Đặc điểm kết quả điều trị
Kết quả cho thấy đa số bệnh nhân thường có
thời gian nằm viện kéo dài với trung vị là 36
ngày (11 – 64 ngày). Về đặc điểm thuốc điều trị,
bảng 7 ghi nhận được: 100% (21/21) sử dụng rất
nhiều kháng sinh có phổ rộng; 23,8% (5/21) có sử
dụng kháng nấm, 9,5% (2/15) có sử dụng kháng
lao. Theo y văn, đây là hình ảnh đặc trưng của
bệnh lý suy giảm miễn dịch tiên phát, thường
bệnh nhân khởi phát với triệu chứng viêm hô
hấp hay tiêu chảy nhưng khi nhập viện thì diễn
tiến ngày càng nặng và kéo dài. Trên thực tế hầu
hết các trẻ này chỉ được tiếp cận chẩn đoán suy
giảm miễn dịch tiên phát sau khi đã được các
bác sĩ lâm sàng thực hiện đầy đủ các xét nghiệm
sàng lọc chẩn đoán nhiễm trùng và đã sử dụng
kháng sinh phối hợp với các bước chuyển đổi
kháng sinh nhiều lần mà bệnh nhân vẫn không
hồi phục, hoặc có hồi phục nhưng lại tái phát rất
nhanh và lại có biểu hiện nhiễm trùng tại các cơ
quan khác. Hiện nay, y văn thế giới nhất trí điều
trị miễn dịch thay thế là biện pháp phòng bệnh
hữu hiệu cho bệnh nhân suy giảm miễn dịch
dịch thể tiên phát gồm cả bệnh XLA, bổ sung
kháng thể sẽ tăng cường lượng kháng thể lưu
hành để sẵn sàng bắt giữ ngay khi tác nhân
nhiễm trùng mới xâm nhập. Trường hợp nhiễm
trùng huyết nặng cần tăng liều tối đa IVIG dựa
trên cơ sởkháng thể truyền vào sẽ tăng bắt giữ vi
khuẩn lưu thông trong máu và trung hòa độc tố
gây bệnh ngay tức thì (14). Tại Korea, tỷ lệ mắc
bệnh và chất lượng sống của người bệnh có tăng
sau chương trình phòng bệnh định kỳ bằng
IVIG. Như vậy có thể nói bệnh suy giảm miễn
dịch dịch thể tiên phát dù thuộc dạng bệnh hiếm
nhưng không phải không thể chẩn đoán mà trái
lại còn có thể chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời
nếu biết khai thác kỹ bệnh sử cá nhân và gia
đình bệnh nhân kết hợp những biểu hiện lâm
sàng đặc hiệu của thể bệnh này. Chẩn đoán sớm,
điều trị đúng kết hợp chế độ phòng ngừa hợp
lý (truyền IVIG đều đặn mỗi 21 ngày kèm sử
dụng kháng sinh dự phòng) sẽ giúp cải thiện
và nâng cao chất lượng cuộc sống của các bệnh
nhi là điều mà tất cả các bác sĩ nhi khoa trên
thế giới đều mong muốn đạt được.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 153 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm bệnh suy giảm miễn dịch dịch thể tiên phát tại bệnh viện Nhi đồng 1 – thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 469
ĐẶC ĐIỂM BỆNH SUY GIẢM MIỄN DỊCH DỊCH THỂ TIÊN PHÁT
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 – TPHCM
Phù Lý Minh Hương *, Lâm Thị Mỹ **
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng các thể bệnh suy giảm miễn dịch dịch thể tiên phát của
các bệnh nhi tại bệnh viện Nhi Đồng 1, thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp: nghiên cứu mô tả hàng loạt ca, tất cả các bệnh nhi dưới 15 tuổi được chẩn đoán suy giảm
miễn dịch dịch thể tiên phát tại bệnh viện Nhi Đồng I, thành phố Hồ Chí Minh từ 2010 – 2013.
Kết quả: tổng cộng 21 ca đã được theo dõi, tỷ lệ nam: nữ là 6:1; tuổi trung bình khi chẩn đoán bệnh là 14
tháng tuổi; tiền căn cá nhân mắc bệnh nhiễm trùng toàn thân, tái phát > 2 lần là 38,1%, tiền căn gia đình có
người mắc bệnh nhiễm trùng nặng hoặc tử vong sớm (<3 tuổi) là 9,5%. Sốt (57,1%) ,tổn thương phổi (47,6%),
nhiễm trùng tiêu hóa (38,1%) là các triệu chứng lâm sàng thường gặp.Về xét nghiệm, tế bào lympho < 2000/
mm3; gammaglobulin máu < 600 mg/dl, IgG < 200mg/dl, IgM và/hoặc IgA < 20mg/dl; 57,1% có đột biến gen
Btk. Có tất cả 4 thể bệnh được ghi nhận trong nghiên cứu: agammaglobulinemia và XLA(X –link
agammaglobulinemia): 52,4%; CVID: 23,8%; suy giảm miễn dịch thoáng qua: 14,3%; giảm IgA đơn thuần:
9,5%. Thời gian nằm viện trung bình là 36 ngày (11‐64); tỷ lệ tử vong là 33,3%.
Kết luận: bệnh suy giảm miễn dịch dịch thể tiên phát có biểu hiện lâm sàng là sốt tái phát, kéo dài, nhiễm
trùng phổi, nhiễm trùng tiêu hóa; xét nghiệm huyết học có giảm tế bào lympho, và giảm Immunoglobulin dịch
thể. Các thể được xác nhân là agammaglobulinemia và XLA, CVID, suy giảm miễn dịch thoáng qua, giảm IgA
đơn thuần.
Từ khóa: suy giảm miễn dịch dịch thể tiên phát, Bệnh thiếu gamma globulin máu có liên quan giới tính, gen
Burton tyrosine kinase, truyền Immune Globulin (IVIG).
ABSTRACT
THE CHARACTERISTICS OF THE PATIENTS WITH PRIMARY ANTIBODAY
IMMUNODEFICIENCY DISEASE IN CHILDREN’S HOSPITAL N.1, HCM CITY
Phu Ly Minh Huong, Lam Thi My
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 469 ‐ 478
Objective: to determine the clinical and paraclinical characteristics of the primary antibody
immunodeficiency disease from patients hospitalized in Children’s Hospital N1 (CH1).
