Trong nghiên cứu chúng tôi, nguyên nhân
tử vong chiếm đa số là dị tật nặng chiếm tỉ lệ
52,4%, và nhiễm trùng huyết nặng 33,3%. Chúng
tôi cũng ghi nhận trong 21 ca tử vong có 10
trường hợp cân nặng dưới 1800 gram chiếm tỉ lệ
47,6%; số trường hợp cân nặng dưới 1500 gram
có 5 trẻ. Tỉ lệ tử vong ở nhóm trẻ non tháng nhẹ
cân ở chúng tôi còn cao. Nghiên cứu ở Thái Lan
của Maitree Anuntkosol tỉ lệ sống chỉ 10% ở
nhóm trẻ teo thực quản có cân nặng dưới 2000
gram so với 52% ở nhóm trẻ trên 2000
gram(6).Cũng theo tác giả Eun Young Chang
năm 2010 cũng cho thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa tỉ lệ tử vong giữa hai nhóm trẻ teo thực
quản có cân nặng trên 2500 gram cao hơn so với
nhóm trẻ dưới 2500 gram(2). Các nghiên cứu
khác ở Malaysia, Ấn Độ, Pakistan(1,7,11) cũng cho
thấy có liên quan có ý nghĩa giữa tỉ lệ tử vong và
cân nặng lúc sinh trên trẻ teo thực quản. Các
trường hợp nhiễm trùng huyết nặng dẫn đến tử
vong đều ở nhóm trẻ non tháng nhẹ cân. Một
phần lớn các trẻ tử vong là các trẻ có dị tật tim
nặng. Các dị tật tim nặng cần phải phẫu thuật
hoặc điều trị suy tim. Các trẻ này phải thở máy
và nằm viện kéo dài, do đó dễ nhiễm trùng bệnh
viện và các trẻ tử vong trong tình trạng tim nặng
hoặc viêm phổi, nhiễm trùng huyết nặng.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 216 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm các trường hợp teo thực quản bẩm sinh tại bệnh viện Nhi đồng 2 từ 2007‐2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 381
ĐẶC ĐIỂM CÁC TRƯỜNG HỢP TEO THỰC QUẢN BẨM SINH
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 TỪ 2007‐2012
Bùi Thị Thùy Tâm*, Nguyễn Anh Tuấn**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Teo thực quản là một dị tật thực quản thường gặp nhất. Mặc dù có nhiều cải thiện, tử vong và
các biến chứng còn cao trong điều trị các trường hợp hợp teo thực quản bẩm sinh. Chúng tôi thực hiện nghiên
cứu này xác định đặc điểm các trường hợp teo thực quản bẩm sinh được điều trị.
Mục tiêu: khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị các trường hợp teo thực quản
bẩm sinh.
Phương pháp: Hồi cứu mô tả loạt ca. Chúng tôi hồi cứu 85 trường hơp bệnh nhân teo thực quản bẩm sinh
được điều trị từ 2007 đến 2012.
Kết quả: Có 85 trường hợp teo thực quản trong nghiên cứu, trong đó 47 nam (55,3%) và 38 nữ
(44,7%). Tỉ lệ có chẩn đoán tiền sản là 17,6%. Tuổi thai và cân nặng lúc sinh trung bình là 37 tuần (29‐42
tuần) và 2400gram (1200‐3700gram). 36,5% trẻ sinh non tháng. Týp teo thực quản C hay gặp nhất. Các dị
tật kèm theo hay có 49 trẻ (57,6), hay gặp bao gồm dị tật tim là 39 trẻ (45,9%), dị tật cơ xương 17 trẻ
(20%),dị tật tiêu hóa 9 trẻ (10,6%). Tỉ lệ viêm phổi và nhiễm trùng huyết trước mổ là 82,4% và 36,5%. Các
biến chứng hay gặp sau mổ là viêm phổi 72,8%, nhiễm trùng huyết 72,8%, xì dò miệng nối thực quản 15%.
Tỉ lệ tử vong là 24,7%. Nguyên nhân tử vong 21 trường hợp là dị tật nặng 11 ca, nhiễm trùng huyết 7 ca,
xì dò miệng nối nặng 2ca, sanh ngạt 1ca.
