Trên chó già, tăng sản tuyến bã nhờn rất phổ
biến khi chiếm tới hơn 53,5% tổn thương thường
gặp ở tuyến bã nhờn và có thể gây nhầm lẫn với
u tuyến bã nhờn lành tính (Scott và Anderson,
1990). Tăng sản tuyến bã nhờn thường đặc
trưng bởi các thuỳ tăng sản bao quanh một ống
tuyến lớn, tập trung trên bề mặt hoặc phần hạ bì
của da mà không tăng sản ở phần dưới của nang
lông (Goldschmidt và Hendrick, 2002). Tuy
nhiên, tăng sản tuyến bã có thể là khởi phát cho
u tuyến bã nhờn lành tính và u biểu mô tuyến bã
nhờn ác tính (Scott và Anderson, 1990).
Cách xử lý các khối u tuyến bã chủ yếu là
phẫu thuật cắt bỏ (Vail và Withrow, 2007). Tuy
nhiên, khối u xuất hiện cùng lúc tại nhiều vị trí
trên da, xâm lấn tại chỗ cũng như tái phát rất
thường bắt gặp trong các khối u tuyến bã ác tính
không được phẫu thuật hoàn chỉnh, đặc biệt là
khối u biểu mô tuyến bã nhờn ác tính (Scott và
Anderson, 1990). Do đó, kiểm tra vi thể phần rìa
khối u tuyến bã khi phẫu thuật cắt bỏ đặc biệt
cần lưu ý để tránh sự xuất hiện trở lại của khối u.
Khối u rất ít di căn nhưng nếu di căn, hạch dưới
hàm là vị trí được nhiều báo cáo nhắc tới do khối
u thường xuất hiện ở vùng đầu (Goldschmidt và
Hendrick, 2002; Scott và Anderson, 1990). Một
trường hợp ác tính nghiêm trọng của u biểu mô
tuyến bã nhờn ác tính trên chó với hiện tượng
di căn tới các cơ quan thuộc hệ thần kinh trung
ương và phổi đã được công bố với khả năng
phẫu thuật chưa hoàn chỉnh được nhắc đến
(Bettini và cs, 2009)
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm bệnh lý khối u tuyến bã nhờn trên da của cho, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
71
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
ÑAËC ÑIEÅM BEÄNH LYÙ KHOÁI U TUYEÁN BAÕ NHÔØN TREÂN DA CUÛA CHOÙ
Nguyễn Vũ Sơn1, Nguyễn Hữu Nam1, Bùi Trần Anh Đào1, Nguyễn Thị Hương Giang1,
Lê Thị Dung2, Bùi Thị Tố Nga1, Trịnh Thương Thương1, Đào Duy Tùng3
TÓM TẮT
Khối u tuyến bã nhờn là một dạng bệnh lý thường gặp trên da của chó. Nghiên cứu được tiến hành
trên 5 con chó từ 7-14 năm tuổi được chẩn đoán mắc khối u tuyến bã nhờn trên da tại một số phòng
khám thú y ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu cho thấy tại nhiều vị trí trên
da, các khối u tuyến bã nhờn xuất hiện với kích thước từ 0,5 - 2,5 cm, có hiện tượng sưng, rụng lông,
chảy máu. Kết quả kiểm tra mô bệnh học của các khối u tuyến bã nhờn cho thấy u tuyến bã nhờn
thường gặp là dạng lành tính và u biểu mô tuyến bã dạng ác tính. Tế bào nhờn trưởng thành có tế bào
chất rộng, nhạt màu ái toan, tăng sinh chiếm ưu thế trong u tuyến bã nhờn lành tính. Trong u biểu mô
tuyến bã nhờn, các tế bào dạng đáy nhỏ, bắt màu ái kiềm chiếm ưu thế so với các tế bào nhờn và ống
tuyến. Hiện tượng gián phân (Mitosis) thường xuất hiện trong khối u biểu mô tuyến bã ác tính. Kiểm
tra vi thể phần rìa khối u tuyến bã cần được tiến hành để có thể đánh giá sự hoàn chỉnh trong phẫu
thuật loại bỏ khối u cũng như hạn chế sự xuất hiện trở lại của khối u. Kết quả của nghiên cứu cung
cấp các thông tin về đặc điểm lâm sàng, tổn thương đại thể và tổn thương vi thể của khối u tuyến bã
nhờn của chó để phục vụ công tác chẩn đoán và điều trị.