Methods: A descriptive study admitted all patients under the age of fifteen diagnosed humoral
immunodeficiency in Childrenʹs Hospital I, HCM city from 2010 to 2013.
Results: total of 21 cases had been followed, the ratio male: female was 6:1, the median age of diagnosis was
14 months old, individuals history with severe, recurrent infections (> 2 times) was 38, 1%, family history with
severe infection or early death (<3 years) was 9.5%. Fever (57.1%), respiratory infecions (47.6%),
gastrointestinal infections (38.1%) were the common clinical symptoms. About laboratory investigations, we
found that these patients had the total of lymphocytes < 2000 / mm3; gammaglobulin < 600 mg / dl, IgG <
200mg/dl, IgM and / or IgA < 20mg/dl; 57.1% were positive with Btk gene mutations. There were 4 groups can
* Bệnh viện Nhi Đồng 1 TPHCM ** Đại học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc: PGS TS BS Lâm Thị Mỹ ĐT: 0918111668 Email: drlamthimy@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 470
be classified in the study: agammaglobulinemia and XLA (X‐link agammaglobulinemia): 52.4%; CVID: 23.8%;
transient immunodeficiency: 14.3%; selective IgA deficiency: 9.5%. Almost all of them had long hospitalization
(36 days), the mortality was 33.3%.
Conlusion: the most common clinical features of primary antibody deficiency were: prolong fever, repiratory
and gastrointestinal infections, these patients had an upward trend of lymphocyte and immunoglobulin
quantitaty. Agammaglobulinemia and XLA (X‐link agammaglobulinemia), CVID, transient immunodeficiency
and selective IgA deficiency were 4 groups categoried from this study.
Key words: primary antibody immunodeficiency, X‐linked Agammaglobulinemia, Burton tyrosine kinase
(BTK) gene, Intravenous immune Globulin G (IVIG)
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy giảm miễn dịch tiên phát (SGMDTP) là
bệnh lý di truyền do rối loạn phát triển hệ miễn
dịch của cơ thể, thuộc dạng bệnh hiếm với tần
suất mắc bệnh khoảng 1/200.000 đến 1/10.000
tùy thuộc vào phương tiện chẩn đoán của từng
quốc gia. Cần phân biệt với suy giảm miễn dịch
thứ phát (SGMD thứ phát) là do các tác nhân
ngoài hệ miễn dịch tác động lên như suy dinh
dưỡng, nhiễm HIV, thuốc, phóng xạ.
Suy giảm miễn dịch tiên phát có thể được
phân loại như sau: (1) suy giảm hệ thống miễn
dịch dịch thể hay hệ thống lympho B; (2) suy
giảm hệ thống miễn dịch tế bào hay hệ thống
lympho T; (3) suy giảm hệ thống bổ thể; và (4)
suy giảm hệ thống thực bào. Trong số các
trường hợp suy giảm miễn dịch tiên phát, suy
giảm miễn dịch dịch thể (hay còn gọi là suy
giảm kháng thể) là dạng thường gặp nhất,
chiếm hơn 50% các trường hợp. Các trường
hợp suy giảm miễn dịch tiên phát là do sự đột
biến gen, phần lớn được di truyền lặn trên
nhiễm sắc thể thường, một ít trường hợp được
di truyền lặn trên nhiễm sắc thể giới tính X
như bệnh suy giảm miễn dịch dịch thể tiên
phát liên kết giới tính X (còn được gọi là XLA:
X–linked agammaglobulinemia)(7). Bệnh có thể
xuất hiện ở bất kỳ lứa tuổi nào, tuy nhiên trẻ
dưới 2 tuổi chiếm tỉ lệ cao. Bệnh không chỉ có
biểu hiện lâm sàng là nhiễm trùng nặng mà
còn có các thể lâm sàng phức tạp như miễn
dịch, huyết học dễ gây bỏ sót chẩn đoán(8).
Hiện nay, trên thế giới với sự phát triển công
nghệ sinh học phân tử và di truyền học, bệnh
suy giảm miễn dịch tiên phát nói chung và
XLA nói riêng đã được các bác sĩ nhi khoa
phát hiện và theo dõi rất nhiều(2). Tại Việt nam,
với đặc điểm dịch tễ miền nhiệt đới, các bệnh
nhiễm trùng hệ hô hấp, tiêu hóa cấp tính hoặc
các bệnh nhiễm trùng mạn tính như sốt rét,
lao, thương hàn và nhiễm HIV ... có tần suất
cao ở trẻ em nên những bệnh nhiễm trùng này
không xa lạ đối với các bác sĩ nhi khoa trong
khu vực, trong khi đó, bệnh suy giảm miễn
dịch dịch thể tiên phát (bao gồm XLA) cũng
với các đặc điểm lâm sàng là tình trạng nhiễm
trùng tái phát ở trẻ nhỏ, khiến cho các bác sĩ
tuyến cơ sở dễ bỏ sót chẩn đoán. Do đó chúng
tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm bước đầu
khảo sát đặc điểm lâm sàng và cận lậm sàng
thể bệnh suy giảm miễn dịch dịch thể tiên phát
ở trẻ em Việt Nam, hy vọng kết quả tìm được
sẽ giúp cho các nhà lâm sàng nhi khoa cảnh
giác, phát hiện sớm những thể bệnh này đồng
thời giúp cho quá trình điều trị hiệu quả hơn.
Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng
các thể bệnh suy giảm miễn dịch dịch thể tiên
phát của các bệnh nhi tại bệnh viện Nhi Đồng
1, thành phố Hồ Chí Minh từ 2010 – 2013.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả hang loạt ca.
Dân số đích
Tất cả các bệnh nhi dưới 15 tuổi tại thành
phố Hồ Chí Minh.
Dân số chọn mẫu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 471
Tất cả các bệnh nhi dưới 15 tuổi được chẩn
đoán suy giảm miễn dịch dịch thể tiên phát tại
bệnh viện Nhi Đồng I, thành phố Hồ Chí Minh
từ 2010 – 2013.
Cỡ mẫu
Tất cả các bệnh nhi dưới 15 tuổi đang điều
trị tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 thỏa tiêu chí chọn
mẫu.
Phương pháp chọn mẫu
Tiêu chuẩn chọn mẫu (chọn bệnh vào lô
nghiên cứu)
Lâm sàng
– Bệnh nhân có trên hai tình trạng nhiễm
trùng nặng (viêm phổi, viêm ruột, viêm màng
não, nhiễm trùng huyết, viêm khớp, viêm mô tế
bào) liên tiếp xuất hiện trong quá trình nằm
viện hoặc.