Kết luận: Tỉ lệ tử vong các trường hợp teo thực quản bẩm sinh còn cao. Dị tật nặng và nhiễm trùng là các
nguyên nhân thường gây tử vong.
Từ khóa: teo thực quản, dị tật nặng, nhiễm trùng huyết, xì dò miệng nối thực quản
ABSTRACT
CHARACTERISTICS OF CONGENITAL ESOPHAGEAL ATRESIA
AT CHILDREN’S HOSPITAL N0 2, 2007‐2012
Bui Thi Thuy Tam, Nguyen Anh Tuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 381‐385
Background: Esophageal atresia (EA) is the most frequent esophageal congenital anomaly. Despite there are
many improvement, mortality and complications remain high in treatment of congenital EA. This study is done
to determine manifestation in patients with EA who were treated.
Objective and methods: prospective study case series. We reviewed 85 cases EA who were treated from
2007 to 2012. Epidemiological, clinical,laboratory data and therapeutic outcomes were carefully collected.
Result: there were 85 cases EA in this study, out of which 47 (55.3%) males and 38 (44.7%) females. The
rate of prenatal diagnosis was 17.6%. The average gestation age and birthweight were 37 weeks (range 29‐42
weeks) and 2400 gram (range 1200‐3700 gram). 36.5% were born prematurely. Type C was the most common.
Associated abnomalies occurred in 49 (57.6%) infants, including cardiac defects in 39 (45.9%), skeletal defects in
* Bác sĩ nội trú, Bộ môn Nhi Đại học Y Dược TP.HCM ** Bộ Môn Nhi, Đại học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc: BSNT. Bùi Thị Thùy Tâm ĐT: 0917116667 Email: thuytam29@yahoo.com.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 382
17 (20%) and anorectal defects in 9 (10.6%). The rate of preoperative pneumonia and sepsis were 82.4% and
36.5%. The most common post operative complications were pneumonia (72.8%), sepsis (72.8%) and
anastomotic leak (15%), respectively. The mortality rate was 24.7%. The cause of death in 21 cases included
severe abnomalies (n=11), sepsis (n=7), severe anastomotic leak (n=2) and asphyxia (n=1).
Conclusion: mortality rate was remain high in EA. Severe anomalities and sepsis were the mainly cause.
Key words: Esophageal atresia, severe abnomalies, sepsis, anastomotic leak
ĐẶT VẤN ĐỀ
Teo thực quản là một dị tật thường gặp nhất
ở thực quản, với tần suất bệnh khoảng 1/4000 trẻ
sinh sống(6). Tỉ lệ sống sót của những trường hợp
teo thực quản phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
phát hiện sớm, chăm sóc trước mổ, kĩ thuật mổ
và gây mê, chăm sóc sau mổ và các biến chứng
sau mổ đồng thời phát hiện và điều trị các dị tật
kèm theo. Với những tiến bộ trong điều trị teo
thực quản, tỉ lệ sống ở những trẻ teo thực quản
trên 90%. Nhóm trẻ có cân nặng lúc sanh dưới
1500 gram có nguy cơ tử vong cao nhất(5).
Mặc dù đã có những tiến bộ trong hồi sức và
phẫu thuật, tỉ lệ tử vong đã cải thiện hơn nhưng
vẫn còn khá cao 41% theo báo cáo bệnh viện Nhi
Đồng 1 năm 1998‐2003, 56% ở bệnh viện Nhi
Đồng 2 đến năm 2002(8,9). Các biến chứng viêm
phổi, nhiễm trùng huyết, xì dò miệng nối trên
trẻ teo thực quản vẫn còn khá cao.
Nghiên cứu này nhằm mục đích có được một
tổng quan về tình hình điều trị teo thực quản tại
bệnh viện Nhi Đồng 2 trong 6 năm gần đây, về
những mặt đã đạt được cũng như những mặt còn
hạn chế, từ đó có những bước tiến cải thiện trong
điều trị, giảm tỉ lệ tử vong cũng như những biến
chứng trong teo thực quản.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Hồi cứu mô tả loạt ca.
Tiêu chí chọn mẫu
Tất cả các hồ sơ bệnh án ra viện của bệnh nhi
được điều trị nội trú tại bệnh viện Nhi Đồng 2 từ
tháng 01‐2007 đến tháng 12‐2012 có chẩn đoán
xác định teo thực quản bẩm sinh.