Từ khoá: Chó, mô bệnh học, tuyến bã nhờn, u tuyến bã nhờn.
Pathological features of sebaceous gland tumors in dogs in Ha Noi
and Ho Chi Minh City
Nguyen Vu Son, Nguyen Huu Nam, Bui Tran Anh Dao, Nguyen Thi Huong Giang,
Le Thi Dung, Bui Thi To Nga, Trinh Thuong Thuong, Dao Duy Tung
SUMMARY
Sebaceous gland tumors commonly occurre in the skin of dogs. In the present study, these
neoplasms were found in the skin of five dogs at 7 to 14 years old, in some veterinary clinics in Ha
Noi and Ho Chi Minh City. The studied result showed that, the sebaceous gland tumors occurred at
many sites on the dog skin with size ranging from 0.5 to 2.5 cm, swollen, hairless and hemorrhage.
The result of examining histopathology of the sebaceous gland tumors indicated that the common
types of canine sebaceous gland tumors was benign sebaceous adenoma and malignant
sebaceous epithelioma. A preponderance of abundant pale eosinophilic mature sebocytes with
fewer basaloid cells and ducts were observed in sebaceous adenoma, whereas a preponderance
of small basophilic basaloid cells with fewer sebocytes was seen in sebaceous epithelioma. The
mitotic phenomena was frequently found in malignant epithelioma type. Importantly, histological
examination of the margins of sebaceous tumor need to be done so as to evaluate the completion
in surgery, removing the tumors as well as limiting the reoccurrence of the tumors. The results of
this study provide information on the clinical features, gross and histological lesions of the canine
sebaceous gland tumors so as to serve for diagnosis and treatment.
Keywords: Dog, histopathology, sebaceous gland, sebaceous gland tumors.
1. Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
2. Khoa Nông nghiệp và Khoa học sự sống, Đại học Tokyo, Nhật Bản
3. Phòng khám Thú y Samyang, Tp. Hồ Chí Minh
72
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo tổng kết của Vail và cs, tỷ lệ mắc khối
u có nguồn gốc từ da so với các vị trí khác trên
chó và mèo rất cao, từ 25.5% tới 43% (Vail và
Withrow, 2007). Trong đó, u tuyến bã nhờn phổ
biến thứ ba trong các loại u da trên chó, chiếm
tỷ lệ từ 21-35% các loại u biểu mô trên da (Scott
và Anderson,1990; Vail và Withrow, 2007). Ở
người cũng như các loài động vật khác, tuyến
bã nhờn là tuyến toàn tiết hay tuyến toàn tiết
huỷ (holocrine gland) phân bố rộng trên toàn
bộ bề mặt da có lông và chiếm phần lớn sự
trao đổi hormone trên da (Chen và Zouboulis,
2009). Dựa vào đặc điểm bệnh lý vi thể, khối
u tuyến bã nhờn được chia thành 4 dạng chính
là: u tuyến bã lành tính (adenoma), u tuyến bã
dạng ống (ductal adenoma), u biểu mô tuyến bã
nhờn ác tính (epithelioma) và u tuyến bã nhờn
ác tính (adenocarcinoma).
Đối với thú cưng ở Việt Nam, bệnh do
khối u đã bắt đầu được quan tâm với một số
nghiên cứu về u tuyến vú, u dịch hoàn, trên
chó, mèo được thực hiện và công bố (Nguyễn
Vũ Sơn và cs., 2017, 2018). Tuy vậy, các khối
u trên da nói chung và khối u tuyến bã nhờn
trên chó cảnh nói riêng chưa có thông tin cũng
như kết quả nghiên cứu được công bố. Do đó,
nghiên cứu được thực hiện với mục đích cung
cấp thêm dữ liệu về triệu chứng lâm sàng, tổn
thương bệnh lý của khối u trong phân loại,
đánh giá về độ lành tính, ác tính, xu hướng phát
triển của u tuyến bã nhờn trên da của chó nhằm
hỗ trợ chẩn đoán, xử lý khối u chính xác và có
hiệu quả.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu
Mẫu bệnh phẩm là các khối u da của 5 chó
được thu thập từ một số phòng khám thú y tại
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng
12/2016 tới tháng 12/2017.