– Bệnh nhân vẫn còn sốt kéo dài hoặc
không khống chế được tình trạng nhiễm trùng
sau khi đã được điều trị trên hai loại kháng
sinh phối hợp (đường tĩnh mạch) và/hoặc
bệnh tái phát nhanh chóng ngay trong thời
gian còn nằm viện kèm:
Cận lâm sàng
‐ Điện di protein có giảm gammaglobulin
máu, và
‐ Định lượng globulin miễn dịch thấy có
giảm 1 hoặc nhiều thành phần IgM, IgG, IgA,
IgE:
+ IgG: < 200mg/dl hoặc dưới 2SD theo tuổi.
+ IgM: < 20 mg/dl (khi nghi ngờ giảm IgM
đơn thuần hoặc trong thể XLA nếu kèm theo
giảm IgG < 200mg/dl) hoặc dưới 2SD theo tuổi.
+ IgA: < 7mg /dl (khi nghi ngờ giảm IgA đơn
thuần) hoặc < 20 mg/dl trong thể XLA.
+ IgE: giảm khi dưới 2SD theo tuổi.
Tất cả các bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn lâm
sàng và cận lâm sàng như trên sẽ được chọn vào
nghiên cứu và được tiến hành làm thêm các xét
nghiệm miễn dịch và di truyền bao gồm: (1)
khảo sát dấu ấn miễn dịch tế bào lympho T, B và
NK (flow cytometry) và (2) khảo sát đột biến
gen Btk (nếu được).
Tiêu chuẩn loại trừ (khỏi lô nghiên cứu)
– Bệnh nhân xác định có bệnh suy giảm
miễn dịch mắc phải: nhiễm HIV.
– Bệnh nhân có kết quả tủy đồ hoặc sinh
thiết hạch có biểu hiện bệnh lý huyết học ác tính.
– Bệnh nhân đã được xác định bệnh lý ác
tính và / hoặc đang nằm trong phác đồ điều trị
chuyên khoa với đa hóa trị liệu và ức chế miễn
dịch.
– Bệnh nhân đã được xác định bệnh lý rối
loạn chuyển hóa di truyền.
– Bệnh nhân đã bị cắt lách.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ và tiền sử sản khoa của
bệnh nhân
Đặc điểm Tần
số(n)
Tỷ lệ
(%)
Trun
g vị
Khoảng
Tuổi lúc NV
(tháng)
14,0 3,0 – 79,0
Tuổi lúc chẩn
đoán bệnh (tháng)
14,0 3,0 – 89,0
Giới Nam 18,0 85,7
Nữ 3,0 14,3
Địa chỉ Tỉnh 14,0 66,7
TP 7,0 33,3
Tuổi thai
(> 37 tuần)
21,0 100,0
CNLS (gram) 3100 1800 – 3800
∑ 21 100,0
* NV: nhập viện; CNLS: cân nặng lúc sinh; TP: thành phố
Nhận xét: 21bệnh nhân đã được theo dõi, tỉ
lệ nam:nữ là 6:1; 66,7% bệnh nhân sống ở các tỉn;
33,3% bệnh nhân sống ở thành phố Hồ Chí
Minh. 100% bệnh nhân được sanh đủ tháng với
tuổi thai >37 tuần, cân nặng lúc sinh trung vị là
3100 gram.
Bảng 2: Đặc điểm tiền sử nhiễm trùng bệnh nhân
và của gia đình bệnh nhân
Đặc điểm
Tiền sử bản thân Tiền sử gia đình
Tần số (n) Tỷ lệ (%) Tần số (n) Tỷ lệ
(%)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 472
Mắc bệnh
NTTT(*)
có 8 38,1 2,0 9,5
không 13 61,9 19,0 90,5
Tử vong
sớm (**)
có 2,0 9,5
không 19,0 90,5
(*) NTTT: Nhiễm trùng toàn thân; (**) tử vong sớm khi tử
vong < 3 tuổi.
Nhận xét: Tiền căn cá nhân: 38,1% (8/21)
bệnh nhân có tiền căn mắc các bệnh nhiễm trùng
toàn thân/ tái phát. Tiền căn gia đình: 9,5% (2/21)
trường hợp có người thân (anh trai/ cậu/ cháu
trai trong gia đình bên mẹ) có tiền căn mắc bệnh
nhiễm trùng toàn thân; 9,5% (2/21) trường hợp
tử vong sớm.
Bảng 3: Đặc điểm lâm sàng lúc nhập viện của các
bệnh nhân suy giảm miễn dịch dịch thể tiên phát
Đặc điểm Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Sốt 12,0 57,1
TG sốt ≥ 7 ngày 10,0 47,6
Suy dinh dưỡng 6,0 28,6
Suy hô hấp 8,0 38,1
Tổn thương phổi 10,0 47,6
Nhiễm trùng tiêu hóa 8,0 38,1
Gan to 8,0 38,1
Lách to 3,0 14,3
sưng khớp 2,0 9,5
Chảy mủ tai 2,0 9,5
Loét miệng 1,0 4,8
Nấm miệng 2,0 9,5
Nhiễm trùng da 1,0 4,8
Nhận xét: sốt là triệu chứng lâm sàng
thường gặp nhất chiếm 57,1% (12/21), trong đó
sốt kéo dài ≥ 7 ngày là 47,6% (10/21), kế đến là
triệu chứng suy hô hấp (38,1%), nhiễm trùng
tiêu hóa (38,1%), gan to (38,1%). Khi thăm khám
lâm sàng cho thấy triệu chứng tổn thương phổi
chiếm tỷ lệ cao nhất là 47,6%. Có 28,6% (6/21) ca
bị suy dinh dưỡng tại thời điểm nhập viện.
Biểu đồ 1: Đặc điểm chẩn đoán lúc nhập viện của
bệnh nhân SGMDDTTP
Nhận xét: khi nhập viện,nhiễm trùng
huyết là biểu hiện thường gặp nhất chiếm
61,9%, kế đến là nhiễm trùng hô hấp 47,6%
(viêm phổi: 42,9%) và sốt kéo dài 47,6%, nhiễm
trùng tiêu hóa 38,1%, ngoài ra cũng ghi nhận
được 9,5% được chẩn đoán viêm khớp tại thời
điểm nhập viện.
