Đa hình nucleotid đơn R72p trên gen TP53 và đánh giá nguy cơ mắc ung thư tế bào gan nguyên phát ở người nhiễm hepatitis B virus

Trong nghiên cứu này. chúng tôi chỉ sử dụng thuật ngữ khả năng mắc bệnh để phiên giải tỷ suất OR chứ không phải nguy cơ mắc bệnh. Đặc tính của một nghiên cứu bệnh chứng chỉ dừng ở mô tả gián tiếp nguy cơ mắc bệnh qua tỷ suất OR. Một thiết kế nghiên cứu khác có thể sử dụng để xác định chính xác nguy cơ mắc ung thư tế bào gan của những kiểu gen, khi bị nhiễm HBV. Một nghiên cứu có thể đưa ra chỉ số nguy cơ RR (relative risk). Đó là các tiến cứu, được tiến hành trong nhiều năm, sau khi đã xác định chính xác nhiễm HBV mạn. Kết quả quan sát được trong thời gian dài sẽ ghi nhận số bệnh nhân tiến triển thành ung thư tế bào gan nguyên phát. Từ tỷ lệ phát bệnh thu được, sẽ tính toán chính xác chỉ số nguy cơ (RR) mắc ung thư tế bào gan cho từng kiểu gen. Hơn nữa, độ tuổi trung bình của các bệnh nhân ung thư còn cho biết tuổi khởi phát bệnh của các kiểu gen gây ra cho các đối tượng nhiễm HBV. Đây không những là hạn chế lớn nhất của đề tài nghiên cứu này mà cũng là hạn chế chung của các nghiên cứu bệnh chứng. Tuy nhiên mô hình tiến cứu, đòi hỏi phải tiến hành trên khoảng thời gian kéo dài trong nhiều năm và phải quản lý được các đối tượng tham gia nghiên cứu trong suốt quá trình điều trị. Tại Việt Nam, HBV vẫn là nguyên nhân lớn nhất của ung thư tế bào gan. Việc điều trị và quản lý bệnh nhân viêm gan virus B đang ngày được quan tâm. Một nghiên cứu tiến cứu trên những đối tượng này là có tính khả thi.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đa hình nucleotid đơn R72p trên gen TP53 và đánh giá nguy cơ mắc ung thư tế bào gan nguyên phát ở người nhiễm hepatitis B virus, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 108 (3) - 201716 ĐA HÌNH NUCLEOTID ĐƠN R72P TRÊN GEN TP53 VÀ ĐÁNH GIÁ NGUY CƠ MẮC UNG THƯ TẾ BÀO GAN NGUYÊN PHÁT Ở NGƯỜI NHIỄM HEPATITIS B VIRUS Trịnh Quốc Đạt, Trần Huy Thịnh Trường Đại học Y Hà Nội Đa hình nucleotid đơn (SNP) R72P tại vùng exon 4 của gen áp chế ung thư TP53 liên quan đến sự hình thành và phát triển nhiều loại hình ung thư, trong đó có ung thư tế bào gan nguyên phát. Với mục đích tìm kiếm mối liên quan giữa các kiểu gen của SNP R72P và HBV trong sự hình thành khối u gan, chúng tôi tiến hành đánh giá khả năng mắc ung thư tế bào gan nguyên phát của các kiểu gen R72P ở những người nhiễm HBV mạn tính. Đối tượng nghiên cứu là 280 bệnh nhân ung thư tế bào gan nguyên phát trong đó có 171 trường hợp nhiễm HBV, nhóm chứng 267 đối tượng có 36 trường hợp nhiễm HBV. Sử dụng kỹ thuật enzym cắt giới hạn (RFLP) để phân tích kiểu gen của R72P, sau đó đánh giá tỷ lệ phân bố và khả năng mắc bệnh của các kiểu gen. Kết quả cho thấy, kiểu gen P72P của SNP R72P làm tăng khả năng mắc ung thư tế bào gan nguyên phát cho những người nhiễm HBV. OR = 3,23 ; 95% ; CI (1,12 – 9,45). I. ĐẶT VẤN ĐỀ Từ khóa: TP53 R72P, HBV, ung thư gan tế bào gan nguyên phát TP53 là gen