủy sản
(không đa dạng)
Hộ khai thác thủy
sản đa dạng
sinh kế
Bình quân chung
Thu nhập hiện tại (sau sự cố
30 tháng)
triệu đồng/năm 102,81 ± 53,85 144,78 ± 65,24 106,45 ± 93,71
Thu nhập trước sự cố triệu đồng/năm 151,32 ± 74,72 185,91 ± 108,95 161,83 ± 113,28
Tỷ lệ thu nhập hiện tại so
với trước sự cố
% 67,94 77,88 65,78
Tỷ lệ hộ tự đánh giá đã phục
hồi hoàn toàn
% 53,42 62,50 56,19
± Độ lệch chuẩn
Nguồn: Số liệu điều tra (2018)
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(3)-2020:2075-2084
2083
Kết quả nghiên cứu cho thấy, thu
nhập hiện tại của nhóm hộ chuyên KTTS
đạt mức 102,81 triệu đồng/năm, thấp hơn
nhóm hộ KTTS đa dạng sinh kế khoảng 40
triệu. Độ giao động về giá trị trung bình
thu nhập của cả 02 nhóm hộ tương đối lớn,
lần lượt là 53,85 triệu và 65,24 triệu. So
với mức thu nhập trước khi sự cố Formosa
xảy ra thì thu nhập hiện tại vẫn còn thấp
hơn nhiều. Tỷ lệ phục hồi thu nhập của
nhóm hộ chuyên KTTS thấp hơn so với
nhóm hộ KTTS đa dạng sinh kế, tương
ứng khoảng 67,94% so với 77,88%. Sự
phục hổi hoàn toàn về thu nhập cũng chỉ
tập trung ở một số lượng hộ nhất định
(khoảng 56,19% số hộ), trong đó tỷ lệ có
đánh giá đã phục hồi hoàn toàn về thu
nhập của nhóm hộ KTTS đa dạng hóa cũng
cao hơn so với nhóm hộ chuyên KTTS
(62,5% so với 53,42%).
Qua các kết quả về phục hồi thu
nhập sau sự cố Formosa 30 tháng cho thấy,
các nhóm hộ KTTS đa dạng sinh kế có
năng lực phục hồi tốt hơn. Kết quả này
cũng phản ánh đúng thực tế tại các địa
phương khi sự đa dạng ngành nghề của
nhóm hộ KTTS đa dạng sinh kế đã mang
lại nhiều nguồn thu, bổ sung vào nguồn thu
đã mất từ khai thác thủy sản gây ra bởi sự
cố. Trong khi đó, nhóm hộ chuyên KTTS
chỉ dựa vào nghề khai thác nên khi nguồn
lợi thủy sản chưa được phục hồi hoàn toàn
thì đồng nghĩa thu nhập của họ cũng bị
giảm đi so với trước.
Hộp 3. Ý kiến phản ánh sự phụ thuộc của hộ gia đình vào sinh kế thủy sản
Nhà tôi chuyên nghề đi biển, tất cả gạo cơm, chi phí trong nhà đều nhờ đi biển. Ngày nào chồng
và con trai không đi biển được thì ngày đó không có tiền vì tôi chỉ ở nhà, không biết làm nghề gì.
Chồng con đi biển về sáng thì tôi phụ bán cá, chiều thì phụ giặt giủ lưới chài, lo cơm nước để tối
chồng con đi làm lại.
(Bà Phạm Thị Bê, 45 tuổi, thị trấn Lăng Cô)
4. KẾT LUẬN
Sự cố môi trường biển Formosa đã
gây ảnh hưởng lớn đến các hộ khai thác
thủy sản gần bờ ở góc độ ngừng hoặc giảm
thời gian khai thác dẫn đến mất thu nhập.
Giá trị thiệt hại của nhóm KTTS đa dạng
sinh kế khoảng 307,53 triệu đồng, cao hơn
so với mức 226,13 triệu đồng của nhóm
chuyên KTTS. Với tỷ lệ thiệt hại so với
mức thu nhập trước sự cố của cả 02 nhóm
hộ đều trên 100% đã cho thấy mức độ thiệt
hại do sự cố môi trường biển Formosa gây
ra bởi các hộ khai thác thủy sản gần bờ ở
Thừa Thiên Huế là rất lớn, đặc biệt là
nhóm hộ chuyên khai thác thủy sản có tỷ lệ
thiệt hại so với thu nhập hàng năm lên đến
123,31%.