Bảng 4: Đặc điểm xét nghiệm huyết học của bệnh
nhân khi được chẩn đoán suy giảm miễn dịch dịch thể
tiên phát
Tế bào (x 103/ul) Trung vị Khoảng
Bạch cầu 9,6 0,3 – 45,6
neutrophil 3,1 0,1 – 11,1
Lymphocyte 1,9 0,0 – 17,4
Monocyte 0,7 0,0 – 1,9
Hemoglobin 10,5 6,4 – 13,7
Tiểu cầu 282,0 4,0 – 854,0
Nhận xét: các bệnh nhân SGMDDTTP có số
lượng bạch cầu, hemoglobin, tiểu cầu thay đổi
trong đó số lượng bạch cầu và Hemoglobin
giảm so với tuổi.
Bảng 5: Đặc điểm xét nghiệm vi sinh của bệnh
nhân khi được chẩn đoán suy giảm miễn dịch dịch
thể tiên phát
Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Cấy máu Dương tính 5,0 23,8
Âm tính 16,0 76,2
Cấy phân Dương tính 1,0 5,9
Âm tính 16,0 94,1
Cấy DNT Dương tính 0,0 0,0
Âm tính 16,0 100,0
Cấy NTA Dương tính 1,0 6,3
Âm tính 15,0 93,7
* DNT: dịch não tủy; NTA: hút dịch hầu họng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 473
– Cấy máu dương tính với: Acinobacter (1),
Staphylococcus (1), Burkhoderia (1), Pseudomonas (2).
– Cấy phân dương tính với: Candida albican (1).
– Cấy NTA dương tính với: Acinobacter (1).
Nhận xét: 5/21 ca cấy máu dương tính chiếm
tỷ lệ cao nhất (23,8%) so với các mẫu bệnh phẩm
khác (phân/dịch não tủy/dịch hầu họng).
Bảng 6: Đặc điểm các thể bệnh suy giảm miễn dịch dịch thể tiên phát
Thể bệnh N
(%)
Tuổi ** trung
vị Khoảng
Định lượng kháng thể miễn dịch Tỷ lệ CD19+
(%)
BTK (+)
N (%)
TV
N (%)IgG IgM IgA IgE
Agamaglobuline -mia
(nam:nữ = 10:1)
11,0 (52,4) 32th
(6,0 – 89,0)
↓ ↓ ↓ ↓ 0,2
(0,0 – 24,0)
4,0
(19,0)
– XLA*
(nam: 10 ca)
10,0
(47,6)
34th
(15,0 – 89,0)
↓ ↓ ↓ ↓ 0,2
(0,0 – 24,0)
4/10
(40,0)
3,0
(14,3)
CVID 5,0
(23,8)
12th
(4,0 – 14,0)
↓ bt ↓ bt 30,0
(29,0 –39,0)
3,0
(14,3)
Giảm IgA 2,0
(9,5)
10,5th
(10,0 – 11,0)
bt
bt ↓ bt 0,0
(0,0)
SDMD thoáng qua 3,0
(14,3)
3 th
(3,0 – 8,0)
↓ bt bt bt 19,0
(14,0 –25,0)
0,0
(0,0)
∑ 21,0 14,0 th
(3,0 – 89,0)
7,0
(33,3)
* XLA: X –link agammaglobulinemia; CVID: common variable immunodeficiency; SGMD: suy giảm miễn dịch; BTK:
đột biến gen Bruton tyrosin kinase; TV: tử vong; ** tuổi lúc chẩn đoán bệnh (tháng).
Nhận xét: trong 21 ca theo dõi: không có
gammaglobulin máu: 52,4%; CVID: 23,8%; suy
giảm miễn dịch thoáng qua: 14,3%; giảm IgA
đơn độc: và 9,5%. Trong các trường hợp được
chẩn đoán không có gammaglobulin máu, số ca
XLA chiếm tỷ lệ 47,6% (10/21), những bệnh nhân
này đều có định lượng kháng thể miễn dịch
giảm ở 4 trị số IgG, IgM, IgA, IgE; tỷ lệ CD19+
trung vị là 0,2% (0,0 – 24%), 4 ca có đột biến trên
gen Bruton Tyrosin Kinase.
Bảng 7: Đặc điểm thuốc điều trị của bệnh nhân
Điều trị Tần số Tỷ lệ Trung vị Khoảng
Kháng sinh TM 21,0 100,0
Trên 2 loại KSTM 21,0 100,0
Kháng nấm 5,0 23,8
Kháng lao 2,0 9,5
IVIG lần 1 13,0 61,9
IVIG ≥ 2 lần 1,0 4,8
Thời gian nằm viện
(ngày)
36 11,0 –
64,0
Tử vong 7,0 33,3
* TM: tĩnh mạch; KSTM: kháng sinh đường tĩnh mạch;
IVIG: dùng Humaglobulin.
Nhận xét: 100% bệnh nhân được điều trị với
kháng sinh tĩnh mạch; 23,8% có sử dụng kháng
nấm; 9,5% (2/21) có sử dụng kháng lao; 61,9%
(13/21) điều trịbằng IVIG lần đầu, 1 trường hợp
(4,8%) sử dụng IVIG 2 lần trong đợt nằm viện,
không bệnh nhân nào được sử dụng IVIG lần 3
trở lên. Ghi nhận 33,3% trường hợp tử vong
trong quá trình điều trị.
BÀN LUẬN
Đặc điểm dịch tễ và tiền sử sản khoa của
bệnh nhân
Kết quả nghiên cứu (bảng 1) cho thấy có 7 ca
ở thành phố Hồ Chí Minh chiếm tỷ lệ 33,3%; 14
ca ở tỉnh (Vũng Tàu, Tây Ninh, Cần Thơ, Vĩnh
Long, An Giang, Bến Tre, Đà Nẵng, Quãng
Ngãi) chiếm tỷ lệ 66,7% cho thấy bệnh suy giảm
miễn dịch dịch thể tiên phát phân bố rải rác
khắp nơi. Khi so sánh với các nghiên cứu dịch tễ
trên thế giới(1,11), nghiên cứu này khá phù hợp về
nhận định tần suất bệnh suy giảm miễn dịch
dịch thể tiên phát phân bố rộng rãi ở những vị
trí địa lý khác nhau. Nghiên cứu cũng ghi nhận
được tỷ lệ nam: nữ là 6:1 cho thấy nam mắc
bệnh nhiều hơn nữ. Khi so sánh với Robert J.