Các mẫu da lành từ các vị trí vùng đầu, cổ,
lưng và bụng được thu thập từ hai chó được mổ
khám để quan sát cấu trúc mô học bình thường
của tuyến bã nhờn trên da chó.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp khám lâm sàng
Các thông tin về bệnh sử của chó có khối u
da như giống, giới tính, độ tuổi được thu thập
từ chủ nuôi. Các chó được khám lâm sàng để
xác định vị trí, số lượng cũng như kích thước
của khối u.
2.2.2. Quan sát tổn thương đại thể
Vị trí, hình dạng, số lượng và kích thước
của các khối u được theo dõi, đánh giá và tổng
hợp trước khi phẫu thuật cắt bỏ khối u. Khối
u được cắt kiểm tra bề mặt trước khi cố định
trong dung dịch bảo quản mẫu bệnh phẩm.
2.2.3. Phương pháp làm tiêu bản vi thể
Các khối u tuyến bã nhờn trên da được cố
định trong dung dịch formol trung tính 10%
trước khi được pha mẫu thành các khối có kích
thước phù hợp. Với chó có đồng thời nhiều
khối u, mẫu được lấy từ tất cả các khối u để
tiến hành kiểm tra đánh giá. Sau đó, các mẫu
khối u được làm tiêu bản vi thể theo quy trình
tẩm đúc bằng paraffin, cắt tiêu bản (độ dày
4µm), nhuộm bằng Hematoxylin – Eosin (HE)
và các tổn thương vi thể được quan sát dưới
kính hiển vi quang học (Prophet và A.F.I.O
Pathology, 1992).
2.2.4. Phân loại khối u tuyến bã nhờn trên da
ở chó
Kết quả chẩn đoán vi thể tiêu bản nhuộm HE
của từng khối u tuyến bã nhờn sẽ được đánh giá
độc lập bởi hai chuyên gia bệnh lý để đưa ra
kết quả chẩn đoán cuối cùng. Việc phân loại
cũng như đánh giá các khối u tuyến bã nhờn
trong nghiên cứu được sử dụng theo Hệ thống
phân loại u biểu mô và hắc tố biểu bì trên da
chó mèo của WHO (Goldschmidt và cs, 1998).
73
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Triệu chứng lâm sàng của chó có khối u
tuyến bã nhờn
Quá trình theo dõi triệu chứng lâm sàng
của các chó có khối u tuyến bã nhờn bắt đầu
từ khi chó được mang đến khám tại một số
phòng khám thú y tại khu vực Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh. Cùng với thông tin
được cung cấp từ chủ nuôi, triệu chứng lâm
sàng của chó có khối u tuyến bã nhờn được
tổng hợp ở bảng 1.
Bảng 1. Thông tin và triệu chứng lâm sàng của chó có khối u tuyến bã nhờn trên da
TT Giống chó Tuổi Giới tính Triệu chứng lâm sàng
Số lượng
khối u
1 Shih Tzu 14 tuổi Đực Xuất hiện nhiều khối u ở vùng da đầu, cổ, lưng, tứ chi gây rụng lông 15
2 Chó lai ND Cái Xuất hiện khối u kích thước 2,5cm ở vùng ngực phải, rụng lông 1
3 Corgi 7 tuổi Đực Xuất hiện nhiều khối u ở vùng đầu, cổ và chân sau, kích thước 0,5cm – 1cm 6
4 Miniature Dachshund 14 tuổi Cái
Khối u xuất hiện trong ống tai một thời gian dài
trước đó gây ngứa, chảy máu 1
5 Cocker Spaniel 12 tuổi Đực
Khối u ban đầu phát hiện ở môi, sau đó nhiều
khối u ở khắp bề mặt cơ thể như đỉnh đầu, ngực,
cổ, tứ chi
14
ND (no data): không có thông tin
Kết quả ở bảng 1 cho thấy các chó có khối
u tuyến bã nhờn nằm trong độ tuổi từ 7 đến
14 năm tuổi và gặp trên nhiều giống chó khác
nhau như Shih Tzu, Miniature Dachshund,
Spaniel Cocker, Kết quả này khá phù hợp
với thống kê trước đó khi độ tuổi thường gặp
u tuyến bã nhờn là từ 7 tới 13 năm tuổi của
nhiều giống chó (Vail và Withrow, 2007). Số
lượng các khối u được quan sát thấy trên các
chó có thể từ một hoặc rất nhiều khối u đồng
thời (Hình 1a, b). Ngoài ra, các khối u tuyến
bã thường phát triển chậm trong thời gian
dài và dần dần xuất hiện tại nhiều vị trí trên
da của chó. Bề mặt một số khối u có hiện
tượng rụng lông, chảy máu, gây ngứa (hình
1a). Vùng đầu và vùng cổ là vị trí có tần suất
xuất hiện cao ở các chó trong nghiên cứu này
(hình 1b) cũng như các công bố khác trước
đây (Goldschmidt và Hendrick, 2002). Tuy
nhiên, tất cả các vùng da đều có thể xuất hiện
khối u tuyến bã.