Phương pháp xử lí số liệu
Toàn bộ bệnh án mẫu được lưu trữ và xử lí
bằng phần mềm SPSS.
KẾT QUẢ
Tỉ lệ các đặc điểm dịch tễ học bệnh nhân
teo thực quản
Chẩn đoán tiền sản đa ối thai kì có 15 trường
hợp chiếm tỉ lệ 17,6%.
Tỉ lệ nam/ nữ 1,24/1.
Tuổi thai của trẻ teo thực quản trung bình là
37±2,9 tuần (29‐42 tuần). Trong đó có 31 trẻ non
tháng chiếm tỉ lệ 36,5% và 54 trẻ đủ tháng chiếm
tỉ lệ 63,5%.
Cân nặng lúc sinh trung bình 2400±607 gram
(1200‐3700 gram).
Tỉ lệ các đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán và
điều trị trước phẫu thuật ở bệnh nhi teo
thực quản
Các đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán
Về phân loại teo thực quản theo Gross, trong
nghiên cứu chúng tôi, týp C 90,6% (77 ca), týp A
4,7% (4 ca), týp D 3,5% (3 ca), týp E 1,2% (1
trường hợp).
Thời điểm nhập viện trung bình là 17 giờ
tuổi.
Biểu hiện lâm sàng bao gồm tăng tiết nước
bọt 57,6%, suy hô hấp 38,8%, tiền sử bú sữa
trước chẩn đoán là 32,9%, ói là 27,1% và tím là
15,3%. Có 32,9% trẻ có tiền sử bú sữa trước chẩn
đoán và có 16 trẻ chiếm tỉ lệ 18,8% không được
chẩn đoán teo thực quản lúc nhập viện.
Tỉ lệ viêm phổi và nhiễm trùng huyết trước
phẫu thuật là 82,4% (70/85) và 36,5% (31/85).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 383
Về các dị tật phối hợp, chúng tôi ghi nhận có
đến 49/85 trường hợp chiếm tỉ lệ 57,6% có dị tật
phối hợp; 77,6% chỉ có một dị tật phối hợp.
Dị tật tim 39 ca (45,9%), còn ống động
mạch 69%, thông liên nhĩ 43%, thông liên thất
23%, ít gặp hơn là Tứ chứng Fallot (2 ca), hẹp
eo động mạch chủ (1ca), bất thường Ebstein (1
ca), hẹp động mạch phổi (1 ca), thất phải hai
đường ra (1ca).
Dị tật đường tiêu hóa 9 ca (10,6%), gồm
không hậu môn 5 ca, teo tá tràng 2 ca, dò trực
tràng âm đạo 1 ca, thủng đại tràng 1 ca.
Dị tật đường tiết niệu 3 ca (3,5%), 1 ca lỗ
tiểu đóng thấp, 1 ca vùi dương vật và 1 ca thận
ứ nước.
Dị tật cơ xương 17 ca (20%), 7 ca dị tật ngón,
5 ca khoèo tay, 2 ca dị tật cẳng tay, 2 ca dị tật cột
sống, 2 ca chẻ vòm.
Các dị tật khác ít gặp có 6 ca (12,2%) gồm 1 ca
bất thường nhiễm sắc thể số 9, 3 ca dị dạng não, 1
ca dị dạng khí quản, 1 ca hội chứng Down.
Điều trị trước mổ
Tất cả trẻ được nằm tư thế đầu cao, 100%
trẻ được sử dụng kháng sinh. Tỉ lệ suy hô hấp
86%, trong đó có 16/85 trường hợp (18,8%) cần
thở máy, 11/85 trường hợp (12,9%) cần thở
CPAP, 47/85 trường hợp (55,3%) cần thở oxy
cannula và 11/85 trường hợp (12,9%) không
cần hỗ trơ hô hấp. Tuy nhiên có 38/85 trường
hợp (44,7%) không được hút dịch liên tục túi
cùng thực quản trên.
Phẫu thuật
Có 83 ca trong tổng số 85 ca teo thực quản
được phẫu thuật.Thời điểm phẫu thuật từ lúc
nhập viện đến khi bệnh nhân được phẫu thuật
trung bình 19,5 giờ (3‐371 giờ) có 53/83(62,4%)
được phẫu thuật trước 24 giờ sau nhập viện,
24/83 (28,9%) phẫu thật từ 24‐48 giờ và 6/83
(7,1%) phẫu thuật sau 48 giờ.
