Đặc điểm cộng hưởng từ lạc nội mạc tử cung
LNMTC hạn chế khuếch tán đáng kể trên DWI
chỉ số b 1000 chiếm 66% và không hạn chế khuếch
tán chiếm 34% (p < 0,05). Về phương diện giải phẫu
bệnh lý thì mô lạc nội mạc là một mô có mật độ tế
bào ở mức độ trung bình gồm: mô cơ trơn, mô tuyến
nội mạc, mô đệm chính các thành phần này tạo ra
sự khuếch tán của mô LNMTC. Trong trường hợp
LNMTC bị hạn chế khuếch tán đồng nghĩa với mật độ
mô này dày đặc khiến chuyển động Brown của proton
hydro bị giới hạn và dựa vào cơ sở này ta có thể hiểu
rằng mô tuyến và mô cơ trong LNMTC ưu thế hơn mô
đệm vì mô đệm là mô có thành phần lỏng lẻo nhất
trong các mô kể trên. Và ngược lại nếu LNMTC không
bị giới hạn khuếch tán thì trong thành phần thường mô
đệm ưu thế hơn hai loại mô còn lại [5], [6].
Phân độ CHT tưới máu LNMTC trong nghiên cứu
của chúng tôi: mạnh chiếm 55%, trung bình chiếm
25%, yếu chiếm 20% (p < 0,05). Chúng tôi lấy sự tưới
máu của cơ tử cung không có tổn thương làm mốc
tham chiếu trong trường hợp lạc nội mạc tử cung lan
tỏa thì lấy cơ thẳng bụng làm mốc tham chiếu. Theo
y văn, nếu sự tưới máu của LNMTC mạnh thì loại mô
này thường sẽ có mật độ mô tuyến và mô cơ tử cung
vì đây là các loại mô chuyển hóa cao cần nhiều mạch
máu nuôi. Trong khi sự tưới máu của LNMTC kém thì
mô này thường sẽ có mật độ mô đệm ưu thế vì loại
mô này hầu như chuyển hóa rất thấp và không cần
nhiều chất dinh dưỡng và chuyển hóa. Trong trường
hợp tưới máu LNMTC mạnh và hạn chế khuếch tán
trên b1000 thì MRI HIFU sẽ không nên áp dụng cho
trường hợp này vì lượng nhiệt gây hoại tử khô của MRI
HIFU sẽ không làm chết được nhiều mô lạc nội mạc
trước khi nó bị dòng máu mang đi ra khỏi mô đích. Và
loại lạc nội mạc tử cung giàu mạch này cũng không
phù hợp để làm phẫu thuật hở hay nội soi vì nguy cơ
chảy máu trong phẫu thuật cao dẫn đến nguy cơ cắt
tử cung trong phẫu thuật cao lên rất nhiều do đó trong
các trường hợp này liệu pháp đồng vận nội tiết hướng
sinh dục GnRH cần được cân nhắc. Đối với LNMTC
nghèo mạch và mật độ tế bào thấp không bị giới hạn
khuếch tán thì MRI HIFU là một giải pháp tối ưu khi so
với các phương pháp điều trị cổ điển. Trong nghiên cứu
của chúng tôi chúng tôi dựa trên 3 chuỗi xung T2W,
DWI và tưới máu đã chọn được 21 trường hợp phù hợp
với MRI HIFU chiếm 36% [7], [8].
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 18 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm cộng hưởng từ lạc nội mạc tử cung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 27 - 3/2017 33
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
ĐẶC ĐIỂM CỘNG HƯỞNG TỪ
LẠC NỘI MẠC TỬ CUNG
Magnetic resonance imaging characteristics
of adenomyosis
Nguyễn Minh Đức*
* Đại học Y khoa
Phạm Ngọc Thạch
Background: Adenomyosis is a popularly reproductive age
disease in women which are benign, chronic, cyclical and complex.
Adenomyosis is defined as the existence of endometrium’s stromal
and adeno tissue in the uterus muscle layer. In 15 to 44 women ages,
adenomyosis prevalance is about 10%. Magnetic resonance imaging
is a non-invasive and highly accurate for diagnosing adenomyosis,
distinguishing them from other gynecological diseases.