3.2. Tổn thương bệnh lý đại thể của khối u
tuyến bã nhờn
Các khối u tuyến bã nhờn thường có dạng
cầu hoặc dạng vòm lồi lên khỏi bề mặt da,
kích thước từ 0,5cm – 2,5cm. Bề mặt có hiện
tượng mở thành vết thương hở. Mặt cắt của
khối u tuyến bã có màu vàng nhạt hoặc trắng
ở thể đặc hoặc có nang trống ở trung tâm
khối u (Hình 1c). Không có sự khác biệt rõ
ràng giữa khối u tuyến bã nhờn lành và ác
tính qua đánh giá tổn thương đại thể. Do vậy,
để đánh giá là u lành hay ác tính, cần thực
hiện chẩn đoán vi thể.
74
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
3.3. Mô học của tuyến bã nhờn trên da của
chó
Từ các mẫu da bình thường thu thập từ
nhiều vị trí trên cơ thể, tuyến bã nhờn của chó
được kiểm tra hình thái mô học. Tuyến bã nhờn
(Sebaceous glands) phân bố khắp các phần da
có lông của tất cả các động vật có vú, ngoại
trừ cá voi và cá heo (Hill, 2013). Đây là tuyến
ngoại tiết trên da tiết ra chất béo trung tính,
phospholipid và cholesterol, gọi chung là chất
bã nhờn (sebum).
Giống như các động vật khác, tuyến bã
nhờn trên chó luôn nằm trong tam giác được
giới hạn bởi mặt bì, chân lông và cơ dựng
lông (Hình 2a). Ở các gia súc, tuyến này là
tuyến ống đơn. Riêng ngựa, mèo và chó,
tuyến có phần túi và phần nhánh của ống đổ
vào cổ nang lông (Hình 2b). Túi tuyến được
bao bọc xung quanh bởi một lớp sinh sản hay
lớp màng đáy do tế bào dạng đáy (basaloid
cells) dẹt tạo nên có khả năng sinh trưởng
nhanh và biệt hoá thành tế bào sừng hoá hoặc
tế bào nhờn (Hình 2c). Các tế bào nhờn tổng
hợp lipid có kích thước to nhỏ không đều
nhau với nhân bắt màu hematoxylin đậm.
Tế bào chất sáng màu do chứa nhiều hạt mỡ
tròn kích thước đa dạng (Hình 2c, d). Trong
quá trình trưởng thành, các tế bào dần xuất
hiện những giọt mỡ rồi di chuyển từ thành túi
hay thành ống vào trong trung tâm túi tuyến.
Các tế bào nhờn trưởng thành sau đó bị thoái
hoá hoàn toàn trở thành một khối tròn chứa
đầy hỗn hợp mỡ và protein trước khi vỡ ra,
giải phóng bã nhờn vào ống bài tiết rồi đẩy
ra bề mặt da (Nancy A và Monteiro-Riviere,
2006). Ống bài tiết của tuyến thường trống
rỗng, kích thước ngắn, được cấu tạo bởi lớp
biểu mô lát tầng và thường đổ thẳng vào
nang lông (hình 2c, d).