Tỉ lệ các đặc điểm hậu phẫu và biến chứng
sớm trẻ teo thực quản
Thời gian thở máy sau mổ trung bình 7 ngày
(1‐176 ngày).
Thời điểm cho ăn đường tiêu hóa trung bình
5 ngày (2‐27 ngày).
Thời gian nuôi ăn tĩnh mạch cho trẻ trung
bình là 12 ngày.
Số ngày nằm viện trung bình là 23,4 ngày (1‐
209 ngày).
Biến chứng xì dò miệng nối thực quản có 12
ca (15%), trong đó xì dò tối thiểu 5 ca (6,3%), xì
dò nặng 7 ca (8,8%).
Nhiễm trùng vết mổ có 15 ca (18,5%).
Biến chứng viêm phổi sau phẫu thuật có 59
ca (72,8%).
Biến chứng nhiễm trùng huyết sau phẫu
thuật có 59 ca (72,8%).
Biến chứng dò khí thực quản tái phát có 2
trường hợp.
Biến chứng hẹp thực quản có 1 trường hợp.
Tỉ lệ tử vong
Số trẻ teo thực quản tử vong trong nghiên
cứu là 21 ca, chiếm tỉ lệ 24,7%
Nguyên nhân tử vong có 11 ca dị tật nặng (9
ca dị tật tim nặng, 1 ca dị tật não và 1 ca bất
thường NST), 7 ca nhiễm trùng huyết nặng, 2 ca
biến chứng xì dò miệng nối thực quản nặng, 1 ca
sanh ngạt nặng.
BÀN LUẬN
Teo thực quản là một dị tật bẩm sinh của
thực quản chiếm tỉ lệ 1/4000 trẻ sinh sống. Tại
bệnh viện Nhi Đồng 2 từ 1998 đến 2002 có 30
bệnh nhân teo thực quản nhập viện điều trị.
Hiện nay tỉ lệ bệnh nhi teo thực quản nhập viện
ngày càng nhiều. Trong nghiên cứu chúng tôi từ
năm 2007 đến 2012 có 85 bệnh nhi teo thực quản
nhập viện từ tuyến tỉnh và các bệnh viện trong
thành phồ chuyển đến.
Trẻ teo thực quản non tháng tỉ lệ cao 36,5%
cao hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Kinh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 384
Bang, Eun Young Chang và Deurloo, cao hơn
so với nghiên cứu của P. K. Tandon(2,3,8,10). Tỉ lệ
trẻ non tháng chúng tôi cao, ngoài yếu tố tần
suất sinh non cao ở nhóm trẻ teo thực quản, có
thể do chăm sóc tiền sản chúng tôi chưa tốt,
các bà mẹ lao động nặng trong thai kì, nhiễm
trùng sinh dục không được tầm soát và điều
trị. Cân nặng trong nghiên cứu của chúng tôi
thấp hơn so với các nghiên cứu khác do tỉ lệ trẻ
non tháng cao hơn.
So với những năm trước, tỉ lệ trẻ được nhập
viện sớm trong vòng 24 giờ sau sanh có tăng
hơn, tỉ lệ trẻ nhập viện trễ đã giảm từ 54,03%
xuống 22,4%. Trẻ nhập viện trễ phần lớn do
chẩn đoán chậm.
Trong nghiên cứu của chúng tôi dị tật tim
thường gặp là còn ống động mạch, khác với
những nghiên cứu là thông liên thất và thông
liên nhĩ, điều này do mẫu nghiên cứu khác nhau
và trong nghiên cứu chúng tôi tỉ lệ trẻ non tháng
cao hơn, tần suất bệnh còn ống động mạch gặp
ở trẻ non tháng nhiều hơn. Chúng tôi cũng ghi
nhận với những trẻ kèm theo dị tật tim mạch tỉ
lệ sống cũng giảm từ 97,2% xuống còn 56,4%. Tỉ
lệ tử vong do bệnh tim của chúng tôi cao liên
quan đến những điều trị bệnh tim và những
biến chứng kèm theo. Trong nghiên cứu của
chúng tôi tỉ lệ sống ở nhóm trẻ teo thực quản
không kèm theo dị tật khác là 97,2% so với
nhóm kèm theo dị tật khác giảm xuống còn
59,2%. Các dị tật khác như dị dạng hậu môn trực
tràng, thận, cơ xương hiếm khi gây tử vong
nhưng khi nặng làm giảm chất lượng cuộc sống
trẻ teo thực quản sau này(4,10).