áp chế ung thư nằm tại vị trí p13.3 của nhiễm sắc thể số 17, mã hóa protein p53 có trọng lượng phân tử 53kDa - một protein trong nhóm điều hòa chu kỳ tế bào. TP53 hoạt động như một yếu tố phiên mã, đóng vai trò quan trọng trong các con đường chuyển hóa và một số quá trình hoạt động tế bào như: sửa chữa DNA, tạo mạch, kìm hãm chu trình tế bào, tế bào chết theo chương trình [1 - 3]. Khi có tổn thương ở DNA, TP53 làm ngừng chu trình tế bào cho đến khi DNA bị tổn thương được sửa chữa hoặc TP53 có thể làm cho tế bào chết theo chương trình (apoptosis) nếu không còn khả năng sửa chữa DNA [3; 4]. Chính những đặc tính sinh học này mà TP53 được xem như gen ức chế khối u. Gần đây một trong những hướng nghiên cứu rất được quan tâm là các đa hình nucleotid đơn của TP53 có liên quan đến bệnh ung thư. Kết quả các nghiên cứu đã công bố cho thấy có hơn 200 SNP được tìm thấy trên vùng mã hóa và không mã hóa của gen TP53 [5; 6]. Các SNP này tạo ra các kiểu gen khác nhau của TP53 trong cộng đồng. Các nghiên cứu cũng chỉ ra có sự khác nhau trong khả năng mắc ung thư của các kiểu gen. Đây được coi là những yếu tố nguy cơ cần được quan tâm. Một trong những SNP được biết đến nhiều nhất là R72P, đây là SNP ở vị trí codon 72 trên trên exon 4 của gen TP53. Sự thay thế trình tự nucleotid tại codon 72 dẫn đến bộ ba CGC mã hóa cho arginin chuyển thành bộ ba CCC mã hóa cho prolin [6; 7]. Sự thay thế này dẫn đến có thể thay đổi khả năng bám của p53 đối với đoạn trình tự đặc hiệu tại gen đích, thay đổi quá trình hoàn thiện, tính ổn định của protein cũng Địa chỉ liên hệ: Trần Huy Thịnh, Bộ môn Hóa sinh, Trường Đại học Y Hà Nội Email: tranhuythinh@hmu.edu.vn Ngày nhận: 21/4/2017 Ngày được chấp nhận: 26/6/2017 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 108 (3) - 2017 17 như thay đổi khả năng tương tác của p53 với các protein nội bào [2; 3]. Đây là những yếu tố nguy cơ cho sự ổn định tế bào và mầm mống cho sự xuất hiện ung thư. Virus viêm gan B từ lâu đã được khẳng định là một yếu tố nguy cơ gây ung thư tế bào gan nguyên phát [8; 9]. Việt Nam là quốc gia được WHO xếp vào vùng dịch tễ nhiễm virus viêm gan B cao nhất thế giới. Các kết quả nghiên cứu trước đây, chúng tôi đã công bố SNP R72P của của gen TP53 liên quan đến nguy cơ mắc ung thư tế bào gan nguyên phát. Câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là những kiểu gen của đa hình nucleotid đơn này có làm tăng khả năng mắc ung thư tế bào gan cho những người nhiễm HBV mạn tính hay không? Do đó nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá mối liên quan giữa đa hình nucleotid đơn R72P của gen TP53 với khả năng mắc ung thư tế bào gan nguyên phát ở bệnh nhân nhiễm HBV mạn tính. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng - 280 mẫu máu của bệnh nhân ung thư tế bào gan nguyên phát, đang điều trị tại khoa Nội Tiêu hoá bệnh viện Bạch Mai và Trung tâm Ung bướu Thanh Hoá từ tháng 11 năm 2013 đến tháng 9 năm 2015. - 267 mẫu máu được lựa chọn ngẫu nhiên, của những người đến khám và điều trị một số bệnh mạn tính tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hoá được dùng làm nhóm đối chứng. Những bệnh nhân này được khám kiểm tra cận lâm sàng và kết luận là không mắc ung thư tế bào gan nguyên phát hay bất kỳ một loại hình ung thư nào khác. Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm Nghiên cứu Gen - Protein, Trường Đại học Y Hà Nội. 2. Phương pháp 2.1. Quy trình - Thu thập mẫu máu của bệnh nhân ung thư tế bào gan nguyên phát và mẫu chứng. - Sử dụng các kỹ thuật sinh học phân tử xác định kiểu gen của SNP R72P. - Phỏng vấn tiền sử và hồi cứu bệnh án điều trị để xác định nhiễm HBV. - Sử dụng phần mềm thống kê để phân tích và xử lý kết quả. 2.2. Tách chiết DNA - DNA được tách chiết theo phương pháp phenol/chloroform từ máu ngoại vi của bệnh nhân Ung thư tế bào gan nguyên phát và người lành đối chứng. - Kiểm tra độ tinh sạch và đo nồng độ của DNA được tách chiết bằng phương pháp đo quang, dựa vào tỷ lệ A260nm/A280nm = 1,8 - 2,0. 2.3. Xác định kiểu gen TP53 tại codon 72 Arg/72/Pro bằng kỹ thuật RFLP Khuyếch đại vùng gen chứa SNP R72P của gen TP53 bằng phương pháp PCR sử dụng cặp mồi đặc hiệu: Mồi xuôi: 5’- CTG GTA AGG ACA AGG GTT GG - 3’; Mồi ngược: 5’- ACT GAC CGT GCA AGT CAC AG - 3’. Sau khi được khuếch đại bằng cặp mồi đặc hiệu, sản phẩm PCR được kiểm tra và được cắt enzym giới hạn BstUI ở điều kiện 37oC qua đêm. Sản phẩm cắt được điện di cùng với thang chuẩn 100bp trên gel agarose 2%. Các băng DNA được nhuộm ethidium bromide và chụp ảnh bằng hệ thống máy EC3 Imaging system. Đoạn gen được nghiên cứu chứa trình tự nhận biết của enzyme BstUI (CG CG) tại vị trí codon 72. Khi BstUI cắt đoạn gen sẽ tạo ra các đoạn DNA có kích thước 165 bp và 231 bp, tương ứng với allen R72 (wild type-GG). Khi nucleotid G bị thay thế bởi C sẽ làm mất trình tự nhận biết của enzym BstUI, do đó đoạn TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 108 (3) - 201718 gen sẽ không bị cắt, tương ứng với allen P72 (mutant type - CC). Do vậy, kiểu gen R72R sẽ có hai băng, kiểu gen P72P có một băng và kiểu gen R72P có ba băng trên hình ảnh điện di. Kết quả này, được kiểm tra lại bằng giải trình tự trực tiếp. 2.4. Phân tích số liệu Sử dụng phần mềm thống kê SPSS 16,0 để phân tích số liệu. Dùng kiểm định χ² để so sánh tỷ lệ kiểu gen SNP R72P giữa nhóm bệnh và chứng. Phân tích đa biến bằng phương trình hồi quy logistic đa biến để đánh giá mối liên quan giữa các kiểu gen R72P và khả năng mắc ung thư tế bào gan nguyên phát của người nhiễm HBV. Ước tính qua tỷ suất OR, với khoảng tin cậy ở mức ý nghĩa 95%. 3. Đạo đức trong nghiên cứu Đề tài đã được thông qua hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học của Trường Đại học Y Hà Nội chấp thuận số 118/HĐĐĐ- ĐHYHN. Bệnh nhân hoàn toàn tự nguyện tham gia vào nghiên cứu. Bệnh nhân có quyền rút lui khỏi nghiên cứu khi không đồng ý tiếp tục tham gia vào nghiên cứu. Các thông tin cá nhân sẽ được đảm bảo bí mật. III. KẾT QUẢ Bảng 1. Đặc điểm nhóm đối tượng nghiên cứu Đặc điểm Bệnh Chứng p n % n % Giới Nam 239 85,4 214 80,1 0,06 Nữ 41 14,6 53 19,9 Tuổi (năm) 57 ± 11,6 56 ± 15,5 0,2 Nghiện rượu 23 8,2 9 3,3 Nhiễm HBV 171 61,1 36 13,5 Nhiễm HCV 12 4,3 4 1,5 Trong 547 đối tượng nghiên cứu có 280 bệnh nhân ung thư tế bào gan nguyên phát và 267 người đối chứng. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ tuổi trung bình và tỷ lệ giới tính của nhóm bệnh và nhóm chứng. Điều này đồng nghĩa với việc nhóm bệnh và nhóm chứng khá tương đồng nhau về tuổi, điều này phù hợp với một nghiên cứu bệnh chứng. Ngoài ra, kết quả cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ở nam cao hơn nữ rất nhiều, với 5,8 nam trên 1 nữ. Kết quả bảng 1 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân ung thư tế bào gan nguyên phát có HBV dương tính khá cao, 171/280 bệnh nhân, chiếm 61,1%. Đây là yếu tố được ghi nhận nhiều nhất trong số các yếu tố nguy cơ ung thư tế bào gan nguyên phát, được chúng tôi tìm kiếm. Trong khi đó, tỷ lệ nhiễm HCV và nghiện rượu thấp hơn nhiều. Lần lượt là 4,3% và 8,2%. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 108 (3) - 2017 19 Hình 1. Sản phẩm cắt đoạn gen mang SNP R72P bằng enzym BstUI. MK: Thang chuẩn 100-1000bp; (+) mẫu đã biết trước kiểu gen dị hợp R72P (GC) làm chứng dương. Kiểu gen đồng hợp tử P72P (CC) có một vạch, xuất hiện ở mẫu chứng B85 và mẫu bệnh KG75, KG76. Kiểu gen dị hợp tử R72P (GC) có ba vạch, xuất hiện tại mẫu chứng B31, B33, B36 và mẫu bệnh KG85, KG87. Kiểu gen đồng hợp tử R72R (GG) có hai vạch xuất hiện tại mẫu chứng B35 và mẫu bệnh KG86. Bảng 2. Kiểu gen của SNP R72P và khả năng mắc ung thư tế bào gan nguyên phát của người nhiễm HBV Đa hình kiểu gen HBV (+) HBV (-) OR* CI (95%) OR* CI (95%) TP53 R72P R72R 1,00 1,00 R72P 1,43 (0,51 – 4,01) 1,07 (0,95 – 3,31) P72P 3,23 (1,12 – 9,45) 1,39 (0,99 – 2,71) * OR được điều chỉnh từ các biến: tuổi, giới, HBV, HCV, nghiện rượu, theo mô hình hồi quy logistic đa biến. Kết quả tại bảng 2 cho thấy, kiểu gen của SNP R72P của gen TP53 có liên quan với nguy cơ mắc Ung thư tế bào gan nguyên phát của người nhiễm virus HBV. Đặc biệt là kiểu gen P72P làm tăng khả năng mắc bệnh của những người nhiễm HBV lên một cách rất có ý nghĩa. OR = 3,23 ; 95% ; CI (1,12 – 9,45). Khi so sánh giữa nhóm nhiễm HBV với nhóm không nhiễm HBV, thấy có sự khác biệt tỷ suất OR của các kiểu gen SNP R72P. Bảng 3. So sánh nguy cơ mắc ung thư tế bào gan nguyên phát của các kiểu gen SNP R72P và các yếu tố nguy cơ Yếu tố nguy cơ OR* CI (95%) Nam giới 1,35 (0,78 – 2,30) > 40 tuổi 2,26 (1,33 - 2,86) TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 108 (3) - 201720 HBV (+) 11,67 (7,48 - 18,23) HCV (+) 7,15 (2,10 - 24,3) Nghiện rượu 3,72 (1,50 – 9,21) Kiểu gen P72P 1,77 (1,03 - 3,14) * OR được điều chỉnh từ các biến: tuổi, giới, HBV, HCV, nghiện rượu, theo mô hình hồi quy logistic đa biến. Kết quả trên cho thấy tỷ xuất OR của nhiễm HBV là cao nhất, của