Chất bã nhờn này kết hợp với dịch tiết
khác để tạo thành lớp phủ trên da như một
hàng rào vật lý để duy trì độ ẩm giữ da mềm
và mịn; giúp da đàn hồi hơn, giảm nhẹ sự
ma sát trên bề mặt da, cũng như hàng rào
hoá học hạn chế sự phát triển của vi khuẩn
và nấm (Nancy A và Monteiro-Riviere,
2006). Ngoài ra, chất bã nhờn này cũng làm
cho lông bóng loáng, hay hoạt động như là
một pheromone hấp dẫn giới tính ở động vật
(Hill, 2013). Ngoài tuyến bã nhờn trên da đổ
trực tiếp vào chân lông, một số tuyến nhờn
khác có đường bài tiết trực tiếp ra mặt da,
không phụ thuộc vào nang lông như tuyến
Meibom ở mi mắt.
Hình 1. a. Nhiều khối u tuyến bã nhờn xuất hiện trên da lưng của chó (Đầu mũi tên trắng),
b. Đầu là vị trí khối u tuyến bã nhờn thường xuất hiện (Đầu mũi tên đen), c. Mặt cắt của khối
u tuyến bã nhờn trên da có màu trắng tới vàng nhạt.
75
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
3.3. Tổn thương bệnh lý vi thể của khối u
tuyến bã nhờn
Qua quan sát tổn thương vi thể cho thấy các
khối u tuyến bã nhờn phát triển đa dạng với
ưu thế phát triển và độ biệt hoá của hai loại tế
bào thuộc tuyến bã. Các khối u tuyến bã nhờn
trong nghiên cứu thường có xu hướng phát triển
hướng lồi lên trên bề mặt da (exophytic) với 4/5
chó (Hình 3a). Chỉ có khối u của một chó là phát
triển hướng sâu xuống vùng hạ bì (endophytic)
(Hình 3b). Do có xu hướng lồi lên bề mặt da
nên các khối u tuyến bã thường dễ bị viêm loét
hoặc ảnh hưởng tới chức năng của các cơ quan
lân cận cũng như thẩm mỹ của chó (Sabattini và
cs, 2015).
U tuyến bã nhờn lành tính (Sebaceous
adenoma)
Ba trong năm chó trong nghiên cứu được
chẩn đoán mắc u tuyến bã nhờn lành tính, đặc
trưng bởi sự chiếm ưu thế của các tế bào nhờn
(sebocyte) với một lượng nhỏ tế bào dạng đáy
và các ống tuyến (Goldschmidt và cs, 1998).
Khối u nằm từ phần thượng bì tới phần hạ bì và
sâu xuống dưới các nang lông (Hình 4a). Khối
u thay thế các tổ chức lành bằng các thuỳ riêng
rẽ, có kích thước đa dạng, xen kẽ collagen tăng
sinh (Hình 4a, b). Đây là các điểm khác biệt
quan trọng giúp phân biệt với hiện tượng tăng
sản tuyến bã nhờn khi các thuỳ tân sinh sắp xếp
quanh một ống tuyến dãn rộng (Goldschmidt
và cs, 1998). Ở trung tâm khối u, các tế bào
Hình 2. Mô học tuyến bã nhờn trên da của chó
Lát cắt dọc (a-b) a. Tuyến bã nhờn thường nằm trong tam giác được giới hạn bởi mặt bì, lông (hoa
thị) và cơ dựng lông (đầu mũi tên) (HE 4X), b. Tuyến có dạng túi và đổ vào cổ nang lông qua ống
bài tiết (đường đứt nét); cơ dựng lông (đầu mũi tên) (HE 10X). Lát cắt ngang (c-d) Tế bào chất của
tế bào bã nhờn sáng màu do chứa nhiều hạt mỡ tròn kích thước đa dạng. Ống bài tiết (đầu mũi tên)
được cấu tạo bởi lớp biểu mô lát tầng đơn bắt màu ái kiềm nối trực tiếp với nang lông đơn (c) và nang
lông hỗn hợp (d) (HE 10X).