Objective: Researching the MRI characteristics of adenomyosis.
Methods: The patients had previously ultrasound results
reported with fibroids or adenomyosis. All will be indicated to magnetic
resonance imaging with contrast agent at the hospital from IPAK. We
conducted describing and analyzing all magnetic resonance imaging
results which determined adenomyosis from 06/2015 to 05/2016.
Results: There are 240 cases of pelvic MRI including adenomyosis
58 cases (24%). Ages 24-58, average 36. Less than 40 accounted for
88%, abdominal pain during menstruation and menstrual days around
92%. The painful score for adenomyosis: Level 0 (0%), Level 1 (30%),
grade 2 (58%), grade 3 (12%). Adenomyosis are focal accounts for
78% and diffuse infiltration account for 22%. In the focal adenomyosis
type, smooth muscle hypertrophy comes up 90%, no smooth muscle
hypertrophy in infiltration type. Focal adenomyosis usually located in
posterior wall of uterus (88%) (p <0.05). Features on MRI imaging: lower
intenisty signal on T1W was 98%, mixed intensity signal on T2W was
98%, mixed intenisty signal on both T1W and T2W was 2% correlating
with hemorrhage. Mixed intensity signal on T2W STIR got proportion
98%. Adenomyosis significant restrictions on DWI with bvalue 1000
accounted for 66% b and unrestricted diffusion 34% (p <0.05). Perfusion
of adenomyosis: Strong 55%, intermediate 25%, weak 20% (p <0.05).
Another pelvis diseases correlating with adenomyosis: fibroids (22%),
simple ovarian cysts (25%), endometriosis ovarian (8%). Common
complication is adhesive to rectum (4%) and ovarian (2%). Anomyosis is
eligible to MRI HIFU 21 cases (36%).
Conclusion: MRI is an accurate method for assessing
adenomyosis as well as disease of pelvis and the results are valuable
to refer appropriate treatment for this disease.
Keywords: Adenomyosis, magnetic resonance imaging.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 27 - 3/201734
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
LNMTC trong tử cung là tình trạng lạc nội mạc
trong lớp cơ trơn của tử cung, ngày nay thuật ngữ này
đã được thay thế bằng từ bệnh cơ tuyến hay lạc tuyến
trong cơ (adenomyosis). Trong khi LNMTC ngoài tử
cung là tình trạng lạc nội mạc ở những vị trí khác, ngày
nay thuật ngữ này được dùng đơn giản là lạc nội mạc
tử cung di trú (endometriosis). LNMTC là sự hiện diện
của mô nội mạc có chức năng nằm bên trong lớp cơ tử
cung. Nội mạc lạc chỗ chịu sự chi phối của hormon theo
chu kỳ kinh giống như nội mạc tử cung. Điều này dẫn
đến hiện tượng “mắc kẹt” nghĩa là đến ngày hành kinh
lớp nội mạc bề mặt bong tróc hình thành hiện tượng
xuất huyết còn nội mạc trong cơ lại không thể đào thải
ra ngoài dẫn đến ứ đọng, phù nề, xung huyết, phình to
lớp cơ và đau vùng chậu. Các kỹ thuật chẩn đoán hình
ảnh hiện nay, đặc biệt là cộng hưởng từ (CHT), đã có
thể chẩn đoán tiền phẫu chính xác nhằm tránh những
thủ thuật xâm lấn không cần thiết cho bệnh nhân. Do
đó chúng tôi tiến hành đề tài “Khảo sát đặc điểm hình
ảnh học cộng hưởng từ lạc nội mạc tử cung”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khảo sát trên 240 bệnh nhân có kết quả siêu âm
trước đó ghi nhận có u xơ tử cung và lạc nội mạc tử
cung, các bệnh nhân này sẽ được chụp cộng hưởng
từ có tiêm thuốc tương phản từ tại bệnh viện IPAK.
Chúng tôi tiến hành thống kê mô tả 58 trường hợp
cộng hưởng từ xác định lạc nội mạc tử cung từ tháng
06/2015 đến tháng 05/2016.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
- Độ tuổi: 24-58 trung bình 36 trong đó tuổi dưới
40 chiếm 88%.