nam so với nữ là thấp nhất và không có ý nghĩa thống kê do khoảng tin cậy chứa 1. Tỷ suất OR của kiểu gen P72P cao hơn so với kiểu gen R72P là 1,77 lần một cách có ý nghĩa. Đây là tỷ suất OR chung cho cả nhóm đối tượng nghiên cứu. IV. BÀN LUẬN Virus viêm gan B làm một yếu tố nguy cơ lớn nhất của ung thư tế bào gan nguyên phát trên phạm vi toàn thế giới. Việt Nam nằm trong vùng dịch tễ nhiễm HBV cao, nên số trường hợp ung thư tế bào gan nguyên phát có tiền sử nhiễm HBV cũng rất nhiều. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp có tiền sử viêm gan virus B nhưng không tiến triển thành ung thư tế bào gan. Hoặc cùng nhiễm HBV nhưng có người khởi phát ung thư gan rất trẻ nhưng cũng có những người khởi phát chậm hơn. Các kiểu gen của TP53 có vai trò gì trong hiện tượng này không. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn tiền sử nhiễm virus của các đối tượng nghiên cứu và kết hợp với hồi cứu bệnh án điều trị của bệnh nhân ung thư gan. Kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm HBV rất cao trong nhóm bệnh. Sử dụng phân tích đa biến để tìm mối tương quan giữa các kiểu gen của SNP R72P với tình trạng nhiễm HBV trong nguy cơ mắc ung thư tế bào gan nguyên phát, chúng tôi đã thu được những kết quả rất đáng chú ý. Khi phân tích liên quan của các kiểu gen với khả năng mắc ung thư cho 207 trường hợp nhiễm HBV (171 trường hợp thuộc nhóm ung thư tế bào gan nguyên phát và 36 trường hợp thuộc nhóm chứng) húng tôi thấy kiểu gen P72P của SNP R72P gen TP53 làm tăng khả năng mắc ung thư tế bào gan lên một cách có ý nghĩa. Chỉ số này cao hơn so với nhóm không nhiễm HBV và cao hơn so với khi phân tích cả nhóm 547 đối tượng nghiên cứu (bảng 3). Kết quả của nghiên cứu phù hợp với một số nghiên cứu đã công bố. Đặc biệt là các nghiên cứu tại khu vực Đông Á. [10 - 12]. Một nghiên cứu tại Hàn Quốc có kết quả, người nhiễm HBV mang kiểu gen P72P của SNP R72P gen TP53 tăng khả năng mắc ung thư tế bào gan nguyên phát cao hơn người mang kiểu gen nguyên thuỷ R/R [9]. Đặc biệt, một nghiên cứu tại Đài Loan năm 2005 của Zhu và cộng sự cho thấy, allen 72P của SNP TP53 R72P làm tăng nguy cơ mắc bệnh cho những người nhiễm HBV lên 11 lần [12]. Tuy các kết quả có khác nhau nhưng kết luận của các nghiên cứu trên và của chúng tôi, đều khẳng định kiểu gen P72P của SNP R72P làm tăng khả năng mắc bệnh cho những người nhiễm HBV. Điều này, cho phép nhóm nghiên cứu đưa ra nhận định về một sự tương tác giữa gen TP53 với virus viêm gan B. Sự tương tác này sẽ đi theo chiều hướng mắc bệnh nếu đó là các kiểu gen TP53 đột biến. Con đường tín hiệu p53, dòng tín hiệu nội bào mà ở đó TP53 là thành tố trung tâm, bị kích hoạt bởi các yếu tố nguy cơ tổn hại bộ gen trong đó có TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 108 (3) - 2017 21 virus. Các virus khi xâm nhập tế bào sẽ kích hoạt dòng tín hiệu sinh trưởng bất thường hay chính là các oncogen. Hay gặp nhất là p14ARF. Đây là một protein nội bào có khả năng ức