Trước các tác động của sự cố môi
trường biển Formosa năm 2016, cả 02
nhóm hộ gồm chuyên KTTS và KTTS đa
dạng sinh kế đã có các giải pháp ứng phó
khác nhau. Trong đó, nhóm chuyên KTTS
tập trung vào việc cải tiến trong KTTS để
duy trì hoạt động sinh kế chính này. Trong
khi nhóm còn lại lựa chọn hướng duy trì và
mở rộng các hoạt động sinh kế theo hướng
đa dạng hơn. Kết quả nhóm KTTS đa dạng
sinh kế có quá trình phục hồi tốt hơn với tỷ
lệ giá trị thu nhập phục hồi khoảng
77,88%, cao hơn khoảng 10% so với nhóm
còn lại. Tỷ lệ hộ tự đánh giá đã phục hồi
hoàn toàn về thu nhập của nhóm hộ KTTS
đa dạng sinh kế cũng khá cao, khoảng
62,5% so với 53,42% của nhóm chuyên
KTTS.
Nhờ sở hữu các nguồn vốn sinh kế
tốt hơn, cùng với chiến lược đa dạng hóa
sinh kế từ đầu nên nhóm hộ KTTS đa dạng
sinh kế đã phân tán và giảm thiểu rủi ro
cho hoạt động sinh kế chính là KTTS. Sau
khi sự cố Formosa xảy ra, nhóm hộ KTTS
đa dạng hóa không chỉ duy trì mà còn tiếp
tục mở rộng và tìm kiếm thêm các hoạt
động sinh kế mới để bổ sung vào nguồn
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(3)-2020:2075-2084
2084 Nguyễn Ngọc Truyền và cs.
thu nhập bị mất do không thể tiến hành
KTTS. Rõ ràng, đa dạng hóa sinh kế là yếu
tố có ảnh hưởng tích cực đến năng lực
chống chịu của các hộ KTTS gần bờ trước
sự cố môi trường biển Formosa năm 2016.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tiếng Việt
Nguyễn Lê Hiệp, Lê Thị Cẩm Nhi, Trần Thị
Diệu, Trần Thị Bích Huệ. (2019). Tác động
sự cố môi trường biển đến hiệu quả kinh tế
nuôi cá lồng ở thị trấn Thuận An - Tỉnh
Thừa Thiên Huế. Tạp chí Khoa học Đại học
Huế: Kinh tế và Phát triển, 128(5A), 51 -
61.
Lê Ngọc Tuấn. (2013). Tổng quan nghiên cứu
về đánh giá tính dễ bị tổn thương do biến
đổi khí hậu. Tạp chí Phát triển Khoa học và
Công nghệ, 20(2T), 5 - 20.
2. Tài liệu tiếng nước ngoài
Abubakar, A., Maigari, A. I., Danhassan, S. S.,
Idris, S., Hussaini, A., Ummulkhair, H.
(2018). Rural livelihood diversification
system as coping mechanism to climate
change in Makadi, Southwest Babura,
Jigawa state, Nigeria. International Journal
of Advanced Academic Research, 4(10),
130 - 146
Chau, M. N., & Sun, Y.-H. (2016). Fish Death
Crisis Prompts Vietnam Waste Water
Probe. Blooomberg. Retrieved on 8 Jun
2019 from
https://www.bloomberg.com/news/articles/
2016-05-04/fish-death-crisis-prompts-
vietnam-to-probe-waste-water-pipes
Ellis, F. (1998). Household strategies and rural
livelihood diversification. The Journal of
Development Studies, 35(1), 1 - 38.
Ellis, F., & Allison, E. (2004). Livelihood
diversification and natural resource access.
Overseas Development Group, University
of East Anglia.
Midgley, S. J., Stevens, P. R., & Arnold, R. J.
(2017). Hidden assets: Asia’s smallholder
wood resources and their contribution to
supply chains of commercial wood.
Australian Forestry, 80(1), 10 - 25.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
da_dang_sinh_ke_voi_kha_nang_phuc_hoi_sau_su_co_o_nhiem_moi.pdf