- Đường kính lớn nhất: 25-102 mm (44 ± 12 mm).
Bảng 1: Các triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng Tỉ lệ
Thống kinh 92%
Rong kinh 6%
Cường kinh 2%
Nhận xét: Thống kinh là triệu chứng thường gặp nhất.
Bảng 2: Đánh giá mức độ thống kinh
Mức độ Tỉ lệ
Độ 0: không đau bụng kinh và không
ảnh hưởng hoạt động hằng ngày.
0%
Độ 1: đau bụng kinh nhưng ít ảnh
hưởng hoạt động hằng ngày, ít phải sử
dụng thuốc giảm đau, đau nhẹ.
30%
Độ 2: đau bụng kinh ảnh hưởng hoạt
động hằng ngày, sử dụng thuốc giảm
đau có hiệu quả, đau mức độ vừa.
58%
Độ 3: đau bụng kinh đến mức ức chế
hoạt động hằng ngày, sử dụng thuốc
giảm đau ít hiệu quả, có triệu chứng
toàn thân (nhức đầu, mệt mỏi, nôn ói,
tiêu chảy) đau mức độ nặng.
12%
Nhận xét: Đa số LNMTC ảnh hưởng đến hoạt
động hằng ngày và cần sử dụng thuốc giảm đau mức
độ vừa.
Bảng 3: Loại LNMTC
Loại Tỉ lệ
Khu trú
Phì đại cơ trơn
(90%)
Thành
sau
(88%)
78%Thành
trước
(12%)
Thâm nhiễm (10%)
Lan tỏa 22%
Nhận xét: LNMTC khu trú chiếm ưu thế và tập
trung chủ yếu ở thành sau.
Bảng 4: Tín hiệu LNMTC trên các chuỗi xung
thường quy
Tín hiệu
LNMTC
Thấp đồng
nhất
Hỗn
hợp
Cao
đồng
nhất
T1W 98% 2% 0%
T2W 2% 98% 0%
T2W xóa mỡ 2% 98% 0%
Nhận xét: Đa số tín hiệu LNMTC thấp đồng nhất
trên T1W và hỗn hợp trên T2W.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 27 - 3/2017 35
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 5: Đặc điểm tín hiệu trên CHT khuếch tán
Sự khuếch tán của
LNMTC Hạn chế
Không
hạn chế
DWI b1000 66% 34%
Nhận xét: Đa số LNMTC hạn chế khuếch tán
trên DWI b1000.
Bảng 6: Đặc điểm tín hiệu trên CHT tưới máu
Sự tưới máu
của LNMTC Mạnh
Trung
bình
Yếu
PWI 55% 25% 20%
Nhận xét: Đa số LNMTC tưới máu mạnh.
Bảng 7: Bệnh lý vùng chậu đi kèm với LNMTC
Bệnh lý vùng chậu đi kèm Tỉ lệ
UXTC 22%
Nang buồng trứng đơn thuần 25%
Nang lạc nội mạc buồng trứng 8%
Nhận xét: Nang buồng trứng đơn thuần và UXTC
là bệnh lý thường đi kèm với LNMTC.
Bảng 8: Biến chứng LNMTC
Biến chứng của LNMTC Tỉ lệ
Dính vào thành trước trực tràng 4%
Dính vào buồng trứng 2%
Nhận xét: LNMTC gây dính vào thành trước trực
tràng và buồng trứng.
Bảng 9: Sự phù hợp giữa MRI HIFU và LNMTC
LNMTC và MRI HIFU Tỉ lệ
Phù hợp 36%
Hướng điều trị khác 64%
Nhận xét: Một phần nhỏ LNMTC phù hợp với
phương pháp MRI HIFU.