chế MDM2. Một gen điều hoà trong con đường tín hiệu p53, có chức năng điều hoà ngược âm tính đối với TP53. Khi tín hiệu virus xâm nhập sẽ được p14ARF cảnh báo đến TP53 gián tiếp qua việc ức chế MDM2. Khi MDM2 bị ức chế sẽ giải phóng TP53 để thực hiện các chức năng sinh học của mình [1]. Kết quả là tế bào gan giữ được ổn định bộ gen trước các tác động từ virus. Tuy nhiên nếu TP53 bất thường, thì các tín hiệu virus xâm nhập truyền đến nhưng không được giải quyết hoặc giải quyết không triệt để. Hậu quả là virus vô tư làm tổn thương bộ gen của tế bào, để tạo ra các tế bào có đặc tính di truyền quái đản, hay các tế bào ung thư. Các kiểu gen đột biến của SNP R72P là một trong các bất thường đó. Việc thay thế nucleotid tại codon 72 làm ảnh hưởng đến khả năng kích hoạt chết tế bào theo chương trình cuả TP53 [6; 7]. Trong khi kích hoạt chết tế bào theo chương trình lại là một trong những cơ chế ức chế khối u quan trọng nhất của TP53. Trong nghiên cứu này. chúng tôi chỉ sử dụng thuật ngữ khả năng mắc bệnh để phiên giải tỷ suất OR chứ không phải nguy cơ mắc bệnh. Đặc tính của một nghiên cứu bệnh chứng chỉ dừng ở mô tả gián tiếp nguy cơ mắc bệnh qua tỷ suất OR. Một thiết kế nghiên cứu khác có thể sử dụng để xác định chính xác nguy cơ mắc ung thư tế bào gan của những kiểu gen, khi bị nhiễm HBV. Một nghiên cứu có thể đưa ra chỉ số nguy cơ RR (relative risk). Đó là các tiến cứu, được tiến hành trong nhiều năm, sau khi đã xác định chính xác nhiễm HBV mạn. Kết quả quan sát được trong thời gian dài sẽ ghi nhận số bệnh nhân tiến triển thành ung thư tế bào gan nguyên phát. Từ tỷ lệ phát bệnh thu được, sẽ tính toán chính xác chỉ số nguy cơ (RR) mắc ung thư tế bào gan cho từng kiểu gen. Hơn nữa, độ tuổi trung bình của các bệnh nhân ung thư còn cho biết tuổi khởi phát bệnh của các kiểu gen gây ra cho các đối tượng nhiễm HBV. Đây không những là hạn chế lớn nhất của đề tài nghiên cứu này mà cũng là hạn chế chung của các nghiên cứu bệnh chứng. Tuy nhiên mô hình tiến cứu, đòi hỏi phải tiến hành trên khoảng thời gian kéo dài trong nhiều năm và phải quản lý được các đối tượng tham gia nghiên cứu trong suốt quá trình điều trị. Tại Việt Nam, HBV vẫn là nguyên nhân lớn nhất của ung thư tế bào gan. Việc điều trị và quản lý bệnh nhân viêm gan virus B đang ngày được quan tâm. Một nghiên cứu tiến cứu trên những đối tượng này là có tính khả thi. V. KẾT LUẬN Đa hình nucleotid đơn R72P của gen TP53 liên quan đến khả năng mắc ung thư tế bào gan nguyên phát ở người nhiễm HBV. Kiểu gen P72P làm tăng khả năng mắc bệnh lên hơn ba lần. Lời cảm ơn Đề tài được thực hiện với sự hỗ trợ kinh phí của đề tài nhánh cấp nhà nước “Đánh giá sự phân bố kiểu gen của một số gen liên quan đến ung thư phổi và ung thư gan” thuộc đề tài nhiệm vụ Quỹ gen “Đánh giá đặc điểm di truyền người Việt Nam”. Nhóm nghiên cứu trân trọng cảm ơn khoa Nội tiêu hoá- Bệnh viện Bạch Mai, Trung tâm Ung bướu Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hoá, Trung tâm nghiên cứu Gen- Protein, Trường Đại học Y Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vogelstein, B., Lane, D. & Levine, A. J (2000). Surfing the p53 network. Nature. 