Trong điều trị trước mổ các trường hợp teo
thực quản, tỉ lệ trẻ không được hút dịch tiết đến
44,7%. Điều này một phần do chúng ta chưa
quan tâm đúng mức đến những điều trị nâng đỡ
nhưng hiệu quả phòng ngừa biến chứng viêm
phổi hít, mặt khác tại những khoa tiếp nhận
bệnh nhân ban đầu không trang bị máy hút liên
tục tại mỗi giường, tình hình bệnh đông không
được chăm sóc đúng mức. Tỉ lệ suy hô hấp tăng
do tỉ lệ viêm phổi trước phẫu thuật của chúng
tôi cao hơn, cũng như tỉ lệ trẻ non tháng nhẹ cân
cao hơn. Chúng tôi nhận thấy tỉ lệ tử vong tăng
khi mức độ suy hô hấp càng nặng. Với những
trẻ teo thực quản cần thở máy thì tỉ lệ tử vong
tăng lên 68,8% so với không có trường hợp nào
tử vong khi không cần hỗ trợ oxy. Có thể giải
thích tình trạng tử vong do trẻ nhập viện trong
tình trạng quá nặng như viêm phổi, nhiễm trùng
huyết nặng không đáp ứng điều trị, những trẻ
tim bẩm sinh phức tạp và những hạn chế trong
chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng. Yếu tố cần
thông khí cơ học được xem là một yếu tố tiên
lượng tử vong đã được xem xét qua nhiều
nghiên cứu.
Thời gian hậu phẫu ở nghiên cứu chúng tôi
kéo dài hơn so với các nghiên cứu khác do tỉ lệ
trẻ non tháng, nhiễm trùng sau mổ còn cao cũng
như các dị tật tim mạch, hô hấp kèm theo.
Tỉ lệ xì dò miệng nối là 15%. So với giai đoạn
5 năm trước từ 2008 đến 2002 ở bệnh viện Nhi
Đồng 2 thì tỉ lệ xì dò 15%, ở Nhi Đồng 1 là
32,35%. Nguyên nhân là miệng nối thực quản
căng do hai đầu thực quản xa, nhiễm trùng dẫn
đến thiếu máu nuôi tại miệng nối, kĩ thuật mổ
nối hai đầu thực quản. Chúng tôi cũng ghi nhận
tỉ lệ xì dò miệng nối ở nhóm trẻ bị nhiễm trùng
huyết trước mổ cao hơn (24,1% so với 9,8%).
Biến chứng xì dò miệng nối cũng gặp nhiều hơn
ở nhóm trẻ có cân nặng lúc sinh thấp hơn và
thời gian phẫu thuật trễ hơn. Biến chứng viêm
phổi và nhiễm trùng huyết sau mổ là 72,8%,
tăng cao ở nhóm trẻ nhẹ cân. Tình trạng viêm
phổi sau mổ cao liên quan đến tình trạng viêm
phổi bệnh viện do thở máy, hoặc không do thở
máy, một tỉ lệ trẻ sơ sinh non tháng của chúng
tôi phải hỗ trợ hô hấp kéo dài do bệnh phổi trẻ
non tháng.