IV. BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu về hình ảnh học CHT LNMTC
này chúng tôi ghi nhận thấy bệnh chủ yếu trong độ
tuổi sinh sản trong đó dưới 40 tuổi chiếm 88%. Theo
y văn, ước tính có khoảng 10% phụ nữ trong độ tuổi
sinh sản mắc LNMTC. Nếu chẩn đoán LNMTC chỉ
dựa trên các triệu chứng đơn thuần là rất khó xác
định được vì biểu hiện của LNMTC rất thay đổi và có
thể trùng lấp với các vấn đề khác như hội chứng ruột
kích thích hay bệnh lý viêm vùng chậu. Theo nghiên
cứu của chúng tôi thì LNMTC có biểu hiện thống kinh
chiếm 92% trong đó thống kinh có ảnh hưởng ở mức
độ 1 và 2 đối với bệnh nhân chiếm 88%. Và cũng
theo các y văn các triệu chứng sau đây có thể gặp
trên bệnh nhân LNMTC: đau bụng kinh nhiều, cảm
giác đau ở sâu khi giao hợp, đau vùng chậu mãn tính,
đau khi rụng trứng, đau trước khi hành khi hay đau
theo chu kỳ, vô sinh và mệt mỏi mãn tính trong đó
biểu hiện thống kinh là biểu hiện gặp trên 80% các
trường hợp LNMTC. Đường kính lớn nhất trung bình
LNMTC trong nghiên cứu của chúng tôi là 44 mm
đây là kích thước trung bình khá lớn so với các nghiên
cứu của nhiều tác giả khác nguyên nhân có thể do
tình trạng thiếu quan tâm đúng mức đối với bệnh lý
này ở người bệnh nhân [1] [2].
Theo các y văn chẩn đoán hình ảnh, CHT là
kỹ thuật không xâm lấn có thể chẩn đoán xác định
LNMTC với độ nhạy và độ đặc hiệu cao. Kỹ thuật
này tốt hơn SA ngả âm đạo không những trong mô
tả vị trí và độ lan rộng của tổn thương mà còn có
ích trong phân biệt LNMTC với u xơ tử cung (UXTC)
trong những trường hợp khó. Trên CHT, LNMTC có
biểu hiện dày lan tỏa hay khu trú hoặc từng đoạn
của vùng chuyển tiếp hay vùng nối (junctional zone)
của cơ tử cung, tạo thành vùng tín hiệu thấp giới hạn
không rõ, thỉnh thoảng bên trong có các ổ nhỏ tín
hiệu cao trên T2W. Tiêu chuẩn chẩn đoán trên CHT
khi vùng nối dày khu trú hay lan tỏa > 12mm, thường
ở thành sau, không ở CTC, hiếm khi không tiếp xúc
với vùng nối, mất ranh giới với nội mạc, hình dạng
vô định, không tạo hiệu ứng khối u và ít khi gây biến
đổi đường bờ nội mạc. Về mô học, vùng tín hiệu thấp
tương ứng các cơ trơn bị phì đại và các ổ tín hiệu
cao trên T2W tương ứng với nội mạc lạc chỗ và giãn
thành các nang. Khi hành kinh, các nội mạc lạc chỗ
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 27 - 3/201736
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
này xuất huyết thì sẽ có tín hiệu cao trên T1W và
T1W xóa mỡ [3], [4].
CHT giúp khảo sát toàn bộ vùng chậu trên nhiều
mặt phẳng, cho phép nhận diện rõ cấu trúc giải phẫu
vùng chậu. Các chuỗi xung được đề nghị khi chụp
CHT chẩn đoán bệnh lý vùng chậu thường quy gồm:
T2W 3D, Sagital T2W fat-sat, Axial T1W fat-sat. Đối
với bệnh nhân sàng lọc để điều trị với MRI HIFU cần
thêm các chuỗi xung: DWI b1000, Axial T1 fat-sat
PWI (nếu thực hiện chuỗi xung này thì không cần
thực hiện Axial T1W fat-sat). Ghi nhận trên CHT thì
LNMTC thể khu trú chiếm (78%) và thể thâm nhiễm
lan tỏa chiếm 22%. Thể khu trú có phì đại cơ trơn
đi kèm chiếm 90%, thể thâm nhiễm không ghi nhận
thấy có hiện tượng phì đại cơ trơn. Trong thể khu trú
LNNMTC các khối u thường nằm ở thành sau chiếm
88%, thành trước 12% (p < 0,05). LNMTC là một
bệnh lý mãn tính và tái phát đặc trưng bởi sự hiện
diện và tăng sinh của mô tuyến và mô đệm của nội
mạc tử cung bên ngoài buồng tử cung. Nội mạc lạc
chỗ chịu sự chi phối của hormon theo chu kỳ kinh
giống như nội mạc tử cung. Điều này khiến cho bệnh
nhân bị xuất huyết tái diễn và mạn tính theo chu kỳ
kinh, hình thành nang tuyến nhỏ nội mạc nằm trong
cơ gây phù nề và phì đại cơ trơn, nếu miễn dịch của
cơ thể kém thì lạc nội mạc sẽ ở dạng lan tỏa phá vỡ
hoàn toàn kết cấu của tử cung dẫn đến vô sinh hoàn
toàn và rất nhiều biến chứng khác [5], [6].