Mamlok, tỷ lệ nam:nữ của chúng tôi có cao hơn
một chút (theo Robert J. Mamlok tỷ lệ nam:nữ là
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 474
5:1), tuy nhiên xét về tính ưu thế vượt trội của
nam so với nữ, nghiên cứu này hoàn toàn cùng
quan điểm với Arvind kumar10(7), Robert J.
Mamlok(10), và Stiehm +, các tác giả này đều cho
rằng sự vượt trội trong tỷ lệ mắc bệnh ở nam so
với nữ là do liên quan tới thể bệnh không có
gammaglobulin máu liên kết giới tính X (XLA),
bởi vì đây là thể bệnh suy giảm miễn dịch dịch
thể tiên phát chỉ xảy ra ở các bé trai, có thời gian
khởi bệnh sớm (trong giai đoạn nhũ nhi, nhất là
giai đoạn 4 – 6 tháng tuổi) so với các thể bệnh
suy giảm miễn dịch dịch thể khác, và thể bệnh
này chiếm tỷ lệ cao trong nghiên cứu của chúng
tôi (bảng 6). Xét về yếu tố tuổi thai và cân nặng
lúc sinh: 100% trường hợp (21/21) có cân nặng
lúc sinh trên 2500 gram và tuổi thai > 37 tuần,
kết quả này cho thấy đây là các ca đủ tháng, đủ
cân không bị suy dinh dưỡng bào thai hay sanh
non nên không có yếu tố nguy cơ ảnh hưởng tới
sự tổng hợp kháng thể ở trẻ em trong giai đoạn
từ 4 – 6 tháng tuổi khi mà lượng kháng thể thụ
động IgG từ mẹ truyền sang con qua nhau thai
bắt đầu giảm dần và xuống tới mức thấp nhất,
không còn đủ khả năng bảo vệ cho con, tạo điều
kiện cho các biểu hiện nhiễm trùng bắt đầu xuất
hiện và thường hay tái phát nếu như bản thân
cơ thể của con không thể tự sản xuất kháng thể
để duy trì cơ chế miễn dịch dịch thể thông
thường(10).
Đặc điểm tiền sử nhiễm trùng của bệnh
nhân và của gia đình bệnh nhân
Kết quả nghiên cứu cho thấy 38,1% (8/21)
(bảng 2) có tiền căn mắc các bệnh nhiễm trùng
toàn thân và/ hoặc tái phát trên 2 lần, tiền sử
mắc các bệnh nhiễm trùng toàn thân và/ hoặc tái
phát nhiều lần (> 2 lần) là một yếu tố gợi ý bệnh
nhân bị suy giảm miễn dịch tiên phát nói chung
và thể bệnh suy giảm miễn dịch dịch thể tiên
phát nói riêng(11). Về tiền căn gia đình, bảng 2 ghi
nhận được yếu tố tiền sử gia đình có người thân
(anh trai/ cậu/ cháu trai trong gia đình bên mẹ)
mắc bệnh nhiễm trùng toàn thân và/ hoặc tái
phát là 9,5% (2/21), tử vong sớm (< 3 tuổi) vì các
bệnh nhiễm trùng toàn thân là 9,5% (2/21),
chúng tôi không ghi nhận được trường hợp nào
có kết quả xét nghiệm lympho B CD19< 2%,có
thể do bệnh suy giảm miễn dịch dịch thể tiên
phát là thể bệnh hiếm đối với thế giới lẫn Việt
Nam, việc nhận định các triệu chứng và dấu
hiệu lâm sàng từ giai đoạn sớm để chẩn đoán
bệnh còn hạn chế đối với các bác sĩ đa khoa nói
chung và bác sĩ chuyên khoa nhi nói riêng, do
đó dễ bỏ sót chẩn đoán. Như vậy có thể nói khai
thác tiền sử nhiễm trùng của bản thân và của gia
đình rất cần thiết để hỗ trợ chẩn đoán, mỗi một
yếu tố trên đã trở thành một tiêu chuẩn chẩn
đoán trong bảng chẩn đoán bệnh suy giảm miễn
dịch dịch thể tiên phát theo hiệp hội suy giảm
miễn dịch của Châu Âu(9).
Đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán lúc nhập
viện của bệnh nhân suy giảm miễn dịch
dịch thể tiên phát
Đặc điểm lâm sàng
Theo kết quả nghiên cứu (bảng 3), sốt là
triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất chiếm tỷ
lệ 57,1% trong đó tỷ lệ sốt kéo dài (≥ 7 ngày) là
47,6%, ngoài ra suy hô hấp (38,1%), nhiễm trùng
tiêu hóa (38,1%), gan to (38,1%) lần lượt là các
triệu chứng lâm sàng thường gặp tiếp theo sau
triệu chứng sốt. Khi thăm khám lâm sàng cho
thấy dấu hiệu tổn thương phổi với biểu hiện ran
phổi chiếm tỷ lệ cao nhất 47,6%; các dấu hiệu
lâm sàng khác thay đổi tùy theo từng bệnh
nhân, hai dấu hiệu lâm sàng tương đối ít gặp
trong nghiên cứu này là loét miệng và nhiễm
trùng da với tỷ lệ 4,8%, không ghi nhận trường
hợp nào có biểu hiện hạch to.
Tình trạng dinh
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng lúc nhập
viện của bệnh nhân, bảng 4.3 cho thấy có 28,6%
có biểu hiện suy dinh dưỡng tại thời điểm nhập
viện, so sánh với Azam Kouhkan(6) trong nghiên
cứu “đánh giá về tình trạng suy dinh dưỡng của
các bệnh nhân suy giảm miễn dịch dịch thể tiên
phát tại Iran” ghi nhận được như sau: 57,5% có
suy dinh dưỡng, ngoài ra ông cũng đánh giá
được tình trạng thiếu vi chất ở các bệnh nhân
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 475
này (37,5% thiếu Selenium; 5,3% thiếu kẽm và
2,7% thiếu đồng). So với chúng tôi, nghiên cứu
này chi tiết hơn và có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao
hơn gấp đôi.Chúng ta biết rằng suy dinh dưỡng
là một trong những nguyên nhân gây suy giảm
miễn dịch thứ phát nhưng thực tế luôn tồn tại
mối liên hệ giữa tình trạng nhiễm trùng – suy
dinh dưỡng – suy giảm miễn dịch tiên phát.