76
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
nhờn luôn luôn chiếm đa số với tỷ lệ cao (Hình
4a, b). Các tế bào nhờn trưởng thành có tế bào
chất rộng, nhạt màu eosin với nhiều hốc không
bào chứa mỡ bên trong. Nhân tế bào nhỏ, nằm
ở trung tâm với hạt nhân tăng sắc. Các tế bào
nền ở xung quanh các thuỳ có độ dày từ một tới
Hình 4. U tuyến bã nhờn lành tính trên chó (Sebaceous adenoma) (a-d)
a. Khối u nằm từ phần thượng bì tới phần dưới của các nang lông với tăng sinh collagen (đầu mũi
tên) (HE 4X), b. Các tế bào nhờn sắp xếp chặt chẽ, kín đặc, được phân thành các thùy nhỏ, xen kẽ
collagen tăng sinh (đầu mũi tên) (HE 10X), c. Tế bào nhờn trưởng thành có nhân nhỏ, thường sáng
màu do tế bào chất rộng tích luỹ lipid bên trong. Các thuỳ được bao quanh bởi một hay vài lớp tế bào
nền (đầu mũi tên) (HE 20X), d. Tương bào và lympho bào thường thâm nhiễm trong khối u (HE 20X).
Hình 3. Sự sinh trưởng của khối u tuyến bã nhờn trên da của chó (a-b)
a. Khối u tuyến bã nhờn hình thành nang trống (hoa thị), thường có xu hướng lồi lên trên bề mặt da
(hướng mũi tên), b. Khối u tuyến bã nhờn phát triển hướng sâu xuống vùng hạ bì (hướng mũi tên).
77
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
vài lớp (Hình 4c). Với các ống bài tiết lớn hoặc
nhỏ thường được lót bởi lớp biểu mô vảy uốn
nếp bắt màu ái toan nhẹ. Phân bào gián phân
(Mitosis) rất hiếm gặp trong khối u tuyến bã
dạng lành tính này. Thâm nhiễm tế bào viêm với
thành phần chủ yếu là lympho bào và tương bào
(plasma cell) xuất hiện trong khối u (Hình 4d).
U biểu mô tuyến bã nhờn ác tính (Sebaceous
Epithelioma)
Hai chó trong nghiên cứu được chẩn đoán
mắc u biểu mô tuyến bã nhờn ác tính. Đây là
loại u thường có độ ác tính ở mức độ thấp với
đặc trưng là sự chiếm ưu thế của tế bào dạng đáy
(basaloid cells) trong khối u, các tế bào nhờn
và ống tuyến ít có mặt hơn (Goldschmidt và cs,
1998). Khối u dưới da có ranh giới không rõ
ràng, hình thành các vết mở bề mặt da (Hình 5a).
Tăng sinh tế bào xơ và các ổ dịch bã nhờn khá
phổ biến trong khối u (Hình 5a, b). Các tế bào
tân sinh kích thước nhỏ bắt màu ái toan. Nhân tế
bào không đồng nhất, có từ 1 – 3 hạt nhân. Mật
độ xuất hiện của mitosis trong khối u thường
cao (5-10 mitosis/vi trường phóng đại) (Hình
5c). Các ống tuyến có tế bào chất vừa phải bắt
màu ái toan với nhân hình ovan nằm lác đác bên
trong khối u cùng các tế bào nhờn riêng lẻ biệt
hoá (Hình 5c, d). Các tế bào hắc tố (melanocyte)
xuất hiện xen kẽ giữa các tế bào tân sinh. Sự tích
luỹ melanin với các hạt melanin rải rác ở tế bào
chất của tế bào dạng đáy, hay trong các đại thực
bào thâm nhiễm (hình 5d).
Ngoài ra, theo phân loại của WHO, các khối
u tuyến bã còn có thể là u tuyến bã dạng ống
(ductal adenoma) và u tuyến bã nhờn ác tính
(carcinoma) (Goldschmidt và cs, 1998). Hai
loại u này ít gặp hơn, và không gặp trên các chó
trong nghiên cứu này. Với u tuyến bã dạng ống,
Hình 5. U biểu mô tuyến bã nhờn trên chó (Sebaceous epithelioma) (a-d)
a. Khối u không có ranh giới rõ ràng và thường hình thành các vết mở bề mặt da (hoa thị) (HE 4X), b.