Chúng tôi ghi nhận thấy các đặc điểm hình ảnh
học chung của LNMTC trên CHT thường quy: tín hiệu
thấp trên T1W chiếm 98%, tín hiệu hỗn hợp trên T2W
chiếm 98%, tín hiệu hỗn hợp trên cả T1W và T2W
chiếm 2% liên quan đến xuất huyết. Tín hiệu hỗn
hợp trên T2W xóa tín hiệu mỡ thấp chiếm tỉ lệ 98%.
LNMTC có bản chất giống mô tuyến thông thường
nếu không có hiện tượng xuất huyết thường có tín hiệu
thấp trên T1W nếu có xuất huyết thì sẽ có tăng tín hiệu
trên T1W, đối với T2W do các nang tuyến nội mạc nhỏ
nằm trong cơ thường tạo ra những ổ nhỏ có tín hiệu
tăng cao trên T2W tạo ra tình trạng hỗn hợp tín hiệu
trên T2W, thông thường các ổ nhỏ tín hiệu cao trên
T2W này có kích thước nhỏ (3-5mm). Nếu các ổ này
có kích thước lớn hơn 5mm cần phải đối chiếu với T1W
tránh nhầm với các ổ xuất huyết trong LNMTC [5], [6].
LNMTC hạn chế khuếch tán đáng kể trên DWI
chỉ số b 1000 chiếm 66% và không hạn chế khuếch
tán chiếm 34% (p < 0,05). Về phương diện giải phẫu
bệnh lý thì mô lạc nội mạc là một mô có mật độ tế
bào ở mức độ trung bình gồm: mô cơ trơn, mô tuyến
nội mạc, mô đệm chính các thành phần này tạo ra
sự khuếch tán của mô LNMTC. Trong trường hợp
LNMTC bị hạn chế khuếch tán đồng nghĩa với mật độ
mô này dày đặc khiến chuyển động Brown của proton
hydro bị giới hạn và dựa vào cơ sở này ta có thể hiểu
rằng mô tuyến và mô cơ trong LNMTC ưu thế hơn mô
đệm vì mô đệm là mô có thành phần lỏng lẻo nhất
trong các mô kể trên. Và ngược lại nếu LNMTC không
bị giới hạn khuếch tán thì trong thành phần thường mô
đệm ưu thế hơn hai loại mô còn lại [5], [6].