Khởi đầu bệnh nhân có thể bị đột biến trong gen
ảnh hưởng lên sự phát triển của hệ thống miễn
dịch (dòng lympho bào B, T,) gây ra tình trạng
bệnh lý gọi là suy giảm miễn dịch tiên phát. Ở
những bệnh nhân này thường biểu hiện tình
trạng nhiễm trùng mạn tính, nặng và kém đáp
ứng với điều trị thông thường, tình trạng nhiễm
trùng lâu dài kết hợp các rối loạn chuyển hóa
thường dẫn đến hậu quả cân bằng ni tơ âm tính,
làm mất khối cơ của cơ thể và mất cân bằng dinh
dưỡng gây suy dinh dưỡng thứ phát, bản thân
suy dinh dưỡng này lại trực tiếp gây tổn hại lên
hệ thống miễn dịch của bệnh nhân vốn đã suy
yếu sẵn và làm cho tình trạng bệnh ngày một
nặng hơn(4).
Chẩn đoán lúc nhập viện
Biểu đồ 1 cho thấy nhiễm trùng huyết là biểu
hiện lâm sàng thường gặp nhất với tỷ lệ 61,9%
(13/21); kế đến là sốt kéo dài và nhiễm trùng hô
hấp 47,6% (10/21 ca, trong đó viêm phổi chiếm
ưu thế với 42,9%); nhiễm trùng tiêu hóa 38,1%
(8/21); suy giảm miễn dịch 23,8% (5/21); hội
chứng thực bào máu 14,3% (3/21); viêm khớp
9,5% (2/21). Kết quả này có hơi khác với những
gì y văn đã mô tả. Theo y văn, đối với thể bệnh
suy giảm miễn dịch dịch thể tiên phát, do sự suy
giảm khả năng sản xuất kháng thể, các bệnh
nhân thường có biểu hiện tình trạng nhiễm
trùng nặng, tái phát và kéo dài thành mạn tính
trong đó nhiễm trùng hô hấp trên và dưới là
biểu hiện thường gặp nhất, kế đến là nhiễm
trùng tiêu hóa và viêm gan, ngoài ra còn ghi
nhận các tình trạng nhiễm trùng khác như
nhiễm trùng hệ thống bao gồm nhiễm trùng
huyết, viêm màng não, viêm khớp mạn tính
hoặc các trường hợp viêm da, viêm kết mạc mắt
với tỷ lệ thấp hơn(1,12).
Đặc điểm cận lâm sàng của bệnh nhân suy
giảm miễn dịch dịch thể tiên phát tại thời
điểm được chẩn đoán bệnh
Phân tích xét nghiệm huyết học
Bảng 4 cho thấy dòng bạch cầu có thay đổi
nhiều về số lượng, số trung vị của bạch cầu là 9,6
x 103/ul (0,3 – 45,6), trong đó bạch cầu hạt 3,1 x
103/ul (0,1 – 11,1); lympho bào 1,9 x 103/ul (0,0 –
7,9); mono bào 0,7 x 103/ul (0,0 – 1,9); như vậy số
lượng bạch cầu nói chung và thành phần từng
loại bạch cầu nói riêng đều giảm so với lứa tuổi.
Đối với các bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng
nghi ngờ, sau khi đã được thăm khám đầy đủ
kết hợp khai thác tiền căn bản thân và tiền căn
gia đình thật chi tiết, các bệnh nhân này cần phải
được tiến hành làm các xét nghiệm tầm soát
bệnh lý mà khởi đầu là xét nghiệm công thức
máu toàn phần để khảo sát: số lượng bạch cầu
(đặc biệt chú ý đến số lượng tế bào lympho B,
bạch cầu hạt), số lượng hemoglobin, số lượng
tiểu cầu; xét nghiệm này sẽ được kết hợp với xét
nghiệm phết máu ngoại biên để đánh giá tình
trạng tăng hoặc giảm bạch cầu, thiếu máu và
giảm tiểu cầu(5). Bởi vì suy giảm miễn dịch dịch
thể tiên phát là một hội chứng lâm sàng gây ra
do sự giảm hoặc mất khả năng sản xuất kháng
thể liên quan tới sự trưởng thành và biệt hóa của
các dòng tế bào lympho B(5) nên khi phân tích
các xét nghiệm huyết học cần đặc biệt lưu ý đến
số lượng các tế bào lympho, cần đánh giá số
lượng tuyệt đối của dòng tế nào này (giá trị
tuyệt đối bình thường của các tế bào lympho
thường dao động từ 2000 – 6000 tế bào/μl) để
phát hiện các tình trạng giảm số lượng tế bào
lympho đi kèm (nghi ngờ giảm lympho bào khi
số lượng tuyệt đối của tế bào lympho B < 2000 tế
bào/ μl, giảm lympho bào thực sự khi số lượng
tuyệt đối của tế bào lympho B < 1500 tế bào/ μl;
đối với sơ sinh và nhũ nhi, ngưỡng giảm
lympho bào sẽ được tăng tới mức 2500 tế bào/ μl
do lứa tuổi này thường có tỷ lệ lympho bào cao
hơn bình thường(14)); ngoài ra cũng cần chú ý tới
các bất thường về bạch cầu hạt để loại trừ các
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 476
bệnh lý suy giảm miễn dịch khác đi kèm như sự
hiện diện các không bào khổng lồ ở bạch cầu hạt
gởi ý hội chứng Chediak – Higashi; bạch cầu hạt
có nhân tế bào hình thận thường gặp trong hội
chứng suy giảm bạch cầu hạt thứ phát. Về số
lượng hemoglobin, kết quả khảo sát cũng cho
thấy số lượng hemoglobin trung vị là 10,5 g/dl
(6,4 – 13,7) có giảm so với lứa tuổi, theo y văn
thiếu máu là bằng chứng của tình trạng nhiễm
trùng mạn tính hoặc thứ phát sau tán huyết do
tình trạng rối loạn tự miễn hoặc do nhiễm
Parvovirus(10), trong nghiên cứu này có 47,6%
(biểu đồ 1) nhập viện với chẩn đoán sốt kéo dài,
tất cả các bệnh nhân này đều có xét nghiệm tầm
soát bệnh tự miễn âm tính, do đó có thể giải
thích tình trạng thiếu máu là hậu quả của nhiễm
trùng mạn tính; chúng tôi không nghĩ tới tình
trạng nhiễm Parvovirus vì hiện tại ở Việt Nam
vẫn chưa có xét nghiệm tầm soát tác nhân này.