Trong nghiên cứu chúng tôi, nguyên nhân
tử vong chiếm đa số là dị tật nặng chiếm tỉ lệ
52,4%, và nhiễm trùng huyết nặng 33,3%. Chúng
tôi cũng ghi nhận trong 21 ca tử vong có 10
trường hợp cân nặng dưới 1800 gram chiếm tỉ lệ
47,6%; số trường hợp cân nặng dưới 1500 gram
có 5 trẻ. Tỉ lệ tử vong ở nhóm trẻ non tháng nhẹ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 385
cân ở chúng tôi còn cao. Nghiên cứu ở Thái Lan
của Maitree Anuntkosol tỉ lệ sống chỉ 10% ở
nhóm trẻ teo thực quản có cân nặng dưới 2000
gram so với 52% ở nhóm trẻ trên 2000
gram(6).Cũng theo tác giả Eun Young Chang
năm 2010 cũng cho thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa tỉ lệ tử vong giữa hai nhóm trẻ teo thực
quản có cân nặng trên 2500 gram cao hơn so với
nhóm trẻ dưới 2500 gram(2). Các nghiên cứu
khác ở Malaysia, Ấn Độ, Pakistan(1,7,11) cũng cho
thấy có liên quan có ý nghĩa giữa tỉ lệ tử vong và
cân nặng lúc sinh trên trẻ teo thực quản. Các
trường hợp nhiễm trùng huyết nặng dẫn đến tử
vong đều ở nhóm trẻ non tháng nhẹ cân. Một
phần lớn các trẻ tử vong là các trẻ có dị tật tim
nặng. Các dị tật tim nặng cần phải phẫu thuật
hoặc điều trị suy tim. Các trẻ này phải thở máy
và nằm viện kéo dài, do đó dễ nhiễm trùng bệnh
viện và các trẻ tử vong trong tình trạng tim nặng
hoặc viêm phổi, nhiễm trùng huyết nặng.
KẾT LUẬN
Nhiều trường hợp teo thực quản chẩn
đoán chậm trễ, tỉ lệ các biến chứng và tử vong
còn cao. Nhóm trẻ nhẹ cân non tháng và đa dị
tật tử vong cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anwar ul H, Ubaidullah, Akhter N, et al (2009). Factors
affecting survival in patients with oesophageal atresia and
tracheo‐oesophageal fistula. J Ayub Med Coll Abbottabad,
21(4), pp. 129‐33.
2. Chang EY, Chang HK, Han SJ, et al (2012). Clinical
characteristics and treatment of esophageal atresia: a single
institutional experience. J Korean Surg Soc, 83(1), pp. 43‐9.
3. Deurloo JA, Ekkelkamp S, Schoorl M, et al (2002). Esophageal
atresia: historical evolution of management and results in 371
patients. Ann Thorac Surg. 73(1), pp. 267‐72.
4. Iuchtman M, Brereton R, Spitz L, et al (1992). Morbidity and
mortality in 46 patients with the VACTERL association. Isr J
Med Sci, 28(5), pp. 281‐4.
5. Kliegmen RM (2011). Congenital Anomalies: Esophageal
Atresia and Tracheoesophageal Fistula, Nelson Textbook of
Pediatrics 19th edition, Sauder, pp. 1218‐1220.
6. Louhimo I, Lindahl H (1983). Esophageal atresia: primary
results of 500 consecutively treated patients. J Pediatr Surg,
18(3), pp. 217‐29.
7. Maitree Anuntkosol, Sukawat Watanatittan, Rangsan
Niramis, et al (2000). Esophageal A tresia: Six‐year Experience
with 105 Cases. The Thai Journal of Surgery, 21(4), pp. 125‐
128.211
8. Nguyễn Kinh Bang (2004). Những yếu tố tiên lượng qua thực
tế điều trị teo thực quản tại bệnh viện Nhi Đồng 1. Luận văn
tốt nghiệp bác sĩ nội trú bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố
Hồ Chí Minh.
9. Nguyễn Kinh Bang, Đỗ Trung Hiếu (2004). Những tiến bộ
trong điều trị teo thực quản tại bệnh viện Nhi Đồng 1. Y học
Thành phố Hồ Chí Minh, Tập 9(1): Tr.22‐27.
10. Spitz L (2007). Oesophageal atresia. Orphanet Journal of Rare
Diseases Orphanet Journal of Rare Diseases 2007, 2:24
doi:10.1186/1750‐1172‐2‐24.
11. Tandon RK, Sharma S, Sinha SK, et al (2008). Esophageal
atresia: Factors influencing survival ‐ Experience at an Indian
tertiary centre. J Indian Assoc Pediatr Surg, 13(1), pp. 2‐6.
Ngày nhận bài báo : 30/10/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo : 05/11/2013
Ngày bài báo được đăng : 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_cac_truong_hop_teo_thuc_quan_bam_sinh_tai_benh_vien.pdf