Trung tâm khối u tăng sinh collagen và hình thành các ổ dịch bã nhờn lớn (hoa thị) nằm rải rác (HE
4X), c. Các tế bào tân sinh nhỏ, ái toan dày đặc với mitosis mật độ cao (đầu mũi tên đen). Các tế
bào nhờn riêng lẻ (đầu mũi tên vàng) cùng ống dẫn (hoa thị) rải rác trong khối u (HE 20X), d. Các hạt
melanin tích luỹ trong tế bào tân sinh cùng tế bào hắc tố (đầu mũi tên vàng) trong khối u (HE 20X).
78
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
đây là khối u lành tính với đặc trưng là ưu thế
tăng sinh vượt trội của ống tuyến, các tế bào
nhờn và tế bào dạng đáy có số lượng ít hơn. Các
ống tuyến có đường kính đa dạng chứa keratin.
Dạng ác tính của u tuyến bã có ranh giới không
rõ với mô bào xung quanh, thường rất ít gặp
trên chó, mèo và hiếm khi xuất hiện trên các
loài động vật khác (Goldschmidt và Hendrick,
2002). Ở thể ác tính, các tế bào nhờn biệt hoá
hoàn toàn với hình thái dị biệt, các hạt mỡ xuất
hiện bên trong tế bào chất với mật độ đa dạng.
Các tế bào ác tính có nhân lớn, đa hình và hạt
nhân nổi bật (Goldschmidt và cs, 1998). Chỉ số
mitosis cao và hoại tử tế bào cũng có thể bắt gặp
ở khối u ác tính. Khối u tuyến bã nhờn trên chó
nói chung và dạng ác tính nói riêng thường chia
làm nhiều thuỳ. Đây là đặc điểm giúp các bác sỹ
thú y khi chẩn đoán vi thể phân biệt với khối u
mỡ ác tính dưới da có hình thái tế bào ung thư
có thể gây nhầm lẫn.
Trên chó già, tăng sản tuyến bã nhờn rất phổ
biến khi chiếm tới hơn 53,5% tổn thương thường
gặp ở tuyến bã nhờn và có thể gây nhầm lẫn với
u tuyến bã nhờn lành tính (Scott và Anderson,
1990). Tăng sản tuyến bã nhờn thường đặc
trưng bởi các thuỳ tăng sản bao quanh một ống
tuyến lớn, tập trung trên bề mặt hoặc phần hạ bì
của da mà không tăng sản ở phần dưới của nang
lông (Goldschmidt và Hendrick, 2002). Tuy
nhiên, tăng sản tuyến bã có thể là khởi phát cho
u tuyến bã nhờn lành tính và u biểu mô tuyến bã
nhờn ác tính (Scott và Anderson, 1990).
Cách xử lý các khối u tuyến bã chủ yếu là
phẫu thuật cắt bỏ (Vail và Withrow, 2007). Tuy
nhiên, khối u xuất hiện cùng lúc tại nhiều vị trí
trên da, xâm lấn tại chỗ cũng như tái phát rất
thường bắt gặp trong các khối u tuyến bã ác tính
không được phẫu thuật hoàn chỉnh, đặc biệt là
khối u biểu mô tuyến bã nhờn ác tính (Scott và
Anderson, 1990). Do đó, kiểm tra vi thể phần rìa
khối u tuyến bã khi phẫu thuật cắt bỏ đặc biệt
cần lưu ý để tránh sự xuất hiện trở lại của khối u.
Khối u rất ít di căn nhưng nếu di căn, hạch dưới
hàm là vị trí được nhiều báo cáo nhắc tới do khối
u thường xuất hiện ở vùng đầu (Goldschmidt và
Hendrick, 2002; Scott và Anderson, 1990). Một
trường hợp ác tính nghiêm trọng của u biểu mô
tuyến bã nhờn ác tính trên chó với hiện tượng
di căn tới các cơ quan thuộc hệ thần kinh trung
ương và phổi đã được công bố với khả năng
phẫu thuật chưa hoàn chỉnh được nhắc đến
(Bettini và cs, 2009).
IV. KẾT LUẬN
Các khối u tuyến bã nhờn thường gặp trên
chó ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trong
nghiên cứu đã được chẩn đoán và phân loại dựa
vào triệu chứng lâm sàng, tổn thương đại thể
và tổn thương vi thể. Khối u xảy ra trên nhiều
giống chó không phân biệt giới tính, trong độ
tuổi từ 7 – 14 tuổi. Phân loại khối u và mức độ
ác tính dựa vào loại tế bào chiếm ưu thế, hình
thái tế bào cùng mật độ mitosis trong khối u.