Phân tích xét nghiệm vi sinh
Theo bảng 4.5 ghi nhận được 23,8% (5/21)
cấy máu dương tính; 5,9% (1/17) cấy phân
dương tính; 6,3% (1/16) cấy NTA dương tính.
Các tác nhân vi sinh phân lập được trong nghiên
cứu này bao gồm: Acinobater(2), Pseudomonas(2),
Staphylococcus(1), Burkhoderia(1), Candida albican(1).
Theo y văn, đối với thể bệnh suy giảm miễn dịch
dịch thể tiên phát dù có biểu hiện lâm sàng đa
dạng nhưng thường gặp nhất vẫn là tình trạng
nhiễm trùng mạn tính, tái phát nhiều lần, vi
trùng có vỏ bọc sinh mủ nổi bật là Streptococcus
pneumonia, Haemophilus influenza là hai tác nhân
phổ biến nhất trên nhóm đối tượng này cho thấy
vai trò quan trọng của kháng thể trong quá trình
opsonin hóa các vi khuẩn có vỏ bọc. Ngoài ra các
tác nhân vi sinh khác như Staphylococcus aureus,
Pseudomonas spp., Mycoplasma spp.,
Enterrobacteriaceae, Campylobacter, Giardia, và
Enterovirus cũng thường hay gặp trên những
bệnh nhân này. Một số trường hợp hiếm ở bệnh
nhân được chẩn đoán CVID và không có
gammaglobulin máu liên kết giới tính (XLA),
nhiễm trùng cơ hội nặng do Pneumocystis
jirovecii và các loại vi nấm khác cũng có thể xảy
ra(5). So với những gì y văn đã mô tả, nghiên cứu
này có số lượng vi sinh vật gây bệnh phân lập
được từ các mẫu bệnh phẩm tương đối ít, tuy
nhiên cần lưu ý rằng tất cả các tác nhân này đều
là vi khuẩn gây nhiễm trùng bệnh viện, sự xuất
hiện của các chủng vi sinh vật này trong nghiên
cứu được giải thích là do liên quan tới thời gian
nằm viện kéo dài (36 ngày) của các bệnh nhân.
Đặc điểm các thể bệnh suy giảm miễn dịch
dịch thể tiên phát và kết quả điều trị sau
chẩn đoán
Đặc điểm các thể bệnh
Từ 1/1/2010 đến 30/5/2013 có tất cả 21 trường
hợp được chẩn đoán suy giảm miễn dịch dịch
thể tiên phát. Khi phân loại theo từng thể bệnh,
chúng tôi thống kê được: không có
gammaglobulin máu (agammaglobilinemia)
chiếm 52,4% (11/21), thể CVID chiếm 23,8%
(5/21), thể giảm IgA đơn thuần chiếm 9,5%
(2/21), thể suy giảm miễn dịch dịch thể thoáng
qua chiếm 14,3% (3/15)(bảng 6). So với các
nghiên cứu khác trên thế giới, kết quả của chúng
tôi có hơi khác về sự phân bố giữa các tỷ lệ bệnh,
cụ thể như sau, trong một nghiên cứu vào năm
1998 ở Arập Saudi, tác giả Rabab A. Al – Attas
ghi nhận được 46 trường hợp suy giảm miễn
dịch dịch thể tiên phát, trong đó suy giảm IgA
đơn thuần: 45,0%; CVID: 29,0%; không có
gammaglobulin máu: 16,0%; suy giảm IgG đơn
thuần: 10%. Một nghiên cứu khác được báo cáo
vào năm 2011 thực hiện trên 59 bệnh nhân trong
lứa tuổi từ 6 tháng – 14,5 tuổi, tác giả Soheila
Khalilzadeh ghi nhận được CVID chiếm tỷ lệ
cao nhất 75,0%(13). Trên thế giới để chẩn đoán các
thể bệnh này, ngoài các xét nghiệm thường quy
như huyết đồ, sinh hóa máu, điện di đạm, định
lượng miễn dịch, tìm dấu ấn miễn dịch tế bào
lympho, họ còn có những xét nghiệm chuyên
biệt khác như: chuẩn độ kháng thể sau khi gây
miễn dịch với các kháng nguyên protein (độc tố
uốn ván hoặc độc tố bạch hầu) và kháng nguyên
polysaccharide (vỏ polysaccharide của phế cầu),
xét nghiệm di truyền. Sự khác biệt vể kết quả
nghiên cứu này với các tác giả có thể giải thích
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 477
như sau: cỡ mẫu của chúng tôi nhỏ, thời gian
theo dõi tương đối ngắn (2 năm so sánh với các
nghiên cứu khác trên thế giới thường trên 5
năm) nên không thể mô tả bức tranh đầy đủ các
thể bệnh suy giảm miễn dịch dịch thể ở trẻ em,
kết quả từ khảo sát này không thể đại diện cho
tỷ lệ mắc bệnh suy giảm miễn dịch dịch thể tiên
phát ở trẻ em Việt Nam. Mặt khác về phương
tiện chẩn đoán, hiện nay chúng tôi chỉ dừng lại ở
mức xác định dấu ấn miễn dịch tế bào Lympho,
một số trường hợp được đề nghị làm thêm xét
nghiệm di truyền (thể XLA liên quan đến đột
biến Bruton Tyrosin Kinase), tuy nhiên do giá
thành còn quá cao, và số phòng xét nghiệm di
truyền có khả năng thực hiện các xét nghiệm để
chẩn đoán bệnh còn hạn chế nên cũng ít nhiều
ảnh hưởng tới kết quả chẩn đoán.