Phân độ CHT tưới máu LNMTC trong nghiên cứu
của chúng tôi: mạnh chiếm 55%, trung bình chiếm
25%, yếu chiếm 20% (p < 0,05). Chúng tôi lấy sự tưới
máu của cơ tử cung không có tổn thương làm mốc
tham chiếu trong trường hợp lạc nội mạc tử cung lan
tỏa thì lấy cơ thẳng bụng làm mốc tham chiếu. Theo
y văn, nếu sự tưới máu của LNMTC mạnh thì loại mô
này thường sẽ có mật độ mô tuyến và mô cơ tử cung
vì đây là các loại mô chuyển hóa cao cần nhiều mạch
máu nuôi. Trong khi sự tưới máu của LNMTC kém thì
mô này thường sẽ có mật độ mô đệm ưu thế vì loại
mô này hầu như chuyển hóa rất thấp và không cần
nhiều chất dinh dưỡng và chuyển hóa. Trong trường
hợp tưới máu LNMTC mạnh và hạn chế khuếch tán
trên b1000 thì MRI HIFU sẽ không nên áp dụng cho
trường hợp này vì lượng nhiệt gây hoại tử khô của MRI
HIFU sẽ không làm chết được nhiều mô lạc nội mạc
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 27 - 3/2017 37
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
V. KẾT LUẬN
Cộng hưởng từ là một phương pháp chính xác
đánh giá LNMTC cũng như các bệnh lý vùng chậu
đi kèm có giá trị trong việc định hướng phương pháp
điều trị phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ACOG Committee Opinion. Pain management
of Endometriosis, Conservative Approach is First-
Line treatment. For release: June 22,2010, www.
ACOG.ORG.
2. Andersch, B, Milsom, I. Verbal multidimensional
scoring system for assessment of dysmenorrhea Am
J Obstet Gynecol 1982; 144:655.
trước khi nó bị dòng máu mang đi ra khỏi mô đích. Và
loại lạc nội mạc tử cung giàu mạch này cũng không
phù hợp để làm phẫu thuật hở hay nội soi vì nguy cơ
chảy máu trong phẫu thuật cao dẫn đến nguy cơ cắt
tử cung trong phẫu thuật cao lên rất nhiều do đó trong
các trường hợp này liệu pháp đồng vận nội tiết hướng
sinh dục GnRH cần được cân nhắc. Đối với LNMTC
nghèo mạch và mật độ tế bào thấp không bị giới hạn
khuếch tán thì MRI HIFU là một giải pháp tối ưu khi so
với các phương pháp điều trị cổ điển. Trong nghiên cứu
của chúng tôi chúng tôi dựa trên 3 chuỗi xung T2W,
DWI và tưới máu đã chọn được 21 trường hợp phù hợp
với MRI HIFU chiếm 36% [7], [8].
Bệnh lý vùng chậu hay đi kèm với LNMTC: U xơ
tử cung (22%), nang buồng trứng đơn thuần (25%),
nang lạc nội mạc buồng trứng (8%). Theo y văn thì tỉ
lệ mắc u xơ tử cung và lạc nội mạc ở những vị trí khác
ngoài tử cung trên những bệnh nhân LNMTC tăng lên
từ 20-40% so với người bình thường nguyên nhân vẫn
đang được nghiên cứu. Theo y văn mô LNMTC là một
loại mô có tính dính và gắn kết bền vững với các mô
lân cận do đó biến chứng hay gặp nếu mô này phá
vỡ kết cấu của tử cung và vượt khỏi lớp thanh mạc sẽ
kết dính vào các tạng ở gần khu vực LNMTC. Theo
nghiên cứu của chúng tôi biến chứng dính vào trực
tràng chiếm 4% và buồng trứng 2% [1], [2].
Hình 1: Hình ảnh LNMTC khu trú ở thành sau có vài vi nang tuyến nhỏ tín hiệu tăng trên
T2W, hình ảnh tiêm thuốc trước điều trị và sau điều trị MRI HIFU, mô LNMTC bị chết.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 27 - 3/201738
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
3. Chiara DF, Md et al., Deep retroperitoneal
pelvic endometriosis: MR Imaging appearance
with laparoscopic correlation, Radiographics, 2006;
26:1705-1718.
4. Brosens IA. New principles in the management
of endometriosis. Acta Obstetricia et Gynecologica
Scandinavica 1994; 159: 18±21.
5. Ken Tamai, et al., MR Imaging Findings of
Adenomyosis: Correlation with His-topathologic
Features and Diagnostic Pitfalls, Radiographics,
2005; 25:21-40.
6. Luciana PC, MR Imaging Findings of
Adenomyosis: Correlation with His-topathologic
Features and Diagnostic Pitfalls, Radiographics,
2011; 31:E77-E100.
7. Paula J Woodward, Md et al., Endometriosis :
Radiologic-Pathologic correlation, Radiographics,
2001; 21:193-216.