Các khối u trong nghiên cứu gồm u tuyến bã
nhờn lành tính với tế bào nhờn chiếm ưu thế và
u biểu mô tuyến bã nhờn ác tính với tế bào dạng
đáy chiếm ưu thế. Rìa khối u cần được lưu ý khi
kiểm tra trong chẩn đoán khối u tuyến bã nhờn
trên chó.
Lời cảm ơn: Nhóm tác giả xin chân thành
cảm ơn các phòng khám thú y tại Hà Nội, Thành
phố Hồ Chí Minh và nhóm sinh viên thực tập
tại Bộ môn Bệnh lý, khoa Thú y, Học viện Nông
nghiệp Việt Nam trong hỗ trợ công tác gửi và
bảo quản mẫu cho nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bettini G, Morini M, Mandrioli L, et al.
(2009) CNS and lung metastasis of sebaceous
epithelioma in a dog. Vet Dermatol.
20(4):289-294.
2. Chen WC, Zouboulis CC. (2009)
Hormones and the pilosebaceous unit.
Dermatoendocrinol. 1(2):81-86.
3. Goldschmidt MH, Dunstan RW, Stannard
AA, et al. (1998) Histological classification
of epithelial and melanocytic tumors of
the skin of domestic animals, 2nd, vol. III.
79
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
Armed Forces Institute of Pathology and
World Health Organization, Washington,
DC.
4. Goldschmidt MH, Hendrick MJ. (2002)
Tumors of the skin and soft tissues. In:
Meuten DJ, ed. Tumors in Domestic Animals,
4th ed. Ames, IA: Iowa State Press. 45-117.
5. Hill PB. (2013) Structure and function of
the skin. In: William Miller Jr, Craig Griffin,
Karen Campbell eds. Muller & Kirk’s Small
Animal Dermatology. 7th ed. St Louis, MO,
USA: Saunders-Elsevier. 1-56.
6. Nancy A, Monteiro-Riviere. (2006)
Integument. In: Eurell JA, Frappier BL. ed.
Dellmann’s Textbook of Veterinary Histology.
Ames, Iowa: Blackwell Publishing. 320-350.
7. Nguyễn Vũ Sơn, Nguyễn Hữu Nam, Bùi
Trần Anh Đào, Nguyễn Thị Lan, Bùi Thị Tố
Nga, Đào Duy Tùng, Nguyễn Thị Hương
Giang. (2017). Nghiên cứu đặc điểm bệnh lý
một số loại u tuyến vú thường gặp trên chó
tại Hà Nội. Tạp chí Khoa học kỹ thuật thú y.
Tập XXIV (8):68-76.
8. Nguyễn Vũ Sơn, Nguyễn Hữu Nam, Nguyễn
Thị Lan, Bùi Trần Anh Đào, Bùi Thị Tố Nga,
Nguyễn Thị Hương Giang (2018). Đặc điểm
bệnh lý của chó mắc khối u tế bào Leydig
dịch hoàn (Interstitial cell tumor) ở khu vực
Hà Nội. Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt
Nam. 16(4):323-331.
9. Prophet EB. and A.F.I.O. Pathology. (1992).
Laboratory methods in histotechnology,
American Registry of Pathology.
10. Sabattini S, Bassi P, Bettini G. (2015)
Histopathological findings and proliferative
activity of canine sebaceous gland tumours
with a predominant reserve cell population.
J Comp Pathol. 152(2-3):145-152.
11. Scott DW, Anderson WI. (1990) Canine
sebaceous gland tumors: a retrospective
analysis of 172 cases. Canine Practice. 15:
19-27.
12. Vail DM, Withrow SJ. (2007) Tumors of the
skin and subcutaneous tissues. In: Withrow
and MacEwen’s Small Animal Clinical
Oncology. 4th ed. Withrow SJ, Vail DM, eds.
St Louis, MO: Saunders Elsevier; 375-401.
Ngày nhận 8-8-2019
Ngày phản biện 26-10-2019
Ngày đăng 1-12-2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dac_diem_benh_ly_khoi_u_tuyen_ba_nhon_tren_da_cua_cho.pdf