Đặc điểm kết quả điều trị
Kết quả cho thấy đa số bệnh nhân thường có
thời gian nằm viện kéo dài với trung vị là 36
ngày (11 – 64 ngày). Về đặc điểm thuốc điều trị,
bảng 7 ghi nhận được: 100% (21/21) sử dụng rất
nhiều kháng sinh có phổ rộng; 23,8% (5/21) có sử
dụng kháng nấm, 9,5% (2/15) có sử dụng kháng
lao. Theo y văn, đây là hình ảnh đặc trưng của
bệnh lý suy giảm miễn dịch tiên phát, thường
bệnh nhân khởi phát với triệu chứng viêm hô
hấp hay tiêu chảy nhưng khi nhập viện thì diễn
tiến ngày càng nặng và kéo dài. Trên thực tế hầu
hết các trẻ này chỉ được tiếp cận chẩn đoán suy
giảm miễn dịch tiên phát sau khi đã được các
bác sĩ lâm sàng thực hiện đầy đủ các xét nghiệm
sàng lọc chẩn đoán nhiễm trùng và đã sử dụng
kháng sinh phối hợp với các bước chuyển đổi
kháng sinh nhiều lần mà bệnh nhân vẫn không
hồi phục, hoặc có hồi phục nhưng lại tái phát rất
nhanh và lại có biểu hiện nhiễm trùng tại các cơ
quan khác. Hiện nay, y văn thế giới nhất trí điều
trị miễn dịch thay thế là biện pháp phòng bệnh
hữu hiệu cho bệnh nhân suy giảm miễn dịch
dịch thể tiên phát gồm cả bệnh XLA, bổ sung
kháng thể sẽ tăng cường lượng kháng thể lưu
hành để sẵn sàng bắt giữ ngay khi tác nhân
nhiễm trùng mới xâm nhập. Trường hợp nhiễm
trùng huyết nặng cần tăng liều tối đa IVIG dựa
trên cơ sởkháng thể truyền vào sẽ tăng bắt giữ vi
khuẩn lưu thông trong máu và trung hòa độc tố
gây bệnh ngay tức thì (14). Tại Korea, tỷ lệ mắc
bệnh và chất lượng sống của người bệnh có tăng
sau chương trình phòng bệnh định kỳ bằng
IVIG. Như vậy có thể nói bệnh suy giảm miễn
dịch dịch thể tiên phát dù thuộc dạng bệnh hiếm
nhưng không phải không thể chẩn đoán mà trái
lại còn có thể chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời
nếu biết khai thác kỹ bệnh sử cá nhân và gia
đình bệnh nhân kết hợp những biểu hiện lâm
sàng đặc hiệu của thể bệnh này. Chẩn đoán sớm,
điều trị đúng kết hợp chế độ phòng ngừa hợp
lý (truyền IVIG đều đặn mỗi 21 ngày kèm sử
dụng kháng sinh dự phòng) sẽ giúp cải thiện
và nâng cao chất lượng cuộc sống của các bệnh
nhi là điều mà tất cả các bác sĩ nhi khoa trên
thế giới đều mong muốn đạt được.
KẾT LUẬN
Bệnh suy giảm miễn dịch dịch thể tiên phát
phát hiện ở trẻ nhỏ (đặc biệt ≤ 14 tháng) có biểu
hiện sốt kéo dài hoặc nhiễm trùng toàn thân
(viêm phổi, nhiễm trùng tiêu hóa, nhiễm trùng
huyết) kém đáp ứng với điều trị hoặc tái phát
nhiều lần kết hợp xét nghiệm huyết học có số
lượng tế bào lympho giảm < 2000/ul; xét nghiệm
miễn dịch: Gammaglobulin máu < 600 mg/dl, IgG
< 200 mg/dl, IgA và IgM < 20 mg/dl hoặc giảm
<2SD theo lứa tuổi. Với xét nghiệm tầm soát dấu
ấn miễn dịch tế bào lympho và tìm đột biến gen
Btk, bốn thể suy giảm miễn dịch được xác định là
agammaglobulinemia và XLA, CVID, suy giảm
miễn dịch thoáng qua, giảm IgA đơn thuần.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Aghamohammadi A, Farghadan M, et al (2002), ʺThe
spectrum of primary immunodeficiency disorders in Iranʺ,
Acta Medica Iranica, 3(40), pp. 165 – 170.
2. Chun JK, et al (2008), “Analysis of clinical presentations of
Burton disease: a review of 20 years of accumulated data from
pediatric patients at Severance Hospital”, Yonsei Med .J ,49(1),
pp. 28 – 36.
3. Fleisher TA, et al (2000), The Pediatric clinics of North American,
A Harcourt Health Sciences Company.
4. Franca TGD, et al (2009), “Impact of malnutrition on
immunity and infection”, J Venom Anim Toxins incl Trop Dis,
15(3), pp. 374 – 390.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 478
5. Fried AJ, Bonilla FA (2009), “Pathogenesis, Diagnosis, and
Management of Primary Antibody Deficiency and
Infections”, Clinical Microbiology Reviews, 22(3), pp. 396 –
414.
6. Kouhkan A, et al (2004), “A study of malnutrition in Iranian
patients with primary antibody deficiency”, Iranian journal of
allergy asthma and immunology, 3(4), pp. 189 – 196.
7. Kumar A, et al (2006), ʺCurrent perspectives on primary
immunodeficiency diseasesʺ Clinical & Development
Immunology, 13(2‐4), pp. 223 – 259.
8. Lâm Thị Mỹ (2011). “Tiếp cận bệnh lý suy giảm miễn dịch
tiên phát ở trẻ em”. Phác đồ điều trị nhi khoa BV NĐ1 –
TPHCM, nhà xuất bản y học.
9. Machado P, et al (2008), “Arthritis and X – linked
agammaglobulinemia”, Acta Reumatol Port, 33, pp. 464 – 472.
10. Mamlok RJ (1998), “Primary Immunodeficiency Disorders”,
Allergy and Immunology, 25(4), pp. 739 – 758.
11. Ramalho VD, et al (2010), “Mutation of Burton’s tyrosine kinase
gene in Brazilian patients with X‐linked agammaglobulinemia”,
Braz J Med Biol Res, 43(9), pp. 910 – 913.
12. Seymour B, Miles J, Haeney M (2005), ʺPrimary antibody
deficiency and diagnosis delayʺ, J Clin Pathol, 58, pp. 546 –
547.
13. Khalilzadeh S, et al (2011), “Primary Immunodeficiency In
Children: Report of Seven Years Study”, Tanaffos, 10(2), pp. 38
– 43.
14. Stiehm ER, et al (2004), “Immunodeficiency Disorders:
General Considerations”, Immunologic Diseases in Infant
&Children, Elsevier Saunders, Philadelphia, pp 289 –355.
Ngày nhận bài báo: 30/10/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_benh_suy_giam_mien_dich_dich_the_tien_phat_tai_benh.pdf