408, 307 – 310. 2. Vousden KH. & Lane DP (2007). P53 in TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 108 (3) - 201722 health and disease. Nature Rev. Mol. Cell Biol. 275 – 283. 3. Prives C. & Hall PA (1999). The p53 pathway. J. Pathol. 187, 112 – 126. 4. Bode AM. & Dong Z (2004). Post- translational modification of p53 in tumorigenesis. Nature Rev cancer. 4, 793 - 805. 5. Olivier M., et al (2008). Recent advances in p53 research: an interdisciplinary perspective. Cancer Gene Ther. 125, 47 - 61. 6. Whibley C., Pharoah PD., Hollstein M (2009). P53 polymorphisms: cancer implications. Nat Rev Cancer. 9, 95 - 107. 7. Dumont, P., Leu, J. I., Della Pietra, A. C. 3rd, George, D. L. & Murphy, M (2003). The codon 72 polymorphic variants of p53 have markedly different apoptotic potential. Nature Genet. 33, 357 – 365. 8. Chan,H.L, .et al (2006). Hepatocellular carcinoma and hepatitis B virus. Semin. Liver Dis. 26, 153 – 161. 9. Han,K.H, .et al (2005). How to predict HCC development in patients with chronic B viral liver disease?. Intervirology. 48, 23 – 28. 10. Kim,Y.J, .et al (2005). Single nucleotide polymorphisms associated with hepatocellular carcinoma with chronic hepatitis B virus infection. Intervir-ology. 48, 10 – 15. 11. Yoon YJ, Chang HY, Ahn SH, Kim JK, Park YK, Kang DR, .et al (2008). MDM2 and p53 polymorphisms are associated with the development of hepatocellular carcinoma in patients with chronic hepatitis B virus infection. Carcinogenesis. 29, 1192 - 1196. 12. Zhu ZZ, Cong WM, Liu SF, Xian ZH, Wu WQ, et al. (2005). A p53 polymorphism modifies the risk of hepatocellular carcinoma among non-carriers but not carriers of chronic hepatitis B virus infection. Cancer Lett. 229, 77 – 83. Summary THE TP53 R72P POLYMORPHISM AND HEPATOCELLULAR CARCINOMA RISK OF HBV INFECTED PEOPLE Single nucleotide polymorphism (SNP) R72P located in exon 4 of TP53 is involved in cancer development and tumor onset: including hepatocellular carcinoma (HCC). For the purpose of finding correlations between the genotypes of SNP R72P and HBV in hepatic tumor formation, we evaluated the correlation between SNP R72P and the risk of HCC in people who are HBV infected. The study population is 280 HCC patients, with 171 HBV infected cases. The control has 267 peoples with 36 HBV infected cases. The restriction fragment length polymorphism (RFLP) technique was used for genotyping R72P SNP, then we detected frequency and risk of genotypes. The outcome show evidence that P72P genotype increases the risk of HCC in HBV infected people. OR = 3,23 ; 95% ; CI (1,12 – 9,45). Keywords: TP53 R72P, HBV, hepatocellular carcinoma

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfda_hinh_nucleotid_don_r72p_tren_gen_tp53_va_danh_gia_nguy_co.pdf
Tài liệu liên quan