8. Robert S Schenken, MD Section Editor, Robert
L Barbieri, MD Deputy Editor. Vanessa A Barss, MD.
Overview of the treatment of endometriosis. Last
literature review version 18.1: February 2010. This
topic last updated: January 21, 2010. Up to date,
Desktop 18.1.
TÓM TẮT
1. Mở đầu: Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) là bệnh lý phổ biến, lành tính, mãn tính, có tính chu kỳ và phức tạp.
LNMTC được định nghĩa là sự hiện diện của các tuyến và mô đệm của tổ chức nội mạc tử cung nằm trong lớp cơ
tử cung. Tần suất LNMTC cao ở phụ nữ tuổi từ 15 đến 44, chiếm khoảng 10%. Trong các kỹ thuật hình ảnh, cộng
hưởng từ là phương pháp không xâm lấn và có độ chính xác cao để chẩn đoán LNMTC, phân biệt chúng với các
bệnh lý phụ khoa khác.
2. Mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm cộng hưởng từ LNMTC.
3. Phương pháp nghiên cứu: Các bệnh nhân có kết quả siêu âm trước đó ghi nhận có u xơ tử cung và lạc
nội mạc tử cung được chụp cộng hưởng từ có tiêm thuốc tương phản từ tại bệnh viện IPAK. Chúng tôi tiến hành
thống kê mô tả tất cả các kết quả cộng hưởng từ xác định lạc nội mạc tử cung từ tháng 06/2015 đến tháng 05/2016.
4. Kết quả: Có 240 trường hợp chụp cộng hưởng từ vùng chậu trong đó có 58 trường hợp LNMTC (24%). Độ
tuổi 24-58, trung bình 36. Dưới 40 chiếm 88%, triệu chứng thống kinh chiếm 92%. Đánh giá mức độ thống kinh:
độ 0 (0%), độ 1 (30%), độ 2 (58%), độ 3 (12%). LNMTC thể khu trú chiếm (78%) và thể thâm nhiễm lan tỏa
chiếm 22%. Thể khu trú có phì đại cơ trơn đi kèm chiếm 90%, thể thâm nhiễm không ghi nhận thấy có hiện
tượng phì đại cơ trơn. Trong thể khu trú LNNMTC các khối u thường nằm ở thành sau chiếm 88%, thành trước
12% (p<0,05). Đặc điểm hình ảnh học chung của LNMTC trên MRI: tín hiệu thấp trên T1W chiếm 98%, tín
hiệu hỗn hợp trên T2W chiếm 98%, tín hiệu hỗn hợp trên cả T1W và T2W chiếm 2% liên quan đến xuất huyết.
Tín hiệu hỗn hợp trên T2W xóa tín hiệu mỡ thấp chiếm tỉ lệ 98%. LNMTC hạn chế khuếch tán đáng kể trên DWI chỉ
số b 1000 chiếm 66% và không hạn chế khuếch tán chiếm 34% (p<0,05) . Phân độ tưới máu LNMTC: mạnh chiếm
55%, trung bình chiếm 25%, yếu chiếm 20% (p< 0,05). Bệnh lý vùng chậu hay đi kèm với LNMTC: u xơ tử cung
(22%), nang buồng trứng đơn thuần (25%), nang lạc nội mạc buồng trứng (8%). Biến chứng hay gặp trên CHT là
dính vào trực tràng chiếm 4% và buồng trứng 2%. LNMTC phù hợp với điều trị MRI HIFU có 18 trường hợp (36%).
5. Kết luận: Cộng hưởng từ là một phương pháp chính xác đánh giá LNMTC cũng như các bệnh lý vùng
chậu đi kèm có giá trị trong việc định hướng phương pháp điều trị phù hợp.
6. Từ khóa: Lạc nội mạc tử cung, cộng hưởng từ.
Người liên hệ: Nguyễn Minh Đức. Email: bsnguyenminhduc@gmail.com
Ngày nhận bài 20.1.2017. Ngày chấp nhận đăng: 15.2.2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dac_diem_cong_huong_tu_lac_noi_mac_tu_cung.pdf